MỪNG MẸ VỀ TRỜI |
TỔNG THỐNG PHÁP NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC RỬA TỘI |
CỬA KHẨU QUỐC TẾ LÀO CAI – TRUNG QUỐC
TỘI ÁC TÀY TRỜI VÀ HÈN HẠ CỦA “NHỮNG TÊN ĐẦY TỚ” ĐINH TẶC
|
TỘI ÁC TÀY TRỜI VÀ HÈN HẠ CỦA “NHỮNG TÊN ĐẦY TỚ” ĐINH TẶC
|
CHÚA NHẬT
21 THƯỜNG NIÊN - C
Lời
Chúa: Is. 66,18-21; Dt. 12,5-7.11-13; Lc 13,22-30
MỤC LỤC
20. VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH
21 BÀI THUỐC ĐĂP BAN CHÂN KHỎI TAI BIẾN
Ngày nay, nhiều người
bi quan khi nhìn vào những bản thống kê về tôn giáo, chẳng hạn số người đi tham
dự thánh lễ quá ít, số ơn gọi linh mục tu sĩ giảm sút. Nhiều nơi nhà thờ, nhà
dòng đã được hiến cho những tổ chức hoặc cho những tư nhân để sử dụng vào việc
khác. Từ đó họ kết luận: Sẽ đến một lúc không còn đức tin trên cõi đời ô trọc
này nữa.
Đừng quá bi quan như
vậy, vì đó là việc của Chúa. Trái lại, hãy lo cho mình biết tin vào Chúa. Đoạn
Tin Mừng hôm nay cũng đã nêu lên một thắc mắc: Phải chăng chỉ có một số ít sẽ
được cứu rỗi? Chúa Giêsu không trả lời nhiều hay ít, nhưng Ngài chỉ nói: Hãy cố
gắng mà vào qua khung cửa hẹp. Hãy lo cho đúng cái lo, chứ đừng lo ít lo nhiều
chi cả. Hãy lo cho mình được cứu rỗi trước đi.
Về vấn đề này, chúng
ta ghi nhận hai thái cực. Thái cực thứ nhất của những người bi quan. Họ thường
trình bày một Thiên Chúa nghiêm khắc, hay rình rập để bắt lỗi, rồi tống tất cả
xuống hoả ngục. Tôi còn nhớ có một vị giảng thuyết đã bảo muốn biết tỷ lệ những
người được lên thiên đàng là bao nhiêu, thì cứ thọc một ngón tay vào hũ gạo, hốt
lên được bao nhiêu hột thì đó là số người được lên thiên đàng. Nếu làm theo kiểu
này thì có lẽ kết quả sẽ là 100% bị xuống hoả ngục. Có vị còn bảo từ tạo thiên
lập địa cho đến bây giờ, ngoài Đức Mẹ, thì chỉ có một người chắc chắn được lên
thiên đàng, đó là ông trộm biết thống hối ăn năn, vì chỉ mình ông mới
được nghe Chúa phán: Hôm nay ngươi sẽ được ở nơi vinh hiển cùng Ta. Hơn thế nữa,
các bức tranh giáo lý thường vẽ đường lên thiên đàng thì nhỏ hẹp, chông gai, ít
người dám lai vãng, nên vắng vẻ buồn tênh. Trong khi đó đường xuống hoả ngục
thì thênh thang vui sướng, bao nhiêu người chen lấn, vừa đi vừa ăn uống, cười
nói, ca hát, hôn hít. Nếu bây giờ nhìn vào bức tranh đó, dám có bạn trẻ sẽ bảo:
Tới đâu hay tới đó, cứ vui đi đã, rồi hạ hồi phân giải.
Thái cực thứ hai của
những người lạc quan. Họ bảo Thiên Chúa nhân từ và hay thương xót, chắc chắn
Ngài sẽ không để cho bất kỳ một ai phải xuống hoả ngục, trái lại Ngài sẽ cứu
chuộc tất cả. Là Đấng giàu tình thương, Ngài sẽ không để cho con cái Ngài phải
hư mất. Là Đấng quyền năng, Ngài sẽ không để cho chương trình cứu độ của Ngài bị
thất bại.
Thế nhưng cả hai lập
trường thái quá trên đây đều sai, bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên con người giống
hình ảnh Ngài, nghĩa là có lý trí, có tự do, có tình yêu nên cũng có trách nhiệm
về việc mình làm, chứ không phải như những hình nộm múa may quay cuồng theo sự
giật dây được sắp đặt trước. Và khi con người vận dụng khả năng cộng tác vào ơn
Chúa để thực hiện ơn cứu rỗi nơi mình, cũng chính là lúc con người sống theo lời
chỉ dạy của Chúa, bước qua khung cửa hẹp để vào Nước Trời.
Trong chương trình cứu
rỗi, Chúa để cho chúng ta được tự do. Khi chúng ta không chọn Chúa đó là lúc
chúng ta tự kết án mình. Thiên đàng là đời sống trường cửu với Chúa, còn hoả ngục
là đời sống mãi mãi xa lìa Chúa.
Trong mùa thi vào đại
học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm
chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào
đại học. Đại học hiện tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng
sinh viên mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới được
vào.
Cảnh các thí sinh
chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi nhớ đến bài Tin Mừng hôm nay.
Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua khung cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì
Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người.
Nhưng không phải tất cả mọi người vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều
kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp
với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
Trước hết phải phấn đấu
hạ mình xuống. Ở đời người ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp
phấn đấu để được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người
phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong Nước Trời
thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu để tìm chỗ thấp hèn nhất.
Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời Chúa dậy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ
xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Lc 14,11). “Khi anh được mời, hãy ngồi
vào chỗ cuối”(Lc 14,10). “Ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ
tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ”(Lc 22,26). “Ai không
đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”(Mc
10,15).
Sau đó phải phấn đấu
để bé nhỏ lại. Thông thường ở đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn
đấu để có nhà lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng
thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp hơn, có nhiều
đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước Trời phải phấn đấu để trở
nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi.
“Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng
trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”(Mt 19, 21). “Phúc thay ai có tinh thần nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ”(Mt 5,3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của
Chúa Giêsu.
·
Cửa này thấp vì Chúa
Giêsu đã hạ mình
thẳm sâu. Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao,
Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở
nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một đại
tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
·
Cửa này bé vì Chúa
Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Người
đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã mở đường
về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường
Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã
qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người phấn đấu hạ mình khiêm tốn và từ
bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên
Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết “từ bỏ mình, vác thập
giá mình”mà theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Cửa
Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
2)
Bạn
thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến qua cửa hẹp?
3)
Tuần
này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
4)
Chúa
Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?
3. Cửa hẹp
Suy Niệm
Cuộc đời thật ra gồm
nhiều cửa hẹp. Cửa hẹp khi thi vào đại học. Cửa hẹp khi đi xin việc làm. Cửa hẹp
khi muốn đưa trái banh vào lưới.
-
Sống
là phấn đấu bước qua nhiều cửa hẹp.
-
Cửa
càng hẹp, càng phải cố gắng nhiều. Cửa hẹp mà vào được mới quý.
-
Nếu
thiên đàng có cửa, thì hẳn vào cửa thiên đàng chẳng phải như dạo chơi.
“Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp”(Lc 13,24), vì “cửa hẹp
dẫn đến sự sống”(Mt
7,14). Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của
mình, nặng nề vì những vun vén cá nhân, phình to vì tự hào và tham vọng.
Thật ra cửa vào sự sống
không hẹp nhưng hẹp vì cái tôi của tôi to quá. Cần nỗ lực liên tục để giữ cho
cái tôi nhỏ lại, khiêm hạ trước Thiên Chúa, cởi mở trước anh em. Cần có một cái
tôi như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Cái tôi của chúng ta luôn có
khuynh hướng bành trướng nhờ thu tích nơi mình tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả
kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ, cũng có thể làm cái tôi xơ cứng và
khép lại.
Để “người lớn”trở nên hồn hậu như trẻ thơ, cần phải biến
đổi và tự hạ (x.
Mt 18,3-4). Đây thật là một cuộc chiến với chính mình. Khi hủy mình ra không,
ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp. Nhiều người Do Thái đến chậm, khi cửa đã đóng. Họ gõ cửa
và đòi vào. Họ tưởng thế nào mình cũng có một chỗ nơi bàn tiệc, bởi lẽ mình đã
từng ngồi đồng bàn với Đức Giêsu, và đã nhiều lần nghe Ngài giảng dạy.
Tiếc thay, tương quan
đó lại quá hời hợt đến độ Chúa phải lên tiếng nói với họ: “Ta không biết các
anh từ đâu đến!” Chúa cũng có thể nói với chúng ta như vậy, dù chúng ta đã dự lễ,
rước lễ, nghe giảng, tĩnh tâm... Chúa vẫn không quen biết chúng ta vì chúng ta
chẳng để cho Ngài đi vào đời mình. Chúng ta vẫn là những người xa lạ trước mắt
Chúa.
Đời sống Kitô hữu là
một cuộc chiến đấu liên tục. Chiến đấu để qua cửa hẹp nhờ bỏ cái tôi ích kỷ.
Chiến đấu để vào trước khi cửa đóng lại.
Cứu độ là một ơn Chúa
ban, nhưng ta phải nỗ lực mới dám đưa tay đón nhận. Ước gì chúng ta đừng tự hào
vì đã biết Chúa, nhưng phải làm sao để Chúa biết ta và reo lên: “Đây là đầy tớ
tốt lành và trung tín.”
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bạn
thấy để sống đời Kitô hữu xứng đáng, dễ hay khó? Có khi nào bạn thấy khó đến độ
không thực hiện nổi không?
·
Nước
Thiên Chúa được ví như một bữa tiệc vui, trong đó có muôn người từ khắp nơi
trên thế giới đến dự. Bạn có hình ảnh nào khác để gợi mở về Thiên Đàng không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo
Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn
lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên
thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng
vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình
trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên
Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất
diệt của người một lòng theo Chúa.
Con người vốn có tính
ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, đến gia đình, làng xóm, dân tộc hay quốc gia mình,
nên cũng hình dung ra những vị thần thánh ích kỷ không kém.
Mỗi làng có vị thần
làng riêng, mỗi quốc gia cũng có thần riêng. Thần của làng nào, của quốc gia
nào thì chỉ bênh vực che chở làng ấy, quốc gia ấy mà thôi. Mỗi khi tranh chấp đất
đai hay quyền lợi nào khác, người ta kêu cầu vị thần của làng mình hay quốc gia
mình ra tay đánh bại kẻ thù và thần linh của chúng. Loài người đánh nhau thì thần
thánh cũng phải đánh nhau.
Dân Do Thái cũng
không thoát khỏi quan niệm hẹp hòi và sai lầm ấy. Khởi đầu Giavê đối với họ
cũng chỉ là thần riêng của họ, cũng như Baal là thần của người Canaan.
Phải qua nhiều thời đại,
nhiều kinh nghiệm họ mới học cho biết được rằng: Giavê Thiên Chúa không phải là
một vị thần trong số các vị thần khác, không phải là một chúa giữa các chúa
khác. Trái lại, Ngài là Thiên Chúa độc nhất, ngoài Ngài ra, không có một thần
hay một chúa nào khác.
Tất cả các thần các
chúa đó chỉ là ngẫu tượng, chỉ là những đồ vật do tay con người làm ra: có mắt
có miệng mà không nhìn không nói, có mũi có tai mà không ngửi, không nghe, có
tay mà không sờ không mó, có chân mà không bước không đi. Từ cổ họng không thốt
lên được một tiếng.
Những ý thức về một
Thiên Chúa độc nhất ấy lại khiến người Do Thái đi tới một sai lầm khác vô cùng
tai hại: họ nghĩ rằng Thiên Chúa độc nhất ấy là Thiên Chúa của họ, hay nói cách
khác, họ độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa, bắt Ngài phải về phe với họ, có bổn phận
phải che chở và giáng phúc cho họ, và do đó luôn chống lại các dân ngoại.
Để chuẩn bị mạc khải
cho dân Do Thái biết Ngài là Thiên Chúa của muôn nước, là Cha của mọi dân và nhất
là chuẩn bị cho họ đón nhận Đức Kitô, Đấng cứu độ nhân loại, Thiên Chúa đã phải
dùng đến những bài học đôi khi cay đắng, đó là họ đã phải mất nước, đã phải chịu
cảnh lưu đày, sống thân phận tôi đòi giữa những kẻ mà họ nghĩ rằng không bao giờ
là dân của Chúa. Nhưng cũng chính nhờ đó mà họ mới có được một quan niệm về một
Thiên Chúa phổ quát, nghĩa là Thiên Chúa của mọi dân mọi nước.
Tất cả những điều vừa
trình bày đã được Đức Kitô thực hiện một cách trọn vẹn. Thực vậy, với cái chết
trên thập giá, Ngài đã ký kết một giao ước mới và tụ tập mọi dân mọi nước về
cùng Thiên Chúa. Ý tưởng này đã được Ngài diễn tả bằng hình ảnh một tiệc cưới,
trong đó những người tham dự không phải chỉ là người Do Thái, mà còn là tất cả
những người từ mọi ngả đường trần gian.
Tuy nhiên, không phải
cứ lãnh nhận bí tích Rửa tội, cứ có tên trong sổ sách của giáo xứ, là chúng ta
nghiễm nhiên trở nên thành phần của dân Chúa, điều quan trọng là mỗi người
chúng ta phải có một tấm áo cưới, tức là tâm hồn trong sạch, đã tẩy trừ khỏi những
vết nhơ tội lỗi, đã ra sức uốn nắn lại những khuyết điểm của mình.
Với một con người mới
như thế, chúng ta thực sự là người Kitô hữu thứ thiệt, chứ không phải chỉ là
người Kitô hữu thứ dổm, hữu danh vô thực mà thôi.
Tách rời bài đọc hôm
nay khỏi bối cảnh toàn bộ Phúc Âm, người đọc dễ sinh nản chí. Trong bài chỉ thấy
nói đến cửa hẹp nhiều kẻ sẽ không qua được, đến sự khai trừ khỏi Nước Trời v.v…
Chúa nhân lành trong bài giảng trên núi, từng nói đến Cha với niềm âu yếm, tại
sao ở đây lại có thể nói những lời nghiêm khắc đến thế? Chúng ta cần nhớ rằng
Phúc Âm là một pho sách nhất phiến, mạch lạc chặt chẽ, đoạn này soi sáng giải
thích đoạn kia. Vì thế không nên hiểu tình âu yếm của Cha như một thái độ nhu
nhược, không nên giải thích sự đòi hỏi gắt gao của Người như một chủ trương
nghiêm khắc. Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta về sự cần thiết phải từ bỏ và bổn phận
phải theo đúng chân truyền.
1) Phải từ bỏ.
Không lọt qua được cửa
hẹp là những kẻ không muốn từ bỏ những hành trang bề bộn. Về mặt trí thức, họ
khư khư bảo vệ những thành kiến, những hệ thống tư tưởng, những chủ nghĩa, những
ý kiến của họ. Về mặt luân lý, họ không từ bỏ những thói quen ích kỷ, thái độ tự
tại trong vật chất, những lợi nhuận bất công, những hưởng thụ xác thịt. Một số
lớn không từ bỏ những thứ cồng kềnh đó nhưng vẫn muốn xưng mình là Kitô hữu, muốn
vượt qua cánh cửa Phúc Âm, tuy nhiên trước con mắt Thiên Chúa họ không qua được.
Chính ở điểm này chúng ta không được để cho niềm cậy trông của mình bị dập tắt.
Đối với Thiên Chúa, không có điều gì Người không làm được. Vả lại Thiên Chúa
luôn luôn giúp đỡ kẻ có thiện chí. Nếu ngay tức khắc chưa thể vượt qua cửa hẹp,
chúng ta có thể với sự trợ giúp của Thiên Chúa, loại đi một vài thứ lỉnh kỉnh
nói trên. Nếu ngay tức khắc chưa thể tuân giữ tất cả những điều giảng dạy của
Phúc Âm, chúng ta có thể với sự trợ giúp do Đức Kitô bảo đảm, bắt đầu tuân giữ
một vài điều. Chúa không bao giờ từ chối giúp đỡ kẻ thành tâm thiện chí. Mỗi
ngày thêm cố gắng, phấn khởi vì chắc tâm được Chúa giúp đỡ, chúng ta hy vọng vượt
qua được cửa hẹp, là điều mà bình thường với sức riêng không ai dám mơ tưởng.
2) Phải theo đúng chân truyền.
Một số nào đó có thể
dám tự hào được Đức Kitô nhìn nhận là môn đệ nhưng thật ra Đức Kitô không nhận
họ là người của Chúa. Đó là những kẻ uốn nắn Phúc Âm theo ý riêng mình. Ngày
nay có những kẻ giả mạo Phúc Âm, những kẻ xuyên qua lời phán của Chúa, muốn đưa
ra mớ triết lý, những quyền lợi, những chọn lựa lập trường thế tục của họ. Thay
vì quy tư tưởng theo Phúc Âm, những kẻ ấy quy Phúc Âm theo tầm cỡ và tiêu chuẩn
tư tưởng của họ. Ngỡ rằng Chúa bỏ đi, Chúa khoá cửa rồi, họ gõ cửa xin vào.
Nhưng Chúa từ chối, Chúa bỏ mặc họ với thế gian của họ, vì họ không đón nhận
Phúc Âm chân truyền bằng một tinh thần tôn trọng sự thật. Chúng ta lấy ví dụ
trường hợp một số hành động chính trị nào đó. Hành động chính trị của các Kitô
hữu trong quá khứ và nhất là trong hiện tại luôn luôn bị cám dỗ muốn đem Đức
Kitô vào đời sống công cộng, muốn viện dẫn Đức Kitô làm hậu thuẫn cho một hoạt
động đảng phái; thật ra ai cũng biết, hoạt động đảng phái làm cho Phúc Âm mất
đi tính chất chân truyền. Đối với xu hướng ấy, đối với những kẻ có chủ trương ấy,
Đức Kitô đóng cửa lại. Chúa mở cửa cho hầu hết mọi chủ trương, đường lối, ngoại
trừ sự giả dối.
Có khó để vào nước
thiên đàng không? Chúa Giêsu nói như thế khi Ngài cảnh cáo: “Hãy cố gắng vào
qua cửa hẹp”. Lời cảnh cáo của Ngài có một điều gì đó làm bối rối, từ Ngài nói
rằng: “Mọi người sẽ đến từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam nhiều người sẽ đến chỗ
của mình nơi bữa tiệc trong nước Thiên Chúa”. Lời tiên tri của Isaia hôm nay đã
nói về cùng một điều này. Nói cách khác sẽ có nhiều dân tộc ở trong vương quốc.
Vậy tất cả những người đó họ làm thế nào để đi qua cửa hẹp được?
Tôi nghĩ điều gì xảy
ra trên xa lộ”siêu tốc” khi có một tai nạn tệ hại xảy ra. Cảnh sát liền đóng cửa
ba len chỉ cho một len duy nhất còn lại để chạy giống như một cửa hẹp vậy, tất
cả phương tiện giao thông đều phải giảm tốc độ và lần lượt đi qua một cái chốt
hẹp. Khi đó tôi nghĩ về cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã ám chỉ tới, tôi thấy mọi người
đều phải xếp hàng giống như những chiếc xe hơi trên xa lộ, di chuyển một cách
chầm chậm xếp hàng qua một len mở duy nhất. Những tài xế đều bực bội, họ ồn ào
giận dữ và trao đổi với nhau những cử chỉ tục tĩu. Những chiếc xe hơi và khí hậu
thì quá nóng. Nơi chốt đóng thì chật ních các xe. Tội lỗi cũng giống như tai nạn
xảy ra trên xa lộ, là nguyên nhân của mọi sự phiền phức.
Đây không phải là một
cảnh mời mọc, hình ảnh này có nghĩa là chúng ta phải vào thiên đàng. Nhưng khi
tôi nghĩ rõ ràng hơn về hình ảnh cái cửa hẹp, tôi nhận thấy rằng thật sự chỉ có
một người có thể đi qua cửa ấy. Con người đó là Chúa Giêsu. Khi Người đi qua cửa
đó mà tới thiên đàng Ngài đã đi vào trong mầu nhiệm Vượt Qua là sự chết và sự sống
lại của Người. Chúng ta cũng phải buộc chính chúng ta đi qua cửa hẹp. Tất cả
chúng ta đều cần làm điều đó, để bảo đảm rằng chúng ta được hiệp nhất với Chúa
Giêsu. Nhiều người đã không đi qua cánh cửa độc nhất đó là thân mình của Đức
Kitô, Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội.
Tuy nhiên Chúa Giêsu
đã cảnh cáo một lần thứ hai, Chúa Giêsu nói với mọi người sẽ phải minh chứng với
chủ nhà: “Chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã dạy dỗ trên đường phố
của chúng tôi”. Nhưng ông chủ sẽ trả lời: “Tôi không biết các anh từ đâu đến,
hãy xéo ra khỏi mặt Ta hỡi phường bị chúc dữ”.
Đây là sự phiền muộn
bởi vì chúng ta đã ăn và uống trước sự hiện diện của Chúa tại Thánh Lễ chúng ta
đã tham dự và thông dự vào Thân Mình và Máu Người. Dĩ nhiên là tham dự cách thụ
động trong Thánh Lễ thì không đủ. Lãnh nhận Thánh Thể mà không có một sự sốt sắng
thúc giúc thì làm sao Chúa Giêsu biến đổi chúng ta thành những giá trị thiêng
liêng được. Những gì mà chúng ta đã thực hiện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là khi
lãnh nhận Thánh Thể phải ảnh hưởng tới cung cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu
không dạy chúng ta trong những đường phố, nhưng Ngài đã dạy dỗ trong nhà thờ của
chúng ta trong phần phụng vụ lời Chúa. Đó là lý do vì sao chúng ta phải để tâm
lắng nghe những bài học trong Thánh Kinh, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Do
Thái ngày hôm nay: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người
khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy và có nhận ai làm con cái
thì Người mới cho roi cho vọt”.
Với tất cả những điều
như thế thì đòi hỏi không thể thiếu được là chúng ta phải trở nên một dân trung
thành, chúng ta vẫn phải hợp nhất với Chúa Kitô trong thân thể mầu nhiệm của
Người là Giáo Hội. Đó là phương cách để bảo đảm rằng chúng ta sẽ phải đi qua tất
cả sự ồn ào chán nản của thế gian này mà vào vương quốc đời đời.
7. Trước cửa
thiên đàng (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ở trang trong của một
nhật báo xuất bản tại Manila, người ta đã đọc được câu chuyện vui sau đây:
Trước cửa Thiên đàng,
linh hồn một nông dân xuất hiện xin Thánh Phêrô cho vào hưởng nhan Thiên Chúa.
Thánh Phêrô nghiêm nghị hỏi:
-
“Con
đã sống như thế nào trên trần gian mà giờ đây con muốn vào Thiên đàng?”
Linh hồn người nông
dân trả lời với hết lòng chân thật:
-
“Dạ,
thưa Thánh Phêrô, 70 năm qua trên trần gian con đã cần cù làm ăn, tuân giữ mọi
điều luật Chúa dạy, không bao giờ phạm tội làm mất lòng Chúa. Con muốn vào
Thiên đàng để được hưởng nhan thánh Chúa đời đời”.
Thánh Phêrô nghiêm
nghị trả lời:
“Con đợi ta xem lại
các bản phúc trình mà thiên thần bản mệnh của con đã gởi về”. Trong giây phút
im lặng, với vẻ mặt nghiêm nghị, Thánh Phêrô lần mở ra kiểm soát thật kỹ những
phúc trình về cuộc đời của người nông dân. Quả thực, đúng như lời ông khai báo.
Thánh Phêrô không tìm thấy bất cứ sai lỗi nào trong các bản phúc trình ấy cả.
Sau giây phút suy nghĩ thêm, thánh nhân nghiêm nghị thêm, thánh nhân nghiêm nghị
trả lời cho linh hồn người nông dân:
-
“Con
không đủ điều kiện để vào Thiên đàng”. Thánh Phêrô ôn tồn giải thích lý do:
“Con có biết không, trên Thiên đàng nầy, kể cả chính bản thân ta đây nữa, tất cả
mọi linh hồn vào đây đều là những linh hồn tội lỗi, đã làm phiền lòng Chúa
Giêsu rất nhiều, nhưng đã sám hối ăn năn, được Chúa thứ tha, rồi mới vào đây được.
Còn con thì thật là khác thường. Con suốt đời không phạm tội gì cả. Vậy con
không đủ điều kiện để vào Thiên đàng. Ta cho con trở lại trần gian sống thêm ít
năm nữa xem sao để con có điều kiện mà trở lại đây vào Thiên đàng”.
Thưa anh chị em,
Đây là một câu chuyện
vui có thể giúp chúng ta nhìn vào cuộc đời quá khứ của mình dướci ánh sáng của
Lời Chúa hôm nay. Nước Trời là của những tâm hồn tội lỗi nhưng đã sám hối ăn
năn trở về cùng Chúa. Nào ai dám tự phụ cho mình đã không bao giờ lầm lỗi,
không bao giờ làm phiền lòng Thiên Chúa và xúc phạm đến anh chị em xung chung
quanh. Chúng ta không nên có thái độ giả hình, tự phụ, cho mình là trong sạch,
tốt lành hơn kẻ khác, xứng đáng được vào Nước Trời. Đừng tưởng như những người
Do Thái, cứ tưởng là Dâng riêng của Chúa, là con cháu của Abraham là đương
nhiên được bảo đảm chắc chắn được vào Nước Trời. Vì không phải bất cứ ai thưa:
“Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời”, cũng không phải tất cả những ai đã
được diễm phúc đồng bàn ăn uống với Chúa Giêsu, được nghe Ngài giảng dạy trên
các đường phố của mình, đều là những người có đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho một tấm
vé vào cửa Thiên đàng!
Vấn đề là phải phấn đấu
“vào qua cửa hẹp”, “phải dùng sức mạnh” mới lọt được cửa hẹp dẫn tới bàn tiệc
Nước Trời. Bởi vì, trước cửa Nước Trời, mọi người đều bình đẳng để vào, không
có ưu tiên dành cho những người có lý lịch tốt, hay có gốc gác bự, có ô dù…
Cũng không có chuyện dành chỗ trước, cũng chẳng có chuyện chạy chọt đút lót, cậy
quyền cậy thế, hoặc dựa vào thành tích quá khứ để đòi hỏi cho mình quyền ưu
tiên. Vả lại, cũng đừng quan niệm bàn tiệc Nước Trời như một tiệc chiêu đãi có
tính cách phô trương trình diễn. Trái lại, đây phải là một bàn tiệc của những
người chiến thắng, mà chỉ có những người đã từng chiến đấu, đã chia sẻ những nỗi
gian khổ, đã thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô mới xứng đáng dự phần.
Điều trớ trêu là
không phải con cái trong nhà sẽ là những kẻ nhanh chân nhất và được vào bàn ăn.
Trái lại, chính những kẻ ở xa, những kẻ lặn lội từ bốn phương trời mà đến. Đối
với những người Do Thái đang nghe Chúa Giêsu thì những kẻ từ Đông Tây Nam Bắc
mà đến chính là các dân ngoại. Họ sẽ được vào đồng bàn với các Tổ phụ và các
Ngôn sứ, trong khi chính những người Do Thái là con cái trong nhà, những kẻ
hãnh diện từng ăn uống thường ngày với Chúa, từng được nghe Ngài giảng dạy, lại
phải đứng ngoài gõ cửa tuyệt vọng. Vì vậy có sự đảo ngược thứ tự vào Nước Trời:
“Những người trước hết sẽ trở nên cuối hết, còn những người cuối hết sẽ trở nên
trước hết”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa không theo
chủ nghĩa lý lịch. Trước cửa Nước Trời, Ngài không hỏi mọi người: Có chịu phép
rửa tội, có theo kitô giáo, có phải là người Công giáo hay không? Có phải là Tu
sĩ, Linh mục, Giám mục, Hồng y hay Giáo Hoàng? Điều Ngài đặc biệt quan tâm và
xét hỏi, đó là đã có làm và sống như Chúa Giêsu đã làm, đã sống, đã dạy hay
không? Vì thế, đừng làm tưởng rằng: hễ có tên là Kitô hữu, là người Công giáo,
là đạo gốc, là đương nhiên được bảo đảm vào Nước Trời, để rồi tự đắc đứng trên
nhìn xuống thương hại hay loại trừ những người anh em ngoại giáo, những người
không chia sẻ một tôn giáo, một niềm tin với chúng ta. Bàn tiệc Nước Trời đón
nhận tất cả mọi thành tâm thiện chí. Nếu chúng ta không thực thi Lời Chúa,
không đi theo con đường hẹp của Chúa, thì có thể những người anh em ngoại giáo
sẽ vào Nước Trời trước chúng ta, đang khi chúng ta, những người được mời gọi
trước lại sẽ bị Chúa từ chối, vì chỉ mang cái nhãn hiệu Kitô hữu mà không có một
đời sống đức tin, một đời sống Kitô hữu đích thực.
Thưa anh chị em,
Nếu Chúa Giêsu mượn
hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Thiên Chúa thì chính là để diễn tả sự chia sẻ
niềm vui, chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh em. Bởi thế, Thánh Phaolô
đã nói với tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng
là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).
Bàn tiệc Thánh Thể
hôm nay phải là dấu chỉ cụ thể của bàn tiệc Nước Trời, nên những gì chúng ta
chia sẻ trên bàn thờ, tức là Mình Máu Thánh Chúa, phải được chia sẻ rộng rãi
trong cuộc sống. Nói khác đi, chúng ta không thể bẻ Bánh Thánh với nhau mà
không biết chia cơm sẻ áo cho nhau, nghĩa là cho anh em trong cộng đoàn mà
thôi, nhưng còn là cho mọi người anh em đang cần được chúng ta chia sẻ. Thực hiện
sự chia sẻ cụ thể đó, chính là phấn đấu đi qua cửa hẹp để dự Bàn Tiệc Nước Trời
vậy.
Suy Niệm 1. HOÁN
CẢI ĐỂ VÀO VƯƠNG QUỐC
Vương Quốc không phải
là một câu lạc bộ tư nhân.
Một người đã đến gặp
Đức Giêsu và nói: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải
không?”.
Điều này nhắc chúng
ta nhớ đến câu chuyện một người đã chết và lên thẳng thiên đàng. Thánh Phêrô gặp
người ấy ở cổng đưa vào bên trong và dẫn ông ta đi dạo một vòng quảng trường.
Được một lúc, họ đến một khu đất có tường cao bao bọc. Khi đi ngang qua đó,
thánh Phêrô nói: “Ông hãy giữ im lặng khi đi qua chỗ này”.
“Tại sao?” người đàn
ông hỏi.
“Sợ làm phiền những
người ở trong đó”, Phêrô đáp.
“Ai ở trong đó?”. Ông
ta hỏi.
“Những người Công
giáo. Ông biết đấy, họ nghĩ chỉ có họ là những người được vào Thiên đàng. Nếu họ
biết có những người khác được vào Thiên đàng, họ sẽ thất vọng. Thật vậy, một số
người trong đó có lẽ sẽ đòi tiền lại”.
Người đến hỏi Đức
Giêsu: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít có phải không?” rõ ràng đã
nghĩ rằng Thiên đàng là một câu lạc bộ có chọn lọc mà chỉ có những thành viên mới
được thừa nhận. Người ấy là một người Do Thái. Vì thế ông ta đã tin rằng chỉ có
những người Do Thái mới được vào Nước Thiên Đàng. Những dân ngoại không có hy vọng
được vào. Về phần những kẻ tội lỗi, hãy quên điều đó! Ý tưởng về một dân tộc được
chọn là một ý tưởng nguy hiểm. Nếu Thiên Chúa có chọn một dân tộc thì Người chọn
họ không phải để loại trừ các dân tộc khác mà để phục vụ những dân tộc khác đó.
Nếu có lúc người đàn
ông nghiền ngẫm câu đáp của Đức Giêsu, có lẽ ông phải hối tiếc vì đã hỏi câu hỏi
ấy trước tiên. Bởi vì Đức Giêsu đã đập vỡ tính ngạo mạn của ông ta thành những
mảnh vụn. Người đảo ngược mọi thứ. Người nói: “Có những kẻ đứng chót sẽ lên
hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đó là một tuyên ngôn
cách mạng làm những người Pharisêu bị tổn thương và xúc phạm. Người không dừng
lại ở đó mà còn đối xử tốt với những người tội lỗi và những người bị gạt ra bên
lề. Người Pharisêu coi đó là sự phản bội lại dân tộc đức hạnh như họ. Nhưng Đức
Giêsu tuyên bố rằng Người đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những người như thế.
Thế giới này có đầy dẫy
những câu lạc bộ độc quyền với những kiểu cách màu mè, những đặc quyền và ưu
đãi v.v… Chúng ta không mong Đức Giêsu đi theo điều đó. Người cũng không mong
như thế. Người đã loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa đang đến. Đối với những
người Do Thái tưởng rằng họ đường nhiên có thể vào nước Thiên Chúa, Người nói:
“Các ông hãy sinh trái cây thống hối, nếu không địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng
có ích gì”.
Đức Giêsu nói rằng sự
hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương Quốc. Và Người tiếp tục
đem sự hoán cải đến với phần lớn những người không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội
lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Người và họ đã lên đường tiến đến
Vương Quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán
cải của Người và do đó tự loại mình ra khỏi Vương Quốc.
Chúng ta không có quyền
quyết định ai sẽ được vào Thiên đàng. Tốt hơn hãy trả lại điều ấy cho sự khôn
ngoan và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa làm
công việc của Người. Đến lúc cuối đời, sự cứu chuộc không phải là một điều gì
đó mà chúng ta có thể kiếm được. Nó là một ơn của Thiên Chúa. Nhưng điều đó
không có nghĩa là chúng ta không nên cố gắng làm cho mình xứng đáng với ơn ấy.
Qua phép Thánh tẩy, chúng ta là những thành viên của dân được chọn mới. Chúng
ta là những người “bên trong”. Nhưng chúng ta không nên chỉ dựa vào một sự kiện
ấy. Chúng ta phải nỗ lực trổ sinh hoa trái cho Nước Thiên Chúa, tức là hoa trái
của sự thiện hảo, đời sống ngay lành và chân lý.
Suy Niệm 2. ĐAU
KHỔ GÓP PHẦN RÈN LUYỆN CHÚNG TA.
Trước đây, phương
pháp dùng để giáo dục thanh niên dựa trên nền tảng là sức chịu đựng: một đứa trẻ
càng vượt qua được những thử thách tàn bạo, thì nó càng được chuẩn bị tốt hơn để
đối phó với những mối nguy của tuổi trưởng thành. Chúng ta nhìn thấy một ví dụ
tốt về điều ấy trong nghi thức khai tâm của các bộ lạc người da đó. Nghi thức
đó được chỉ định để giúp thanh niên có được vị trí của chúng trong thế giới của
người lớn.
Trong một nghi thức
như thế, lúc trời tối người cha dẫn đứa con tuổi thanh niên vào một khu rừng thưa.
Ông nói với nó phải qua đêm ở đó một mình và chỉ được trang bị bằng một cây
giáo. Kế đó, người cha rút lui. Khi đứa con ra khỏi khu rừng về lại nhà thì nó
không còn là một đứa trẻ nữa.
Người thanh niên đối
diện với một thách đố đầy đe doạ. Có một bóng đêm không dò thấu và vô số âm
thanh, phần lớn vô hại nhưng rất ghê rợn. Người ta có cảm tưởng một vài con thú
đang ẩn náu gần đó, chờ đợi để vồ mồi, một cảm giác làm người ta lạnh toát mồ
hôi và rã rời thân thể. Chỉ cần có một người bạn bên cạnh, sự việc sẽ khác biết
bao. Nhưng anh ta chỉ dựa vào sức của riêng mình.
Thời gian trôi qua chậm
biết bao, mỗi phút như bằng một giờ. Nhưng dù sao, đêm đã đi qua. Và sau cùng
bình minh ló dạng ở bầu trời. Khi bóng tối rút lui, nỗi sợ hãi của người thanh
niên mới chấm dứt và anh ta bắt đầu thở đều. Rồi từ rừng rậm một bóng người xuất
hiện. Đó là cha anh ta.
Người thanh niên chạy
đến cha anh, gieo mình vào đôi tay của người cha và kêu lên “Ôi cám ơn Thiên
Chúa, cha đã đến!”. Rồi đến lượt người cha ôm lấy con mình. Vừa ôm con, ông vừa
nói: “Con ơi, cha tự hào về con. Con đã xử sự như một người lớn thật sự”. Điều
mà người thanh niên không biết là cha anh đã ngồi nơi kín đáo suốt đêm, đưa mắt
dõi theo anh. Mỗi người muốn trưởng thành phải đối diện với “khu rừng đen tối”
dưới một hình thức nào đó.
Tác giả của thư gởi
tín hữu Do Thái nói về cách sửa dạy và rèn luyện mà Thiên Chúa ban cho chúng
ta. Chúng ta được rèn luyện trong trường học của đau khổ. Tuy nhiên, ở đây
không đề cập đến khía cạnh tình cảm của đau khổ. Người ta có thể bị tổn thương
đến nỗi trở nên cay cú và không chấp nhận sự cứu giúp.
Tuy nhiên đau khổ có
thể là một cơ hội tốt. Giá trị của đau khổ không nằm trong chính nỗi đau mà
trong thái độ người chịu đau khổ đối với nỗi đau. Đau khổ có thể thanh luyện linh
hồn và biến đổi tính cách của một con người. Đau khổ có thể đem lại hoa quả. Nó
là một phần cần thiết giúp chúng ta trở thành một con người chân chính tức là một
con người có sự trưởng thành, chiều sâu và lòng trắc ẩn. Như Van Gogh đã nói:
“Người ta phải chịu gian lao để nên chín chắn”.
Đau khổ là một thành
phần cần thiết để xây dựng một con người Kitô hữu trưởng thành. Chúng ta không
nên coi đau khổ là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt
một ai. Đau khổ là một phần của thân phận con người. Thiên Chúa để cho chúng ta
đau khổ. Đúng, nhưng chỉ vì đau khổ có thể đem lại điều tốt lành. Đau khổ có thể
đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Trong đau khổ, chúng ta cảm nghiệm quyền
năng và tình yêu của Thiên Chúa. Có những chân lý mà chỉ có sự đau buồn mới có
thể chỉ dạy. Một trong những chân lý ấy là lòng thương xót đối với người đồng
loại đau khổ. Không thể học được lòng thương xót mà không có đau khổ.
9. Coi chừng
kẻo bị loại - William Barclay
Đây là biến cố đầu
tiên trong một loạt các biến cố mới trong chặng hành trình cuối cùng của Chúa
hướng về Giêrusalem. Ngài biết tình hình đã đến lúc nghiêm trọng. Ngài biết đây
là lần cuối cùng Ngài đi rao giảng sự cứu rỗi cho dân tộc, nên Ngài cố gắng để
có thể đạt sứ điệp của Ngài đến cho mỗi thành mỗi làng.
Trong đám thính giả
có người hỏi: “Thưa Ngài, phải chăng những người được cứu thoát thì ít?” Chúa
không trả lời trực tiếp, nhưng câu Ngài trả lời ngụ ý nhiều người Do thái nghĩ
mình được cứu thì lại bị hư mất, có nhiều người ngoại bang mà người Do thái cho
là hư mất thì lại được cứu. Chúa Giêsu ví sánh những người phước hạnh của Nước
Ngài như một tiệc cưới dọn trong tòa lâu đài. Cửa vào lâu đài này hẹp nên nhiều
người được mời từ chối không chịu đi qua. Sau một thời gian cửa này đóng lại, rồi
những người không chịu vào kia lại năn nỉ chủ nhà mở lại, nhưng vô hiệu, họ đã
bị loại trừ vĩnh viễn, lòng tràn ngập hối hận buồn khổ. Cửa hẹp là cánh cửa của
lòng ăn năn sám hối và đặt niềm tin cậy nơi Chúa Giêsu, cơ hội vào rất sẵn
sàng, nhưng không phải là vô thời hạn, những kẻ chối bỏ Đức Kitô sẽ bị lọai ra
khỏi Nước của Ngài, rồi bấy giờ những người này mới thấy mình dại dột.
Trong câu chuyện, họ
khẩn khoản nài xin được vào, chính điều này là lý do buộc tội họ. Đây là hạng
người đã biết Chúa rồi, họ đã từng ăn với Ngài, từng được Ngài dạy dỗ. Thế thì
tại sao họ lại không nhận Ngài? Những đặc ân ấy chỉ làm tăng thêm tội trạng của
họ. Chúa đã từ chối không nhận họ thuộc về Ngài. Như vậy Chúa mô tả nhiều người
Do thái bị loại bỏ, rồi thêm một câu không kém kích động về việc tiếp nhận dân
ngoại: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”.
Như vậy Chúa Giêsu đã
ứng dụng cách thực tế câu hỏi mà người ta chỉ đặt ra vì tò mò. Chúa dạy chúng
ta nhiều điều:
1. Chúa tuyên bố rằng
sự gia nhập Nước Trời không bao giờ là việc đương nhiên, nhưng đó là kết quả và
là phần thưởng của một cuộc tranh đấu. Chúa Giêsu phán: “Hãy chiến đấu mà vào”
từ ngữ dịch chiến đấu hay gắng sức trong nguyên ngữ có nghĩa là sự “thống khổ”.
Sự chiến đấu để vào Nước Trời phải gay go đến nỗi có thể diễn tả như một sự thống
khổ của tâm hồn và tinh thần.
Chúng ta dễ sa vào cơ
nguy: sinh ra trong gia đình có đạo, sống trong cộng đoàn tin Chúa, hay một khi
đã chính thức tin nhận Chúa là đã đi đến cuối đường và bây giờ có thể ngồi chơi
như thể đã đi tới nơi, đã hoàn thành mục đích. Đời sống Kitô hữu không bao giờ
có cái gọi là chung cuộc. Kitô hữu luôn luôn tiến tới, còn không thì sẽ lùi lại.
Con đường đạo khác
nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở thế gian này. Người
ta nói về hai nhà leo núi nổi tiếng đã chết tên ngọn Everest rằng: “Khi người
ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiến lên đỉnh núi”. Người ta đã
ghi khắc vào bia mộ một hướng dẫn viên leo núi Alpe chết ở sườn núi rằng:
“Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu luôn luôn là con đường đi lên, tiến
mãi.
2. Những người đó đã
mượn lý do rằng: chúng tôi đã ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài cũng từng dạy dỗ
trên đường phố của chúng tôi”. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa
thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống
trong Giáo Hội của Chúa Kitô chưa chắc chắn đã phải là Kitô hữu, những người đó
đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi mà những người đi trước đã xây dựng
nên. Nhưng đó không phải là lý do để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự
đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn?” Chúng ta không thể sống bằng
cái tất vay mượn của tiền nhân.
3. Sẽ có những bất ngờ
trong Nước Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này có thể sẽ rất thấp kém
trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những
vương tử ở đời sau. Có câu chuyện về một người đàn bà giàu sang được thế gian
này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng thì có một thiên sứ đưa
bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ
tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dãy phố chính ở trên trời, tới khu ngoại
ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều
một chút. Thiên sứ bảo: “Đây là nhà của bà”. Bà nói: “Cái gì vậy? Tôi không thể
nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp: “Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì
chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu bà đã gửi lên đây!” Các tiêu chuẩn
trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ
là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời.
10. Chú giải
mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG NGƯỜI DO THÁI BỊ LOẠI BỎ VÀ DÂN NGOẠI ĐƯỢC KÊU MỜI
Điệp khúc mở vào giai
đoạn hai của cuộc hành trình (c.22) không chỉ nhắc tới đích điểm địa lý của cuộc
hành trình này; nó còn loan báo một thông tri quan trọng sẽ được cung cấp trong
cảnh tiếp theo (13,31-35).
Trình thuật này được
dẫn nhập bằng câu 23. Một người lạ mặt hỏi: Phải tin ai? Phải tin các Kinh sư,
là những người khẳng định rằng: Mọi người Israel đều tham dự vào thế giới tương
lai (Misnha, Sanhedrin X, 1) hay tin những kẻ khác, đối với những người này những
kẻ bị hư đi thì nhiều hơn những kẻ sẽ được cứu thoát (Edras quyển thứ tư IX,
15)? Cách thế mà Chúa Giêsu dùng để nói về tính cách cấp bách của việc hoán cải
(13,3-5) phải chăng không xếp Ngài vào nhóm thứ hai?
Nhưng Chúa Giêsu lại
không quan tâm đến vấn nạn kiểu kinh viện này. Trước khi trả lời, Ngài đóng
khung nó bằng cách nói với tất cả các người xung quanh (cùng một cảnh như ở
12,13-14) và nhấn mạnh đến sự cố gắng:”Hãy chiến đấu để vào phòng tiệc qua được
cửa hẹp” (c. 24). Thực vậy, điều quan trọng là mỗi người phải thay đổi cách sống.
Chính vì thế, lời đáp của Chúa Giêsu không xác định về số ít người được cứu
thoát nhưng về tính cách nghiêm trọng của cuộc sống hiện tại của con người. Nhiều
người sẽ chen chúc vào cửa hẹp mà không vào được. Ngoài việc cửa hẹp dẫn đến niềm
vui của bàn tiệc, thực ra còn phải nói đến một yếu tố thứ hai: thời gian gấp
rút vì cửa sắp đóng. Tìm cách vào, giữa đám đông hỗn độn, ở phút chót là chuốc
lấy thất bại.
Khi nói đến thời điểm
mà cửa sẽ đóng, lời cảnh cáo trở thành đe doạ: Việc đóng cửa lại do lệnh của một
nhân vật chủ chốt, ông chủ nhà, mà không ai khác hơn là những kẻ đối thoại với
Ngài mới xin mở cửa cho họ và do đó, họ phải nhắc đến việc trước đây họ cùng ăn
uống với Ngài (x. 7,36; 11,37; 14,1) và đã có nghe Ngài giảng dạy. Nhưng lời
đáp nhắc tới hai lần”Ta không biết các anh từ đâu đến” –điều này, trong ngôn ngữ
Kinh Thánh (x. Am 3,2) có nghĩa là:”Ta không chọn các ngươi, các ngươi không
thuộc về những kẻ được chọn”. Ở đây không hề có việc tuỳ tiện theo ý ông chủ: bằng
cách gián tiếp trích Thánh vịnh 6,9. Chúa Giêsu nói rằng họ bị loại bỏ bởi vì họ
làm điều xấu. Có những liên hệ – hời hợt với vị Sứ Giả cũng chẳng ích lợi gì
khi mà người ta không chịu hoán cải. Chẳng ai tự động mà được cứu rỗi. Việc thuộc
về dân mà Thiên Chúa đã ký Giao Ước với Sinai, và là dân đầu tiên được nghe giảng
Tin Mừng nơi công cộng và trong các hội đường, cũng chẳng cho người ta được tấm
vé vào Nước Thiên Chúa đâu. Điều cần thiết phải làm là hoán cải và đón nhận lời
rao giảng ấy.
Từ đó, Chúa Giêsu đi
đến hai xác quyết (cc. 28-29). Trước hết, việc loại ra khỏi Vương Quốc đến liền
sao phổ quát ở câu 27 sẽ gây ra khóc lóc và nghiến răng, giận dữ và hối hận cay
đắng nơi kẻ đối thoại với Ngài. Bực bội, họ sẽ thấy những tín hữu Israel đích
thực, đại diện bởi các tổ phụ và tất cả các ngôn sứ, hưởng hạnh phúc và bình
an, đặc điểm của Vương Quốc trong khi chính họ phải ở lại bên Ngài. Thay chỗ của
họ – xác quyết thứ hai: - thiên hạ sẽ đến từ bốn phương trời: đó là những dân tộc
ngoại giáo sẽ vào tham dự ơn cứu độ vĩnh hằng. Khi dùng đề tài Kinh Thánh nói về
các dân tộc hành hương về Giêrusalem để dâng lễ vật tôn thờ Thiên Chúa (x. Is
60,3tt), Chúa Giêsu để ý không nói đến tên của thành; vì vậy, thành này không
còn là địa điểm nơi mà Thiên Chúa muốn người ta tôn thờ Ngài nữa: Vương Quốc là
một thực tại siêu việt. Với hình ảnh được thanh lọc khỏi mọi tính cách quốc gia
chủ nghĩa đó, Chúa Giêsu thêm một hình ảnh ở Is 25,6. Bữa tiệc trong Thế giới mới
diễn tả một hiệp thông trọn vẹn giữa con người với Đấng cứu thoát họ:”Thiên
Chúa sẽ dẫn đưa những kẻ được tuyển chọn vào tình thân mật với Ngài và biến họ
thành những người nhà của Ngài” (J.Schlosser).
Phần kết luận (c.30)
làm ta nhớ đến sấm ngôn của ông Simêon khi ông nói về sứ vụ của Chúa Giêsu như
duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy (2,34) và nhắc lại
rằng Vương Quốc sẽ kéo theo sự đảo ngược các tình trạng của con người (x. những
mối phúc và hoạ ở 6,20-26). Giữa những kẻ đến sau cùng có nhiều kẻ sẽ vượt lên
truớc những kẻ kỳ cựu, mặc dù những người này đã được các ngôn sứ loan báo từ
lâu về việc Vương Quốc ngự đến. Tuy nhiên đây cũng không phải là luật tổng
quát: câu kết luận hiểu ngầm rằng những kẻ kỳ cựu đến trước nhất sẽ chia sẻ chỗ
nhất với những kẻ mới đến từ khắp thế giới. Ở Luca, lời Chúa Giêsu nói đây rõ
ràng thuận lợi cho Israel hơn là ở những đoạn song song của Marcô và Matthêu.
Lời cảnh cáo có tính
cách ngăn đe trước hết được nói với các thính giả Do Thái ở Giuđê – Galilê vào
những năm 28-30; dưới cái nhìn của Luca, chỉ một số ít trong họ đã hoán cải,
như nhóm Mười Hai và các môn đệ khác, và có thể vào được Nước Trời. Trong các
thính giả này đặc biệt được nhắc tới, cũng là số ít thôi, những kẻ dám làm điều
bất chính tột độ cộng tác vào việc hành quyết Chúa Giêsu (xcc. 31-35). Nhưng đừng
quên rằng những lời Tin Mừng này vẫn còn tính thời sự và là tiếng mời gọi hoán
cải. Sẽ càng không có việc cứu rỗi tự động cho các Kitô hữu cứ khất lần đến
ngày mai. Việc canh tân đời sống luôn luôn cần được lặp lại không ngừng. Đối với
mọi người, cửa đều hẹp cả: những ai trong họ làm điều bất chính không có thể nại
vào sự thân thiết hời hợt với Chúa Kitô để xin mở cửa sau khi cửa đã đóng rồi.
Trang Tin Mừng của
Luca mà chúng ta đọc hôm nay là một bức tranh ghép gồm những bản văn:
Câu 24, khung cửa hẹp (Mt 7,13) trong
bài giảng trên núi.
Câu 25, “thưa ngài, mở cửa cho chúng
tôi với” (Mt 25,11) là kết luận của dụ ngôn mười cô trinh nữ khôn ngoan và rồ dại.
Câu 26, “Ta không hề biết các ngươi”
(Mt 7,22) là một giáo huấn về sự cầu nguyện.
Câu 28, “từ phương đông sang phương
tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc” là kết luận của việc chữa lành người đầy tớ của
ông đại đội trưởng dân ngoại (Mt 8,11).
Câu 30, “những người sau rốt trở thành
những người đầu tiên” (Mt 19,30 và 20,16).
Vậy Luca liên kết những
lời mà Đức Giêsu đã nói trong những trường hợp khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có
một bản văn mang tính nhất quán cao: Khi trả lời câu hỏi về con số người được
chọn. Đức Giêsu khẳng định hai chân lý có vẻ trái ngược nhau. Cánh cửa Thiên
đàng thì hẹp, nhưng những dân ngoại sẽ đến đông đủ, tiến vào bàn tiệc của Đấng
Mêsia, còn những người đầu tiên được mời ở lại bên ngoài.
Trang sách này của
Luca mà chúng ta đọc hôm nay là kết quả của sự cầu nguyện, của việc dạy giáo lý
thờ phụng của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Trong một chừng mực, chúng ta
thấy xuất hiện một dụ ngôn mới gồm toàn những câu của Đức Giêsu, mặc dù không
trực tiếp là dụ ngôn của Người Thay vì ngạc nhiên về sự khám phá này, tại sao
chúng ta lại không vui mừng. Đức Giêsu đã không “biết” gì cả, cũng không làm
“xơ cứng” điều gì. Hiển nhiên, đây là một điều có chú ý. Người đã thật sự trao
Lời cho Giáo Hội Ngay để Giáo Hội nói Lời ấy và thích nghi Lời với các nhu cầu
của mỗi thời kỳ lịch sử. Vì danh nghĩa gấp đôi ấy, lòng Tin Mừng của Luca là của
Đức Giêsu: Do miệng Chúa nói ra trong những lúc khác nhau... đồng thời cũng là
công việc của Đức Giêsu sống động trong Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người... “Ai
nghe anh em là nghe Thầy”. Một cách đọc Tin Mừng có khoa học thay vì mâu thuẫn
với một cách đọc ngây thơ hơn và làm cho chúng ta hoài nghi tính chính thống hẳn
phải đến chúng ta đến chỗ chấp nhận thái độ của Luca: Trung tín với suối nguồn...
tự do trong Thần Khí... để việc giải thích Lời Chúa luôn luôn sống động và có
thể soi sáng những vấn đề của chúng ta hôm nay.
Trên đường lên
Giêrusalem, Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.
Luca trở lại việc Đức
Giêsu đang trên đường lên Thành thánh ở đó chúng ta biết điều gì sắp xảy ra. Đức
Giêsu “du hành”. Người không xơ cứng. Người bước đi! Luca, bạn thông hành của
Phao lô, nhà “du hành cao cả” đã dùng từ đó tám mươi tám lần. Đời sống Kitô hữu
cũng là một cuộc lữ hành, tiến lên phía trước. Phần tôi, tôi có xơ cứng, dừng lại
bất động không? Lịch sử với sự tiến hóa của nó là một phần của kế hoạch Thiên
Chúa. “Thời gian” là tạo vật của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã hội nhập trong thời
gian. Người không làm thời gian ngừng lại. “Thầy ở với các con mỗi ngày cho đến
tận thế”.
Có kẻ hỏi Người:
“Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?”
Một câu hỏi nóng bỏng,
luôn luôn hiện thực. Một câu hòi rất nhân bản, căng phồng máu của những quan hệ
tình cảm của chúng ta: Làm sao tôi có thể hưởng hạnh phúc trên trời nếu những
Người thân không có ở đó? Một câu hỏi rất tự nhiên: “Bạn chớ đến dự tiệc Nước
Trời một mình; trên những nẻo đường bạn đi, bạn hãy cao rao Tin Mừng: Lời Chúa
hứa là bánh được ban cho để chia sẻ”. Bất kỳ người nào không ước ao “tất cả” đều
được cứu, chính người ấy không thể được cứu, bởi lẽ người ấy không hoàn thành
luật của Nước Thiên Chúa là tình yêu phố quát… “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng
ta muốn cho mọi người được cứu độ” (1 Tm 2,4).
Người bảo họ: “Hãy
chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người
sẽ tìm cách vào mà không thể được”
Một lần nữa, Đức
Giêsu không trả lời trực tiếp. Người không nói những người được cứu sẽ nhiều
hay ít. Người làm như thể câu hỏi lý thuyết ấy không làm Người quan tâm và ngay
sau đó, Người đưa các thính giả trở về với tránh nhiệm của họ. “Thay vì tranh
luận một cách trí thức, bạn hãy làm gì cụ thể để “bước vào” sự sống đời đời...
vấn đề là phải vào được!” Sự tò mò về con số người được cứu thoát bộc lộ sự tìm
kiếm điều an toàn là điều có thể thiếu lành mạnh: Nếu mọi người đều lên trời, cần
gì phải lo lắng? Nếu rất ít người được lên trời, tại sao lại phải tốn bao công
sức mà chắc gì đã được? Vì thế, Đức Giêsu đã không xác định con số nhưng trả mỗi
Người về với quyết định mà mỗi người phải có đồng thời khẳng định rằng như thế
mới là nghiêm túc. Đức Giêsu không muốn “trấn an”, Người muốn người ta sống có
trách nhiệm. Từ đây, Người dùng một hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Kinh
thánh: Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Người thêm: người ta xô đẩy nhau trước
cửa vì cửa phòng “hẹp”. Từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là chiến đấu là một động từ
mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối)
trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động từ Hy Lạp: Cuộc chiến đấu cuối cùng của
sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến
đấu, ở vườn Ghet-sê-ma-ni và đồi Gôn-gô-tha.
Người không cho chúng
ta lời khuyên nào mà trước hết chính Người đã không sống nó. Trong một đoạn văn
khác, Người đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời” (Mt
11,12; Lc 16,16).
Để chiếm được Nước Trời,
cuộc chiến đấu của tôi là gì? Tôi phải chiến đấu ở điểm chính xác nào, trong
hoàn cảnh của tôi, với tính khí của riêng tôi, khi vượt qua những điều kiện giới
hạn là những bó buộc đang đè nặng trên cuộc đời tôi?
Thánh Phaolô cũng
dùng từ “ngôn” “cuộc chiến đấu” để nói đời sống Kitô hữu là gì.. “Tôi tìm thấy
niềm vui trong những đau khổ mà tôi phải chịu, để loan báo Đức Kitô: Đó là công
việc và cuộc chiến đấu của tôi” (Côlôxê 1,29; 1 Côrintô 9,25; Côlôxê 4,12; 1
Timôthê 4,lo). “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết công đường,
đã giữ vững niềm tin”. (2 Timôthê 4,7). Làm thế nào chúng ta lại có ảo tưởng
“vào” nước trời mà không phải nỗ lực? Đời sống Kitô hữu không phải là một cái
ghế bành. Dĩ nhiên đó là một ơn không mất tiền, ban cho cả những người tội lỗi.
Còn phải chấp nhận ơn đó... mà không hoàn toàn khép kín lại trên ơn đó.
“Một khi chủ nhà đã đứng
dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: `Thưa
ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: `Các anh đấy ư? Ta
không biết các anh từ đâu đến!’
Dụ ngôn mạnh mẽ tiếp
tục: Cánh cửa vốn đã hẹp giờ đây đóng kín. Lời mời gọi bước vào trở nên cấp
bách: Thời gian gấp lắm, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải “bước vào trong
Nước Trời”. Vâng, đối với tôi, thêm một ngày cũng là quá trễ. Tôi còn lại bao
nhiêu thời gian? Chúng ta phải sống mỗi ngày như thể đó là ngày sau rốt.
Bấy giờ anh em mới
nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng
dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các
anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất
chính!’
Dân Israel, ý thức về
giá trị của Giao ước khó mà chấp nhận những người dân ngoại bước vào trong Nước
Thiên Chúa. Giáo trưởng Méir viết: “Để trở nên một con cái của đời sau, phải cư
ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do Thái là ngôn ngữ thánh và sáng chiều đọc
kinh Shema Israel”. Trái lại, đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc
này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho
những người đã từng được ăn uống trước mặt Người, và những người đã từng nghe
Người “giảng dạy” giờ đây áp dụng cho chính chúng ta, những người chia sẻ bàn
tiệc thánh thể. Một giờ ngắn ngủi sống với Đức Giêsu ngày Chúa nhật không thể
bù đắp tất cả những giờ khác trong tuần mà chúng ta dùng làm điều ác xa cách
Người.
“Bấy giờ anh em sẽ
khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả
các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên
hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. “Và kìa có những kẻ
đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Cách nói này có thể
cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước
Trời bị loại trừ một cách độc đoán bởi quyết định độc tài của một ông chủ không
có lòng thương xót. Hẳn đó là một bức ảnh biếm họa về Thiên Chúa. Thiên Chúa không
tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ
chính mình. Quả thật, ngay cả dân ngoại, bởi một thái độ quay ngược lại (kẻ đứng
chót sẽ lên hàng đầu!) sẽ đến từ mọi phương trời. Thiên Chúa đã làm tất cả để
cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy, thật ra đó là sự nghiêm trọng của vĩnh cửu, trở
thành một cánh cửa mở rộng cho mọi người không phân biệt.
Số phận bi thảm của
Israel, được mời gọi đầu tiên, đã bị các dân tộc khắp nơi vượt qua phải thức tỉnh
sự mê ngủ của chúng ta. Người ta không thể vào Nước Trời như thế, nghĩa là
không nhận thức điều vừa nói. Phải ao ước có Phải chiến đấu vì nó. Phải chọn Đức
Giêsu. Thuộc về một nhóm người, một chủng tộc, một gia đình, hoặc thực hành một
vài nghi thức không thể đem lại cho chúng ta một sự an toàn nào, có chăng chỉ
là ảo tưởng... Điều chủ yếu là sự dấn thân bằng tất cả con người chúng ta trong
mọi lúc, theo Đức Giêsu. Và nhất là, chúng ta chớ phán xét những người khác.
Chúng ta biết được hai điều: 1% về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu
chuộc mọi người... 2% về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự
do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu...
ở trần gian này, chúng ta không bao giờ biết được có phải tự do ấy no anh em
chúng ta đã nói tiếng nói sau cùng. Sự gặp gỡ sau cùng với Thiên Chúa vào lúc
chết phải là hồi chung cuộc. Mọi người đều đã hiểu rằng tiền đặt cuộc siêu
nhiên ấy chỉ có thể trở thành “cứu độ” với Thiên Chúa: Chớ đến dự tiệc Nước
Tròi một mình. Trên những nẻo đường bạn hãy loan báo Tin Mừng: Lời Chúa hứa là
bánh được ban cho để chia sẻ: Thiên Chúa thúc giục các bạn bước vào nơi ở duy
nhất và quy tụ các bạn trong tình yêu. Lạy Đức Giêsu, niềm hy vọng của con người,
xin làm cho chúng con trỏ thành những chứng nhân ơn cứu chuộc của Ngài.
12. Chú giải
của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN CỬA HẸP
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Vào qua cửa hẹp
Một lần nữa Luca xác
định Đức Giêsu đang “trên đường lên Glêrusalem”. Một nhận xét có tính thần học
hơn là địa lý: Người đang tiến gần đến Thành Thánh, nơi chính Người phải đi trước
qua “cửa hẹp” của cuộc khổ nạn để dẫn đưa anh em mình vào dự tiệc Nước Trời.
Sau đó, Người còn tuyên bố trong câu 33: “Tôi phải tiếp tục đi, vì một Ngôn sứ
mà chết ngoại thành Giêrusalem thì không được”.
Chính lúc đó một người
đối thoại vô danh - Luca viết: “Có kẻ hỏi Đức Giêsu: ‘Thưa Ngài, những người được
cứu thoát thì ít, có phải không?’. Một vấn nạn thường được đưa ra tranh luận giữa
các kinh sư và luật sĩ thời đó: kẻ thì bảo “mọi người Israel sẽ được dự phần
vào thế giới đang đến”, người khác lại quả quyết “chắc chắn số kẻ bị hư mất sẽ
nhiều hơn số người được cứu”.
Theo thói quen thường
làm trong tình thế tương tự, Đức Giêsu tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi có
tính lý thuyết của người đối thoại, nhưng mượn một dụ ngôn, trong trường hợp
này là dụ ngôn Cửa Hẹp, Người đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ cho thính giả mọi
thời, xưa cũng như nam Thay vì đoán xa đoán gần về số lượng ít hay nhiều kẻ sẽ
được chọn, tốt hơn họ nên lo cho phần rỗi của chính mình một cách sao cho thật
thiết thực. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào người nói rõ như thế. Động
từ Hy Lạp được Luca dùng ở đây và được dịch là “Hãy chiến đấu”, chính là
“agoomdesthé”: một động từ gợi lên ý tưởng đấu tranh vật lộn, từ đó có chữ
“agonie” (có nghĩa là ‘lâm chung’ ‘cuộc vật lộn sau cùng’). Như thế đủ thấy tầm
quan trọng mà Đức Giêsu dành cho kiếp sống hiện tại của con người.
2. Trước khi cánh cửa
được khoá lại
Bởi cánh cửa, cái cửa
chật hẹp ấy, sẽ được “khoá” lại, nên người ta cần phải khẩn trương đón nhận lời
dạy của Đức Giêsu và đem ra thực hành. Thời giờ không còn nhiều. Không hề có chế
độ ưu tiên trong việc tham dự bàn tiệc Nước Trời. Đâu phải cứ thuộc giống nòi
Abraham, “từng được ăn uống trước mặt Ngài”, từng được nghe Ngài giảng dạy trên
các đường phố của mình, là đương nhiên được Đức Giêsu, vị chủ nhà, mở cho vào
khi gõ cửa. Nhưng là phải biết đón nhận lời loan báo nước Trời và mau mắn hoán
cải, nếu không sẽ phải nghe tiếng trả lời từ trong nhà: “Ta không biết các anh
từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”.
Thật đau đớn vỡ mộng
cho những kẻ tưởng rằng cứ thuộc về dân của Chúa là đương nhiên nắm chắc trong
tay tấm vé vào dự bàn tiệc Nước Trời. Họ sẽ phải đứng ngoài cánh cửa đã khép
kín, trong lúc cả một đám đông dân ngoại “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong
Nước Thiên Chúa”.
Và để hoạ lại lời
tiên tri của ông già Ximêon: “Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel
ngã xuống hay đứng những kẻ đứng chót (dân ngoại) sẽ lên hàng đầu, và cả những
kẻ đứng đầu (dân Đo Thái) sẽ xuống hàng chót”. Hugues Cóusin lưu ý, “Lời cảnh
báo được gởi đến trước hết cho những thính giả Do thái cư ngụ ở Giuđê là Galilê
trong những năm 28-30. Tuy nhiên chúng ta đừng quên: những lời của Phúc Âm luôn
luôn mang tính hiện tại và nhằm mời gọi một sự hoán cải. Không thể có một thứ
ơn cứu độ dọn sẵn cho những Kitô hữu không lo thực hành ngay việc canh tân liên
lỉ đời sống mình” (“L’evangilc de Luc”, Centurion, trg 198-199).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Quyền công dân Nước
Trời
“Nước Thiên Chúa là một
thực tại mầu nhiệm. Nước ấy hiện diện như một hạt giống bé nhỏ đang vươn lên
thành cây cao bóng cả. Nó được vùi vào trong bột như chút men làm dậy cả khối bột.
Để được đự phần vào nước ấy, con người phải để cho Nước ấy biến đổi, phải để
cho men của Nước ấy làm dậy bột. Nếu chỉ đóng vai kẻ ngoài cuộc hay kính nhi viễn
chi thôi thì không đủ phải bước vào, mà cánh cửa lại chật hẹp, nó chỉ mở ra cho
những ai nỗ lực bước qua. Đức Giêsu đã đến giữa nhân thế, và loài người có thể
lui tới gặp gỡ Người: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài
cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng như thế không đủ.
Nhưng sau đó phải bước theo Chúa, phải vào trong Nước Trời qua chính cửa hẹp
đó, nếu không sẽ mãi là kẻ xa lạ: “Ta không biết các anh từ đầu đến”. Để gặp gỡ
Đức Kitô không nhất thiết ưu tiên cho những ai đã từng gần gũi với Người. Dụ
ngôn trực tiếp nhắm đến dân tộc đã sinh ra người trên đời, nhưng đồng thời cũng
liên can đến tất cả chúng ta. Thuộc thành phần “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc,
chính chúng ta cũng dễ dàng tháo lui không dám bước qua cửa hẹp. Hành trình của
sự hoán cải không có lối đi vòng nào khác: “Cút di cho khuất mắt Ta, hỡi tất cả
những quân làm điều bất chính”. Chỉ có một thứ giấy thông hành thôi, đó là phải
đổi đời. Chính nó sẽ cấp cho chúng ta quyền công dân của Nước Trời. Khi điều đó
được sáng tỏ, chúng ta mới thấy mọi thứ giả tạo sẽ lộ nguyên hình: “Có những kẻ
đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”.
2. Trở lại với nguồn
mạch Tin Mừng
Dựa vào lời dạy của Đức
Giêsu, Thánh Luca muốn đưa ra câu trả lời chính xác cho một tình huống khá cụ
thể, trong đó kẻ thuận người chống về vấn đề dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh.
Người thuận thì cho rằng Nước Thiên Chúa luôn mở rộng cho tất cả những ai tìm
kiếm và muốn bước vào. Người chống thì chủ trương phải thuộc thành phần ưu đãi,
nghĩa là phải được cắt bì theo luật Do Thái mới được gia nhập. Giáo huấn của Đức
Giêsu đã qua rõ. Rõ đến nỗi đụng chạm và gây vấp phạm đến tất cả những ai từng
bám vào những đặc ân và ngoại lệ, những bảo hiểm an toàn dành cho những tín hữu
“ngoan đạo”. Nhưng Đức Giêsu lại chẳng để ý gì đến chuyện thuộc thành phần nào,
chuyện đặc quyền đặc lợi hay việc giữ đúng phép đạo.
Nếu cánh cửa có hẹp,
nó vẫn đủ rộng để đón mời mọi người và mỗi người. Nhưng lối vào không thênh
thang. Để lọt được vào trong, đòi phải có sự mềm mại của tình yêu đáp trả tình
yêu đang thao thức, đang xét xử và đón mời. Ở đây, chúng ta được nghe nhắc lại
tầm quan trọng của đức tin và việc sống đạo, mà chủ yếu là thực hành hai giới
răn chính mà thực tế chỉ là một giới răn tình yêu. Cần phải lên án cả lối nhìn
nghiêm khắc của Jansénisme lẫn chủ trương dễ dãi buông thả, cả sự bối rối sợ
hãi lẫn thái độ thoải mái vô tư.
Hãy dẹp sang một bên
những bảng thống kê và con số, những suy đoán vô ích, những nỗi lo lắng và tin
tưởng vu vơ. Tốt hơn, chúng ta hãy trở về với nguồn suối Tin Mừng. Chính nơi đó
người ta tìm được tất cả những gì mình phải là và phải làm, để trở nên và mãi
là “công dân Nước Trời”.
13. Cửa nào
Chúa đã đi qua (Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Một buổi sáng náo nhiệt,
người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới
cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn
vào. Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ,
thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp
như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng
nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.
Ngờ đâu khi bác tài
đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:
-
Đó
là nhà của bà.
Người nhà giàu hoảng
hốt, choáng váng đầu óc:
-
Nhà
của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu
xí như thế được!
Thánh Phêrô vân vê
chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.
-
Thưa
bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy
thôi
“Có những kẻ đứng
chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”(Lc 13,30). Đó
là bất ngờ đau đớn cho “những kẻ đứng đầu”.
Họ là những người được Chúa ban cho giàu có, nhưng lại sống trong ích kỷ, chỉ
biết thu vén cho mình những của cải đời này, mà không biết chia sẻ trao ban như
luật yêu thương Chúa dạy. Chính tài sản đã làm họ vướng víu nên không thể qua
“cửa hẹp”mà vào được Nước Trời.
“Những kẻ đứng đầu”có thể là những ai được Chúa ban cho địa vị, chức
quyền, khôn ngoan, nhưng lại sống trong huênh hoang tự đắc. Thay vì dùng ơn
lành Chúa ban để nâng đỡ anh em, phục vụ cộng đoàn, họ lại nuôi dưỡng tham vọng
cá nhân. Chính cái tôi cồng kềnh đã làm họ vướng víu nên không thể qua “cửa hẹp”mà
vào được Nước Trời.
“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp
mà vào”(Lc 13,24). Nếu Chúa đã bảo hãy “chiến đấu”tức là phải nỗ lực cố
gắng thật nhiều, phải vất vả gian nan thật lâu, thì mới vượt qua được cửa “hẹp”.
Nếu Chúa đã nhắc đến “cửa hẹp”thì phải hiểu là chỉ có những trẻ thơ mới được
vào được dễ dàng. Chúa phán: “Ai không tiếp nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ thì
không được vào”(Lc 18,17).
“Cửa hẹp dẫn đến sự sống”(Mt
7,14), “cửa hẹp”đưa vào bàn tiệc Nước Trời, nhưng không phải lúc nào cửa cũng mở.
Sẽ đến giờ “chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25) thì không cách gì,
không lý lẽ chi để cửa mở ra lại. Đó chính là lúc vô cùng bất hạnh cho những kẻ
đến trễ: những kẻ mải mê tìm của cải danh vọng, thú vui phù du mà quên đi hạnh
phúc vĩnh hằng; những kẻ cậy dựa vào đạo giòng, vào các việc lành đã làm, vào
tài đức đã đắc thủ mà quên đi Đấng mà họ phải kiếm tìm, để sống thân mật, để
dâng hiến và để yêu mến Người với tất cả trái tim.
Ước gì chúng ta đừng
đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang; cửa tiền tài, sắc dục, hư danh; cửa dẫn
vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa
nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến”(Lc 13,27).
Lạy Chúa, cửa hẹp thường
rất khó vào, nên chẳng mấy người muốn bước qua; nhưng cửa hẹp lại là cửa Chúa
đã đi qua, và chỉ qua đó chúng con mới tìm được Chúa.
Xin cho chúng con biết
luôn cố gắng, quyết tâm bước vào cửa hẹp, cho dù phải rướm máu hy sinh, cho dù
phải bỏ lại những gì mình ưa thích, vì chỉ có Thiên Chúa mới là phần thưởng và
là niềm hạnh phúc của chúng con. Amen.
14. Cửa hẹp
Thánh Luca nhắc nhở
chúng ta rằng “chúng ta đang tiến bước về Giêrusalem”. Chúa Giêsu “rao giảng là
lên đường” tiến về sự thử thách, các bài học tỏ ra cấp bách. Thánh Luca đặt ra
một câu hỏi thuần túy tò mò:
-
Có
nhiều người được cứu rỗi hay không?
-
Ngươi
hãy chiến đấu để được cứu rỗi! Hãy gắng sức mà vào cửa hẹp.
Hãy chiến đấu, hãy gắng
sức! Luca thích ý tưởng chiến đấu được lấy lại từ người thầy Phaolô của ông.
Chúng ta có thể làm cả một tuyên bố với những lời Phaolô kêu gọi chiến đấu:
“Tôi chiến đấu với sức
mạnh của Chúa Kitô vốn tác động mạnh mẽ nơi tôi”(Cl 1,29); “Êphaphô chăm lo cầu
nguyện”(Cl 4,12); “Hãy chiến đấu lành mạnh cho đức tin, giật lấy sự sống vĩnh cửu”(1Tm
6,12) Đây là cuộc chiến đấu thực hành các lời khuyên đã nhận lãnh. Đã thấy Chúa
Giêsu, đã lắng nghe và thậm chí đã ngồi trước mặt ngài vẫn chưa đủ để mở cửa
Thiên Chúa.
Ta chẳng hiểu các
ngươi nói gì và từ đâu đến!
Chúng ta không thể trở
thành Kitô hữu bằng việc đọc sách thánh và mơ mộng. Cần phải thực hành. Một thứ
lo âu đi ngang qua các trang Tin Mừng: điều mà các bạn đang khám phá, các bạn
có thực hành hay không?
Ý tưởng “thực hành”đã
bị quá hạn hẹp trong việc thực hành bí tích. Người ta nói: “Tôi là người lãnh đạo”.
Hành đạo như thế nào? Chúng ta có thể đi lễ hằng ngày và vẫn bị đuổi ra khỏi cửa
trời nếu chúng ta không thực sự sống theo Tin Mừng: “Ta không biết ngươi từ đâu
đến!”
May thay lời kêu gọi
say mê thực hành được soi sáng, cửa hẹp được nới ra thật rộng: “Người ta sẽ đến
từ Đông, Tây, Nam, Bắc”. Đây cũng là bài ca chiến thắng của sách Khải Huyền, được
lấy lại trong lễ Các Thánh: “Tôi thấy một đám đông không thể đếm được…” (Kh
7,9).
Nhưng lời cuối cùng của
bài suy niệm này báo động cho chúng ta: “Có những người rốt hết sẽ trở nên trước
hết và những người trước hết sẽ trở nên rốt hết”. Chúng ta sẽ thấy lại sự đạo
ngược mà thánh Luca thường làm chúng ta hình dung, trong khi nhắc đến ở đây với
mức độ vừa phải. Không phải tất cả những người đầu tiên sẽ trở nên rốt hết, người
ta nói với chúng ta chỉ một số mà thôi, những người hạng nhất khi đó là những
người học hiểu đạo và những người rốt hết khi phải thực hành đạo, cũng phải sắp
hàng để đến Nước Trời.
15. Đường
vào Nước Trời
Có nhiều hay ít người
được cứu độ? Những ai được cứu độ? Phải làm gì để được cứu độ? Đây là những câu
hỏi rất quan trọng. Sở dĩ người Do thái đặt câu hỏi nhiều hay ít người được cứu
độ, vì họ tin là chỉ có người Do thái, chỉ có dân tộc Do thái là dân riêng mới
được cứu, còn dân ngoại thì Thiên Chúa tiêu diệt hết. Nơi Cựu ước chúng ta cũng
có thể thấy quan niệm này nơi tiên tri Giona, ông không vâng lời Chúa, trốn đi
để khỏi phải rao giảng lời Chúa cho Israel và dân ngoại, mà dân ngoại thì Chúa
đâu có cứu cho nên giảng làm gì. Người biệt phái thì họ càng tin chắc hơn quan
điểm này. Quan điểm này sau đó nhiễm luôn cả giám mục Jancénius, có muốn nên
thánh mà Chúa không cho thì cũng hư đi thôi, hậu quả là người ta sống buông thả,
hưởng thụ, không được đời sau thì phải bám lấy cái đời này thôi.
Thật sự tìm hiểu kỹ
Thánh Kinh thì không phải như thế, mà Chúa cứu cả dân ngoại. Lịch sử cứu độ Cựu
ước, sau thời kỳ Babylon Chúa đã làm cho dân ngoại qui về Thiên Chúa, đến nỗi cả
đế quốc Ba Tư là dân ngoại cũng yểm trợ cho dân Israel trở về tái thiết quê
hương.
Isaia nơi bài đọc I
cho thấy Chúa tập họp các dân nước đến và cho thấy vinh quang Chúa. Isaia trình
bày cho chúng ta rất rõ ý muốn và tình yêu của Giavê Thiên Chúa qui tụ mọi dân
tộc, biến họ thành một dân duy nhất. Dân Israel trở về quê hương đầy phấn khởi
và hy vọng sau một thời kỳ dài làm nô lệ bi đát, ghê tởm. Khi trở về rồi thì họ
phải đương đầu với thực tế khó khăn ghê gớm. Vì tế, Isaia cố gắng đem lại cho họ
nghị lực đã bị suy giảm và có thể rơi vào tuyệt vọng bằng cách là diễn tả một
tương lai sáng chói cho một dân được tuyển chọn, dân đó chính Chúa chọn lựa làm
dấu chỉ cho sự hiệp nhất mọi dân nước, mà dân nước này cũng được tiếp nhận cùng
với dân riêng thuộc về Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Đó chính là sự hướng dẫn
tuyệt diệu trong Hội thánh do Đức Kitô thiết lập cho cả nhân loại, cho cả thế
giới ở mọi thời và mọi nơi.
Với ý chí ham hiểu biết,
với tính tò mò, chúng ta muốn hỏi nhiều hoặc ít người được cứu độ như người Do
thái đã hỏi Chúa Giêsu. Nơi đoạn Tin Mừng chúng ta đọc lại hôm nay, Chúa Giêsu
đã không trả lời thẳng câu hỏi nhiều hay ít. Nếu Ngài trả lời nhiều người được
cứu độ thì người ta sẽ sống buông thả. Nếu Ngài trả lời ít người được cứu độ
thì người ta sẽ thất vọng buông xuôi, hoặc sẽ rơi vào tâm trạng của người Do
thái bấy giờ là tự đắc, tự mãn, vênh váo là chỉ có Chúa cứu dân tộc Do thái
thôi.
Tuy nhiên, trong Phúc
âm có lời Chúa châm biếm họ: “Không phải những kẻ nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được
vào Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành thánh ý Chúa. Trong ngày phán xét nhiều kẻ
nói chính tôi nhân danh Chúa làm được cái này, làm cái kia, nhân danh Chúa trừ
quỉ, nói tiên tri, làm phép lạ… Bấy giờ chủ tuyên bố: Ta không biết các ngươi
là ai, hãy xéo đi khỏi mặt Ta hỡi những phường tác quái”.
Vì thế, lẽ ra người
ta phải đặt câu hỏi: Làm sao để được cứu độ? Làm gì để được cứu độ? Cho nên
Chúa trả lời các người hỏi là: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào Nước Trời”,
chứ Ngài không trả lời là nhiều hay ít người được cứu. Như thế, đường vào Nước
Trời hẳn không phải là thênh thang mà là cửa hẹp, cho nên phải chiến đấu. Mà
nói đến chiến đấu thì chúng ta còn nhớ bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước và được
tiếp nối qua bài Tin Mừng hôm nay thì cuộc đời Giáo Hội lữ hành là một cuộc đời
dân Chúa chiến đấu. Có nhiều lãnh vực phải chiến đấu quá đi, nhưng chiến đấu với
chính mình là quan trọng. Chiến đấu với cái tôi rất là khó, vì cái tôi cồng kềnh
của tự kiêu, phô trương; cái tôi nặng nề của vun vén cá nhân; cái tôi phình to
vì tự hào, tham danh vọng… Có lẽ cửa trời là một cửa không hẹp, nhưng chỉ có
cái tôi cồng kềnh, cái tôi nặng nề, cái tôi phình to, to quá mức cái cửa cho
nên không vào được.
Lucife đã phình to,
Ađam Eva đã phình to, vì thế Chúa nói hãy chiến đấu, chiến đấu cho cái tôi nhỏ
lại trước anh em, chiến đấu cho cái tôi khiêm hạ trước Thiên Chúa rất cần thiết.
Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, có những lúc trong mình cái tôi có khuynh
hướng muốn bành trướng để thu tích. Thu tích trí thức, thu tích đạo đức, thu
tích chức vụ, thu tích sự tín nhiệm và có khuynh hướng muốn vượt lên trên người
khác. Do đó nó làm cho lòng chúng ta sơ cứng, khép lại trong mức độ khác nhau
tùy mỗi người. Vì thế, Chúa muốn chúng ta chiến đấu vào của hẹp, một cuộc chiến
đấu vào của hẹp là không phải tự mình đặt vào mà chính Chúa dẫn đem chúng ta
vào.
Thánh Phaolô trong
thơ gởi tín hữu Do thái hôm nay trình bày cho chúng ta thấy chiến đấu là phải
trải qua những đau khổ thử thách. Tất nhiên chiến đấu là phải can trường; tất
nhiên chiến đấu là gặp những thử thách, gặp những thương tích, gặp những đau khổ.
Nhưng Thiên Chúa như một người Cha vừa nhân hậu xót thương, vừa tài trí khôn
ngoan, Ngài quan tâm, Ngài sửa dạy, Ngài bổ sức, nâng đỡ, vì thế thánh Phaolô
khích lệ chúng ta nơi bài đọc II: “Đừng để mình vấp phạm trước nghịch cảnh,
nhưng hãy can đảm và kiên trì”.
Bước đường xem ra
càng khó khăn, chúng ta càng cần phải hy vọng, tin tưởng để chiến đấu. Chúng ta
cần tin Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lấy tình phụ tử chăm sóc và nâng đỡ. Ngài
chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, được sự lành, dù Ngài có sửa dạy, có quở
trách, có đánh đòn là chỉ vì Ngài đã chọn chúng ta làm con riêng của Ngài.
Chúng ta cần tin vào Ngài để chiến đấu và chắc chắn chúng ta sẽ vào được cửa trời,
cửa xem ra rất hẹp.
Qua kinh tin kính mà
chúng ta sẽ tuyên xưng, cậy nhờ Mẹ Maria giúp chúng ta tin mạnh mẽ hơn, đồng thời
cũng xin Mẹ giúp chúng ta quảng đại, can đảm để chiến đấu thật lực.
16. Khung cửa
hẹp
Trong một buổi chia sẻ
lời Chúa,bác công nhân đã phát biểu như sau:
Đã ba mươi hai năm
nay, tôi làm việc cho một công ty. Nhiều lần tôi được đề bạt thăng chức, nhưng
tôi đều từ chối, bởi vì nếu chấp nhận, thì tôi sẽ không có đủ thời giờ để chăm
sóc cho vợ và bốn đứa con trai của tôi. Tình yêu tôi dành cho vợ con thì quí
giá hơn số tiền lương được tăng thêm.
Cách đây hai năm, tôi
lại được đề bạt một lần nữa. Và lần này thì tôi chấp nhận, bởi vì các con tôi đều
đã khôn lớn và vợ tôi thì lại không thể đi làm được. Và thế là tôi phải theo một
khóa bồi dưỡng. Rất tiếc là trong thời gian này, bà chị ruột của tôi qua đời,
nên tôi không thể chú tâm vào học hành. Vì thế, tôi bị rớt trong kỳ thi cuối
khóa.
Trở về công ty, tôi
đã bị ông giám đốc mạt sát một cách thậm tệ. Tôi cảm thấy ê chề và nhục nhã. Mọi
sự bỗng trở nên vô nghĩa, ngay cả quyết tâm phụng sự Chúa cũng tiêu tan như mây
khói. Tại sao lại xảy ra như thế? Hay là Chúa đã bỏ rơi tôi? Tất cả dường như
đã sụp đổ.
Ngày kia, tôi đã phải
thú thực với vợ tôi:
-
Anh
không thể sống nhục nhã như thế này.
Vợ tôi khuyên tôi cầu
nguyện và rồi sự cầu nguyện đã gíup tôi nhận biết phải chọn lựa bước theo Đức
Kitô bị đóng đinh và bị bỏ rơi. Từ đó, tôi tìm lại sự bình an. Tôi xin lỗi ông
giám đốc. Và cũng từ đó, công việc làm ăn của tôi mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Câu chuyện vừa nghe,
quả thật đã gợi lên trong chúng ta hình ảnh về khung cửa hẹp mà đoạn Tin mừng
hôm nay đề cập đến. Thực vậy, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ chúng ta:
-
Hãy
chiến đấu để vào qua khung cửa hẹp.
Vậy khung cửa hẹp ấy
là gì?
Tôi xin thưa:
-
Khung
cửa hẹp ấy không gì khác hơn là chính bản thân của Ngài.
Có nghĩa là Ngài đòi
hỏi chúng ta phải nhìn thẳng vào con người của Ngài để nhận biết Ngài. Không gì
có thể thay thế được cái biết nội tâm ấy. Cho nên, ngay cả những người sống gắn
bó với Ngài, ăn uống trước mặt Ngài, được nhe những lời giảng dạy đầy khôn
ngoan của Ngài, cũng như được chứng kiến những việc làm đầy kỳ diệu của Ngài, nếu
thực sự họ không nhận biết Ngài, thì rồi họ cũng sẽ bị khai trừ, bị loại bỏ ra
ngoài.
Và như vậy, Ngài
chính là cửa, như lời Ngài đã nói với dân Do Thái:
-
Ta
là cửa. Ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi.
Khung cửa được thánh
Luca đề cập tới chỉ có thể là chính bản thân Ngài, chứ không thể là bất kỳ một
ai khác. Đây cũng là điều Ngài đã từng xác quyết trong Tin mừng của thánh
Gioan:
-
Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
Hay như thánh Phêrô
đã công bố trong bài giảng đầu tiên vào ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ Hiện Xuống:
-
Chúa
Giêsu bị anh em treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Chúa và làm Đức
Kitô. Dưới bầu trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại,
để chúng ta phải nhờ danh đó mà được cứu độ.
Hãy bước theo Đức
Kitô. Hãy trở nên giống Ngài bằng cách chấp nhận những khổ đau, những thập giá.
Vì đó chính là khung cửa hẹp, chúng ta cần phải bước qua để tiến vào cõi sống
vĩnh cửu, để chiếm lấy vinh quang phục sinh.
Chúng ta vừa đọc lại
bài Phúc âm của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C; không những chỉ trong bài Phúc
âm mà cả ba bài đọc đều như muốn nhắc chúng ta nhớ lại hai chiều kích của ơn cứu
rỗi.
-
Chiều
kích thứ nhất là chiều kích phổ quát, đó là ơn cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho
tất cả mọi người, mọi dân tộc. Chiều kích phổ quát này được loan báo nơi sách
tiên tri Isaia mà chúng ta đọc trong bài đọc I, và được nhắc lại nơi đoạn Phúc
âm hôm nay là thiên hạ sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc trong Nước
Thiên Chúa. Chiều kích phổ quát này dường như nhấn mạnh đến số lượng nhiều hơn,
và có thể làm chúng ta hiểu lầm là mọi người tự động được vào Nước Thiên Chúa,
nhưng không phải như vậy.
-
Chiều
kích thứ hai của ơn cứu rỗi là chiều kích cá nhân, nhấn mạnh đến phẩm chất, đến
mối tương quan giữa mỗi tín hữu với Chúa Kitô, với Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi.
Chiều kích thứ hai này nhắm đến phẩm chất của mối tương quan giữa mỗi người với
Thiên Chúa và được thể hiện nơi bài đọc II trong thơ Do thái: “Thiên Chúa yêu
thương ai thì Ngài càng thanh luyện, càng uốn nắn người đó nhiều hơn nữa qua những
thử thách để người đó mang lại nhiều hoa trái”.
Thiên Chúa thanh luyện
để làm cho con người được lớn lên trong tình yêu của Ngài. Chúng ta nhớ lại dụ
ngôn về cây nho, ngành nho được nhắc lại nơi Phúc âm thánh Gioan: “Thầy là cây
nho thật, Cha Thầy là người trồng nho. Hễ ngành nào thuộc về Thầy mà không sinh
quả thì Cha Thầy sẽ chặt đi. Còn nếu ngành nào sinh quả thì Cha Thầy sẽ cắt tỉa
để nó sinh nhiều hoa quả hơn”.
Việc Thiên Chúa cắt tỉa
con người được hiểu như là việc Thiên Chúa thanh luyện con người. Nơi bài đọc
II của Chúa nhật XXI Mùa thường năm C nói là: “Thiên Chúa sửa dạy con người như
người cha sửa dạy con cái trong nhà. Thiên Chúa yêu thương ai thì Người muốn
thanh luyện người đó nhiều hơn nữa để mang lại nhiều hoa trái”. Đây là điều mà
bài Phúc âm hôm nay thường gọi là bước vào qua cửa hẹp.
Hai chiều kích phổ
quát nhắc về số lượng và cá nhân, nhắm về phẩm chất của mối tương quan giữa con
người với Thiên Chúa luôn luôn đi đôi với nhau được nhắc lại trong bài Phúc âm
chúng ta vừa đọc lại ở phần đầu, khi Chúa Giêsu phán: “Bất cứ ai muốn vào Nước
Chúa thì phải đi qua con đường hẹp, phải cố gắng và từ bỏ những gì cản trở con
người bước vào Nước Trời”. Thiên Chúa cảnh tỉnh các đồ đệ của Ngài đừng ỷ lại
vào những công việc giả tạo của mình.
Trong hai chiều kích
này của ơn cứu rỗi, dĩ nhiên chiều kích phẩm chất nhắc đến mối tương quan cá
nhân với Thiên Chúa là điều quan trọng. Càng yêu mến Chúa thì ta càng làm cho
nhiều người nhận biết Chúa. Trường hợp các vị thánh là một thí dụ điển hình,
các ngài càng yêu mến Chúa thì càng được thanh luyện chính mình, hay đúng hơn
càng được Thiên Chúa thanh luyện để có sức ảnh hưởng mạnh và dẫn đưa nhiều người
đến với Chúa. Các thánh càng đào sâu chiều kích cá nhân thì càng đến gần Chúa,
do đó tâm hồn của các ngài càng mở rộng đến mức độ đại đồng để đón nhận tất cả
mọi anh chị em và đưa anh chị em đến với Chúa. Ap dụng cho đời sống mình, càng
kết hiệp với Chúa thì ta càng quảng đại với anh chị em; nếu xa lìa Chúa thì ta
càng hẹp hòi với anh chị em.
Nếu một người nào đó
hỏi chúng ta: “Phải chăng chỉ có những người theo đạo Chúa mới được cứu độ?” hay
“Có phải chỉ có một số ít người được vào nước trời?”. Chúng ta sẽ trả lời thế
nào? Câu hỏi này xưa kia có người đã hỏi Chúa Giêsu. Sở dĩ ông ta hỏi như vậy
vì hồi đó có nhiều quan niệm và chủ trương khác nhau. Giáo lý của nhóm Pharisêu
thịnh hành lúc ấy cho rằng: thế giới hạnh phúc mai hậu chỉ dành cho một số ít
thôi, còn đa số sẽ phải khốn khổ. Còn những người phái khắc khổ Et-sê-niên thì
khẳng định ngon lành rằng: chỉ những thành viên của họ mới được cứu độ. Có lẽ
vì có những chủ trương khác nhau như vậy, nên người này đến hỏi Chúa Giêsu cho
biết rõ sự thực như thế nào.
Chúa Giêsu đã trả lời.
Câu trả lời của Chúa vừa là bài học cho chúng ta vừa là giải đáp để chúng ta có
thể trả lời cho những người khác. Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: tất cả mọi người
đều được cứu độ. Đó là giáo lý trước sau như một của Chúa. Bởi vì “Thiên Chúa
là Cha, Đấng mong muốn mọi người được cứu thoát”, “Đấng không muốn bất cứ ai phải
hư đi”, “Đấng không muốn một trong những kẻ bé mọn phải hư mất”. Bàn tiệc của
Thiên Chúa là bàn tiệc mở ra cho muôn dân, nghĩa là nước trời được mở ra đón nhận
mọi người. Chúa đến trần gian, chịu nạn chịu chết cho mọi người, cứu chuộc mọi
người, chứ không phải chỉ một số người nào thôi.
Như vậy, Chúa cứu chuộc
mọi người là một điều rõ ràng và dứt khoát rồi. Nhưng được cứu độ hay không là
hoàn toàn do mỗi người. Vì thế, Chúa Giêsu muốn mọi người đừng bao giờ còn đặt
vấn đề một cách sai lầm và tiêu cực rằng: phải chăng chỉ có ít người được cứu độ?
Hay tôi có được cứu độ không? Trái lại, phải nói rằng: tôi có muốn được cứu độ
không? Bởi vì ơn cứu độ Chúa Giêsu đã lập là phổ quát chung cho mọi người, ơn cứu
độ luôn chờ sẵn ngoài cửa mỗi tâm hồn. Và muốn được cứu độ thì phải áp dụng các
phương pháp và phương thế đó chính Chúa Giêsu cũng đã đề nghị và chỉ dạy cho
chúng ta, đó là cố gắng vào cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì
Thiên Chúa hà tiện, hẹp hòi, khắt khe mà vì con người chúng ta không đủ nhỏ để
dễ dàng đi vào. Nói khác đi, cửa nước trời không hẹp mà chính vì chúng ta quá cồng
kềnh. Đó là sự cồng kềnh của những hành lý chúng ta đang mang nặng trên vai như
tiền bạc, của cải, tình duyên, danh vọng, thú vui, hưởng thụ… Khiến chúng ta bị
vướng ngoài cửa. Đó là sự cồng kềnh của cái tôi: cái tôi nặng nề của đam mê,
xác thịt. Cái tôi cứng cỏi vì lòng ích kỷ. Cái tôi hèn nhát vì sợ hãi không dám
dấn thân… Như thế đó, cánh cửa nước trời mà nhiều người thiện chí đã vào được dễ
dàng, thì đã trở thành khung cửa hẹp đối với những người khác, vì cái tôi, vì
hành lý của họ quá cồng kềnh. Cho nên, chúng ta vào được nước trời hay không là
do chúng ta chứ không phải do Chúa. Thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng
chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta. Nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài
cần có sự cộng tác của chúng ta”. Do đó, vấn đề không phải là đòi Thiên Chúa nới
rộng cửa, nhưng là chính chúng ta phải biết trở thành bé nhỏ. Nói theo ngôn ngữ
đạo đức quen thuộc, là chúng ta phải từ bỏ chính mình, tức là phải từ bỏ những
gì chúng ta thích, chúng ta muốn, nhưng không đẹp lòng Chúa.
Lời Chúa nhắc nhở
chúng ta hãy xét lại đời sống của mình, kiểm điểm lại thái độ sống của mình
xem: những gì đang là những cái cồng kềnh cản trở chúng ta vào nước trời. Chúng
ta hãy lục soát kỹ lương tâm xem: có phải chúng ta đang là nô lệ của rất nhiều
ông chủ không? Có những ông chủ rõ ràng như tiền bạc, danh vọng, bia ôm, cà phê
đèn mờ, đua đòi, chưng diện, thú vui không lành mạnh… Có những ông chủ khác như
ích kỷ, thói quen xấu, giữ đạo vụ hình thức, định kiến, thành kiến đối với người
này người khác… Nhiều lắm, mỗi người đều có những ông chủ khác nhau. Đó chính
là những cái cồng kềnh khiến chúng ta bị vướng ngoài cửa hẹp, và giả như Chúa gọi
chúng ta hôm nay, chúng ta có chắc mình được cứu độ không?
Hơn nữa, bản tính con
người hay thay đổi, thích mới nới cũ, ưa chuộng hào nhoáng, chạy theo thị hiếu,
mà dễ quên mục đích tối hậu của mình: Một đàng thì bị thế gian cám dỗ, luôn
luôn đánh bóng lên những thứ trái cấm như tranh ảnh, sách vở, báo chí, thời
trang, hình tượng, phim ảnh, nghệ thuật… càng là trái cấm càng quyến rũ mãnh liệt.
Đàng khác, con người lại có tật xấu là mau nản, dễ đầu hàng: một lần thất bại
là chúng ta mang mặc cảm và không muốn chỗi dậy nữa, buông xuôi.
Tóm lại, thật nhiều
và rất nhiều hình thức lôi kéo, thúc đẩy, xúi giục chúng ta tìm con đường thênh
thang, dễ dãi, ngại khó, sợ khổ, tránh con đường hẹp. Vì thế, chúng ta phải
luôn nhớ bài học của Tin Mừng hôm nay: phải đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu
hết mình để vào cửa hẹp. Cũng như tất cả chúng ta đều biết bài học: “Nước chảy
đá mòn”, “Kiến tha lâu đầy tổ”, “Có công mài sắt có ngày nên kim”, thì trên phạm
vi siêu nhiên cũng thế, Chúa đã nói: “Ai muốn theo Tôi, hãy vác thập giá mình
hàng ngày mà theo”. “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”. Cũng vậy, nếu ở đời
“Có khó mới có miếng ăn”. “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ
dàng”, thì hạnh phúc nước trời đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm
được. Xin Chúa cho chúng ta nhớ bài học hôm nay và thực hiện mỗi ngày suốt đời
chúng ta.
19. Suy niệm
của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Câu
Kinh Thánh “Hãy đi đường hẹp… Đừng đi đường rộng” có thể áp dụng cho “những con
đường nên thánh” không? Áp dụng thế nào?
2.
Nên
thánh bằng con đường rộng, và bằng con đường hẹp là gì?
Suy tư gợi ý:
1. “Hãy chiến đấu để
qua được cửa hẹp mà vào”
Thông thường, ai cũng
thích đi vào những con đường rộng rãi, cao cấp, vì tại đó có thể đi bằng những
loại xe lớn, mắc tiền, tốc độ cao, có thể phóng xe thoải mái, đỡ mệt trí. Không
mấy ai thích đi đường hẹp, nhỏ, vì chỉ có thể đi bằng xe nhỏ hay đi bộ, vừa mệt
lại vừa chậm chạp.
Cũng vậy, để đạt tới
sự thánh thiện, theo tâm lý tự nhiên, ai cũng thích đi con đường rộng, vừa làm
những việc lớn lao, tiếng tăm lừng lẫy, được mọi người coi là vĩ đại, tôn là thần
thánh, vừa đỡ phải hy sinh, đỡ chịu thiệt thòi, vừa có danh, lợi, quyền, nhờ đó
được hưởng biết bao ưu đãi, đặc quyền đặc lợi mà thế gian dành cho… Biết bao
người muốn nên thánh bằng con đường “siêu xa lộ”này. Người chủ trương nên thánh
kiểu này chủ trương rằng phải nên thánh làm sao để được hưởng hạnh phúc cả đời
này lẫn đời sau. Quả là một tính toán hết sức khôn ngoan… kiểu trần gian! Chẳng
mấy ai muốn nên thánh bằng con đường hẹp, nhỏ, là con đường làm những việc nhỏ
bé, tầm thường, âm thầm, vừa phải hy sinh nhiều mà chẳng được ai biết đến, lại
chẳng được chút ưu đãi gì của trần gian. Quả là thiệt thòi nhiều chuyện!
Nhưng Đức Giêsu dạy
chúng ta, đương nhiên ngay cả trong việc nên thánh, rằng hãy đi con đường nhỏ hẹp,
khiêm nhu, ít người thích đi. Điều hết sức nghịch lý nhưng lại rất chí lý là
con đường nhỏ hẹp ấy đem lại nhiều kết quả cho việc nên thánh đích thực hơn là
con đường rộng rãi thênh thang. Vì đặc trưng của việc nên thánh là như vậy. Muốn
nên thánh mà lại muốn đi vào đường lớn, muốn làm những việc to tát để ai cũng
biết tiếng, để có được những thứ mà người trần gian thường ao ước! Coi chừng kẻo
mình đang làm mọi sự vì mình, vì vinh danh mình, vì lòng kiêu ngạo, để làm
phình to bản ngã, chứ không phải vì vinh danh Chúa hay vì yêu mến Chúa và vì lợi
ích của tha nhân. Mang tiếng là vì Chúa, cho Chúa, nhưng thực ra là vì mình tất
cả! Chúa chỉ là phương tiện phục vụ cho những mục đích của mình! Chính vì thế,
con đường thênh thang rộng rãi đầy “mầu mè thánh thiện” này nhiều khi lại dẫn đến
đổ vỡ trước mặt Thiên Chúa. Sự đổ vỡ ấy được đề cập đến ngay trong bài Tin Mừng
này.
2. Một sự đảo ngược
không ngờ
Những người muốn nên
thánh kiểu “khôn ngoan”kia thường nghĩ rằng: đời này mình được thần thánh hóa,
được mọi người tôn vinh, nể trọng, kính phục, ắt đời sau mình cũng là một nhân
vật đáng kể ở trên trời. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vào “ngày ấy”, có
một sự đảo lộn không ngờ được: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu,
và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót”. Đứng chót cũng còn đỡ, bài Tin Mừng
còn cho thấy một viễn ảnh đen tối hơn: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng,
khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở
trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài”. Đương nhiên sẽ có biết
bao người lấy làm lạ, vì thấy mình đã làm cho Chúa biết bao nhiêu điều to tát ở
trần gian. Họ hỏi Chúa: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài
cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Hoặc “Nào chúng tôi
đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân
danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?”(Mt 7,22). Nhưng câu trả lời của Chúa thật
như tát vào mặt họ một cách bất ngờ: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi
cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” Thật ít ai hiểu được
tại sao những người mà trần gian tưởng rằng đầy công nghiệp trước mặt Chúa lại
bị Chúa trả lời phũ phàng và “vô ơn” đến như vậy!
3. Muốn nên thánh,
hãy chọn con đường nhỏ hẹp mà đi
Bài Tin Mừng trên quả
thật đáng làm cho chúng ta ngạc nhiên và suy nghĩ, nhất là những người Ki-tô hữu
đang theo lý tưởng nên thánh. Liệu sự đảo lộn ấy có áp dụng ngay trên chính bản
thân ta không? Điều quan trọng là chúng ta cần xác định xem mình đang đi trên
con đường loại nào để nên thánh? Đường nhỏ hay đường lớn? Đường mòn hay xa lộ?
Nếu chúng ta thật sự muốn thành công trong việc nên thánh, hãy cẩn thận, đừng
ham con đường rộng rãi, “vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt
vong, mà nhiều người lại đi qua đó”(Mt 7,13). Hãy chọn con đường nhỏ hẹp, vì “cửa
hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”(Mt
7,14). Nhưng thế nào là nên thánh bằng con đường rộng? Và thế nào là nên thánh
bằng con đường hẹp?
Ta đang đi trên đường
rộng, nếu ta vừa muốn nên thánh, mà lại vừa muốn và tìm cách dùng sự nên thánh ấy
để hưởng được ít nhiều những thứ mà mọi người thế tục mong ước: quyền lực, tiếng
tăm, địa vị, tiền bạc, được ca tụng, tôn vinh, quí trọng, được thần thánh hóa,
được mọi người coi là đạo đức thánh thiện, được ưu đãi trong Giáo Hội cũng như
ngoài xã hội bất chấp tài đức hèn mọn của mình, được ăn ngon mặc đẹp, và những
thú vui trần tục khác. Những người nên thánh kiểu này có thể làm rất nhiều việc
được coi là đạo đức, tốt đẹp, thậm chí dạy mọi người nên thánh nữa. Họ thường
có vẻ bên ngoài rất thánh thiện, đạo mạo. Đức Giêsu nói về họ: “Khốn cho các
ngươi là những kẻ giàu có (…) những kẻ bây giờ đang được no nê (…) những kẻ bây
giờ đang được vui cười (…) được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng
được cha ông họ đối xử như thế” (Lc 6,24-26). Các nhà tu đức thường nói về họ:
“sanctus videtur sed non est”(có vẻ thánh mà thực ra không phải). Vì họ phải
như thế thì mới được mọi người nghĩ họ là thánh! Đặc tính không dấu được của những
người này là để lộ ra “cái tôi” rất lớn của mình! Họ khó có thể chấp nhận có ai
xúc phạm đến họ. Và họ không bao giờ dám dấn thân vào những gì nguy hiểm đến sự
sống còn, đến địa vị hay nồi cơm của họ, khi lý tưởng “vì Chúa vì tha nhân”và
tư cách “thánh thiện” của họ đòi hỏi!
Ta đang đi trên đường
hẹp, nếu ta muốn nên thánh mà không ham được ai biết đến, cũng không tìm cách
dùng cái “vẻ thánh thiện” của mình để hưởng được những thứ “hấp dẫn” trần tục ấy.
Đặc tính dễ nhận ra của những người này là họ coi “cái tôi” của họ rất nhỏ!
Không cảm thấy có vấn đề gì lớn khi bị ai xúc phạm, hiểu lầm. Họ không thích
làm ra vẻ thánh thiện, đạo mạo. Và họ cũng sẵn sàng hy sinh khi lý tưởng vì
Chúa vì tha nhân đòi hỏi. Các nhà tu đức thường nói về họ: “sanctus non videtur
sed est”(không có vẻ thánh nhưng lại là thánh).
4. Hãy tự xét mình để
đừng ảo tưởng về mình
Quả thật, nhiều khi
chúng ta tưởng mình rất tốt lành trước mặt Thiên Chúa, chỉ vì ta đã làm được biết
bao việc tốt lành, nhiều hơn biết bao người khác! Vì những việc tốt đẹp ấy, biết
bao người đã nể phục, kính trọng ta, khen ta là thánh thiện, tốt lành, đạo đức.
Nhưng có bao giờ ta tự hỏi: trước con mắt của Thiên Chúa, ta cũng được đánh giá
tốt lành như người chung quanh ta đánh giá không? Ta làm được biết bao việc tốt
lành, nhưng động lực gì thúc đẩy ta làm những việc ấy? Vì yêu Chúa thương người
khác được bao nhiêu phần trăm? Hoặc làm để được tiếng khen, để tạo uy tín, để
được kính nể, để nhờ đó ta được bề trên và nhiều người tín nhiệm hơn, được lên
chức, được nắm nhiều quyền hơn, vì sự khôn ngoan trần gian đòi buộc như thế…
bao nhiêu phần trăm? Nếu thành thực với lòng mình, nhiều khi ta thấy mình vì
Chúa, vì người khác rất ít, mà vì mình thì rất nhiều. Hãy coi chừng kẻo ta đang
muốn nên thánh bằng con đường rộng rãi thêng thang, tuy được người trần gian ca
tụng là thánh thiện, được thế gian tôn trọng ưu đãi, nhưng trước mặt Chúa lại
là con số không to tướng! Cần luôn tỉnh thức và hồi tâm xét lại những động cơ của
mình!
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế lực xấu ở ngay trong bản thân con thật tài
tình! Nó có thể đánh lừa chính con ngay cả trong việc cao cả nhất là việc nên
thánh. Nó làm con tưởng rằng mình đang tiến bộ rất nhanh trên con đường nên
thánh, vì làm được biết bao việc tốt lành cho Chúa và tha nhân! Nhưng thực ra
con đang xây dựng cho vinh quang của con trước mặt người đời. Con đã ăn cắp
vinh quang của Cha để hưởng cho con. Xin cho con biết phản tỉnh sâu xa để nhận
ra tình trạng tệ hại ấy, và trở lại với con đường nên thánh nhỏ bé mà Cha muốn
con đi. Amen.
TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXI TN (Nam C)
Lc 13,22 – 30
VƯỢT LÊN CHÍNH MÌNH
Ngoài cuốn Guinness ghi các kỷ lục mới trên thế
giới về mọi lãnh vực, hằng năm các tờ báo như Forbes và Times đều đưa ra danh
sách những nhân vật lọt vào “top”: Tạp chí Forbes có lẽ được biết đến nhiều nhất
với danh sách định kỳ về tài sản, vì nó thường sử dụng những điều tra đáng tin
cậy để xác định tài sản thực tế của cá nhân, từ đó Forbes xếp hạng những người,
những công ty giàu có nhất ở Hoa Kỳ và trên thế giới. Vừa qua tạp chí nầy đã
làm chủ tịch Fidel Castro nỗi cáu khi ước đoán ông nầy đang sở hữu một tài sản
550 triệu USD! Tạp chí Times chuyên về xã hội, hằng năm xếp hạng 100 nhân
vật hoặc sự kiện nỗi bật hoặc có ảnh hưởng nhất trên thế giới về mỗi lãnh vực
hoặc mỗi khía cạnh. Ví dụ : 100 khuôn mặt ảnh hưởng nhất, có thể là tốt như Mẹ
Têrêxa hoặc xấu như Osama Bin Laden. Nhưng dù xét dưới khía cạnh nào,nên ích
hay có hại, thì họ đếu là những người đã phấn đấu và thi thố hết tài năng để
chiếm lĩnh những vị trí được công nhận ấy. Và con đường họ đã trải qua, chắc chắn
không phải trải gấm và rộng thênh thang,mà phải năm gai nếm mật, phải vượt qua
bao thử thách, gian nan, thất bại mới có được ngày hôm nay và phải tiếp tục để
giữ vững thành quả. Họ đã phải luôn ‘vượt lên chính mình”
Trong mỗi trận thi đấu ở môn thi đấu, huy
chương vàng,huy chương bạc,huy chương đồng chỉ có một chiếc. Để đứng được trên
bục cao, đón nhận vinh quang, hàng triệu vận động viên đã ngày đêm tập luyện,
thi đấu, đổ mồ hôi và cả máu, có khi mang chấn thương và tàn phế cả đời, qua
nhiều lần tuyển chọn, giao đấu và cuối cùng cũng chỉ có ba người chiến thắng. Ở
những giải Marathon , hàng ngàn – có khi hàng
chục ngàn - người tham dự, nhưng cũng chỉ có ba người về đầu được nhận giải.
Song với đa số, giải thưởng chỉ là phụ. Họ có thể về hạng chót,nhưng vẫn thấy hạnh
phúc,vì điều quan trọng đối với họ,là đã ‘vượt qua chính mình”. Họ đã không bỏ
cuộc.
“Vượt Lên Chính Mình” – do HTV phối hợp thực
hiện - là chương trình giáo dục, giải trí mang tính xã hội và nhân bản
cao được phát từ năm 2005 và được khán giả truyền hình yêu thích. Nó tạo ra cơ
hội cho các gia đình nghèo có thể nhận được sự hổ trợ về tài chính để xóa nợ
ngân hàng và được cấp thêm vốn để thoát khỏi cảnh nghèo và đổi đời, nếu qua cuộc
thi họ chứng minh được là có khả năng, nghị lực và làm giỏi trong nghề nghiệp của
họ. Câu nói được người dẫn chương trình lập lại mỗi lần: “chúng ta chỉ thật sự
thất bại khi từ bỏ mọi nỗ lực”, đã tiếp thêm nghị lực cho rất nhiều người khi gặp
khó khăn,thử thách trong cuộc đời. Vinh quang không dành cho người không có ý
chí vượt khó và kiên trì. Thành công không đến với những người ỷ lại, ươn lười,”ngồi
chờ sung rụng”. Trong tất cả mọi lãnh vực đều như thế, đạo cũng như đời, không
có đất cho những hạng “chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng”. Thành công,vinh
quang,chiến thắng chỉ đến với những người có thể vượt qua “cửa hẹp” khó khăn nhất,là
chính bản thân. Ai đã đọc tác phẩm “À marche forcée” (tạm dịch : bước
chân khổ sai), - người thật việc thật - của nhà văn Slavomir Rawicz, đều thấy ý
chí “vượt lên chính mình” của con người thật đáng nể, khó tin nhưng có thật :
đó là chứng từ, tường thuật lại cuộc mạo hiểm vượt ngục không thể tin được do
tám tù nhân vào năm 1942, thoát khỏi trại lao động khổ sai sô-viết. Cùng nhau họ
vượt qua Siberia, sa mạc Gobi, nước Tây Tạng trong thời gian hai năm ròng và
qua hàng ngàn cây số, sống sót nhờ tình bạn và sự tương trợ không thể nào quên.
Bên cạnh vô vàn câu chuyện và gương sáng “vượt lên chính mình”, người ta cũng nghe những chuyện vừa đáng thương,vừa khôi hài : Ngày 25 tháng 7 vừa qua, Đài Phát Thanh Hy Vọng đưa tin về sự cố bi thảm xảy ra tại đại nhạc hội Love Parade ở Duisburd, Đức,làm 19 người thiệt mạng và hàng trăm người bị thương.Nguyên nhân được cho là do dẫm đạp lên nhau, vì chỉ có một lối vào duy nhất qua một đường hầm, nhưng có quá đông người chen lấn để vào. Ở Thái Lan, hộp đêm hạng sang Santika ở
Cửa hẹp mà Chúa Giêsu nói đến và là điều kiện
mà mọi Kitô hữu phải thực hiện, để được cứu rỗi,chính là cửa mà chính Người đã
đi qua, trong Mầu Nhiệm Cứu Độ, hay nói chính xác hơn : Mầu Nhiệm Cứu Độ khởi từ
Lời Thiên Chúa hứa sau khi Ađam và Evà phạm tội cho đến Khi Chúa Giêsu Phục
Sinh, được cấu thành và nối tiếp bằng những thiếu thốn nghèo khổ, đau đớn, hy
sinh và cái chết tức tưởi trên thập giá. Chính xác hơn nữa ; Chúa Giêsu đã phải
đánh đổi phục sinh và vinh quang bằng sự vâng lời và tự hạ “cho đến chết và chết
trên thập giá” (Pl 2, 6-8). Con đường Chúa Kitô đã đi, cánh cửa Chúa Kitô đã
qua, chắc chắn hẹp hơn con đường và cánh cửa mà Người muốn chúng ta phải qua.
Thoái thác, tránh né con đường hẹp, cánh cửa hẹp, nghe theo đam mê dục vọng và
danh lợi, tức là chúng ta chà đạp lên thập giá và không muốn được cứu rỗi. Con
đường chúng ta đi và được viện ra hàng trăm lý do để bao biện, là để nuông chiều
và thoả mãn xác thịt, bỏ bê những bổn phận thờ phượng tri ân hằng ngày và sống
ích kỷ, thiếu bác ái. Thánh Phaolô nói : “Chúa họ thờ là cái bụng” ( Pl 3,19
a). Biết bao Kitô hữu đã bằng cuộc sống, chối bỏ Thánh Giá của Chúa Giêsu, gạt
bỏ thập giá của bản thân (x. Mc 8,34; Mc 10,38).
Có ba “chân lý” mà chúng ta có thể khẳng định
với nhau: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng không giống ai. Thứ hai, Thiên Chúa luôn
làm những chuyện khác đời,ngược đời. Nếu Thiên Chúa cũng “giống ai”, thì con
người đã không được dựng nên và đã không tồn tại qua những hành động phản bội,tội
lỗi,vong ân. Nhưng Thiên Chúa còn đi xa hơn nữa trong tính “lập dị”,khi Người
luôn làm những chuyện ngược đời, như bắt Con Một làm người, chịu nạn và chịu chết
chỉ để tỏ cho bọn thế nhân bất xứng rằng Người yêu thương chúng vô biên. Và hôm
nay, trong bài Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ những điều ngược đời
nữa : hãy vào Nước Trời bằng cửa hẹp. Thiên Chúa không thanh minh. Người chỉ
cho biết :” tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối
của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường
lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy (Isaia 55,6-8).
Chúa Giêsu cũng không thanh minh. Người chỉ nói :”vì tư tưởng của anh không phải
là tư tưởng của Thiên Chúa” (Mt 16,23). Chúa Kitô cũng không muốn các môn đệ -
và chúng ta - thanh minh. Người chỉ nói :”ai muốn theo Ta,thì hãy từ bỏ chính
mình,và hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Cha nào con nấy;Thầy nào
trò nấy: Xưa nay vẫn thế!
Nhưng “chân lý” thứ ba quan trọng hơn cả, chứng
minh cho hai “chân lý” trên đây. Đó là Kitô giáo và Giáo Hội Công giáo tồn tại
bền vững chính nhờ những cái ngược đời,những cái không giống ai ấy. Một hiến
chương Nước Trời mà những người ưa đấu tranh vì công lý, coi là “nhu nhược”,
nhát đảm và chủ bại. Nhưng bao nhiêu thế lực mạnh mẽ,hung tàn,đã bách hại và muốn
hủy diệt Đạo Thánh Chúa đã biến mất,còn chăng là để lại những tiếng xấu bị muôn
đời phỉ báng. Những chủ thuyết nầy nọ, cả trong lẫn ngoài Giáo Hội, tưởng chừng
làm cho Giáo Hội phải sụp đổ ngày một ngày hai, thì lần lượt tan rã như những vệt
khói mờ. Chỉ vì chúng giống con người, hình thành từ lòng dạ đen tối, độc ác và
tham lam của con người không tin nhận Chúa, mang tất cả bản chất hư đốn của
loài người tội lỗi. Còn Đạo Chúa, Giáo Hội Chúa nghĩ khác, làm khác, “ngược đời”,
vì thế vẫn mãi tồn tại, vẫn mãi bền vững. “Con người đâu phải mạnh mà thắng” (I
Sm 2,9).
Đâu phải tuyên bố “vượt qua cửa hẹp” là đã thực
hiện Lời Chúa và vào được Nước Trời và đương nhiên được ông chủ mở cửa Nước trời
cho (x. Lc 13, 25 – 27). Bởi vậy mà trong khi những người từ Đông,Tây,Nam,Bắc
lũ lượt vào Nước Trời, còn con cái lại bị loại ra ngoài. Phép rửa là một dấu ấn,chứ
không phải là một bảo chứng. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn các nén vàng được giao
(x. Lc 19, 11 -27).
Muốn “qua cửa hẹp”,muốn đi con đường Chúa Kitô
đã đi, để vào được Nước Trời, phải “vượt lên chính mình”!
CVK Nguyễn Thế Bài
HÃY HÁT LỜI TÌNH YÊU -
THÁNH VỊNH 63
CHÚA Ở ĐÓ
Có những lúc,trong Phúc Âm, ta thấy dường như Chúa Giêsu không còn chịu
đựng nỗi sự độc ác và tính gian xảo của các kẻ thù. Bấy giờ cơn giận xâm chiếm
Người (Mc 3,5) và thỉnh thoảng một lời thoát ra từ miệng Người như một mũi tên
đánh thẳng vào người Biệt Phái kiêu căng hoặc người Sađucêô hoài nghi và ghim
sâu vào. Đó thật sự là “Lời sống động,hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi:
xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh…lời đó phê phán tâm tình cũng như
tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Kẻ thù rút lui,bối rối và kinh hãi : hãy
nghĩ về đồng bạc của César hay là trường hợp bảy ông chồng liên tiếp của cùng một
bà vợ,v…v..: “Không ai còn dám hỏi Người” (Mc 12,34). Chính vì thế mà người bất
hạnh khốn khó, - nạn nhân của những kẻ làm điều ác, của sự kiêu căng tự phụ, của
sự tự mãn và cho rằng không bị trừng phạt,- có thể cậy trông phó thác nơi
Đức Chúa. Những gì Chúa Giêsu làm trong Phúc Âm,thì Người tiếp tục làm cho các
môn đệ Người mọi lúc mọi nơi. Người chỉ yêu cầu chúng ta duy nhất một điều :
TIN nơi Người.
NHỮNG NGƯỜI BỊ TAI BIẾN CÓ
THỂ LÀM THUÔC NÀY ĐẮP MỘT LẦN LÀ KHỎI
THUỐC CHỐNG TAI BIẾN
Làm liền kẻo trễ
Thuốc gồm có: 1- Hạnh nhân . . . . . . . . . . . . . . . . . .10g
2- Chỉ tử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 10g
3- Đào Nhân . . . . . . . . . . . . . . . . . 10g
4- Nếp . . . . . . . . . . . . . . . . 10 hột
5- Tiêu . . . . . . . . . . . . . . . . 10 hột
6- Lòng trắng trứng gà . . . . 1 quả
Mua tại tiệm thuốc Bắc.
Cách làm : Tất cả giã nhuyễn trộn đều, để tối trước khi đi ngủ trộn
thêm lòng trắng trứng gà rồi đắp vào lòng bàn chân.
(lấy vải bó lại cho khỏi rớt)
Nam đắp lòng bàn chân trái
Nữ đắp lòng bàn chân phải
Đắp ngủ qua đêm, nếu ra màu xanh cửu long (xanh biển) là hết bị tai biến từ nay về sau.
NÊN THÁO BỎ THUỐC
RA TRƯỚC 6 GIỜ SÁNG.
Chúc
các bạn may mắn, an vui, hạnh phúc bên mái ấm gia đình.
Washington,
USA
Nguyễn
Huy Điền
NGÕ HẸP CUỘC ĐỜI
Chúa Nhật
21TNC – (Lc 13, 22 – 30)
Đêm từng
đêm giông tố giăng đầy trời,
Đường
con đi gập ghềnh, chơi vơi.
Tiếng thở
dài, từng giọt nước mắt rơi,
Đường
nào, đường nào cho con đi Chúa ơi!
Trong bùn
nhơ, mong thoát kiếp đọa đày,
Đời cho
con cuồng vọng mê say.
Nỗi nhục
nhằn, dập vùi, bao đắng cay,
Đường
nào, đường nào cho con vươn cánh bay?
Đường
thênh thang, nhận chìm đời con tăm tối,
Địa vị
cao sang, bạc tiền, ảo ảnh hư vô.
Lọc lừa
mưu mô, vinh quang trần thế mơ hồ,
Ngước mắt
mong chờ,
Tìm đường
dẫn lối trời mơ.
Đêm dần
qua, thống hối, con trở về,
Hồn
khiêm cung, gục đầu ăn năn.
Khúc
kinh cầu, lặng thầm, ơn thứ tha,
Ngõ hẹp
cuộc đời, Ngài dìu con bước qua.
Chiêm
ngắm ân tình
Lòng
Thương Xót của Chúa bao la.
19/08/2010
M.
Madalena Hoa Ngâu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét