GX. PHƯỢNG VĨ, ĐAMINH – TIÊN CÁT
NAM DƯ (HÀ NỘI)
|
GX. AN THỊNH VÀ LẠC HỒNG
|
GX. AN THỊNH VÀ LẠC HỒNG
|
GX. LẠC HỒNG & SÌN HỒ (LAI CHÂU)
|
CHÚA
NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - C
Lời
Chúa: St. 18, 1-10a; Cl. 1, 24-28; Lc. 10, 38-42
MỤC LỤC
1.
Phần tuyệt hảo
2. Chọn phần tốt nhất –
Thiên Phúc
3. Phục vụ trong trật tự
– ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Phần tốt nhất
5. Chỉ có một điều cần
6. Để cho Lời Chúa soi dẫn
cuộc đời
7. Chúa viếng thăm – Lm.
Jos. Tạ Duy Tuyền
8. "Con lo lắng bối
rối nhiều chuyện" – André Sève
9. Chỉ có một việc cần
mà thôi – Veritas
10. Một sự hiện diện
thiết yếu – Achille Degeest
11. Sự cân bằng
12. Ngồi dưới chân Chúa
Giêsu – Charles E. Miller
13. Mời Chúa vào nhà
14. Mácta và Maria –
McCarthy
15. Martha và Maria
16. Những mẫu gương sáng
ngời
17. Yêu theo cách của
người mình yêu
18. Phúc cho ai sẵn sàng
đón nhận Chúa
19. Một sự cần thiết
20. Điểm dừng
21. Việc cần
22. Lắng nghe
23. Suy niệm của JKN
24. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
25. Chú giải của Noel
Quesson
26. Matta và Maria – R.
Gutzwiller
27. Người khách muốn gì?
– Lm Vũ Phan Long
1.
Phần tuyệt hảo.
Có một thời người ta đã
dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà
Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của
Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ
chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng
nghe và thực thi lời Chúa.
Ngày kia, có lẽ bất ngờ,
Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với
người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa
ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến
tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần.
Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất
trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.
Trong đoạn Tin Mừng này,
chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân
cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò
tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó
Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà
muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác.
Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn
tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào
những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn
thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu
đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban
phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho
Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là
rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Chúng ta còn nhớ một lần
kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã
sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho
muôn dân. Vì thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện
những lời Ngài truyền dạy.
Vào một dịp lễ trọng như
lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang
trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không
còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người.
Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.
Bởi đó chúng ta đã kiểm
điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính
yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng
ngoài, ở những cái phụ thuộc.
2.
Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy
Đã Yêu')
Federic Ozanam, nhà hoạt
động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn
khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút
thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối
nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế
đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai
khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của
nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo
gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên
đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Anh bạn trẻ, anh cần
gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
Chàng thanh niên đáp một
cách nhỏ nhẹ:
- Thưa thầy, con là một
sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một
vấn đề liên quan đến đức tin!
Nhà bác học mỉm cười
cách khiêm tốn:
- Anh lầm rồi, đức tin
là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân
hạnh lắm?
Chàng sinh viên liền
hỏi:
- Thưa thầy, có thể vừa
là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
Nhà bác học ngỡ ngàng
trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả
lời:
- Con ơi, chúng ta chỉ
vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Chúa phán: "Marta,
Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết
mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi". Phần tốt nhất
ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học đại tài
Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã
đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không
cho đó là vĩ đại, mà ông nói: "Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện
mà thôi".
Mẹ Têrêxa Calcutta, một
nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục
Calcutta" để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp
hối" để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước
Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can
đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh
em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho
dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày
theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên "chọn phần tốt nhất" này. Hãy
nhớ lời Chúa: "Không có Ta, chúng con không làm gì được".
Các triết gia Phương Tây
có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các
triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con
người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: "Cầu
nguyện và hoạt động", Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn
của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói
rất thâm thúy: "Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn
bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt". Tuy nhiên,
có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng
mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng
xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để
được tiếng khen, để gây chú ý: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà
Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Chúng ta mời
gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi
khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá
nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta
không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của
mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm
chính mình!
3.
Phục vụ trong trật tự – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thoạt nghe bài Tin mừng
hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể
truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại
trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ
đón tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường
thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề
cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục
vụ phải biết quên mình.
Phục vụ mà không quên
mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ
cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: "Lạy Chúa,
con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của
con" (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận
vì ông phục vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên
mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm
này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn
nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông
hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau.
Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo:
"Tay trái không biết việc tay phải làm" (Mt 6,3). Phục vụ quên mình
chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục
vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. "Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ
là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ
phải biết lắng nghe.
Trước hết phải biết lắng
nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc
phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói:
"Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho
tôi" (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng
nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách,
đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ
của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa,
phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với
Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng
hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được
vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục
vụ phải biết nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện
đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không
còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại
các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc
không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa
Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: "Đừng quá băn khoăn lo lắng". Hôm
nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: "Đừng băn khoăn lo lắng
quá". Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ
lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình
an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện
là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời
gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện
bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà
Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: "Con đừng quá
băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ
sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững
mãi mãi".
Xin cho mỗi người chúng
ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa
hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống
tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Cầu nguyện là lắng
nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu
nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều,
nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?
3- Khi phục vụ, bạn có
thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ
thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?
4.
Phần tốt nhất
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Nếu dựa trên bài Tin
Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì
chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời
trách móc.
Đức Giêsu có đối xử bất
công không?
Chúng ta cần nhìn ngắm
chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng
chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi
không... Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò
chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của
chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là
những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.
Câu trả lời của Đức
Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi
Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một
cách tiếp đãi tuyệt vời.
Trong một thế giới thực
dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.
Lắng nghe Lời Chúa, cầu
nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động.
Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn
Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.
Một Hội Thánh quân bình
khi có cả Mácta và Maria.
Một Kitô hữu quân bình
khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.
Không phải chỉ là làm
cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng
đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận
bịu, lo âu.
Con người hiệu năng là
con người cầu nguyện.
Khi được hỏi về bí quyết
của mình, Mẹ Têrêsa đáp: "Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu
nguyện."
Có ai trong chúng ta
muốn chọn phần tốt hơn như Maria?
Khi nhìn Mácta, chúng ta
thấy khuôn mặt của mình.
Lúc đầu, chị chỉ muốn
phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự
thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho
dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười
biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình,
tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá nhân.
Có khi chúng ta cũng bắt
Chúa đứng vào phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.
Làm thế nào để chúng ta
phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của
mình?
Làm sao tôi có thể yêu
một cách trong suốt như Maria?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện là lắng nghe
Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống
cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?
Cái khó và cái dễ khi
bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp hiện đại?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa
rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với
uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương
tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần
thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
5.
Chỉ có một điều cần
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Trên dặm đường rao giảng
Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan
chứa tình người.
Mácta là chủ nhà đón
tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao
việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối
với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới
chân Chúa mà nghe Lời Người.
Maria say mê nghe Lời
Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì
hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.
Mácta không hiểu được cô
em gái, chị cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với
Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm,
muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta
tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng
đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.
Xin Thầy bảo em giúp con
một tay.
Mácta kéo Đức Giêsu vào
cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn
Maria phải vào bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta
không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô
ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.
Đức Giêsu không ghét
Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng.
Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị
khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị hai
lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là
chuyện con lo cho Thầy.
Cần thanh lọc lòng mình
khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để
có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng
quên.
Chỉ có một chuyện cần mà
thôi.
Coi chừng nỗi lo lắng về
nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là
an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn
đệ.
Cuộc sống dồn dập hôm
nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn.
Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu
nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải
một mình.
Phải chăng đời Kitô hữu
là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi
yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?
Để rồi giữa tất bật, tôi
tìm thấy an tĩnh, - giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, - giữa hoạt động,
tôi thấy mình chiêm niệm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào những khúc
mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân
đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu
không?
Cầu nguyện là gặp gỡ và
lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có
khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn
tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm
công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi
những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe
Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam
mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự
cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh
thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho
con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
6. Để
cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc
Tin Mừng' – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, các đệ tử của
Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.
Người thì nói là do lòng
tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế
hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ
chủng tộc hay tôn giáo phát sinh...
Sau cùng, các đệ tử quay
sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: "Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu
khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe..." (Phỏng theo Cha Anthony
de Mello)
* * *
Yên lặng để lắng nghe!
Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan... Đó cũng là điều mà Cô Maria thể
hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến
thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa
sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giêsu lại đề
cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:
"Mácta! Mácta ơi!
Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin
Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa
là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.
Lắng nghe Lời Chúa là
chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm
tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho
con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn
nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời
thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề...
Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.
Một chiếc xe vượt qua
nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy
không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm
thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng
của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.
Đối với những ai biết
đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy
sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.
Lời Chúa thật sự đã mang
lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.
Trong thời kỳ đất nước
Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một
quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó
là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp.
Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực
dân và giành độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh
nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho
nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ,
dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người
được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo
động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương
kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi... Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên
kia ra..."
Bằng đường lối bất bạo
động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế
quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương
xứ sở mà không cần đến khí giới.
Vài chục năm, tại đất
nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc
đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc
người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà
không cần đến khí giới.
Như thế, Lời Chúa quả đã
đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.
Hôm nay, Chúa Giêsu lại
đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng
ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.
Cuộc đời chúng ta như
những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm.
Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi
sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.
7.
Chúa viếng thăm – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam thường có
câu: "lời chào cao hơn mân cỗ". Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái
mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người
đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là
được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm
thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng
được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.
Người ta kể rằng thời
Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường
có thói quen đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương
binh trong thời nội chiến.
Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng
Thống tới phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất
nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:
- Tôi có thể làm chút
việc gì giúp anh được không?
Có lẽ không nhận ra
người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:
- Xin ông làm ơn viết lá
thư cho mẹ tôi.
Người ta trao bút giấy
cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên
được.
"Mẹ rất yêu dấu của
con! Con bị thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia. Có lẽ con sẽ
không bao giờ bình phục được nữa. Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con. Xin mẹ hôn hai
em Mary và John dùm con. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai
em."
Nói tới đây, người
thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho
anh ta và thêm: "Viết thay cho con trai của bà. Ký tên: Abraham
Lincoln."
Bệnh nhân xin cho xem
lại những gì người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra
người đã tới thăm mình. Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:
- Ông thật là Tổng Thống
của Hoa Kỳ ư?
Abraham Lincoln trả lời
cách âu yếm.
- Phải chính tôi đây.
Tổng Thống hỏi thêm xem
mình còn có thể giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng. Gương mặt anh bỗng
chốc bừng lên, anh sung sướng nói:
- Xin Tổng Thống cầm tay
tôi, và giúp tôi đi đến cùng.
Trong căn phòng bé nhỏ,
ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh
trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới
khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.
Lời Chúa hôm nay cũng
gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giêsu đã dành cho gia đình ở
Betania. Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có
Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò
bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì
có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc
tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy
ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị
với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không
được chấp nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được
phục vụ. Con đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa
không muốn trở thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà
này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói
với Matta: "Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là
việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo".
Cuộc sống hôm nay cũng
thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có
thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm
thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo
thời gian. Ðôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm
nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu
sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở
đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải
dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích
của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng
đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ
cho nhau.
Ước gì mỗi người chúng
ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc
giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên
đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để
cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen.
8.
"Con lo lắng bối rối nhiều chuyện" – André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng
Chúa Nhật')
Tôi thèm muốn được ở với
Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón
Chúa Giêsu! Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến
Maria hơn.
Mến Maria hơn sao? Chắc
chắn rằng Ngài quý mến tấm lòng tự do hoàn toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài
không khinh dể Mácta, Ngài khó chịu do sự ân cần của chị. Phải hiểu sự lắng
nghe và sự ân cần được nói đến ở đây.
Trong khi biết rằng
những lo lắng không ngừng rơi xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu không muốn chúng
ta để cho những lo lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ. Vì như thế là nghi ngờ Thiên
Chúa, là mỉa mai kinh "Lạy Cha", lời kinh của sự không lo lắng, của
tấm lòng tự do. Chỉ có một ước muốn lớn lao duy nhất: "Xin cho Nước Cha
trị đến!" và một niềm tin cũng lớn lao không kém: "Xin cho chúng con
hôm nay lương thực hàng ngày". Thánh Têrêxa nói: "Chỉ cho ngày hôm
nay mà thôi".
Đúng như ý tưởng của
Chúa Giêsu: "Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày
mai... Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các
ngươi" (Mt. 6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm chúng ta quá
bận lòng, và Chúa Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này của chúng ta:
"Các ngươi lo ăn gì, mặc gì... Các ngươi đừng lo phải nói gì trước toà
án... Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa... Các
ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi...". Chắc Ngài
đã phải kinh ngạc vì thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần
phải có tinh thần hoàn toàn tự do.
Không thể lui tới với
Ngài nếu chúng ta không luôn luôn chú ý giữ gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng
nghe hoặc để phục vụ Ngài, chúng ta cần loại bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta
đã phá hoại rất nhiều sự lắng nghe của chúng ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra
điều đó.
Chúng ta ít chú ý đến
việc các lo toan xâm nhập vào sự phục vụ. Sự lo lắng thái quá thì không tốt, nó
có thể làm hỏng sự ân cần, người tận tuỵ trở thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự
bận rộn của mình và nhanh chóng ghen tị với những người khác vì "họ chẳng làm
gì cả". Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế nhưng lại tạo nên một bầu khí
phản kháng, khó chịu.
Đây là điều đã xảy đến
với Mácta đáng thương. Chị cũng cần phải có những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe
và những giây phút cao cả để phục vụ. Ngày hôm đó chị đã không biết hài lòng về
tất cả trong sự độ lượng. Chúa Giêsu đến, bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui
được thấy Maria hạnh phúc.
Ôi Mácta, chị đã bắt đầu
một ngày tốt đẹp biết bao! Chị có thể vừa làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng
lòng và không còn tấm lòng tự do nữa. Chính sự tự do này là phần tốt nhất.
9.
Chỉ có một việc cần mà thôi – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra
Khơi')
Có một câu chuyện vui kể
rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi công, một
thương gia, một linh mục nhà truyền giáo và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang
bay, bỗng một động cơ bị trục trặc, ngưng hoạt động, viên phi công cố gắng mãi
mà động cơ vẫn không hồi phục và cũng không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối
cùng, ông phải tuyên bố một giải pháp là nhảy dù để thoát hiểm.
Ông mang ra ba cái dù và
nói: Tôi là phi công, tôi còn có vợ và ba đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế
là ông ta đeo một chiếc dù rồi nhảy xuống. Liền sau đó vị thương gia tuyên bố:
Tôi là một kỹ sư và là một thương gia, hiện thân của trí tuệ và giàu có của
nhân loại nên tôi cần phải sống, rồi ông vội vã khoác tay vào dây đeo, lao đầu
ra cửa nhảy xuống. Vị linh mục hốt hoảng nhìn chàng hướng đạo sinh và nói: Này
con, con còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, con cần phải sống và để giúp ích mọi
người, con hãy mang cái dù còn lại mà thoát hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh
thưa với vị linh mục: "Tất nhiên ai cũng cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc
này hãy còn một cái dù cho cha và một cái cho con. Vì ông thương gia hiện thân
của trí tuệ và giàu có của nhân loại đã đeo cái ba lô của con nhảy xuống mất
rồi".
Ai cũng cần phải sống,
đó là lẽ tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn hết là biết cách làm thế nào để
sống. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào
nhà, Mattha tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em
Maria không biết chia sẻ gánh nặng và thầm trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến
sự tất bật của mình.
Nhiệt tình đón tiếp vị
khách, nhất là khách quí như Chúa Giêsu, đó là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu
lại nói với Mattha: "Chị băn khoăn và lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một
điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Có người xem ra đồng
tình với Mattha và phản kháng Đức Giêsu khi đưa ra câu nói: "Có thực mới
vực được đạo". Đúng! Có thực mới vực được đạo, nhưng đáng tiếc có người
chỉ hiểu được có một nửa của câu nói. Họ không biết rằng bên cạnh cái thực còn
có đạo; bên cạnh của ăn vật chất còn có của ăn thiêng liêng. Ngoài cuộc sống
đời này còn có cuộc sống đời sau, và người ta còn nói: "Sống không phải để
ăn, nhưng ăn để sống". Cho nên trong khi lo lắng kiếm cái thực, cái ăn để
sống thì cũng phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra sống và để sống được
trọn vẹn.
Đức Giêsu không phủ nhận
giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia
đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng
quan tâm đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của
dân chúng sao? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã
từng hóa nước thành rượu để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm
sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người
mù được thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn
hết là cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.
Có lần Người tuyên bố:
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi Lời của Thiên Chúa".
Con người sống không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn chải những vấn đề cơm
bánh mà còn phải có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa.
Đây chính là điều cần
thiết hơn hết mà Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều chúng ta cần phải sống và sống hạnh phúc.
Tất nhiên, Lời Chúa không phải là cái dù, chỉ cần đến khi nguy biến để thoát
hiểm, nhưng chính Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý hằng sống làm cho những sinh hoạt
hàng ngày của chúng ta có hiệu quả và có ý nghĩa hơn.
Thật khó hiểu khi một
người cho mình là Kitô hữu mà không bao giờ biết lắng nghe và đón nhận Lời
Thiên Chúa. Càng khó hiểu hơn khi một người làm việc tông đồ mà không được Lời
Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn.
Thánh Phêrô và các tông
đồ đã cho chúng ta một cái nhìn khi thưa với Đức Giêsu: "Bỏ Thầy con biết
theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Và có một lần khi Đức
Giêsu đang giảng trong hội đường thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa
với Người: "Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Đức Giêsu
đáp lại, đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng nghe và tuân giữ Lời
Thiên Chúa".
Ước gì mỗi người chúng
ta ý thức rằng, mình đã được mời gọi để sống hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón
nhận Lời ban sự sống. Lời của Thiên Chúa chính là điều tôi cần phải sống. Giờ
đây mỗi người chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
10.
Một sự hiện diện thiết yếu – Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật')
Tĩnh từ 'tốt hơn' chỉ
một trạng thái trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn
của Maria không giảm giá trị cái phần tốt của Martha. Cả hai bà tiếp đón Đức
Kitô, chăm chú săn sóc Chúa. Martha cư xử đúng vai chủ nhà lịch thiệp hiếu
khách, nấu ăn bày bàn rất cầu kỳ. Đức Giêsu nhã nhặn vui vẻ, bảo bà chớ quá bận
rộn làm chi. Tuy nhiên bao giờ cũng vậy, Chúa nhắm xa hơn cái hiện tại trước
mắt. Chúa cho hai chị em cảm thấy sự quan trọng của chuyến viếng thăm. Điều
quan trọng là không nên để các sự việc (phục vụ, hành động, ...) dầu có giá trị
và cần thiết hết sức, rút cuộc chiếm hết trí khôn, cản trở hoạt động của trái
tim. Theo nghĩa trong Kinh Thánh, trái tim là tâm tình hướng về Đức Giêsu, cảm
biết Chúa là sự Tuyệt Đối; chỉ có Chúa là hằng hữu, đáng kể, đáng chú ý. Do đó
đương nhiên mọi sự phải giảm xuống mức tối thiểu. Khi Chúa đến thăm, Người chú
ý đến chúng ta nhiều hơn là đến cách tiếp đón. Chúa ao ước chúng ta để ra thời
giờ dừng lại tâm sự với Người, hơn là bận rộn sửa soạn lễ vật. Cách cư xử nào
cũng có giá trị, cũng có mức tuyệt hảo. Bổn phận sửa soạn đãi khách không được
làm giảm bớt sự săn sóc tiếp đón. Trái lại không nên vì quá săn sóc tiếp đón mà
lơ là việc đãi đằng. Người ta thường căn cứ vào truyện hai bà Martha và Maria
để so sánh hành động với chiêm niệm, điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lợi
ân huệ của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Đức Giêsu đến thăm
gia đình Bêtania.
Điều cần là sự hiện diện
thiết yếu của Chúa trong nhà chúng ta, tức là trong tâm khảm chúng ta, nơi xuất
phát ý nghĩ và hành động. Giọng văn trong bài tường thuật, sự thân thiết tự
nhiên của Martha, tất cả cho thấy Đức Giêsu được tiếp đãi như một người bạn
thân. Đó là điểm đáng chú ý trong bài Phúc Âm hôm nay. Nói chung, trong tâm hồn
chúng ta, Chúa phải cảm thấy dễ chịu như trong Nhà Người.
2) Trong nội bộ Giáo
Hội, chúng ta phải tôn trọng ơn thiên triệu của giới này cũng như của giới kia.
Có thể là giới hành động
không hiểu được đường lối tu trì 'bất hành động' của giới chiêm niệm, cho nên
dễ đi đến chỗ muốn thưa với Chúa: 'Lạy Chúa, xin Chúa xét xem có nên phối hợp
tu sĩ các đan viện chẳng hạn, đưa họ vào công cuộc Phúc Âm hoá quá lớn lao
không?'. Chắc chắn Chúa không trả lời. Nói đúng ra, Chúa trả lời, Chúa bảo
không nên quan trọng hoá những phương thế bề ngoài của hành động. Hiệu năng
công cuộc Phúc Âm hoá phát xuất từ sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, tuỳ
theo cường độ mạnh yếu, trong hành động cũng như trong kinh nguyện của chúng
ta.
11.
Sự cân bằng
Có một ông bố đã tâm sự
với thầy giáo đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu không còn
sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốn biết chúng hiện đang
học hành ra sao? Rồi ông kể cho thầy giáo hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã
lìa bỏ ông như thế nào. Ông vốn là một nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận
rộn. Có ngày ông phải làm việc tới 16 tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt
trong gia đình, nền dần dần những người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn
bã cho biết: Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước.
Nhưng vì quá mải mê với công việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ
con tôi đang cần đến, đó là họ cần một người cha, một người chồng để yêu thương
và nâng đỡ họ.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ đích của đoạn Tin Mừng ấy là
như thế này: Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn, đến nỗi quên mất
lý do khiến chúng ta phải vất vả như thế. Chúng ta có thể vì quá mải mê khiếm
sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc đời. Chúng ta trang bị những vật
dụng mà đồng tiền có thể mua sắm được, để rồi quên mất tất cả những gì mà đồng
tiền không thể mua sắm được.
Đây cũng chính là sự lầm
lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo
chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô
là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.
Thực vậy con người chúng
ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con
người còn có những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn.
Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà
nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp
phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã
ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài giảng dạy.
Còn chúng ta thì sao?
Hiện thời chúng ta đang sống trong một thế giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta
vì bận rộn với công việc làm ăn, vì mải mê tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất
mục đích của đời mình, quên mất cái nào là ưu tiên số một trong cuộc sống, quên
mất sự sáng suốt để lựa chọn, quên mất điều mình đang làm và lý do khiến mình
làm điều đó.
Chúng ta giống như chú
bé vẽ voi, đáng lẽ phải vẽ: con vỏi con voi với cái vòi đi trước, hai chân
trước đi trước, hai chân sau đi sau, còn cái đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé
lại vẽ: con vỏi con voi, cái đuôi đi trước, hai chân sau đi trước, hai chân
trước đi sau, còn cái vòi thì đi sau chót.
Và quan trọng hơn nữa,
đó là chúng ta quên mất phần rỗi của linh hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã
phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?
12.
Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles E. Miller
Tôi nghĩ rằng khi nghe
câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng cảm
thấy đáng tiếc cho Matta. Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong
lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn,
Chúa Giêsu có vẻ như gắt gỏng cho dù Ngài gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc
đầu và nói: "Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt
nhất". Nhưng chính xác là Maria có chọn phần tốt nhất không? Có phải đơn
giản là vui hưởng ân sủng và là bà chủ đáng yêu trong lúc Matta thì tất bật
trên bếp lò nóng?
Khi Thánh Luca viết rằng
Maria ngồi nơi chân Chúa Giêsu, Ngài không miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ
giữa Maria với Chúa Giêsu. Cụm từ"ngồi nơi chân" của một người nào có
nghĩa là môn đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe
nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo
hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống
không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như
người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem
như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria
đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó.
Matta cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô
ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa
soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì
đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho tất cả mọi người
trong mọi thời: "Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp
mất". Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.
Maria đã được giới thiệu
với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên
kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu,
để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng
nghe Người với tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên
trước mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc
người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng
hiến sự hiếu khách cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng
ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên
Chúa.
Chúng ta sẽ hiểu trong
một ý nghĩa sâu xa, chúng ta ngồi nơi chân Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử
hành phụng vụ Lời Chúa. Theo Công đồng Vatican II đã long trọng dạy cho chúng
ta rằng: "Đức Kitô đang hiện diện trong Lời của Ngài, đó chính là Ngài
đang nói khi Thánh Kinh được đọc trong nhà thờ" (Hiến chế về phụng vụ, số
7). Chúa Giêsu đã ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào
Người. Lắng nghe Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống
của chúng ta. Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể,
bữa tiệc này không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.
Có lẽ chúng ta có thể
thấy gương của Maria thì thật khó để theo. Thật là quá dễ để cho phép những lo
toan trong cuộc sống hằng ngày làm chúng ta xao lãng việc nghe theo lời dạy của
Chúa Giêsu. Đó là những cám dỗ cho phép những giá trị gian dối mà những giá trị
đó giới thiệu cho chúng ta một xã hội vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài
những chân lý của đức tin. Chúng ta phải trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở
đây chúng ta có thể đặt những sự chia trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những
gì thật sự là quan trọng cho chúng ta. Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi
thờ lạy của chúng ta sẽ trở thành Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học
để trở thành những môn đệ thật.
13.
Mời Chúa vào nhà.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Cách đây ít lâu, trong
một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình bà như
sau:
Mọi công việc trang trí
đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc
đoán bảo người trang trí nội thất treo một bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ
lớn: 40x50 vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý,
nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc
tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: "Bất cứ ai
nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha
Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói, bà rất
vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh
hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa của bà. Chẳng hạn,
ngày nọ có người khác lạ, sau khi chăm chú nhìn vào bức ảnh liền nói với bà:
"Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không nhìn vào bà đâu, Ngài
nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức
ảnh cũng thốt lên: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình
an". Tuy nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn
bè khách khứa xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn
được nâng lên cao".
Cuối cùng, bà nói rằng,
có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây
của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: "Theo thiển ý của tôi, một khi bạn
biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước
nữa".
Thưa anh chị em,
"Một khi bạn biết
mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi". Sách Sáng Thế trong Bài
đọc thứ nhất hôm nay đã kể lại câu chuyện ông Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham
vồn vã, nhã nhặn ra đón khách lạ theo kiểu Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng
mời Chúa ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa
chân, lấy bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được
Chúa hứa ngay: "Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở lại thăm ông, và khi đó bà
Sara vợ ông sẽ có một con trai". Thế là ông được một người con nối dõi
tông đường trong lúc tuổi già và son sẻ.
Tin Mừng hôm nay cũng
thuật lại câu chuyện hai chị em Matta và Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà.
Matta người chị vốn có lòng hiếu khách và muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với
một bậc thầy, là bạn của gia đình, nên chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật
ngon để chiêu đãi Chúa. Chị lăng xăng chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự
chu đáo...
Trong khi đó, Maria lại
nghĩ rằng không nên để Chúa ngồi đơn độc một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn
chỉ vác bụng đến ăn không, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban
sự sống. Do đó, một người thì muốn nói, một người lại thích nghe, quên hết cả
mọi sự!
Thế là Matta nổi cáu,
trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng
chính đáng. Nhưng Chúa cũng trách nhẹ Matta sao lo lắng nhiều chuyện quá làm
chi. Chuyện ăn uống đâu có quan trọng đến nỗi ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết
thôi: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Có người giải thích câu
nói: "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi", cho rằng Chúa muốn nói:
"Chỉ cần làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!". Lời giải thích ấy không
phải là vô căn cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa, thì lời trách nhẹ
của Chúa Giêsu vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp khách, vấn đề không
phải chúng ta chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng
phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận, đây không
phải là có ý nói tới những gì là vật chất, như ăn uống, quà cáp... mà trước hết
là sự hiện diện cũng như những câu chuyện trao đổi. Một người bạn thân khi đến
với chúng ta, dù có được mời đến để dự tiệc, cũng không bao giờ chỉ biết vác
bụng đến, nhưng còn đến trước hết với tình bạn của mình: người ấy muốn gặp
chúng ta, muốn nói chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là một phương
tiện, một bối cảnh được tạo ra, như người xưa thường nói: "Miếng trầu là
đầu câu chuyện".
Vậy, nếu được phép góp ý
kiến cho hai chị em Matta và Maria, thì chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai
chị em nên phân công nhau rõ ràng, mỗi người một việc. Nhưng làm sao luôn có
người ngồi đó tiếp chuyện với Chúa, và nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích
ăn uống giản dị, thì cũng không nên trổ tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ,
Chúa đến không chỉ để ăn uống với hai chị, mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên
Chúa cho hai chị nữa, nên cũng phải biết tỏ ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói
với các chị nữa.
Còn chúng ta thì sao,
thưa anh chị em?
Chúng ta có thể vì quá
mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như
thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của
cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm
được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta
vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng
đủ chuyện, mà quên mất "một chuyện cần thiết nhất": lắng nghe Lời
Chúa, tiếp chuyện với Ngài.
Chúng ta lo xây cất cho
Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm
thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời
làm cho chúng ta được sống. Bời vì "con người sống không chỉn hờ cơm bánh,
nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa" (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất
bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu
nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo
đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.
Quả thật, Chúa muốn
chúng ta vừa là Matta, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không
nói rằng khi chúng ta làm việc như Matta, chúng ta không thể cầu nguyện như
Marai, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Matta
vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu
bác ái, một Matta thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã
truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu
nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa
trước khi xuống "địa ngục Calcutta" để săn sóc những người nghèo khổ
hoặc đi vào trong các "nhà hấp hối" để giúp những người sắp chết được
an nghỉ trong Chúa.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là lúc chúng ta
trở thành những Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với
Chúa, chúng ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, sợ
thiệt thòi, mất mát, hay đến ở ngoài sân nhà thờ không chủ tâm dự lễ, không đón
nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa, không mời Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến
với Chúa ngày Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với
Chúa như một người con, một người bạn, đến để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời
Chúa, chỉ vì tình yêu mến Chúa mà thôi.
Thánh lễ còn là lúc Chúa
đến thăm chúng ta như đã đến với hai chị em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự
hiện diện của Ngài trong lòng chúng ta và biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện
diện của Chúa và Lời Chúa nuôi sống chúng ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến
cuộc sống muôn đời.
14.
Mácta và Maria – McCarthy
Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN
Tôi có một giấc mơ. Chúa
đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ
trên xuống dưới, rửa sạch và đánh bóng mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn
tốt nhất, bộ chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng
bài trí nến và hoa. Về thức ăn, tôi chọn món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng
và khách mời sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra tận cổng nhà.
Người đến và tôi nghĩ
tôi đã làm Người phải tự hào. Tôi phô bày thành tích cao. Tôi cung kính đứng
hầu bên cạnh. Không ông vua nào có được sự phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng
cuộc đàm đạo sẽ không bao giờ nhạt nhẽo. Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ
vẻ cảm kích khi thấy tôi lúng túng. Mọi việc kết thúc chính xác như đồng hồ.
Khi Người đã ra về, tôi cảm thấy tốt đẹp, và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi
phải băn khoăn.
Có một lúc tôi như đã
hụt hẫng với điều lẽ ra phải có. Rồi một câu hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn
điều gì nơi tôi? Thức ăn? Lòng hiếu khách? Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy
một câu hỏi thứ hai vang lên trong tôi: Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm
tháy chắc chắn Người muốn cho tôi điều gì? Nhưng dù là điều gì, tôi đã không
cho Người cơ hội để ban nó cho tôi. Tôi đã tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn
hảo và tôi không muốn có thêm điều gì nữa.
Có những người rất hào
phóng và tốt bụng khi cho nhưng rất nghèo nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de
Hennezel thành thập một số bộ phận tiếp nhận những người bệnh ở giai đoạn cuối
trong một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách của bà nhan đề Intimate Death, bà
nói về một phụ nữ được đưa đến bộ phận ấy. Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi
người nhưng giờ đây không thể giúp đỡ chính mình. Bà luôn luôn muốn được người
ta ban cho thật nhiều yêu thương. Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn.
Bà nói về sự yêu thương của gia đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà
như "một suối nước mà bà không biết phải uống như thế nào". Bà cần
học cách nào để lại trở thành một trẻ nhỏ, khiêm tốn đủ để nhận một món quà.
Nhưng điều đó không dễ dàng bởi vì bà hoàn toàn đối lập với điều đó: bà thích
cho một cách vị kỷ.
Những người vị kỷ, coi
mình là trung tâm không thích nhận. Tại sao thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy
thấp kém hơn người khác và đặt họ vào sự mắc nợ những người khác. Mặt khác họ
thích cho bởi vì điều ấy tâng bốc cái tôi của họ, do đó (có lẽ một cách vô
thức) làm cho họ cảm thấy cao sang hơn những người khác.
Cho là việc quan trọng.
Nhưng nhận cũng thế. Không ai trong chúng ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng
ta đều bất toàn. Chúng ta cần tiếp nhận của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ
Thiên Chúa. Không có khả năng tiếp nhận quả là bi thảm. Biết cho như thế nào
chưa đủ, chúng ta cũng phải biết nhận như thế nào. Cả hai đều là những hoạt
động của ân sủng.
Câu chuyện Tin Mừng cho
chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta và Maria. Mácta không có khả năng
nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một
tâm hồn mẫn cảm. Còn Mácta, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất
nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn
nói lên điều ấy:
Nếu bạn có thể làm cho
mình trống rỗng
Giống như một vỏ sò
không
Hẳn Người sẽ tìm thấy
bạn
Trên một bãi cạn của đại
dương
Và Người tự nhủ: Nó chưa
chết.
Và làm đầy bạn bởi chính
Người
Nhưng nếu bạn quá đầy
với chính bạn
Và với bao hoạt động
khôn ngoan,
Đến nỗi khi Người đến
Người liền nói:
Nó đủ cho nó. Nó quá đầy
Không còn chỗ dành cho
Ta
(T. Brown. Thi sĩ xứ
Manx)
Suy Niệm 2. SỰ HIỆN DIỆN
CỦA THIÊN CHÚA
Chúng ta không sống đời
sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để
sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh
sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá
quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi
chạy theo nhưng công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như
mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ
cô. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như
cơn đói phải được no thoả mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn
làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. "Cầu nguyện không phải là xin
xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối
của chúng ta".
Đối với nhiều người, cầu
nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu
nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta
thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình
thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.
Có lẽ kinh nguyện có lợi
nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì.
Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện
của Đức Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian
trong khi có rất nhiều việc phải làm.
Ở trong sự hiện diện,
không nói hoặc làm điều gì, không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi
chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần
đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương
đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông
cạn và hời hợt bên ngoài.
Phần đông con người có
xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu
nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế.
Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và
không có cầu nguyện người ta có thể dễ dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được
Thiên Chúa hứng khởi.
Henry David Thoreau đã
sống hai năm trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì trong suốt hai
năm ấy? Ông trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên nhiên. Nhưng một
đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói: "Thỉnh thoảng vào một buổi sáng mùa
hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm cho đến trưa,
mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên
tĩnh, trong khi bầy chim ca hát xung quanh tôi".
Ông đã thu hoạch được gì
từ điều đó? Ông nói:
"Trong những mùa
ấy, tôi lớn lên như ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian bị lấy mất
khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù
như những con kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì? Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết
thúc; đúng hơn phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt đầu".
Một số người có thể cho
rằng Thoreau là một người mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian
cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện
diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian
được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong một thời gian
ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn,
phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của
Mácta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi,
phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc
của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn
vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi
ích rất lớn lao.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Tổng Giám mục Anthony
Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được
truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu
như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự
hiện diện của Thiên Chúa".
"Con có để cho
Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?" ngài hỏi.
"Ồ không", bà
nói, "Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu
nguyện sao?".
"Không," ngài
nói. "Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành
riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa".
Và bà đã làm như thế.
Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: "Thật lạ lùng, khi con
cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy
điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm
thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Người".
Sau cùng, cầu nguyện
không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu
nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ
tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.
15.
Martha và Maria.
Có một bà bếp của cha sở
nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:
- Phải rồi, nếu không có
Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.
Cũng vậy, nếu tôi chỉ
ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng
có ai làm những công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người
trong chúng ta cũng tự hỏi:
- Làm thế nào để dung
hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào
cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.
Thực tế cho hay cuộc
sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân
Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường
xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi
chúng ta lại không có thời giờ.
Quả thật, Chúa Giêsu
muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc
như Martha, chứ không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện
như Maria, chúng ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật
thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria.
Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?
Tôi xin thưa: Chúng ta
hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:
- Lạy Chúa, con xin dâng
lên Chúa trọn ngày hôm nay.
Còn nếu như có đủ thời
giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con xin dâng
lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp
cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.
Đồng thời, thỉnh thoảng
trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công
việc tầm thường của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một
lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một
thánh lễ nối dài.
Các vị thánh là những
người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được
coi như là những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa vì những
dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu
trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở
mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh
lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng
hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy
gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.
Khi rước lễ, Chúa Giêsu
sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị
khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh
thần phục vụ như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé
nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành
những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
16.
Những mẫu gương sáng ngời.
(Suy niệm của Lm. Phạm
Thanh Liêm)
Ba bài đọc của Chúa Nhật
hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau:
Abraham, Maria và Phaolô.
Chọn điều tốt nhất
Đức Giêsu trên đường rao
giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria
và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với
Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình
này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa
tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe
Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng
Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy.
Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: "em con để một
mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay".
Theo nhiều người, Martha
hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha
không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để
ý đến vất vả của Martha.
"Martha, chị lo
lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và
không ai cướp đi được". Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều
nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm
nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như
vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối
với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe
Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm
chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết
giúp đỡ chị nữa.
Không có một bản lĩnh và
một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi
đã chọn điều gì là quan trọng?
Niềm nở ân cần tiếp đón
tha nhân
"Đang ngồi hóng
mát, nhìn lên Abraham thấy "ba vị" đang đứng gần. Abraham chạy lại,
cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi
trường nóng bức, và dùng bữa". Với Abraham, đây không phải là những người quen
thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách
của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các
vị khách đã "tỏ mình" cho Abraham.
Thái độ hiếu khách của
Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những
người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp
này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với
những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho
người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và
đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.
Rao giảng Tin Mừng Đức
Giêsu Kitô
Cả cuộc sống của Phaolô
sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi
rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp
những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do
Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa
vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn "hoàn
tất" những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài
"học no học đói", Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.
Với Phaolô, Đức Giêsu là
Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải
cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả
để được Đức Giêsu Kitô.
Phaolô trở thành con
người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người
không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức
Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có chấp nhận chọn
lựa của Maria không? Tại sao?
2. Theo bạn, hiếu khách
có còn giá trị trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
3. Có cần phải rao giảng
Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho
con người ngày nay?
17.
Yêu theo cách của người mình yêu
Trên đường đi
Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của
Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui
về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính
cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây,
trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý
sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng
cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai
chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước
ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã
làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được
điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài
mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không
phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ
thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp
đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.
"Mácta tất bật lo
việc phục vụ". Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo
Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và
kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích
em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói
với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: "Em con để con một mình phục vụ mà Thầy
không quan tâm sao?".
Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu
ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày
tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: "Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về
nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi". Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn
thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria
đã chọn.
Chúng ta thử tìm những
bài học nơi đây:
Nó bày tỏ sự va chạm
giữa những tính tình khác biệt
Có người thì tự nhiên
hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng
nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm
tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có
vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau.
Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như
Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ
Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.
Trong một cuộc lễ trọng,
trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối
lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống.
Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi
chúng em!
Nhưng ở đây còn có một
bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm
Hãy nghĩ đến chỗ Chúa
Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem.
Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn
của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó
là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực
hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy
ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ
muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự
căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ
nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng
quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi
nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà
Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. "Chỉ một việc cần" câu ấy
có thể có ý "Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật
đơn giản". Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong
những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người,
nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa
nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.
Nếu chúng ta đang cố
gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình
muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ
đến điều mà người đó đang cần.
Trong lịch sử nước Mỹ,
trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời
ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới
Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông
định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh
vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại
đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách
ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến
hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt
tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi
ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong
lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: "Khi
Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn". Lincoln chỉ cần một người bạn
thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
Chúa Giêsu yêu thương
Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ
tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao
khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria
cũng hiểu biết Chúa nữa.
18.
Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa.
(Suy niệm của Jude
Siciliano)
Khi viết Tin Mừng, thánh
Luca chia cuộc đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn:
1. Ở quê hương Nazareth
xứ Galilea;
2. Hành trình đi lên
Giêrusalem;
3. Ở thành thánh
Giêrusalem: chịu thương khó, bị giết chết và sống lại.
Thánh nhân thâu gom mọi
hoạt động của Chúa vào 3 giai đoạn ấy bất kể nơi chốn và thời gian. Cho nên
chúng ta khó xác định biến cố xảy ra ở đâu, lúc nào? thí dụ chuyện của hai chị
em Matta và Maria hôm nay. Thánh sử ghi chép rất chung chung: "Trong khi Thầy
trò đi đường. Đức Giêsu vào một làng kia..." Thánh Gioan nói rõ: làng
Betania (11,1), và thời gian thì không phải Đức Giêsu đi lên Giêrusalem một lần
duy nhất, nhưng vào nhiều dịp khác nhau. Tuy nhiên cứ theo thánh Luca thì câu
chuyện Tin mừng hôm nay ở vào cuộc hành trình duy nhất này. Phụng vụ cho đọc về
cuộc hành trình từ Chúa nhật 13 mùa thường niên. Một vài biến cố xảy ra lúc
thầy trò đang đi đường. Một vài biến cố chỉ lấy con đường làm nền tảng còn thì
xảy ra ở những nơi khác. Chuyện của hai chị em Matta và Maria không ở trên
đường đi mà "vào một làng kia". Cũng xin lưu ý nhiều tác gỉa không
đồng nhất bà Maria này với Maria-Madalêna hay người đàn bà tội lỗi vô danh xức
thuốc thơm chân Chúa ở nhà ông Simon (7,36). Ba người đàn bà có những tính nết
khác nhau, không lẫn lộn được. Người đàn bà vô danh thánh Luca thuật chuyện ở
giai đoạn thứ nhất. Ngài không lặp lại ở đây nữa (xem Le personnage de
Marie-Madeleine dans L'Evangile, trong La revue Jerusalem tháng 9-10,1930).
Vì câu chuyện quá quen
thuộc, chúng ta không nên vội vàng đi đến kết luận ngay, kẻo làm thiệt hại cho
sự thật. Xin tưởng tượng mình đọc lần thứ nhất và để tâm suy nghĩ xem thánh
Luca muốn nói gì với chúng ta nhân câu chuyện của hai chị em. Thí dụ về cô
Matta, chúng ta đừng vội kết luận cô ta thuộc hạng người hoạt động thái quá, dễ
nổi nóng và lo lắng tiếp đãi khách, cô không còn thời giờ lắng nghe lời Thiên
chúa phán dạy. Nếu chúng ta có thành kiến gán cho cô như vậy, thì thử hỏi nhiều
độc giả nghĩ thế nào khi đọc đoạn Tin mừng này? Bởi vì họ cũng là người cha,
người mẹ vất vả kiếm sống cho con cái trong xã hội xô bồ hôm nay. Họ cũng là
những công nhân, nông dân đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi gia đình! Liệu có ai
trong cuộc sống văn minh ngày nay được thời giờ nhàn hạ như cô Maria? Liệu chúng
ta có kết án vô lý tầng lớp sản xuất của xã hội? Tầng lớp mọi người đều trân
trọng vì lao động của họ?
Ví dụ một người cha,
người mẹ độc thân, lương lậu thấp, cố gắng rất mực để cho gia đình đủ ăn đủ mặc
mà nghe giải thích bài Tin mừng hôm nay theo não trạng cũ, mà lại không thấy
mủi lòng? Liệu họ có thể lựa chọn ngồi một chỗ thinh lặng chiêm niệm lời Chúa
như cô Maria được không? Cho nên chúng ta không thể loại trừ tầng lớp lao động
chân tay khỏi ý nghĩa của Tin mừng. Chúng ta phải làm thế nào cho cô Matta cũng
được tham dự vào "phần tốt nhất" mà Chúa Giêsu tuyên bố cho những kẻ
lắng nghe lời Chúa! Như vậy thì những phụ nữ lao động tại gia đình hoặc trong
các xí nghiệp. cơ quan mới cảm thấy không thiệt thòi về phần thiêng liêng.
Chính họ đã phải hy sinh nhiều vì chồng con. Lắm người lại còn phải mang gánh
nặng góa bụa. Liệu Matta có phải là một bà góa không nhỉ? Những chỉ số thống kê
gần đây cho biết phụ nữ luôn lãnh lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một
công việc. Ngoài ra phụ nữ lại là những nhân viên tình nguyện đông hơn nam giới
trong các cơ sở giáo hội, từ thiện, bác ái, công ích xã hội. Họ ít thời giờ
giải trí, vui chơi hơn đàn ông. Thực tế họ là những phụ nữ
"Samaritanô" nhân hậu lắng nghe và tuân giữ lời Chúa như chị em Maria
và Matta. Cho nên chúng ta phải công bằng với họ trong lý thuyết và thực hành,
làm sao cho họ cũng là những kẻ đón nhận Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài như bao
người khác. Để rồi như dụ ngôn người "thân cận" chúng ta hiểu được
việc phục vụ của các tín hữu hệ tại nội dung nào?
Một điều cần nói là
trong bản dịch khác của tiếng Anh thì từ "đón nhận" được chuyển ngữ
là "tiếp đãi" Chúa Giêsu. Thoạt kỳ thủy chỉ có Chúa và cô Matta.
Maria chưa xuất hiện. Trong suốt câu chuyện Maria chẳng nói lời nào! Matta theo
truyền thống đông phương đã tiếp đãi kẻ đi đường rất nồng hậu và lịch thiệp.
Chúng ta thấy truyền thống này trong bài đọc 1. Ông Abraham tiếp đãi ba người
khách lạ xin trọ nhà ở Mambrê, gần Hébron. Ông đã giục vợ là Sara làm bánh tiếp
đãi các vị, rồi sai đầy tớ bắt bê béo làm thịt. Sách Sáng thế Ký kể: "Ông
Abraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà
nhồi rồi làm bánh. Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê non béo tốt, giao cho
đầy tớ và anh này vội vã làm thịt. Ông lầy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm
mà đãi khách". Rõ ràng có những vội vã, rộn ràng trong việc tiếp khách của
ông Abraham. Vậy mà ông đâu có bị quở mắng? Ngược lại hai ông bà lại được chúc
phúc: sẽ có con cháu nối dòng. Đó là Isaac (tiếng này có nghĩa là nụ cười vì bà
Sara cười thầm khi nghe khách báo tin). Cô Matta đã theo thói tục lâu đời của
cha ông đãi khách lạ trong nhà mình. Cả hai câu chuyện đều có ý nghĩa chung:
tiếp đón Thiên Chúa đến viếng thăm. Abraham và Sara đã được ơn phúc lớn vì sự
hiếu khách của mình. Chẳng lẽ Matta lại bị quở phạt? Chúng ta phải hiểu câu
chuyện của cô theo hướng khác.
Phụng vụ chọn đọc bài
Sáng thế song song với bài Tin Mừng là có dụng ý. Chúng ta được kêu mời suy
nghĩ kỹ hơn về các sự kiện. Nhờ lòng hiếu khách Abraham và Sara được Thiên Chúa
chúc lành với người con nối dòng. Nhưng dòng dõi đích thực của họ là phần tinh
thần. Con cái họ là những kẻ biết kính sợ và tin cậy Thiên Chúa. Đấng luôn luôn
ngự giữa dân Ngài theo lời hứa. Đấng ký kết với Israel những giao ước vĩnh cửu.
Dòng dõi Abraham và Sara là những kẻ lữ hành trong đức tin trên cuộc đời trần
gian. Họ sẽ "mở lòng ra" đón nhận Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Cũng như Matta và Maria, chúng ta là hậu duệ của hai ông bà, chúng ta cũng phải
mở trí, mở lòng đón nhận lời Chúa, đón nhận "khách lạ" vào cuộc sống
mình. Những khách lạ đó không hẳn là người đồng vai đồng vế, những môn đăng hộ
đối về kinh tế, chính trị, học thức với mình. Nhưng có thể là thấp kém, cũng có
thể là hơn. Hội thánh xưa nay vẫn vừa chiêm niệm vừa hoạt động, hai khả năng
không loại trừ nhau. Đúng hơn hoạt động và chiêm niệm bổ túc cho nhau. Hoạt
động để chiêm niệm và chiêm niệm để hoạt động. Không nghiêng hẳn về bên nào.
"Cầu nguyện và hoạt động" như thánh Bênedictô dạy. Tuần này qua tuần
khác, chúng ta lắng nghe Tin mừng thánh Luca. Giống như Maria ngồi bên chân
Chúa và nghe lời Ngài, để học biết phải "đón tiếp" Chúa vào cuộc sống
mình ra sao! Tuần vừa qua chúng ta nghe dạy mình phải là "thân cận"
của những kẻ đang cần được giúp đỡ. Tuần này câu chuyện của Maria lắng nghe lời
Chúa. Như vậy chúng ta học biết phải thi thố lòng hiếu khách và tử tế cho những
ai có nhu cầu. Chẳng phải vô tình mà sử gia Luca đặt câu chuyện hôm nay ngay
sau chuyện người Samaria nhân hậu. Thánh nhân có ngầm ý gởi cho độc giả một
thông điệp. Mọi người phải thưa gởi Chúa Giêsu như thầy thông luật: "Con
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp" và câu chuyện của hai
chị em Matta và Maria trả lời: "Hãy đón tiếp Chúa Giêsu vào cuộc sống và
lắng nghe lời Người dạy bảo về yêu thương đồng loại, những kẻ thân cận của
mình" và con đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu sẽ rõ ràng cho mỗi linh hồn.
Chúa Giêsu hỏi ngược nhà
luật sĩ: "trong luật đã viết gì?" Ông ta trả lời: "Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết
trí khôn ngươi và yêu mến ngươi thân cận như chính mình". Câu này có hai
phần: phần thứ nhất: yêu mến Chúa, phần thứ hai: thương người thân cận. Dụ ngôn
người Samaria nhân hậu trả lời cho phần thứ hai. Tin mừng hôm nay trả lời phần
thứ nhất: Lắng nghe lời Chúa tức yêu mến Ngài. Đứng riêng lẻ một mình không nội
dung nào đầy đủ cả. Trong dụ ngôn tuần trước người Samaria trông thấy và giúp
đỡ kẻ bị nạn. Cô Maria hôm nay đón nghe lời Chúa. Cả hai gộp lại mới cho chúng
ý nghĩa trọn vẹn lời giảng của Chúa Giêsu. Xin nhớ nữ giới thời Ngài thường bị
hạ thấp giá trị, tương tự như trong xã hội chúng ta ngày nay. Cho nên, cả người
Samaria, cả cô Maria là những mẫu người được Chúa Giêsu đề cao: "Mẹ và anh
em Thầy là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành"(8,21). Thánh
Phaolô trong bài đọc thứ 2 là gương mẫu người thực thi ý Chúa và thương yêu
đồng loại. Ông viết: "Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế
hoạch Thiên chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em! Đó là tôi phải rao
giảng lời Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời
đại". Chữ "mầu nhiệm" thánh nhân dùng gồm tóm mọi chương trình
của Thiên Chúa, dự định cho nhân loại. Nhưng nay đã được tỏ bày qua con người
và sứ vụ của Chúa Giêsu.
Một từ giúp hiểu rõ bối
cảnh của tin mừng hôm nay là danh xưng "Lạy Chúa" (tiếng Latinh:
Dominus, tiếng Anh: Lord). Từ này chỉ được Tin Mừng dùng sau khi Chúa đã sống
lại. Thí dụ ông Tôma thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con (you are my
Lord and my God)". Thánh Luca đã có dụng ý biểu lộ phản ánh sinh hoạt của
Giáo Hội tiên khởi nơi ông trụ trì. Họ đón nhận và lắng nghe Chúa sống lại
trong cộng đoàn của mình. Hơn nữa Tin Mừng còn 2 lần nhắc lại từ "phục
vụ"(diakonia) chỉ rõ thói quen hành xử của các viên chức hội thánh lúc bấy
giờ. Người ta đã tranh luận nhiều về vai trò nữ giới trong các Hội thánh tiên
khởi. Liệu họ có được phép "phục vụ" trong Giáo hội không? Nếu được
thì phần việc của họ là gì? Tương tự như chúng ta ngày nay tranh cãi về các vấn
đề nữ giới làm linh mục. Thực tế, thời thánh Luca nữ giới giữ nhiều chức vụ
trong cộng đoàn: mục vụ, công việc tông đồ, lãnh đạo, rao giảng Tin mừng như
trong các thơ của thánh Phaolô (Rm 16,1-5; 16,6-12; 1Cr 16,19; Phil 4,3...).
Nhưng trong các thư cũng như bài đọc Tin Mừng hôm nay có sự chia rẽ. Một số
thẩm quyền muốn nữ giới giữ vai trò lệ thuộc như cô Maria ngồi dưới chân Chúa
Giêsu. Và như thế người phụ nữ im lặng là "phần tốt hơn". Đó cũng là
một lối giải thích cho câu chuyện của Luca! Liệu ông có dụng ý thực sự như vậy
không? Ông muốn vai trò của phụ nữ là im lặng và thụ động? Nếu đúng, thì tại
sao trong công vụ ông nhắc nhiều đến phụ nữ làm việc tông đồ, lãnh đạo giáo
đoàn? Hơn nữa, theo thói tục Do thái người ngồi dưới chân "tôn sư" là
chỗ của các sinh viên nam giới? Hoặc bởi vì Chúa Giêsu là người phóng khoáng,
ít khi lệ thuộc vào thói quen và tập tục, cho nên không để cho những nề nếp
trói buộc mình. Bất cứ ai lắng nghe lời Ngài đều được ngồi dưới chân và trở nên
môn đệ của Ngài. Vấn đề thật nhiêu khê. Dầu sao,vai trò của Matta đón tiếp và
phục vụ là công việc quan trọng trong Hội thánh. Ngày nay chúng ta luôn phải
thực hành, để những người cô thân cô thế không bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu
khách lạ, đói khát, rét mướt, trần truồng trong xã hội. Không người chăm lo cho
họ thì Hội thánh liệu có làm tròn sứ vụ của mình? May thay, trong công việc
này, nữ giới chiếm phần đa số. Tương tự như trong các giáo hội tiên khởi có rất
nhiều phụ nữ tài năng. Kẻ thì ngồi im lặng lắng nghe lời Chúa như cô Maria, kẻ
khác hoạt động cứu giúp những nạn nhân thiên tai, dịch họa, bần cùng, đói khát
như cô Matta. Bằng đường lối riêng của mình cả hai loại người cùng đón tiếp
Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài. Rõ ràng cả hai đều được Ngài dạy dỗ, bày tỏ lòng
yêu mến Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân. Chúng ta nên cân bằng những hoạt động
của họ, không bên khinh bên trọng. Mọi tín hữu đều được mời gọi lắng nghe lời
Thiên Chúa. Mọi tín hữu có bổn phận đem Lời Chúa ra thực hành. Loại trừ mọi khả
năng ưu tuyển, nhận cho mình những phần hơn, phần tốt. Bởi lẽ khi hoàn thành
công tác, mọi người đều được Thiên chúa thâu nhận vào nước trời, an hưởng cuộc
sống đời đời. Đó là phần tốt nhất và không bị lấy đi. Trong thánh lễ hôm nay,
xin Thiên chúa cho mọi linh hồn thấm nhuần được tinh thần đó. Amen.
19.
Một sự cần thiết
Nhìn vào cuộc sống,
chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết
tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt
đối?
Cứ chung mà nói, ai
trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng
ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu,
sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi,
làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là
nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu
tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.
Một khi tiền bạc đã rủng
rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời
và để lại trong thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.
Đô đốc Byrd là một nhà
thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai
giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy
tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì
họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.
Một trường hợp khác, đó
là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh
giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại
cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:
- Tôi nghĩ cả hai chúng
ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta
hãy hợp tác với nhau.
Nói rồi, Carnégie kể ra
những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:
- Vậy ông tính đặt tên
cho công ty là gì?
- Công ty Pullman chứ
sao nữa.
Nghe vậy, Pullman đã mỉm
cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.
Xem đó, chúng ta thấy đô
đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham
mê danh vọng.
Thế nhưng, tiền bạc và
danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không.
Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì
sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu
tấn vàng,
Chết xuống âm phủ, chẳng
mang được gì.
Với chúng ta thì khác,
sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế
gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Tự đời đời, Chúa chẳng
cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài
hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được
chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.
Bởi vậy, nhiệm vụ của
chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho
linh hồn.
Đúng thế, chúng ta được
sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất
cả đều do mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau
cỏ để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên
Chúa.
Vì thế, sự cần thiết
tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi
này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới
thực sự là cần thiết.
Cavalière là một nữ tài
tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen
tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết.
Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:
-Hỡi Cavalière, có phải
mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao?
Một hôm, người ta không
thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi,
sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert
de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và
quạnh hưu, nên đã nói:
- Sống như thế này thì
có chi là sung sướng.
Nhưng cô đã trả lời:
- Sung sướng lắm chứ.
Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống
trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.
Hãy nhận biết và thờ
phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà
mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và
bon chen.
20.
Điểm dừng
Khi nói đến điểm dừng,
tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không phải là
điểm dừng, mà là điểm cố định, một điểm chết. Điểm dừng thì trước khi dừng đã
chuyển động, và dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi lẽ, dừng mà không bao giờ
chuyển động nữa thì cũng là điểm dừng chết.
Từ những điểm dừng trong
đời.
Quan sát cuộc sống quanh
ta, chúng ta sẽ bắt gặp được những điểm dừng. Có những điểm dừng chết chóc,
nhưng cũng có những điểm dừng sống động. Có những điểm dừng mang đến tai họa,
nhưng cũng có những điểm dừng mang lại niềm vui, một sự đổi mới, một sự cứu
rỗi: đồng hồ đang chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt giống gieo xuống đất rất cần để
yên một thời gian nó mới nẩy mầm. Một người đang đi trong một cánh rừng, anh
dừng lại quan sát xung quanh, sau đó quyết định đổi hướng đi vì biết mình đã
lạc đường một điểm dừng cho sự đổi mới, một cái dừng giải thoát.
Trở lại bức tranh Tin
Mừng hôm nay mà Luca phác họa cho chúng ta. Chúng ta cũng gặp được những điểm
dừng: Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân ở nhà Mácta và Maria; Maria dừng chân
dưới chân Chúa Giêsu; Mácta dừng chân bên chân Chúa Giêsu. Tất cả những điểm
dừng đều có mục đích: Chúa Giêsu và các môn đệ nghỉ chân để tiếp tục hành trình
lên Giêrusalem; Maria dừng bên chân Chúa để nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để
cầu cứu Chúa, dường như muốn làm nũng, dường như muốn trách Chúa.
Qua điểm dừng của Mácta
trong Phúc âm:
Cô Mácta bận rộn, rất
bận rộn với công việc phục vụ bề bộn. Lòng mến Chúa, lòng hiếu khách của cô
được thể hiện qua công việc, cô muốn làm những thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ
nghỉ tốt nhất mà cô có thể dành cho Chúa và môn đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng.
Cô là chị lớn nên nặng trách nhiệm, cô đảm đang tháo vát và nhiều sáng kiến.
Sáng kiến nhiều nên nhiều việc, và cuối cùng làm chẳng kham đành xin Chúa can
thiệp.
Mácta phục vụ Chúa, điều
đó thật tốt. Thế nhưng điều tốt xem ra bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở
chỗ nào? Ở chỗ là cô không toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý
đến người em, mà người em này hiện ra trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt
đẹp đó là người trốn việc, biếng nhác, và do đó công việc của cô đã bề bộn lại
càng bề bộn hơn, đã rối trí lại càng rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa
lúc bế tắc đó cô còn biết dừng lại bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô,
ích lợi cho cô lắm, vì cô sẽ có người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của
Chúa và mọi người về phía mình mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa
giải tỏa được nỗi ấm ức trong lòng đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người
khác khen mình, để tự khen mình, khen mình cũng là hạ giá người khác: "Em
con để mình con phục vụ". Phải chăng ý cô là: Con quá giỏi, còn em con nó
vụng về chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá. Một cái dừng để trách móc người
khác, và cũng để trách Chúa: "Mà Thầy không để ý tới sao". Cô trách
khéo: sao con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý mình, làm như mình và
cũng để lôi kéo Chúa về phe mình: "Xin Thầy bảo nó giúp con một tay".
Lấy uy của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý mình, làm như
mình muốn.
Nhưng Chúa Giêsu tận
dụng giây phút dừng lại ấy của Mácta để thức tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô
tâm với cô không? Thưa không, Chúa không vô tâm nhưng để ý tới cô, để ý nhiều
nữa kìa, không những biết việc cô làm nhưng Chúa còn biết lòng dạ, suy nghĩ của
cô: Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!" vì băn khoăn
lo lắng nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết điều gì khác nữa, cô đang
ngủ mê trong công việc của mình nên Chúa phải thức tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu
thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai lần, như đánh thức người mê
ngủ: "Mácta! Mácta ơi!..." thật êm ái và yêu thương. Sao mà cô không
tỉnh thức được. "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Một điểm dừng làm thay đổi nhận thức,
làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang đến một sự đổi
mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.
Câu trả lời của Chúa
chắc chắn làm Mácta ngạc nhiên, giật mình vì ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có
một cái nhìn mới, đón nhận những giá trị mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi
lương thực vật chất, nhưng phải lo lắng cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn
trần thế mau hư nát, Chúa hướng cô đến lương thực Nước Trời trường tồn. Từ
lương thực nuôi sống thân xác phàm tục Chúa hướng cô đến lương thực linh hồn
thiêng liêng Lương thực Nước Trời thì tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất đó
chính là Lời Chúa, đó là ơn Chúa.
Đến điểm dừng của Kitô
hữu trong cuộc sống;
Cuộc sống con người ngày
nay hoạt động nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật
phát triển vùn vụt, con người như bị cuốn hút vào vòng quay của nó đến nỗi
dường như không có thời gian để thở, để thư giãn, để nghĩ ngơi...Người Kitô hữu
trong hoạt động Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác ái từ thiện, dấn thân xã
hội...dường như cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới còn nhiều người chưa
nhận biết Chúa, còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp hoạn nạn, đau
khổ...cho nên bổn phận, trách nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu còn nặng nề,
cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ, truyền giáo,
bác ái của chúng ta có phản ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa quả của tình
yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch trương ảnh
hưởng của chúng ta, kéo sự chú ý của người khác về phía mình, yêu cầu Chúa làm
theo ý mình?
Chúa có thể mải mê công
việc của Chúa mà không được quên đi chính Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với
công việc của cuộc sống, nhưng không được quên đi mục đích của cuộc sống. Cần
có những điểm dừng trong cuộc sống để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho
những hoạt động của chúng ta. Chiếc ly cần phải đứng yên mới có thể hứng lấy
nguồn nước từ vòi rót xuống. Thiên Chúa không thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều
gì cả nếu trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta
cần phải có tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi mình trước. Hoạt động Tông đồ là
mang tình yêu Chúa đến với anh em. Thế giới không thích thú gì khi gặp gỡ ta,
những thế giới đang khao khát tình yêu Thiên Chúa, đang khao khát những gì
Thiên Chúa muốn trao ban cho họ qua trung gian chúng ta.
Khi bị quay cuồng trong
cuộc sống, nếu chúng ta biết dừng lại như Mácta và cầu cứu Chúa: "Chúa ơi!
Con mệt quá", lúc đó chúng ta sẽ được Chúa tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ
được Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan trọng nhất, điều nào là phụ thuộc
và qua đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng
ta đừng quên chọn Chúa và Lời Chúa là phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của
chúng ta phải là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả
không phải vì cành, nhưng vì cành biết kết hợp cùng cây.
Hành trình nào cũng cần
có những điểm dừng, những điểm dừng ấy thật cần thiết để tiếp sức cho hành
trình đạt đến đích. Hành trình về tiếp nhận ân sủng, tăng cường sức khỏe thiêng
liêng, bồi bổ tâm linh cho hành trình đến đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng,
cầu nguyện là cần thiết nhất để giao tiếp với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận
ơn Chúa.
Thế nhưng liệu có thinh
lặng cầu nguyện được trong thế giới ồn ào náo nhiệt, tràn ngập công việc này
chăng?
Mẹ Têrêsa Calcuta, một
nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục
Calcuta" để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp
hối" để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể một
tiếng đồng hồ, để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt
huyết tông đồ.
21.
Việc cần
Truyện cổ tích Arập có
kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với
một vị hiền triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền
triết, suốt ngày không thèm nói lời nào với hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử
hãy ngồi im bên cạnh mình.
Sau một tháng im lặng
như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:
- Thưa thầy, cha tôi gởi
tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi mà tôi chưa học được
gì cả?
Nhà hiền triết ôn tồn
trả lời:
- Này hoàng tử trẻ tuổi
của ta, nếu con không học quí trọng sự thinh lặng của ta thì con sẽ không thể
nào quí trọng được những lời ta nói. Nếu con không học được bài học sống trong
thinh lặng thì con sẽ không học được gì nữa cả.
Triết gia người Pháp ông
Pascal đã nhận định về thời đại của ông như sau: "Sau khi đã quan sát cuộc
sống của những người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận
rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức xáo trộn cho con
người là vì con người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa".
Ông Pascal đã sống xa
chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp. Căn bệnh của những
thời đại ông vẫn còn là căn bệnh của những người hay nhiều người của thời đại
hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn
ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng
phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này còn
tồn tại. Nhưng không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không
có gì cả. Người Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này,
vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của
người Kitô là sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để
được nhìn thấy Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.
Thử hỏi trong một ngày
sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này? Bao
nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể? Bao
nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa? Đây
là điều tốt nhất mà Maria đã chọn như trong Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại
cho chúng ta.
Sự thinh lặng để lắng
nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng,
nhưng luôn đi trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa,
được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta
nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II. Sống trong sự
thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình
như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì
còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.
Cách nói còn thiếu nơi
sự thương khó của Chúa không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều
gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong
cuộc đời của tông đồ Phaolô. Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới
có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa
trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.
Tâm thức sống ồn ào là
tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống. Sống trong thinh lặng có đầy
Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân
thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử
thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày nay.
Xin Chúa ban cho chúng
ta được sống trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm
sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa.
22.
Lắng nghe
Đoạn Tin Mừng thánh Luca
kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và Maria tại nhà của
họ ở làng Bêtania. Chúng ta thấy tất cả câu chuyện xoay quanh cách thức hai
người tiếp đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết thúc câu chuyện là nhận định của Chúa
Giêsu về cách tiếp đón của mỗi người.
Trước hết, chúng ta thấy
cả hai người đều tiếp đón Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ:
Marta thì bận rộn tíu tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi
bên chân Chúa, tiếp chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm
hài lòng Chúa hay được Chúa yêu thích hơn? Đó là cách tiếp đón của cô Maria.
Chính Chúa đã nhận định như thế: "Maria đã chọn phần tốt nhất". Còn
với cô Marta, Chúa nói: "Con lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá".
Thật ra, cả hai chị em đều hết lòng tiếp đón Chúa. Nhưng đối với Chúa:
"Người ta sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng còn bởi lời Thiên Chúa:,
nghĩa là người ta không phải chỉ có sự sống như thực vật, động vật, mà còn phải
có lẽ sống. Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta lẽ sống và đường sống. Vậy
thì lời Chúa phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe lời Chúa chúng ta mới có
thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực với lẽ sống và đường sống
mà Thiên Chúa cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế. Đây là bài học thứ nhất
chúng ta ghi nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công việc thế nào cũng phải
biết dành thời giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.
Thực vậy, ai trong chúng
ta cũng có nhiều việc phải làm. Đừng kể những người lười biếng hay những người
chỉ muốn ăn không ngồi rồi, còn hầu hết chúng ta, nếu sống đúng vai trò và
nhiệm vụ của mình, chúng ta đều thấy việc thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai
mươi bốn tiếng mỗi ngày hãy còn quá ngắn. Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh
bay đi, để lại công việc cứ tiếp nối nhau mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc.
Sống trong hoàn cảnh quá nhiều công việc như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô
Maria càng cần thiết cho chúng ta, chúng ta không thể để cho công việc lôi kéo
mà quên mất mục đích chính của đời mình. Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp
chỉ là phương tiện nuôi sống, là con thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không
thể là mục đích của đời chúng ta. Có lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng
nữa, khi thấy chúng ta quá bận rộn vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu
sức lực của tuổi đời, bao nhiêu thời gian quí giá, để lo cho những công việc
không có giá trị trường cửu, để rồi kết thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ
hãi về số phận đời sau.
Như vậy, điều chúng ta
cần ghi nhớ là chúng ta phải biết gặp gỡ Chúa trong hoạt động, trong việc làm.
Nói cụ thể hơn, trong một ngày và trong hoạt động, chúng ta phải biết dành ra
ít giây phút cho việc gặp gỡ Chúa. Thí dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc
nâng tâm hồn lên cao, một ít phút đọc Kinh Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để
tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta
cần tìm ra ý nghĩa sâu xa những câu nhận định của Chúa Giêsu: "Chỉ có một
chuyện cần mà thôi", "Maria đã chọn phần tốt nhất", nghĩa là
cuộc đời của chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều công việc phải làm,
nhưng chúng ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái gì cần làm, cái gì
phải làm trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.
Đàng khác, bài Tin Mừng
còn gợi cho chúng ta suy nghĩ thêm một vấn đề nữa, đó là câu nói của Marta:
"Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?".
Câu nói của Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị thường sẵn có trong
lòng mọi người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội
nặng. Kẻ ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì
tỏ ra khó chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của
người khác... Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi.
Nhưng có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba,
nhan sắc, thành công, nhân đức... Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh,
cùng môi trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen
nhau; nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen
tị nhiều hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn
tới, rồi họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn
người lớn ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.
Chẳng hạn, vua Saolê,
khi thấy Đavid được dân chúng ca tụng là tài giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức
với Đavid, đến nỗi từ đó tìm đủ cách để giết Đavid, dù Đavid không có tội gì
hết. Saolê ghen tị thật vô lý. Đavid là một tay tài giỏi, thắng trận trở về,
xứng đáng được toàn dân ca tụng biết ơn. Còn Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì
Đavid đã đem phần thắng về cho mình, thì Saolê đã làm ngược lại là ghen tức và
cay đắng trả thù. Đúng như câu nói: "Khi một người thắng trận trở về nhà,
dù lòng đang vui cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác hơn mình, thì niềm vui
đó sẽ trở thành buồn bực và đau khổ". Nếu như chúng ta ở trong trường hợp
của Saolê, có lẽ chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có thể cười người
khác khi thấy họ ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con. Nhưng chính
chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy
người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ. Ngược lại,
thử hỏi chúng ta có vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn thành
công chăng? Thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui. Chúng ta
hãy nhớ: Ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói hành, nói
xấu, vu oan cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất tình bác ái
và gây nên nhiều gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta phải tốp lại
cái thói ghen tị vô lối của mình.
Bài Tin Mừng cũng như
những điều tìm hiểu trên đây nhắc nhở chúng ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã
tiếp đón Chúa, gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời Chúa như thế nào trong cuộc sống:
theo kiểu của Marta hay Maria? Chúng ta có biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt
động trong cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi phát triển con người toàn diện
không? Chúng ta có tự cho mình là đúng, công việc của mình là hay hơn cả, để
rồi phủ nhận hoặc công kích người khác, công việc của người khác không? Trong
khi có thể chính người đó mới đúng và công việc của họ mới đáng kể? Ước mong
mỗi người hãy suy nghĩ và kiểm điểm để đổi mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi
hoặc thiếu sót trong đời sống đạo của mình.
23.
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thử đặt ngược lại vấn
đề: nếu cả Mácta cũng tiếp chuyện Đức Giêsu mà không có ai lo việc tiếp đãi
Ngài, cụ thể là lo nước nôi tiếp khách và bữa ăn cho Ngài, thì có nên không?
Ngài có hài lòng về cách tiếp đãi đó không?
2. Giữa hai chị em với
nhau, thái độ của mỗi người có chỗ nào hay, chỗ nào dở? Mỗi người phải sửa đổi
lại thái độ của mình thế nào cho hoàn hảo?
3. Bạn nghĩ gì về người
năng cầu nguyện mà không năng hành động, hay năng hành động mà không năng cầu
nguyện?
Suy tư gợi ý:
1. Hiếu khách phải là
một đặc điểm của người Kitô hữu
Đức Giêsu đến làng
Bê-ta-ni-a, nơi nhà Mácta và Maria, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một
dịp tốt để hai chị em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách
như hai chị em này là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải
là đặc điểm của mọi Kitô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của
tình yêu thương vốn là nền tảng của Kitô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ
ra thật hiếu khách. Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa.
Nếu bình thường ông không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng
người thường, làm sao ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp
chúng ta ý thức lại: mọi người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của
Thiên Chúa, và phần nào là hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn
yêu mến hết lòng. Như thế, quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.
2. Cần có sự phân công
hợp lý trong gia đình, trong tập thể
Để tiếp đón Ngài cho
phải lẽ và làm hài lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài
ngồi không một mình thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện
nước nôi và những món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách
ra về bụng đói, hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì
còn gì là quí mến khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân
công: một người hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật
hợp lý. Nếu cả hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều
lo nấu ăn, thì ai tiếp chuyện Ngài?
3. Cần quan tâm đến nhau
và tìm cách làm cho nhau hạnh phúc
Ưu điểm của Mácta là
tinh thần năng động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục
vụ, quan tâm tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng
điều không hay nơi Mácta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức
Giêsu, có vẻ nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền.
Cô không thể dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách
móc Đức Giêsu: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới
sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!». Có vẻ như cô cảm thấy không được ai
chú ý tới, nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này
rất đáng thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!
Cái hay của Maria là
biểu lộ tình yêu và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận,
học hỏi những điều hay từ Đức Giêsu. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về
mặt tâm linh. Nhưng cái thiếu sót của Maria là dành độc quyền nói chuyện với
khách, mà không nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ
công việc với chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện
với Thầy và làm bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp
Thầy, vừa lo chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!
Trong cuộc sống chung
của gia đình hay tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui,
nỗi khổ, đến những nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở
nên hạnh phúc biết bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta
đối với nhau. Nếu không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến
niềm vui và nỗi khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở
thành hỏa ngục.
4. Cần ưu tiên cho đời
sống tâm linh.
Cách trả lời của Đức
Giêsu: «Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà
thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi», khiến cho nhiều người
nghĩ rằng Đức Giêsu đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài
hơn chuyện lo chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện
thì đáng quí và làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề:
nếu cả hai chị em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giêsu, mà chẳng ai lo bữa ăn chu
đáo cho Ngài, thì Ngài có hài lòng lắm không?
Là người hướng dẫn tâm
linh, Ngài thấy đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó
Ngài muốn, bằng câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và
lo cho đời sống tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh
hướng lãng quên đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ
dành rất nhiều thì giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi
vật chất, chuyện quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại
là những chuyện liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm,
hoặc ít người quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng
những đem lại hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài
đời sau.
5. Cần có sự điều hòa và
quân bình giữa tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động
Trong thực tế, hai khía
cạnh của sự sống – tâm linh và thể chất – liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía
cạnh này tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia.
Tuy nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho
khía cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một
cách điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê
khía cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.
Cũng tương tự như thế,
cần phải có sự điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu
nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động
thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực,
nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu hiện nay ở trong
tình trạng này. Họ cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã
dành rất nhiều thì giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ
đến hành động để thể hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được
khi cầu nguyện đích thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải
làm, nhưng họ đã không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ
hoặc quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến
bổn phận phải hành động.
Tuy nhiên, năng hành
động mà không năng cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích
riêng của mình, chứ không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế
xét về mặt tâm linh thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng.
Người hành động nhiều mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một
vùng đất lạ, chỉ biết đi tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để
biết mình đang ở đâu, và biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế,
có rất nhiều khả năng là họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết
dừng lại để ăn uống, hay để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp
nhiên liệu cho phương tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi
hết cuộc hành trình. Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời
sống Kitô hữu mà chúng ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong
cuộc sống.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, bất kỳ một
nhân đức nào trong đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối
nghịch với nó thì nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con
ơn khôn ngoan và khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà
cương quyết, năng cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v... Tóm lại, cho con vừa
biết lắng nghe lời Chúa như Maria, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc
như Mácta. Amen.
24.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MATTA VÀ MARIA
Trình thuật đưa độc giả
vào đề tài tình yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường và xin chỗ trú
ngụ. Bà chủ nhà và người con gợi nhớ tới, đối với ai biết Tin Mừng thứ tư, hai
người chị của Ladarô ở Bêtania (Ga 11;12,1-8). Nhưng trong trình thuật của Luca
còn ghi lại là những người xa lạ mà theo lôgich1 thì ngược lại là những người
kia ở mãi Giêrusalem. Maria không có gì để đồng hoá được với Maria Magđala cả
(8,2; 24,10).
Sự tương phản giữa hai
chị em trước hết là ở việc được trình bày Maria như một đệ tử hoàn hảo, ngồi
dưới chân Thầy để đón nhận giáo huấn Ngài. Ngồi là tư thế cổ điển (x.8,35; Cv
22,3); truyền thống lại đã chẳng nói: Ước gì nhà con là nhà hội họp cho các
hiền nhân, hãy níu lấy bụi đất ở chân họ và uống lấy lời của họ cho đã khát!
(Misnha, Abot 1,4). Có điều không ổn ở đây nói tới một phụ nữ! Khi một Kinh sư
nổi tiếng ở cuối thế kỷ thứ nhất dám nói: "Dạy cho con gái mình luật thì
như dạy nó sống truỵ lạc" (Misnha, Sota 3,4), thì Chúa Giêsu lại khuyến
khích một phụ nữ theo giáo huấn của mình. Thái độ của cô chủ nhà thì khỏi cần
khách sáo: cô tất bật lo việc phục vụ –điều đó rất phù hợp với vai trò các phụ
nữ- môn đệ ở 8,3. Nhất là cô muốn người em cũng phải phục vụ như cô: cô còn xác
tín rằng Chúa không thể nào không đồng ý với cách thẩm định giá trị của riêng
cô (c.40).
Ngoài tiếng gọi
"Chúa!" –tước hiệu "Chúa" ở đây được Luca dùng hai lần. Như
lời tuyên tín của cộng đoàn Kitô hữu đối với Đấng Phục Sinh (x. Cv 2,36), chính
Chúa ở đây cần can thiệp trong Giáo Hội Người, bởi vấn đề được nêu lên luôn
luôn có tính cách thời sự. Ở Cv 6,2-4, ta sẽ gặp được một đối nghịch tương tự
giữa phục vụ Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Ngoài chuyện nêu lên việc phục vụ bàn
ăn; vấn đề là nhìn nhận có một tầm mức quan trọng khác nhau giữa hai việc: Chúa
trách cô chủ nhà về sự băn khoăn lo lắng của cô là điều trái ngược với tâm
trạng của người tín hữu đích thực (12,25-26) và, khi cô cho việc phục vụ bàn ăn
là ưu tiên, Ngài bênh vực cô Maria đã đặt việc nghe lời Ngài lên trước mọi quan
tâm khác. Như thế, làm môn đệ Chúa Giêsu, chính là chọn điều cần duy nhất. Thực
ra, đó không phải chính là yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực...
sao? Khi trình bày câu chuyện như ông đã làm từ câu 25, đó chính là điều mà
Luca muốn gợi lên cho độc giả của mình.
Có cần xác định thêm là
một phụ nữ có thể là môn đệ đúng hệt với danh nghĩa ấy như một nam nhân và
không bị giới hạn vào việc phục vụ bàn ăn chăng? Chắc chắn rồi... Khẳng định
theo đó "phần tốt này sẽ không bị lấy đi" lại không chói tai đối với
nhiều Kitô hữu là những người, như Matta, lấy làm khó chịu khi phải chấp nhận
để một người phụ nữ nghe Lời và phục vụ Lời sao?.
25.
Chú giải của Noel Quesson
Trong khi thầy trò đi
đường, Đức Giêsu vào làng kia.
Chúng ta chớ quên đang
cùng với Đức Giêsu trên "con đường" nào.
Vẫn luôn luôn là chính
lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương
dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba
thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người
quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười
bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật
vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi
kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng
ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania,
cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu
nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời
điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan
trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.
Chúng ta sắp tham dự vào
một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.
Chúng ta còn nhớ Người
ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu
tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc
nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang
không nới trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để
nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời gian... và thời gian của tình
bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!
Ở đầu dốc, bên cạnh con
đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt,
một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm
ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. "Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy
vào!"
Có một người phụ nữ tên
là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria
Đó là hai chị em. Họ có
một em trai là Ladarô.
Các sách Tin Mừng nói về
họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống
nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm
lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: "Đức Giêsu quý mến cô
Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô" (Ga 11,5). Và trong
dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã
khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria
"cứ ngồi bên chân Chúa" (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những
người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà
họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).
Vậy thì ít nhất đó là
một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.
Trong sách Khải Huyền,
Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: "Này
đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà
Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh
3,20).
Cô này cứ ngồi bên chân
Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.
Ôi! Một bức tranh thánh
kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình
ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử
hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im
lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.
Đức Giêsu nói chuyện với
cô Maria ngồi bên chân Chúa... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì?
Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt
lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức
Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của
hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria
những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.
Người lên Giêrusalem là
vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo
lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu
không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt
vời của tình bạn cởi mở đó sao." Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta
biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm
cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại
Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria
sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.
Các phụ nữ sẽ không thể
thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ "ngày đầu tiên trong
tuần" để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm
việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó:
"Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để
chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng
Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu"(Ga 12,7-8).
Cô tiến lại mà nói:
"Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin
Thầy bảo nó giúp con một tay!"
Sự can thiệp này của
Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả
lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô
chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục
vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu
"phục vụ" những người khác... "Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy
đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống"
(Mt 25,34).
Lạy Chúa, con xin dâng
cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô
số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.
Chúa đáp
Chúng ta không thể không
nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng "Đức Chúa" ba lần.
"Đức Chúa" chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ
cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù
rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một "mạc khải". Đấng
sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải
được chúng ta tiếp nhận "trong đức tin". Vả lại, toàn bộ câu chuyện
trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:
Mácta! Mácta ơi! Chị băn
khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!
Hẳn người ta có thể mong
đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình
huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải "phục vụ", phải yêu thương.
Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng
Mácta lo lắng và "giao động" quá nhiều. Đây là một đề tài được Người
ưa thích. Người đã nói rằng "những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt
Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ
không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các
thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà
án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để "lòng mình ra nặng nề vì lo lắng
sự đời" trong lúc chờ đợi Con Người lại đến" (Lc 21,34). Đức Giêsu
nói: "Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!"
Đức Giêsu không lên án
Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự
căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng
là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.
Chúng ta hãy tiếp nhận
lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta
cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra
phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để
"sống" thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn
điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.
Chỉ có một chuyện cần
thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi
Vậy "chuyện cần
thiết duy nhất" ấy là gì?
Đó là làm điều Maria đã
làm "Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy". Khi khẳng định đó là
điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ,
Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi
lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những
dịp khác. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4).
"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga
4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.
Vậy quả thật Đức Giêsu
không đánh giá thấp sự "phục vụ" mà Mácta đem lại khi bận rộn với
việc "nội trợ và bếp núc". Nhưng để "đi theo Đức Giêsu" thì
ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc
5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con
người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối,
triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà
Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình
trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa
trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu
không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã "'lắng nghe Lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành" (Lc 1 1,27-28).
Vả lại khác với các
Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với "Lời của
Thiên Chúa" (Lc 5,1-8-11-21-11,28).
Lòng chúng ta yêu thích
lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là "phần tốt nhất" hàng ngày
của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?
26.
Matta và Maria – R. Gutzwiller
Ta chỉ có thể hiểu dễ
dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương quan mật
thiết với chủ đề 'lên đường'. 'Lên đường' không có nghĩa là dửng dưng với những
cái thuộc về vật chất hay những lo toan trần thế.
Đây không có vấn đề đối
nghịch giữa đời chiêm niệm và đời hoạt động, mà chính là giá trị và sự hài hoà
đúng đắn giữa hai đời sống đó. Chúng ta không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy
hoạt mà hãy biết sử dụng những giây phút trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp
với Thiên Chúa -dĩ nhiên là không tìm kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng
chính là kín múc ở đó một năng lực mới để phục vụ con người. Vì sống là 'lữ
hành' là 'đi' nên con người phải dành cho đời mình những lúc 'dừng chân đứng
lại', 'nghỉ ngơi lại sức' định lại hướng đi, dò lại bước đường đã qua để có thể
vững bước tiếp tục cuộc hành trình và ra đi phấn khởi hơn.
Hoạt động phải được xen
kẽ bằng chiêm niệm và chiêm niệm phải chứa chan cuộc sống và triển nở trong
việc làm. Trong Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi
sáng những người khác thì quan trọng hơn là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội
tâm thôi.
Dĩ nhiên chúng phải bắt
nguồn nơi việc chiêm niệm nhưng thay vì khư khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải
thông truyền sự hiểu biết và thông suốt nội tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác
động hợp nhất với Thiên Chúa và sự hợp nhất với Ngài triển nở ra việc làm, mới
cấu thành một mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối cao....
Những lời Chúa nói với
Matta, là một cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt động ồn ào, giả tạo, quá khích tức
là thứ hoạt động không hề hay biết đến dành cho những khoảnh khắc để cầu
nguyện, hay ít là những lời nguyện tắt, không để ý gì đến tiếng Chúa mời gọi
trong cái thinh lặng và dần dà để mình bị tha hoá, thác loạn.
Còn việc Chúa khen cô
Maria không có nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi,
để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem gương của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài
khen cô Maria chẳng qua là Ngài nói đến tinh thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống
trọn vẹn và tích cực cho Chúa, vào lúc mà Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách
đặc biệt.
Lên đường có nghĩa là đi
về với Chúa, tức là luôn hướng nhìn về Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế
không phải là dừng laị và nghỉ ngơi trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp
tục cuộc hành trình kết hợp với Chúa đích thực. 'Chiêm niệm trong hành động'
hiệp nhất với Thiên Chúa trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho
thấy việc phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai
biết dành những khoảnh khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể
hiến thân trọn vẹn phục vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo
Chúa Kitô giả thiết một thái độ tương tự như thế.
27.
Người khách muốn gì? – Lm Vũ Phan Long
"Phần duy nhất cần
thiết" của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là
để cho Người tiếp tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở
trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria
chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta
phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này
truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi,
mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện
này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem
truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người
"lắng nghe lời" Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc
"lắng nghe lời" này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói
đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói
đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được
Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa
Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những
điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở
đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp
nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người
mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ "lắng
nghe" (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày
cuộc đối thoại về "điều răn lớn" (10,25-37), với câu kết: "Ông
hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí
truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của
Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà "các vua
chúa và ngôn sứ" không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng
có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn
Người Samari nhân hậu. Ông này đã "chạnh lòng thương"
(esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn
bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu
mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Khung cảnh và các
nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta
và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- một làng kia (38):
Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn,
"làng" này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta
biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần
Giêrusalem.
- Maria (39): Cô này
cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này
với Maria Mácđala ở 8,2.
- ngồi bên chân Chúa
(39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).
- Chỉ có một chuyện cần
thiết mà thôi (42): dịch sát: "Chỉ cần một điều mà thôi". Lời Đức
Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách
bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức
Giêsu, ta mới hiểu ra rằng "một điều" không chỉ là "một
món" mà còn có ý nghĩa khác. "Một điều" đây chính là "phần
tốt nhất" (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của "phần tốt
nhất" ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân
vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở
trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là
Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và
tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà
nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được
ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài.
Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên
Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người
nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta
nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta
và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên
tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn
cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người
ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai
chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu
cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề
là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến
chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ
muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất?
Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do
thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người
khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn,
cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan
tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng
trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn
nhiều.
Maria lắng nghe Ngài.
Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức
Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để
được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức
Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn
cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh
hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là
đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng
nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều
thật sự mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác
giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu
trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn
nhấn mạnh đến "phần duy nhất cần thiết" là: làm môn đệ Đức Giêsu, là
lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng,
chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn
của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là
thuộc về "điều duy nhất cần thiết", và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng
mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi
luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối với Mácta,CHÚA
NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - C
Lời
Chúa: St. 18, 1-10a; Cl. 1, 24-28; Lc. 10, 38-42
MỤC LỤC
1.
Phần tuyệt hảo
2. Chọn phần tốt nhất –
Thiên Phúc
3. Phục vụ trong trật tự
– ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Phần tốt nhất
5. Chỉ có một điều cần
6. Để cho Lời Chúa soi dẫn
cuộc đời
7. Chúa viếng thăm – Lm.
Jos. Tạ Duy Tuyền
8. "Con lo lắng bối
rối nhiều chuyện" – André Sève
9. Chỉ có một việc cần
mà thôi – Veritas
10. Một sự hiện diện
thiết yếu – Achille Degeest
11. Sự cân bằng
12. Ngồi dưới chân Chúa
Giêsu – Charles E. Miller
13. Mời Chúa vào nhà
14. Mácta và Maria –
McCarthy
15. Martha và Maria
16. Những mẫu gương sáng
ngời
17. Yêu theo cách của
người mình yêu
18. Phúc cho ai sẵn sàng
đón nhận Chúa
19. Một sự cần thiết
20. Điểm dừng
21. Việc cần
22. Lắng nghe
23. Suy niệm của JKN
24. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
25. Chú giải của Noel
Quesson
26. Matta và Maria – R.
Gutzwiller
27. Người khách muốn gì?
– Lm Vũ Phan Long
1.
Phần tuyệt hảo.
Có một thời người ta đã
dựa vào đoạn Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà
Maria đã khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của
Martha là phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ
chiêm niệm lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng
nghe và thực thi lời Chúa.
Ngày kia, có lẽ bất ngờ,
Chúa Giêsu đến thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với
người Do Thái, thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa
ban và cũng là dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến
tới miền đất Hứa. Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần.
Khách vào nhà được rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất
trong nhà có phận sự rửa chân cho khách.
Trong đoạn Tin Mừng này,
chúng ta có một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân
cho khách. Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò
tiếp chuyện khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó
Martha nắm giữ địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà
muốn cho việc tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác.
Việc đón tiếp chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn
tất cả chỉ là phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào
những cái phụ thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn
thời giờ và sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu
đến với gia đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban
phát, để thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho
Ngài ăn gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là
rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Chúng ta còn nhớ một lần
kia bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã
sai Ta. Và ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho
muôn dân. Vì thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện
những lời Ngài truyền dạy.
Vào một dịp lễ trọng như
lễ Chúa Giêsu chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang
trí nhà thờ, làm hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không
còn lòng trí để tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người.
Giáo xứ ấy đã đi theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.
Bởi đó chúng ta đã kiểm
điểm đời sống xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính
yếu, là lắng nghe và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng
ngoài, ở những cái phụ thuộc.
2.
Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy
Đã Yêu')
Federic Ozanam, nhà hoạt
động xã hội nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn
khủng hoảng đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút
thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối
nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế
đầu. Đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai
khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của
nhà bác học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo
gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên
đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Anh bạn trẻ, anh cần
gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
Chàng thanh niên đáp một
cách nhỏ nhẹ:
- Thưa thầy, con là một
sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một
vấn đề liên quan đến đức tin!
Nhà bác học mỉm cười
cách khiêm tốn:
- Anh lầm rồi, đức tin
là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân
hạnh lắm?
Chàng sinh viên liền
hỏi:
- Thưa thầy, có thể vừa
là một bác học vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
Nhà bác học ngỡ ngàng
trước câu hỏi của người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả
lời:
- Con ơi, chúng ta chỉ
vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi!
Chúa phán: "Marta,
Marta! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết
mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi". Phần tốt nhất
ấy chính là ở bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học đại tài
Ampère, với công việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã
đem lại biết bao lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không
cho đó là vĩ đại, mà ông nói: "Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện
mà thôi".
Mẹ Têrêxa Calcutta, một
nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục
Calcutta" để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp
hối" để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước
Thánh Thể một tiếng đồng hồ để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can
đảm và nhiệt huyết tông đồ. Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh
em, tại sao chúng ta lại không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho
dù là hoạt động truyền giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày
theo bổn phận, chúng ta cũng đừng quên "chọn phần tốt nhất" này. Hãy
nhớ lời Chúa: "Không có Ta, chúng con không làm gì được".
Các triết gia Phương Tây
có khuynh hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các
triết gia Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con
người không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: "Cầu
nguyện và hoạt động", Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn
của hoạt động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói
rất thâm thúy: "Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn
bản, cầu nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt". Tuy nhiên,
có một cám dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng
mình phục vụ Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng
xăng dọn bữa ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để
được tiếng khen, để gây chú ý: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà
Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Chúng ta mời
gọi kẻ khác cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi
khi chúng ta cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá
nhân mình sớm được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta
không chấp nhận thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của
mình. Chúng ta hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm
chính mình!
3.
Phục vụ trong trật tự – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thoạt nghe bài Tin mừng
hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể
truyện người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại
trách móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ
đón tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường
thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề
cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục
vụ phải biết quên mình.
Phục vụ mà không quên
mình sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ
cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: "Lạy Chúa,
con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của
con" (Lc 18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận
vì ông phục vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên
mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm
này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn
nến và bông hoa. Cả hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông
hoa thì thật đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau.
Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo:
"Tay trái không biết việc tay phải làm" (Mt 6,3). Phục vụ quên mình
chỉ cố ý làm vui lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục
vụ quên mình sẽ rất khiêm tốn. "Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ
là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ
phải biết lắng nghe.
Trước hết phải biết lắng
nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc
phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói:
"Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác
tôi để chịu thiêu đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho
tôi" (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng
nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách,
đúng nhu cầu. Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ
của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa,
phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với
Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng
hướng dẫn ta trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được
vững vàng. Đó là xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục
vụ phải biết nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện
đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không
còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại
các nước phương Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc
không ngừng. Đó là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa
Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: "Đừng quá băn khoăn lo lắng". Hôm
nay Chúa nhắc lại với bà Martha một lần nữa: "Đừng băn khoăn lo lắng
quá". Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ
lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình
an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện
là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời
gian, nhờ đó đời sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện
bên Chúa mà sinh lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà
Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: "Con đừng quá
băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ
sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững
mãi mãi".
Xin cho mỗi người chúng
ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa
hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống
tâm linh ta được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Cầu nguyện là lắng
nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu
nguyện thế nào? Có sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều,
nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như máy?
3- Khi phục vụ, bạn có
thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ
thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?
4.
Phần tốt nhất
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Nếu dựa trên bài Tin
Mừng về người Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì
chị đã làm, đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời
trách móc.
Đức Giêsu có đối xử bất
công không?
Chúng ta cần nhìn ngắm
chị Mácta tất bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng
chị lo lắng bồn chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi
không... Mácta không thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò
chuyện với em. Hơn nữa, chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của
chị có nguy cơ phá vỡ cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là
những người vô tâm, thản nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.
Câu trả lời của Đức
Giêsu đầy cảm thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi
Ngài, nhưng Ngài cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một
cách tiếp đãi tuyệt vời.
Trong một thế giới thực
dụng, coi trọng hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.
Lắng nghe Lời Chúa, cầu
nguyện bị coi là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động.
Nhưng có hành động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn
Năng cho ta sức mạnh để làm mọi sự.
Một Hội Thánh quân bình
khi có cả Mácta và Maria.
Một Kitô hữu quân bình
khi coi trọng việc ngồi bên Chúa.
Không phải chỉ là làm
cho Chúa, mà còn sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng
đợi lúc rảnh, lúc lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận
bịu, lo âu.
Con người hiệu năng là
con người cầu nguyện.
Khi được hỏi về bí quyết
của mình, Mẹ Têrêsa đáp: "Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu
nguyện."
Có ai trong chúng ta
muốn chọn phần tốt hơn như Maria?
Khi nhìn Mácta, chúng ta
thấy khuôn mặt của mình.
Lúc đầu, chị chỉ muốn
phục vụ Chúa. Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự
thành công rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho
dự tính của chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười
biếng, trách Đức Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình,
tìm làm vui lòng Chúa hay thành công cá nhân.
Có khi chúng ta cũng bắt
Chúa đứng vào phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.
Làm thế nào để chúng ta
phục vụ mà không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của
mình?
Làm sao tôi có thể yêu
một cách trong suốt như Maria?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện là lắng nghe
Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống
cầu nguyện của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?
Cái khó và cái dễ khi
bạn cầu nguyện trong một xã hội công nghiệp hiện đại?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa
rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với
uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương
tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần
thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
5.
Chỉ có một điều cần
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Trên dặm đường rao giảng
Tin Mừng, thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan
chứa tình người.
Mácta là chủ nhà đón
tiếp Đức Giêsu. Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao
việc phải làm ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối
với vị khách quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới
chân Chúa mà nghe Lời Người.
Maria say mê nghe Lời
Chúa, Lời mở tâm tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì
hạnh phúc hơn giây phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.
Mácta không hiểu được cô
em gái, chị cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với
Chúa: Thầy không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm,
muốn Thầy nhận ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta
tưởng chỉ có mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng
đang tiếp khách và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.
Xin Thầy bảo em giúp con
một tay.
Mácta kéo Đức Giêsu vào
cuộc, kéo Ngài đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn
Maria phải vào bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta
không chấp nhận kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô
ích, trong khi có biết bao việc quan trọng khác cần làm.
Đức Giêsu không ghét
Mácta, không coi nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng.
Ngài muốn giải phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị
khỏi cái tôi, khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị hai
lần: Mácta! Mácta! Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là
chuyện con lo cho Thầy.
Cần thanh lọc lòng mình
khỏi những tìm kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để
có thể làm việc cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng
quên.
Chỉ có một chuyện cần mà
thôi.
Coi chừng nỗi lo lắng về
nhiều chuyện phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là
an tĩnh gặp gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn
đệ.
Cuộc sống dồn dập hôm
nay dễ biến chúng ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn.
Cả người làm việc cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu
nguyện, cần để cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải
một mình.
Phải chăng đời Kitô hữu
là kết hợp giữa Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi
yên, giữa hoạt động và cầu nguyện?
Để rồi giữa tất bật, tôi
tìm thấy an tĩnh, - giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, - giữa hoạt động,
tôi thấy mình chiêm niệm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào những khúc
mắc của cuộc sống đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân
đối giữa cầu nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu
không?
Cầu nguyện là gặp gỡ và
lắng nghe như cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có
khi nào nghe Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn
tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm
công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi
những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe
Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam
mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự
cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh
thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho
con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
6. Để
cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc
Tin Mừng' – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, các đệ tử của
Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.
Người thì nói là do lòng
tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế
hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ
chủng tộc hay tôn giáo phát sinh...
Sau cùng, các đệ tử quay
sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: "Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu
khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe..." (Phỏng theo Cha Anthony
de Mello)
* * *
Yên lặng để lắng nghe!
Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan... Đó cũng là điều mà Cô Maria thể
hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến
thăm gia đình Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa
sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giêsu lại đề
cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:
"Mácta! Mácta ơi!
Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin
Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa
là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.
Lắng nghe Lời Chúa là
chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm
tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho
con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn
nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời
thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề...
Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.
Một chiếc xe vượt qua
nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy
không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm
thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng
của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.
Đối với những ai biết
đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy
sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.
Lời Chúa thật sự đã mang
lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.
Trong thời kỳ đất nước
Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một
quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó
là quốc gia Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp.
Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực
dân và giành độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh
nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho
nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ,
dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người
được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo
động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương
kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi... Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên
kia ra..."
Bằng đường lối bất bạo
động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế
quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương
xứ sở mà không cần đến khí giới.
Vài chục năm, tại đất
nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc
đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc
người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà
không cần đến khí giới.
Như thế, Lời Chúa quả đã
đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.
Hôm nay, Chúa Giêsu lại
đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng
ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.
Cuộc đời chúng ta như
những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm.
Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi
sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.
7.
Chúa viếng thăm – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam thường có
câu: "lời chào cao hơn mân cỗ". Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái
mặc. Người ta bị bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người
đời bỏ rơi, hay bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là
được anh em yêu thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm
thông. Dù cuộc đời có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng
được anh em đùm bọc, cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.
Người ta kể rằng thời
Ông Abraham Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường
có thói quen đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương
binh trong thời nội chiến.
Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng
Thống tới phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất
nặng. Với giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:
- Tôi có thể làm chút
việc gì giúp anh được không?
Có lẽ không nhận ra
người khách đến thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:
- Xin ông làm ơn viết lá
thư cho mẹ tôi.
Người ta trao bút giấy
cho Tổng Thống, và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên
được.
"Mẹ rất yêu dấu của
con! Con bị thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia. Có lẽ con sẽ
không bao giờ bình phục được nữa. Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con. Xin mẹ hôn hai
em Mary và John dùm con. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai
em."
Nói tới đây, người
thương binh ngừng vì không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho
anh ta và thêm: "Viết thay cho con trai của bà. Ký tên: Abraham
Lincoln."
Bệnh nhân xin cho xem
lại những gì người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra
người đã tới thăm mình. Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:
- Ông thật là Tổng Thống
của Hoa Kỳ ư?
Abraham Lincoln trả lời
cách âu yếm.
- Phải chính tôi đây.
Tổng Thống hỏi thêm xem
mình còn có thể giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng. Gương mặt anh bỗng
chốc bừng lên, anh sung sướng nói:
- Xin Tổng Thống cầm tay
tôi, và giúp tôi đi đến cùng.
Trong căn phòng bé nhỏ,
ông Tổng Thống với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh
trẻ trong tay mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới
khi anh ta trút hơi thở cuối cùng.
Lời Chúa hôm nay cũng
gợi lại một cuộc viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giêsu đã dành cho gia đình ở
Betania. Ngài đã đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có
Chúa viếng thăm. Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò
bên Chúa. Thật là hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì
có Chúa hiện diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc
tùng. Cô muốn làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy
ngưng tâm sự với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị
với Chúa: xin Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không
được chấp nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được
phục vụ. Con đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa
không muốn trở thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà
này là để nói lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói
với Matta: "Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là
việc phục vụ Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo".
Cuộc sống hôm nay cũng
thật tất bật. Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có
thời giờ để viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm
thông lẫn nhau. Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo
thời gian. Ðôi khi những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm
nhau, hay chuyện trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu
sự đối thoại sẽ đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở
đầu môi chóp lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải
dấn thân để xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích
của anh em. Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng
đỡ. Chính nhờ sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ
cho nhau.
Ước gì mỗi người chúng
ta hãy biết dành thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc
giúp đỡ, qua sự săn sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên
đi cái tôi của mình để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để
cùng nhau xây dựng một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen.
8.
"Con lo lắng bối rối nhiều chuyện" – André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng
Chúa Nhật')
Tôi thèm muốn được ở với
Mácta, người phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón
Chúa Giêsu! Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến
Maria hơn.
Mến Maria hơn sao? Chắc
chắn rằng Ngài quý mến tấm lòng tự do hoàn toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài
không khinh dể Mácta, Ngài khó chịu do sự ân cần của chị. Phải hiểu sự lắng
nghe và sự ân cần được nói đến ở đây.
Trong khi biết rằng
những lo lắng không ngừng rơi xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu không muốn chúng
ta để cho những lo lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ. Vì như thế là nghi ngờ Thiên
Chúa, là mỉa mai kinh "Lạy Cha", lời kinh của sự không lo lắng, của
tấm lòng tự do. Chỉ có một ước muốn lớn lao duy nhất: "Xin cho Nước Cha
trị đến!" và một niềm tin cũng lớn lao không kém: "Xin cho chúng con
hôm nay lương thực hàng ngày". Thánh Têrêxa nói: "Chỉ cho ngày hôm
nay mà thôi".
Đúng như ý tưởng của
Chúa Giêsu: "Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày
mai... Trước tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các
ngươi" (Mt. 6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm chúng ta quá
bận lòng, và Chúa Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này của chúng ta:
"Các ngươi lo ăn gì, mặc gì... Các ngươi đừng lo phải nói gì trước toà
án... Các ngươi đừng để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa... Các
ngươi đừng để cho những lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi...". Chắc Ngài
đã phải kinh ngạc vì thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần
phải có tinh thần hoàn toàn tự do.
Không thể lui tới với
Ngài nếu chúng ta không luôn luôn chú ý giữ gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng
nghe hoặc để phục vụ Ngài, chúng ta cần loại bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta
đã phá hoại rất nhiều sự lắng nghe của chúng ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra
điều đó.
Chúng ta ít chú ý đến
việc các lo toan xâm nhập vào sự phục vụ. Sự lo lắng thái quá thì không tốt, nó
có thể làm hỏng sự ân cần, người tận tuỵ trở thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự
bận rộn của mình và nhanh chóng ghen tị với những người khác vì "họ chẳng làm
gì cả". Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế nhưng lại tạo nên một bầu khí
phản kháng, khó chịu.
Đây là điều đã xảy đến
với Mácta đáng thương. Chị cũng cần phải có những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe
và những giây phút cao cả để phục vụ. Ngày hôm đó chị đã không biết hài lòng về
tất cả trong sự độ lượng. Chúa Giêsu đến, bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui
được thấy Maria hạnh phúc.
Ôi Mácta, chị đã bắt đầu
một ngày tốt đẹp biết bao! Chị có thể vừa làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng
lòng và không còn tấm lòng tự do nữa. Chính sự tự do này là phần tốt nhất.
9.
Chỉ có một việc cần mà thôi – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra
Khơi')
Có một câu chuyện vui kể
rằng, trên một chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi công, một
thương gia, một linh mục nhà truyền giáo và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang
bay, bỗng một động cơ bị trục trặc, ngưng hoạt động, viên phi công cố gắng mãi
mà động cơ vẫn không hồi phục và cũng không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối
cùng, ông phải tuyên bố một giải pháp là nhảy dù để thoát hiểm.
Ông mang ra ba cái dù và
nói: Tôi là phi công, tôi còn có vợ và ba đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế
là ông ta đeo một chiếc dù rồi nhảy xuống. Liền sau đó vị thương gia tuyên bố:
Tôi là một kỹ sư và là một thương gia, hiện thân của trí tuệ và giàu có của
nhân loại nên tôi cần phải sống, rồi ông vội vã khoác tay vào dây đeo, lao đầu
ra cửa nhảy xuống. Vị linh mục hốt hoảng nhìn chàng hướng đạo sinh và nói: Này
con, con còn trẻ, tương lai đầy hứa hẹn, con cần phải sống và để giúp ích mọi
người, con hãy mang cái dù còn lại mà thoát hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh
thưa với vị linh mục: "Tất nhiên ai cũng cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc
này hãy còn một cái dù cho cha và một cái cho con. Vì ông thương gia hiện thân
của trí tuệ và giàu có của nhân loại đã đeo cái ba lô của con nhảy xuống mất
rồi".
Ai cũng cần phải sống,
đó là lẽ tự nhiên, nhưng điều quan trọng hơn hết là biết cách làm thế nào để
sống. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào
nhà, Mattha tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em
Maria không biết chia sẻ gánh nặng và thầm trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến
sự tất bật của mình.
Nhiệt tình đón tiếp vị
khách, nhất là khách quí như Chúa Giêsu, đó là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu
lại nói với Mattha: "Chị băn khoăn và lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một
điều cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Có người xem ra đồng
tình với Mattha và phản kháng Đức Giêsu khi đưa ra câu nói: "Có thực mới
vực được đạo". Đúng! Có thực mới vực được đạo, nhưng đáng tiếc có người
chỉ hiểu được có một nửa của câu nói. Họ không biết rằng bên cạnh cái thực còn
có đạo; bên cạnh của ăn vật chất còn có của ăn thiêng liêng. Ngoài cuộc sống
đời này còn có cuộc sống đời sau, và người ta còn nói: "Sống không phải để
ăn, nhưng ăn để sống". Cho nên trong khi lo lắng kiếm cái thực, cái ăn để
sống thì cũng phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra sống và để sống được
trọn vẹn.
Đức Giêsu không phủ nhận
giá trị công việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia
đình cô, nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng
quan tâm đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của
dân chúng sao? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã
từng hóa nước thành rượu để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm
sóc cứu chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người
mù được thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn
hết là cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.
Có lần Người tuyên bố:
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi Lời của Thiên Chúa".
Con người sống không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn chải những vấn đề cơm
bánh mà còn phải có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa.
Đây chính là điều cần
thiết hơn hết mà Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều chúng ta cần phải sống và sống hạnh phúc.
Tất nhiên, Lời Chúa không phải là cái dù, chỉ cần đến khi nguy biến để thoát
hiểm, nhưng chính Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý hằng sống làm cho những sinh hoạt
hàng ngày của chúng ta có hiệu quả và có ý nghĩa hơn.
Thật khó hiểu khi một
người cho mình là Kitô hữu mà không bao giờ biết lắng nghe và đón nhận Lời
Thiên Chúa. Càng khó hiểu hơn khi một người làm việc tông đồ mà không được Lời
Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn.
Thánh Phêrô và các tông
đồ đã cho chúng ta một cái nhìn khi thưa với Đức Giêsu: "Bỏ Thầy con biết
theo ai, vì Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Và có một lần khi Đức
Giêsu đang giảng trong hội đường thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa
với Người: "Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Đức Giêsu
đáp lại, đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng nghe và tuân giữ Lời
Thiên Chúa".
Ước gì mỗi người chúng
ta ý thức rằng, mình đã được mời gọi để sống hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón
nhận Lời ban sự sống. Lời của Thiên Chúa chính là điều tôi cần phải sống. Giờ
đây mỗi người chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
10.
Một sự hiện diện thiết yếu – Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật')
Tĩnh từ 'tốt hơn' chỉ
một trạng thái trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn
của Maria không giảm giá trị cái phần tốt của Martha. Cả hai bà tiếp đón Đức
Kitô, chăm chú săn sóc Chúa. Martha cư xử đúng vai chủ nhà lịch thiệp hiếu
khách, nấu ăn bày bàn rất cầu kỳ. Đức Giêsu nhã nhặn vui vẻ, bảo bà chớ quá bận
rộn làm chi. Tuy nhiên bao giờ cũng vậy, Chúa nhắm xa hơn cái hiện tại trước
mắt. Chúa cho hai chị em cảm thấy sự quan trọng của chuyến viếng thăm. Điều
quan trọng là không nên để các sự việc (phục vụ, hành động, ...) dầu có giá trị
và cần thiết hết sức, rút cuộc chiếm hết trí khôn, cản trở hoạt động của trái
tim. Theo nghĩa trong Kinh Thánh, trái tim là tâm tình hướng về Đức Giêsu, cảm
biết Chúa là sự Tuyệt Đối; chỉ có Chúa là hằng hữu, đáng kể, đáng chú ý. Do đó
đương nhiên mọi sự phải giảm xuống mức tối thiểu. Khi Chúa đến thăm, Người chú
ý đến chúng ta nhiều hơn là đến cách tiếp đón. Chúa ao ước chúng ta để ra thời
giờ dừng lại tâm sự với Người, hơn là bận rộn sửa soạn lễ vật. Cách cư xử nào
cũng có giá trị, cũng có mức tuyệt hảo. Bổn phận sửa soạn đãi khách không được
làm giảm bớt sự săn sóc tiếp đón. Trái lại không nên vì quá săn sóc tiếp đón mà
lơ là việc đãi đằng. Người ta thường căn cứ vào truyện hai bà Martha và Maria
để so sánh hành động với chiêm niệm, điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lợi
ân huệ của Thiên Chúa. Ở đây chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Đức Giêsu đến thăm
gia đình Bêtania.
Điều cần là sự hiện diện
thiết yếu của Chúa trong nhà chúng ta, tức là trong tâm khảm chúng ta, nơi xuất
phát ý nghĩ và hành động. Giọng văn trong bài tường thuật, sự thân thiết tự
nhiên của Martha, tất cả cho thấy Đức Giêsu được tiếp đãi như một người bạn
thân. Đó là điểm đáng chú ý trong bài Phúc Âm hôm nay. Nói chung, trong tâm hồn
chúng ta, Chúa phải cảm thấy dễ chịu như trong Nhà Người.
2) Trong nội bộ Giáo
Hội, chúng ta phải tôn trọng ơn thiên triệu của giới này cũng như của giới kia.
Có thể là giới hành động
không hiểu được đường lối tu trì 'bất hành động' của giới chiêm niệm, cho nên
dễ đi đến chỗ muốn thưa với Chúa: 'Lạy Chúa, xin Chúa xét xem có nên phối hợp
tu sĩ các đan viện chẳng hạn, đưa họ vào công cuộc Phúc Âm hoá quá lớn lao
không?'. Chắc chắn Chúa không trả lời. Nói đúng ra, Chúa trả lời, Chúa bảo
không nên quan trọng hoá những phương thế bề ngoài của hành động. Hiệu năng
công cuộc Phúc Âm hoá phát xuất từ sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, tuỳ
theo cường độ mạnh yếu, trong hành động cũng như trong kinh nguyện của chúng
ta.
11.
Sự cân bằng
Có một ông bố đã tâm sự
với thầy giáo đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu không còn
sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốn biết chúng hiện đang
học hành ra sao? Rồi ông kể cho thầy giáo hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã
lìa bỏ ông như thế nào. Ông vốn là một nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận
rộn. Có ngày ông phải làm việc tới 16 tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt
trong gia đình, nền dần dần những người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn
bã cho biết: Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước.
Nhưng vì quá mải mê với công việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ
con tôi đang cần đến, đó là họ cần một người cha, một người chồng để yêu thương
và nâng đỡ họ.
Từ câu chuyện trên,
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ đích của đoạn Tin Mừng ấy là
như thế này: Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn, đến nỗi quên mất
lý do khiến chúng ta phải vất vả như thế. Chúng ta có thể vì quá mải mê khiếm
sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc đời. Chúng ta trang bị những vật
dụng mà đồng tiền có thể mua sắm được, để rồi quên mất tất cả những gì mà đồng
tiền không thể mua sắm được.
Đây cũng chính là sự lầm
lẫn của Martha được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo
chuyện nấu nướng bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô
là vì tình thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.
Thực vậy con người chúng
ta gồm có hồn và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con
người còn có những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn.
Chẳng hạn, một người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà
nhiều khi cần phải lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp
phải. Chính vì thế Chúa Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã
ngồi dưới chân Chúa để đón nhận những điều Ngài giảng dạy.
Còn chúng ta thì sao?
Hiện thời chúng ta đang sống trong một thế giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta
vì bận rộn với công việc làm ăn, vì mải mê tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất
mục đích của đời mình, quên mất cái nào là ưu tiên số một trong cuộc sống, quên
mất sự sáng suốt để lựa chọn, quên mất điều mình đang làm và lý do khiến mình
làm điều đó.
Chúng ta giống như chú
bé vẽ voi, đáng lẽ phải vẽ: con vỏi con voi với cái vòi đi trước, hai chân
trước đi trước, hai chân sau đi sau, còn cái đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé
lại vẽ: con vỏi con voi, cái đuôi đi trước, hai chân sau đi trước, hai chân
trước đi sau, còn cái vòi thì đi sau chót.
Và quan trọng hơn nữa,
đó là chúng ta quên mất phần rỗi của linh hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã
phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?
12.
Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles E. Miller
Tôi nghĩ rằng khi nghe
câu chuyện về Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng cảm
thấy đáng tiếc cho Matta. Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong
lúc cô ta vui hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn,
Chúa Giêsu có vẻ như gắt gỏng cho dù Ngài gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc
đầu và nói: "Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt
nhất". Nhưng chính xác là Maria có chọn phần tốt nhất không? Có phải đơn
giản là vui hưởng ân sủng và là bà chủ đáng yêu trong lúc Matta thì tất bật
trên bếp lò nóng?
Khi Thánh Luca viết rằng
Maria ngồi nơi chân Chúa Giêsu, Ngài không miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ
giữa Maria với Chúa Giêsu. Cụm từ"ngồi nơi chân" của một người nào có
nghĩa là môn đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe
nói có một người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo
hoặc ít nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống
không đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như
người đàn ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem
như là người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria
đã chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó.
Matta cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô
ta là trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa
soạn và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì
đơn giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho tất cả mọi người
trong mọi thời: "Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp
mất". Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.
Maria đã được giới thiệu
với mọi người nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên
kiểu mẫu cho mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu,
để dâng hiến cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng
nghe Người với tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên
trước mọi việc trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc
người nào có thể dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng
hiến sự hiếu khách cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng
ta cũng được khẩn nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên
Chúa.
Chúng ta sẽ hiểu trong
một ý nghĩa sâu xa, chúng ta ngồi nơi chân Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử
hành phụng vụ Lời Chúa. Theo Công đồng Vatican II đã long trọng dạy cho chúng
ta rằng: "Đức Kitô đang hiện diện trong Lời của Ngài, đó chính là Ngài
đang nói khi Thánh Kinh được đọc trong nhà thờ" (Hiến chế về phụng vụ, số
7). Chúa Giêsu đã ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào
Người. Lắng nghe Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống
của chúng ta. Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể,
bữa tiệc này không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.
Có lẽ chúng ta có thể
thấy gương của Maria thì thật khó để theo. Thật là quá dễ để cho phép những lo
toan trong cuộc sống hằng ngày làm chúng ta xao lãng việc nghe theo lời dạy của
Chúa Giêsu. Đó là những cám dỗ cho phép những giá trị gian dối mà những giá trị
đó giới thiệu cho chúng ta một xã hội vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài
những chân lý của đức tin. Chúng ta phải trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở
đây chúng ta có thể đặt những sự chia trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những
gì thật sự là quan trọng cho chúng ta. Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi
thờ lạy của chúng ta sẽ trở thành Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học
để trở thành những môn đệ thật.
13.
Mời Chúa vào nhà.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Cách đây ít lâu, trong
một bài báo, một phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình bà như
sau:
Mọi công việc trang trí
đều được vợ chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc
đoán bảo người trang trí nội thất treo một bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ
lớn: 40x50 vào chỗ nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý,
nhưng ông vẫn cứ khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc
tranh cãi với nhau, bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: "Bất cứ ai
nhìn nhận Ta trước mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha
Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói, bà rất
vui vì đã nghe theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh
hưởng đáng kể trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa của bà. Chẳng hạn,
ngày nọ có người khác lạ, sau khi chăm chú nhìn vào bức ảnh liền nói với bà:
"Bà biết không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không nhìn vào bà đâu, Ngài
nhìn xuyên qua tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức
ảnh cũng thốt lên: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình
an". Tuy nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn
bè khách khứa xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn
được nâng lên cao".
Cuối cùng, bà nói rằng,
có thể mọi người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây
của bà, nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: "Theo thiển ý của tôi, một khi bạn
biết mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước
nữa".
Thưa anh chị em,
"Một khi bạn biết
mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi". Sách Sáng Thế trong Bài
đọc thứ nhất hôm nay đã kể lại câu chuyện ông Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham
vồn vã, nhã nhặn ra đón khách lạ theo kiểu Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng
mời Chúa ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa
chân, lấy bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được
Chúa hứa ngay: "Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở lại thăm ông, và khi đó bà
Sara vợ ông sẽ có một con trai". Thế là ông được một người con nối dõi
tông đường trong lúc tuổi già và son sẻ.
Tin Mừng hôm nay cũng
thuật lại câu chuyện hai chị em Matta và Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà.
Matta người chị vốn có lòng hiếu khách và muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với
một bậc thầy, là bạn của gia đình, nên chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật
ngon để chiêu đãi Chúa. Chị lăng xăng chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự
chu đáo...
Trong khi đó, Maria lại
nghĩ rằng không nên để Chúa ngồi đơn độc một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn
chỉ vác bụng đến ăn không, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban
sự sống. Do đó, một người thì muốn nói, một người lại thích nghe, quên hết cả
mọi sự!
Thế là Matta nổi cáu,
trách Chúa không để ý đến mình, để mặc mình vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng
chính đáng. Nhưng Chúa cũng trách nhẹ Matta sao lo lắng nhiều chuyện quá làm
chi. Chuyện ăn uống đâu có quan trọng đến nỗi ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết
thôi: "Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Có người giải thích câu
nói: "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi", cho rằng Chúa muốn nói:
"Chỉ cần làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!". Lời giải thích ấy không
phải là vô căn cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa, thì lời trách nhẹ
của Chúa Giêsu vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp khách, vấn đề không
phải chúng ta chỉ biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng
phải biết nhận và để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận, đây không
phải là có ý nói tới những gì là vật chất, như ăn uống, quà cáp... mà trước hết
là sự hiện diện cũng như những câu chuyện trao đổi. Một người bạn thân khi đến
với chúng ta, dù có được mời đến để dự tiệc, cũng không bao giờ chỉ biết vác
bụng đến, nhưng còn đến trước hết với tình bạn của mình: người ấy muốn gặp
chúng ta, muốn nói chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là một phương
tiện, một bối cảnh được tạo ra, như người xưa thường nói: "Miếng trầu là
đầu câu chuyện".
Vậy, nếu được phép góp ý
kiến cho hai chị em Matta và Maria, thì chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai
chị em nên phân công nhau rõ ràng, mỗi người một việc. Nhưng làm sao luôn có
người ngồi đó tiếp chuyện với Chúa, và nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích
ăn uống giản dị, thì cũng không nên trổ tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ,
Chúa đến không chỉ để ăn uống với hai chị, mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên
Chúa cho hai chị nữa, nên cũng phải biết tỏ ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói
với các chị nữa.
Còn chúng ta thì sao,
thưa anh chị em?
Chúng ta có thể vì quá
mải mê công việc làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như
thế. Chúng ta có thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của
cuộc sống. Chúng ta có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm
được để rồi quên béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta
vô tình đã biến thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng
đủ chuyện, mà quên mất "một chuyện cần thiết nhất": lắng nghe Lời
Chúa, tiếp chuyện với Ngài.
Chúng ta lo xây cất cho
Chúa những ngôi thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm
thầm tới ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời
làm cho chúng ta được sống. Bời vì "con người sống không chỉn hờ cơm bánh,
nhưng còn nhờ Lời Chúa nữa" (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất
bận rộn. Chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu
nguyện nhiều hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo
đức nhiều hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.
Quả thật, Chúa muốn
chúng ta vừa là Matta, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không
nói rằng khi chúng ta làm việc như Matta, chúng ta không thể cầu nguyện như
Marai, hay ngược lại. Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Matta
vừa là Maria. Ngày nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu
bác ái, một Matta thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã
truyền lại cho con cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu
nguyện trước khi hoạt động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa
trước khi xuống "địa ngục Calcutta" để săn sóc những người nghèo khổ
hoặc đi vào trong các "nhà hấp hối" để giúp những người sắp chết được
an nghỉ trong Chúa.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là lúc chúng ta
trở thành những Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với
Chúa, chúng ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, sợ
thiệt thòi, mất mát, hay đến ở ngoài sân nhà thờ không chủ tâm dự lễ, không đón
nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa, không mời Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến
với Chúa ngày Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với
Chúa như một người con, một người bạn, đến để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời
Chúa, chỉ vì tình yêu mến Chúa mà thôi.
Thánh lễ còn là lúc Chúa
đến thăm chúng ta như đã đến với hai chị em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự
hiện diện của Ngài trong lòng chúng ta và biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện
diện của Chúa và Lời Chúa nuôi sống chúng ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến
cuộc sống muôn đời.
14.
Mácta và Maria – McCarthy
Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN
Tôi có một giấc mơ. Chúa
đến nhà tôi như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ
trên xuống dưới, rửa sạch và đánh bóng mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn
tốt nhất, bộ chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng
bài trí nến và hoa. Về thức ăn, tôi chọn món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng
và khách mời sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra tận cổng nhà.
Người đến và tôi nghĩ
tôi đã làm Người phải tự hào. Tôi phô bày thành tích cao. Tôi cung kính đứng
hầu bên cạnh. Không ông vua nào có được sự phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng
cuộc đàm đạo sẽ không bao giờ nhạt nhẽo. Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ
vẻ cảm kích khi thấy tôi lúng túng. Mọi việc kết thúc chính xác như đồng hồ.
Khi Người đã ra về, tôi cảm thấy tốt đẹp, và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi
phải băn khoăn.
Có một lúc tôi như đã
hụt hẫng với điều lẽ ra phải có. Rồi một câu hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn
điều gì nơi tôi? Thức ăn? Lòng hiếu khách? Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy
một câu hỏi thứ hai vang lên trong tôi: Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm
tháy chắc chắn Người muốn cho tôi điều gì? Nhưng dù là điều gì, tôi đã không
cho Người cơ hội để ban nó cho tôi. Tôi đã tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn
hảo và tôi không muốn có thêm điều gì nữa.
Có những người rất hào
phóng và tốt bụng khi cho nhưng rất nghèo nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de
Hennezel thành thập một số bộ phận tiếp nhận những người bệnh ở giai đoạn cuối
trong một bệnh viện ở Paris. Trong cuốn sách của bà nhan đề Intimate Death, bà
nói về một phụ nữ được đưa đến bộ phận ấy. Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi
người nhưng giờ đây không thể giúp đỡ chính mình. Bà luôn luôn muốn được người
ta ban cho thật nhiều yêu thương. Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn.
Bà nói về sự yêu thương của gia đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà
như "một suối nước mà bà không biết phải uống như thế nào". Bà cần
học cách nào để lại trở thành một trẻ nhỏ, khiêm tốn đủ để nhận một món quà.
Nhưng điều đó không dễ dàng bởi vì bà hoàn toàn đối lập với điều đó: bà thích
cho một cách vị kỷ.
Những người vị kỷ, coi
mình là trung tâm không thích nhận. Tại sao thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy
thấp kém hơn người khác và đặt họ vào sự mắc nợ những người khác. Mặt khác họ
thích cho bởi vì điều ấy tâng bốc cái tôi của họ, do đó (có lẽ một cách vô
thức) làm cho họ cảm thấy cao sang hơn những người khác.
Cho là việc quan trọng.
Nhưng nhận cũng thế. Không ai trong chúng ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng
ta đều bất toàn. Chúng ta cần tiếp nhận của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ
Thiên Chúa. Không có khả năng tiếp nhận quả là bi thảm. Biết cho như thế nào
chưa đủ, chúng ta cũng phải biết nhận như thế nào. Cả hai đều là những hoạt
động của ân sủng.
Câu chuyện Tin Mừng cho
chúng ta thấy sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta và Maria. Mácta không có khả năng
nhận, trong khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một
tâm hồn mẫn cảm. Còn Mácta, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất
nghèo nàn khi nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn
nói lên điều ấy:
Nếu bạn có thể làm cho
mình trống rỗng
Giống như một vỏ sò
không
Hẳn Người sẽ tìm thấy
bạn
Trên một bãi cạn của đại
dương
Và Người tự nhủ: Nó chưa
chết.
Và làm đầy bạn bởi chính
Người
Nhưng nếu bạn quá đầy
với chính bạn
Và với bao hoạt động
khôn ngoan,
Đến nỗi khi Người đến
Người liền nói:
Nó đủ cho nó. Nó quá đầy
Không còn chỗ dành cho
Ta
(T. Brown. Thi sĩ xứ
Manx)
Suy Niệm 2. SỰ HIỆN DIỆN
CỦA THIÊN CHÚA
Chúng ta không sống đời
sống tâm linh một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để
sống với Thiên Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh
sáng và kinh chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá
quen thuộc mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi
chạy theo nhưng công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như
mặc áo quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ
cô. Chúng ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như
cơn đói phải được no thoả mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn
làm cho chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. "Cầu nguyện không phải là xin
xỏ. Nó là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối
của chúng ta".
Đối với nhiều người, cầu
nguyện chủ yếu là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu
nguyện bắt đầu ở chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta
thốt ra thường chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình
thức cao nhất của sự tôn thờ là thinh lặng.
Có lẽ kinh nguyện có lợi
nhất chính là ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì.
Chỉ ngồi trong sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện
của Đức Giêsu. Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian
trong khi có rất nhiều việc phải làm.
Ở trong sự hiện diện,
không nói hoặc làm điều gì, không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi
chúng ta ngừng lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần
đông chúng ta có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương
đầu như thế nào với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông
cạn và hời hợt bên ngoài.
Phần đông con người có
xu hướng đặt tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu
nguyện có thể là một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế.
Hoạt động của chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và
không có cầu nguyện người ta có thể dễ dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được
Thiên Chúa hứng khởi.
Henry David Thoreau đã
sống hai năm trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì trong suốt hai
năm ấy? Ông trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên nhiên. Nhưng một
đôi khi ông không làm gì cả. Ông nói: "Thỉnh thoảng vào một buổi sáng mùa
hè, tôi ngồi trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm cho đến trưa,
mê man trong mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên
tĩnh, trong khi bầy chim ca hát xung quanh tôi".
Ông đã thu hoạch được gì
từ điều đó? Ông nói:
"Trong những mùa
ấy, tôi lớn lên như ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian bị lấy mất
khỏi đời tôi, nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù
như những con kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì? Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết
thúc; đúng hơn phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt đầu".
Một số người có thể cho
rằng Thoreau là một người mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian
cho việc cầu nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện
diện của Thiên Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian
được sử dụng tốt. Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong một thời gian
ngắn, tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn,
phần việc của Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của
Mácta khó khăn hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi,
phần việc của Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc
của mình và chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn
vẹn ấy vào Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi
ích rất lớn lao.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Tổng Giám mục Anthony
Bloom kể lại rằng người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được
truyền chức thánh là một bà cụ, bà nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu
như không ngừng suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự
hiện diện của Thiên Chúa".
"Con có để cho
Thiên Chúa có cơ hội lên tiếng không?" ngài hỏi.
"Ồ không", bà
nói, "Con đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu
nguyện sao?".
"Không," ngài
nói. "Cha không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành
riêng mười lăm phút để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa".
Và bà đã làm như thế.
Kết quả là gì? Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: "Thật lạ lùng, khi con
cầu nguyện cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy
điều gì. Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm
thấy được bao trùm trong sự hiện diện của Người".
Sau cùng, cầu nguyện
không phải để nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu
nguyện là một sự yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ
tĩnh lặng trong sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.
15.
Martha và Maria.
Có một bà bếp của cha sở
nọ, mỗi lần nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:
- Phải rồi, nếu không có
Martha, thì ai sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.
Cũng vậy, nếu tôi chỉ
ngồi suy nghĩ và bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng
có ai làm những công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người
trong chúng ta cũng tự hỏi:
- Làm thế nào để dung
hòa giữa thái độ của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào
cuộc sống cụ thể của mỗi người chúng ta.
Thực tế cho hay cuộc
sống của chúng ta thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân
Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường
xuyên hơn, chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi
chúng ta lại không có thời giờ.
Quả thật, Chúa Giêsu
muốn chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc
như Martha, chứ không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện
như Maria, chúng ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật
thiết và bổ túc lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria.
Vậy thì chúng ta thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?
Tôi xin thưa: Chúng ta
hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:
- Lạy Chúa, con xin dâng
lên Chúa trọn ngày hôm nay.
Còn nếu như có đủ thời
giờ, chúng ta hãy cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con xin dâng
lên Chúa mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp
cùng cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.
Đồng thời, thỉnh thoảng
trong ngày, chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công
việc tầm thường của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một
lời kinh liên tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một
thánh lễ nối dài.
Các vị thánh là những
người bận rộn. Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được
coi như là những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa vì những
dụng cụ ấy là những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu
trong đời sống đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở
mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh
lý tưởng để chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng
hát, cùng đọc và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy
gẫm lời Chúa, cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.
Khi rước lễ, Chúa Giêsu
sẽ là vị khách quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị
khách quí dưới mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh
thần phục vụ như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé
nhất vì lòng yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành
những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
16.
Những mẫu gương sáng ngời.
(Suy niệm của Lm. Phạm
Thanh Liêm)
Ba bài đọc của Chúa Nhật
hôm nay cho thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau:
Abraham, Maria và Phaolô.
Chọn điều tốt nhất
Đức Giêsu trên đường rao
giảng, ghé vào một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria
và Lazarô. Cô Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với
Đức Giêsu, vì thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình
này, Đức Giêsu và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa
tiệc. Biết bao việc phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe
Ngài giảng dạy. Chắc Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng
Maria vẫn giữ lập trường: ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy.
Không thể chịu nổi nữa, Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: "em con để một
mình con với bao nhiêu việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay".
Theo nhiều người, Martha
hoàn toàn có lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha
không chỉ trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để
ý đến vất vả của Martha.
"Martha, chị lo
lắng về nhiều chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và
không ai cướp đi được". Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều
nào quan trọng và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm
nhiều món để đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như
vậy. Tại sao lại phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối
với Đức Giêsu), để rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe
Lời Chúa, và cũng sẵn sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm
chê trách, như thể là người lười, như thể là người không tế nhị và không biết
giúp đỡ chị nữa.
Không có một bản lĩnh và
một chọn lựa dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi
đã chọn điều gì là quan trọng?
Niềm nở ân cần tiếp đón
tha nhân
"Đang ngồi hóng
mát, nhìn lên Abraham thấy "ba vị" đang đứng gần. Abraham chạy lại,
cúi mình chào các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi
trường nóng bức, và dùng bữa". Với Abraham, đây không phải là những người quen
thường gặp, thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách
của Abraham đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các
vị khách đã "tỏ mình" cho Abraham.
Thái độ hiếu khách của
Abraham đặt vấn đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những
người tôi gặp gỡ như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp
này đã trở thành cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với
những người nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho
người nghèo ăn là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và
đón tiếp Chúa (Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.
Rao giảng Tin Mừng Đức
Giêsu Kitô
Cả cuộc sống của Phaolô
sau khi trở lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi
rao giảng, và Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp
những khó khăn và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do
Thái lẫn người ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa
vị và thế lực. Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn "hoàn
tất" những gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài
"học no học đói", Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.
Với Phaolô, Đức Giêsu là
Tin Mừng. Đức Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải
cho con người. Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả
để được Đức Giêsu Kitô.
Phaolô trở thành con
người tuyệt vời, nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người
không mắc cỡ nhưng can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức
Giêsu Kitô mà mỗi người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có chấp nhận chọn
lựa của Maria không? Tại sao?
2. Theo bạn, hiếu khách
có còn giá trị trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
3. Có cần phải rao giảng
Tin Mừng cho con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho
con người ngày nay?
17.
Yêu theo cách của người mình yêu
Trên đường đi
Giêrusalem, cách thành thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của
Mácta, Maria và Lagiarô, một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui
về nghỉ ngơi trong những dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính
cách nhân loại mà Luca chủ trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây,
trong khung cảnh đầm ấm của gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý
sống động hơn ở đây. Có người tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng
cương nghị và đắc lực, còn Maria thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai
chị em đều có những đức tính đáng khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước
ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã
làm việc quá nhiều để sửa soạn một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được
điều Chúa muốn nên cứ ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài
mong ước được mạc khải chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không
phải vì lợi ích cho Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ
thuật tiếp khách, nàng phải để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp
đãi Thầy, nàng đã làm được việc lớn hơn chị nàng.
"Mácta tất bật lo
việc phục vụ". Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo
Chúa có thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và
kiêu hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích
em mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói
với Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: "Em con để con một mình phục vụ mà Thầy
không quan tâm sao?".
Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu
ái bằng cách thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày
tỏ nguồn gốc của tinh thần ấy: "Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về
nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi". Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn
thịnh soạn, một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria
đã chọn.
Chúng ta thử tìm những
bài học nơi đây:
Nó bày tỏ sự va chạm
giữa những tính tình khác biệt
Có người thì tự nhiên
hăng hái hoạt động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng
nổ hiểu một người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm
tư mặc tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có
vấn đề phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau.
Thiên Chúa cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như
Mácta, và cả hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ
Chúa hay chủ trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.
Trong một cuộc lễ trọng,
trên bàn thờ chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối
lễ, cây nến cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống.
Hoa than thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi
chúng em!
Nhưng ở đây còn có một
bài học nữa: Bài học về một thứ lòng tốt sai lầm
Hãy nghĩ đến chỗ Chúa
Giêsu đang đi đến khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem.
Toàn thể hồn xác Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn
của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó
là một ngày trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực
hiện một điều tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy
ngược chạy xuôi, nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ
muốn một điều là được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự
căng thẳng trong tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ
nghỉ ngơi, dầu chỉ được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng
quá nôn nao đòi hỏi, và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi
nỗi căng thẳng. Đó là điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà
Mácta vì lòng tốt đã làm hết sức để phá đi. "Chỉ một việc cần" câu ấy
có thể có ý "Ta không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật
đơn giản". Maria hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong
những khó khăn của cuộc đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người,
nhưng tử tế theo cách của chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa
nhận, chúng ta cảm thấy dễ phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.
Nếu chúng ta đang cố
gắng ăn ở tốt với người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình
muốn giúp đỡ, rồi chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ
đến điều mà người đó đang cần.
Trong lịch sử nước Mỹ,
trong những ngày đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời
ông bạn cũ ở xứ Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới
Bạch cung và Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông
định công bố để thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh
vực cho các đạo luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại
đọc cả những bức thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách
ông chần chừ chưa phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến
hành việc ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt
tay ông bạn già, chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi
ý kiến gì hết. Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong
lòng ông, như vậy đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: "Khi
Lincoln nói xong rồi, ông ấy bình tĩnh hơn". Lincoln chỉ cần một người bạn
thân biết nghe ông nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
Chúa Giêsu yêu thương
Mácta và Mácta cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ
tốt theo cách của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao
khát sự yên tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria
cũng hiểu biết Chúa nữa.
18.
Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa.
(Suy niệm của Jude
Siciliano)
Khi viết Tin Mừng, thánh
Luca chia cuộc đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn:
1. Ở quê hương Nazareth
xứ Galilea;
2. Hành trình đi lên
Giêrusalem;
3. Ở thành thánh
Giêrusalem: chịu thương khó, bị giết chết và sống lại.
Thánh nhân thâu gom mọi
hoạt động của Chúa vào 3 giai đoạn ấy bất kể nơi chốn và thời gian. Cho nên
chúng ta khó xác định biến cố xảy ra ở đâu, lúc nào? thí dụ chuyện của hai chị
em Matta và Maria hôm nay. Thánh sử ghi chép rất chung chung: "Trong khi Thầy
trò đi đường. Đức Giêsu vào một làng kia..." Thánh Gioan nói rõ: làng
Betania (11,1), và thời gian thì không phải Đức Giêsu đi lên Giêrusalem một lần
duy nhất, nhưng vào nhiều dịp khác nhau. Tuy nhiên cứ theo thánh Luca thì câu
chuyện Tin mừng hôm nay ở vào cuộc hành trình duy nhất này. Phụng vụ cho đọc về
cuộc hành trình từ Chúa nhật 13 mùa thường niên. Một vài biến cố xảy ra lúc
thầy trò đang đi đường. Một vài biến cố chỉ lấy con đường làm nền tảng còn thì
xảy ra ở những nơi khác. Chuyện của hai chị em Matta và Maria không ở trên
đường đi mà "vào một làng kia". Cũng xin lưu ý nhiều tác gỉa không
đồng nhất bà Maria này với Maria-Madalêna hay người đàn bà tội lỗi vô danh xức
thuốc thơm chân Chúa ở nhà ông Simon (7,36). Ba người đàn bà có những tính nết
khác nhau, không lẫn lộn được. Người đàn bà vô danh thánh Luca thuật chuyện ở
giai đoạn thứ nhất. Ngài không lặp lại ở đây nữa (xem Le personnage de
Marie-Madeleine dans L'Evangile, trong La revue Jerusalem tháng 9-10,1930).
Vì câu chuyện quá quen
thuộc, chúng ta không nên vội vàng đi đến kết luận ngay, kẻo làm thiệt hại cho
sự thật. Xin tưởng tượng mình đọc lần thứ nhất và để tâm suy nghĩ xem thánh
Luca muốn nói gì với chúng ta nhân câu chuyện của hai chị em. Thí dụ về cô
Matta, chúng ta đừng vội kết luận cô ta thuộc hạng người hoạt động thái quá, dễ
nổi nóng và lo lắng tiếp đãi khách, cô không còn thời giờ lắng nghe lời Thiên
chúa phán dạy. Nếu chúng ta có thành kiến gán cho cô như vậy, thì thử hỏi nhiều
độc giả nghĩ thế nào khi đọc đoạn Tin mừng này? Bởi vì họ cũng là người cha,
người mẹ vất vả kiếm sống cho con cái trong xã hội xô bồ hôm nay. Họ cũng là
những công nhân, nông dân đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi gia đình! Liệu có ai
trong cuộc sống văn minh ngày nay được thời giờ nhàn hạ như cô Maria? Liệu chúng
ta có kết án vô lý tầng lớp sản xuất của xã hội? Tầng lớp mọi người đều trân
trọng vì lao động của họ?
Ví dụ một người cha,
người mẹ độc thân, lương lậu thấp, cố gắng rất mực để cho gia đình đủ ăn đủ mặc
mà nghe giải thích bài Tin mừng hôm nay theo não trạng cũ, mà lại không thấy
mủi lòng? Liệu họ có thể lựa chọn ngồi một chỗ thinh lặng chiêm niệm lời Chúa
như cô Maria được không? Cho nên chúng ta không thể loại trừ tầng lớp lao động
chân tay khỏi ý nghĩa của Tin mừng. Chúng ta phải làm thế nào cho cô Matta cũng
được tham dự vào "phần tốt nhất" mà Chúa Giêsu tuyên bố cho những kẻ
lắng nghe lời Chúa! Như vậy thì những phụ nữ lao động tại gia đình hoặc trong
các xí nghiệp. cơ quan mới cảm thấy không thiệt thòi về phần thiêng liêng.
Chính họ đã phải hy sinh nhiều vì chồng con. Lắm người lại còn phải mang gánh
nặng góa bụa. Liệu Matta có phải là một bà góa không nhỉ? Những chỉ số thống kê
gần đây cho biết phụ nữ luôn lãnh lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một
công việc. Ngoài ra phụ nữ lại là những nhân viên tình nguyện đông hơn nam giới
trong các cơ sở giáo hội, từ thiện, bác ái, công ích xã hội. Họ ít thời giờ
giải trí, vui chơi hơn đàn ông. Thực tế họ là những phụ nữ
"Samaritanô" nhân hậu lắng nghe và tuân giữ lời Chúa như chị em Maria
và Matta. Cho nên chúng ta phải công bằng với họ trong lý thuyết và thực hành,
làm sao cho họ cũng là những kẻ đón nhận Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài như bao
người khác. Để rồi như dụ ngôn người "thân cận" chúng ta hiểu được
việc phục vụ của các tín hữu hệ tại nội dung nào?
Một điều cần nói là
trong bản dịch khác của tiếng Anh thì từ "đón nhận" được chuyển ngữ
là "tiếp đãi" Chúa Giêsu. Thoạt kỳ thủy chỉ có Chúa và cô Matta.
Maria chưa xuất hiện. Trong suốt câu chuyện Maria chẳng nói lời nào! Matta theo
truyền thống đông phương đã tiếp đãi kẻ đi đường rất nồng hậu và lịch thiệp.
Chúng ta thấy truyền thống này trong bài đọc 1. Ông Abraham tiếp đãi ba người
khách lạ xin trọ nhà ở Mambrê, gần Hébron. Ông đã giục vợ là Sara làm bánh tiếp
đãi các vị, rồi sai đầy tớ bắt bê béo làm thịt. Sách Sáng thế Ký kể: "Ông
Abraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà
nhồi rồi làm bánh. Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê non béo tốt, giao cho
đầy tớ và anh này vội vã làm thịt. Ông lầy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm
mà đãi khách". Rõ ràng có những vội vã, rộn ràng trong việc tiếp khách của
ông Abraham. Vậy mà ông đâu có bị quở mắng? Ngược lại hai ông bà lại được chúc
phúc: sẽ có con cháu nối dòng. Đó là Isaac (tiếng này có nghĩa là nụ cười vì bà
Sara cười thầm khi nghe khách báo tin). Cô Matta đã theo thói tục lâu đời của
cha ông đãi khách lạ trong nhà mình. Cả hai câu chuyện đều có ý nghĩa chung:
tiếp đón Thiên Chúa đến viếng thăm. Abraham và Sara đã được ơn phúc lớn vì sự
hiếu khách của mình. Chẳng lẽ Matta lại bị quở phạt? Chúng ta phải hiểu câu
chuyện của cô theo hướng khác.
Phụng vụ chọn đọc bài
Sáng thế song song với bài Tin Mừng là có dụng ý. Chúng ta được kêu mời suy
nghĩ kỹ hơn về các sự kiện. Nhờ lòng hiếu khách Abraham và Sara được Thiên Chúa
chúc lành với người con nối dòng. Nhưng dòng dõi đích thực của họ là phần tinh
thần. Con cái họ là những kẻ biết kính sợ và tin cậy Thiên Chúa. Đấng luôn luôn
ngự giữa dân Ngài theo lời hứa. Đấng ký kết với Israel những giao ước vĩnh cửu.
Dòng dõi Abraham và Sara là những kẻ lữ hành trong đức tin trên cuộc đời trần
gian. Họ sẽ "mở lòng ra" đón nhận Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Cũng như Matta và Maria, chúng ta là hậu duệ của hai ông bà, chúng ta cũng phải
mở trí, mở lòng đón nhận lời Chúa, đón nhận "khách lạ" vào cuộc sống
mình. Những khách lạ đó không hẳn là người đồng vai đồng vế, những môn đăng hộ
đối về kinh tế, chính trị, học thức với mình. Nhưng có thể là thấp kém, cũng có
thể là hơn. Hội thánh xưa nay vẫn vừa chiêm niệm vừa hoạt động, hai khả năng
không loại trừ nhau. Đúng hơn hoạt động và chiêm niệm bổ túc cho nhau. Hoạt
động để chiêm niệm và chiêm niệm để hoạt động. Không nghiêng hẳn về bên nào.
"Cầu nguyện và hoạt động" như thánh Bênedictô dạy. Tuần này qua tuần
khác, chúng ta lắng nghe Tin mừng thánh Luca. Giống như Maria ngồi bên chân
Chúa và nghe lời Ngài, để học biết phải "đón tiếp" Chúa vào cuộc sống
mình ra sao! Tuần vừa qua chúng ta nghe dạy mình phải là "thân cận"
của những kẻ đang cần được giúp đỡ. Tuần này câu chuyện của Maria lắng nghe lời
Chúa. Như vậy chúng ta học biết phải thi thố lòng hiếu khách và tử tế cho những
ai có nhu cầu. Chẳng phải vô tình mà sử gia Luca đặt câu chuyện hôm nay ngay
sau chuyện người Samaria nhân hậu. Thánh nhân có ngầm ý gởi cho độc giả một
thông điệp. Mọi người phải thưa gởi Chúa Giêsu như thầy thông luật: "Con
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp" và câu chuyện của hai
chị em Matta và Maria trả lời: "Hãy đón tiếp Chúa Giêsu vào cuộc sống và
lắng nghe lời Người dạy bảo về yêu thương đồng loại, những kẻ thân cận của
mình" và con đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu sẽ rõ ràng cho mỗi linh hồn.
Chúa Giêsu hỏi ngược nhà
luật sĩ: "trong luật đã viết gì?" Ông ta trả lời: "Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết
trí khôn ngươi và yêu mến ngươi thân cận như chính mình". Câu này có hai
phần: phần thứ nhất: yêu mến Chúa, phần thứ hai: thương người thân cận. Dụ ngôn
người Samaria nhân hậu trả lời cho phần thứ hai. Tin mừng hôm nay trả lời phần
thứ nhất: Lắng nghe lời Chúa tức yêu mến Ngài. Đứng riêng lẻ một mình không nội
dung nào đầy đủ cả. Trong dụ ngôn tuần trước người Samaria trông thấy và giúp
đỡ kẻ bị nạn. Cô Maria hôm nay đón nghe lời Chúa. Cả hai gộp lại mới cho chúng
ý nghĩa trọn vẹn lời giảng của Chúa Giêsu. Xin nhớ nữ giới thời Ngài thường bị
hạ thấp giá trị, tương tự như trong xã hội chúng ta ngày nay. Cho nên, cả người
Samaria, cả cô Maria là những mẫu người được Chúa Giêsu đề cao: "Mẹ và anh
em Thầy là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành"(8,21). Thánh
Phaolô trong bài đọc thứ 2 là gương mẫu người thực thi ý Chúa và thương yêu
đồng loại. Ông viết: "Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế
hoạch Thiên chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em! Đó là tôi phải rao
giảng lời Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời
đại". Chữ "mầu nhiệm" thánh nhân dùng gồm tóm mọi chương trình
của Thiên Chúa, dự định cho nhân loại. Nhưng nay đã được tỏ bày qua con người
và sứ vụ của Chúa Giêsu.
Một từ giúp hiểu rõ bối
cảnh của tin mừng hôm nay là danh xưng "Lạy Chúa" (tiếng Latinh:
Dominus, tiếng Anh: Lord). Từ này chỉ được Tin Mừng dùng sau khi Chúa đã sống
lại. Thí dụ ông Tôma thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con (you are my
Lord and my God)". Thánh Luca đã có dụng ý biểu lộ phản ánh sinh hoạt của
Giáo Hội tiên khởi nơi ông trụ trì. Họ đón nhận và lắng nghe Chúa sống lại
trong cộng đoàn của mình. Hơn nữa Tin Mừng còn 2 lần nhắc lại từ "phục
vụ"(diakonia) chỉ rõ thói quen hành xử của các viên chức hội thánh lúc bấy
giờ. Người ta đã tranh luận nhiều về vai trò nữ giới trong các Hội thánh tiên
khởi. Liệu họ có được phép "phục vụ" trong Giáo hội không? Nếu được
thì phần việc của họ là gì? Tương tự như chúng ta ngày nay tranh cãi về các vấn
đề nữ giới làm linh mục. Thực tế, thời thánh Luca nữ giới giữ nhiều chức vụ
trong cộng đoàn: mục vụ, công việc tông đồ, lãnh đạo, rao giảng Tin mừng như
trong các thơ của thánh Phaolô (Rm 16,1-5; 16,6-12; 1Cr 16,19; Phil 4,3...).
Nhưng trong các thư cũng như bài đọc Tin Mừng hôm nay có sự chia rẽ. Một số
thẩm quyền muốn nữ giới giữ vai trò lệ thuộc như cô Maria ngồi dưới chân Chúa
Giêsu. Và như thế người phụ nữ im lặng là "phần tốt hơn". Đó cũng là
một lối giải thích cho câu chuyện của Luca! Liệu ông có dụng ý thực sự như vậy
không? Ông muốn vai trò của phụ nữ là im lặng và thụ động? Nếu đúng, thì tại
sao trong công vụ ông nhắc nhiều đến phụ nữ làm việc tông đồ, lãnh đạo giáo
đoàn? Hơn nữa, theo thói tục Do thái người ngồi dưới chân "tôn sư" là
chỗ của các sinh viên nam giới? Hoặc bởi vì Chúa Giêsu là người phóng khoáng,
ít khi lệ thuộc vào thói quen và tập tục, cho nên không để cho những nề nếp
trói buộc mình. Bất cứ ai lắng nghe lời Ngài đều được ngồi dưới chân và trở nên
môn đệ của Ngài. Vấn đề thật nhiêu khê. Dầu sao,vai trò của Matta đón tiếp và
phục vụ là công việc quan trọng trong Hội thánh. Ngày nay chúng ta luôn phải
thực hành, để những người cô thân cô thế không bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu
khách lạ, đói khát, rét mướt, trần truồng trong xã hội. Không người chăm lo cho
họ thì Hội thánh liệu có làm tròn sứ vụ của mình? May thay, trong công việc
này, nữ giới chiếm phần đa số. Tương tự như trong các giáo hội tiên khởi có rất
nhiều phụ nữ tài năng. Kẻ thì ngồi im lặng lắng nghe lời Chúa như cô Maria, kẻ
khác hoạt động cứu giúp những nạn nhân thiên tai, dịch họa, bần cùng, đói khát
như cô Matta. Bằng đường lối riêng của mình cả hai loại người cùng đón tiếp
Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài. Rõ ràng cả hai đều được Ngài dạy dỗ, bày tỏ lòng
yêu mến Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân. Chúng ta nên cân bằng những hoạt động
của họ, không bên khinh bên trọng. Mọi tín hữu đều được mời gọi lắng nghe lời
Thiên Chúa. Mọi tín hữu có bổn phận đem Lời Chúa ra thực hành. Loại trừ mọi khả
năng ưu tuyển, nhận cho mình những phần hơn, phần tốt. Bởi lẽ khi hoàn thành
công tác, mọi người đều được Thiên chúa thâu nhận vào nước trời, an hưởng cuộc
sống đời đời. Đó là phần tốt nhất và không bị lấy đi. Trong thánh lễ hôm nay,
xin Thiên chúa cho mọi linh hồn thấm nhuần được tinh thần đó. Amen.
19.
Một sự cần thiết
Nhìn vào cuộc sống,
chúng ta phân biệt hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết
tuyệt đối. Vậy thế nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt
đối?
Cứ chung mà nói, ai
trong chúng ta cũng cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng
ta không thể sống và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu,
sống không ra người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi,
làm lụng vất vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là
nỗi lo lắng số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu
tiên bao giờ cũng phải là vấn đề tiền đâu.
Một khi tiền bạc đã rủng
rỉnh, người ta lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời
và để lại trong thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.
Đô đốc Byrd là một nhà
thám hiểm Nam cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai
giúp đỡ ông về phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy
tên người ấy mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì
họ muốn cho tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.
Một trường hợp khác, đó
là Carnégie, ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh
giữa ông và Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại
cho cả đôi bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:
- Tôi nghĩ cả hai chúng
ta đều điên khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta
hãy hợp tác với nhau.
Nói rồi, Carnégie kể ra
những lợi ích to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:
- Vậy ông tính đặt tên
cho công ty là gì?
- Công ty Pullman chứ
sao nữa.
Nghe vậy, Pullman đã mỉm
cười, bắt tay và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.
Xem đó, chúng ta thấy đô
đốc Byrd và Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham
mê danh vọng.
Thế nhưng, tiền bạc và
danh vọng có thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không.
Vì khi phải đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì
sang thế giới bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu
tấn vàng,
Chết xuống âm phủ, chẳng
mang được gì.
Với chúng ta thì khác,
sự cần thiết tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế
gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Tự đời đời, Chúa chẳng
cần đến chúng ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài
hoàn toàn đầy đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được
chia sẻ phần hạnh phúc với Ngài.
Bởi vậy, nhiệm vụ của
chúng ta là phải nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho
linh hồn.
Đúng thế, chúng ta được
sinh ra bên ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất
cả đều do mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau
cỏ để cho chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên
Chúa.
Vì thế, sự cần thiết
tuyệt đối đó là nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi
này, chúng ta đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới
thực sự là cần thiết.
Cavalière là một nữ tài
tử nổi tiếng và gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen
tặng cô vẫn cảm thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết.
Tự đáy lòng, cô luôn nghe như có tiếng nói:
-Hỡi Cavalière, có phải
mi được sinh ra là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao?
Một hôm, người ta không
thấy bóng dáng cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi,
sống âm thầm và cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert
de Pierre, một nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và
quạnh hưu, nên đã nói:
- Sống như thế này thì
có chi là sung sướng.
Nhưng cô đã trả lời:
- Sung sướng lắm chứ.
Sung sướng gấp ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống
trong Chúa và được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.
Hãy nhận biết và thờ
phượng Chúa, nhờ đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà
mỗi người chúng ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và
bon chen.
20.
Điểm dừng
Khi nói đến điểm dừng,
tức là có chuyển động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không phải là
điểm dừng, mà là điểm cố định, một điểm chết. Điểm dừng thì trước khi dừng đã
chuyển động, và dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi lẽ, dừng mà không bao giờ
chuyển động nữa thì cũng là điểm dừng chết.
Từ những điểm dừng trong
đời.
Quan sát cuộc sống quanh
ta, chúng ta sẽ bắt gặp được những điểm dừng. Có những điểm dừng chết chóc,
nhưng cũng có những điểm dừng sống động. Có những điểm dừng mang đến tai họa,
nhưng cũng có những điểm dừng mang lại niềm vui, một sự đổi mới, một sự cứu
rỗi: đồng hồ đang chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt giống gieo xuống đất rất cần để
yên một thời gian nó mới nẩy mầm. Một người đang đi trong một cánh rừng, anh
dừng lại quan sát xung quanh, sau đó quyết định đổi hướng đi vì biết mình đã
lạc đường một điểm dừng cho sự đổi mới, một cái dừng giải thoát.
Trở lại bức tranh Tin
Mừng hôm nay mà Luca phác họa cho chúng ta. Chúng ta cũng gặp được những điểm
dừng: Chúa Giêsu và các môn đệ dừng chân ở nhà Mácta và Maria; Maria dừng chân
dưới chân Chúa Giêsu; Mácta dừng chân bên chân Chúa Giêsu. Tất cả những điểm
dừng đều có mục đích: Chúa Giêsu và các môn đệ nghỉ chân để tiếp tục hành trình
lên Giêrusalem; Maria dừng bên chân Chúa để nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để
cầu cứu Chúa, dường như muốn làm nũng, dường như muốn trách Chúa.
Qua điểm dừng của Mácta
trong Phúc âm:
Cô Mácta bận rộn, rất
bận rộn với công việc phục vụ bề bộn. Lòng mến Chúa, lòng hiếu khách của cô
được thể hiện qua công việc, cô muốn làm những thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ
nghỉ tốt nhất mà cô có thể dành cho Chúa và môn đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng.
Cô là chị lớn nên nặng trách nhiệm, cô đảm đang tháo vát và nhiều sáng kiến.
Sáng kiến nhiều nên nhiều việc, và cuối cùng làm chẳng kham đành xin Chúa can
thiệp.
Mácta phục vụ Chúa, điều
đó thật tốt. Thế nhưng điều tốt xem ra bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở
chỗ nào? Ở chỗ là cô không toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý
đến người em, mà người em này hiện ra trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt
đẹp đó là người trốn việc, biếng nhác, và do đó công việc của cô đã bề bộn lại
càng bề bộn hơn, đã rối trí lại càng rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa
lúc bế tắc đó cô còn biết dừng lại bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô,
ích lợi cho cô lắm, vì cô sẽ có người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của
Chúa và mọi người về phía mình mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa
giải tỏa được nỗi ấm ức trong lòng đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người
khác khen mình, để tự khen mình, khen mình cũng là hạ giá người khác: "Em
con để mình con phục vụ". Phải chăng ý cô là: Con quá giỏi, còn em con nó
vụng về chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá. Một cái dừng để trách móc người
khác, và cũng để trách Chúa: "Mà Thầy không để ý tới sao". Cô trách
khéo: sao con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý mình, làm như mình và
cũng để lôi kéo Chúa về phe mình: "Xin Thầy bảo nó giúp con một tay".
Lấy uy của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý mình, làm như
mình muốn.
Nhưng Chúa Giêsu tận
dụng giây phút dừng lại ấy của Mácta để thức tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô
tâm với cô không? Thưa không, Chúa không vô tâm nhưng để ý tới cô, để ý nhiều
nữa kìa, không những biết việc cô làm nhưng Chúa còn biết lòng dạ, suy nghĩ của
cô: Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!" vì băn khoăn
lo lắng nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết điều gì khác nữa, cô đang
ngủ mê trong công việc của mình nên Chúa phải thức tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu
thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai lần, như đánh thức người mê
ngủ: "Mácta! Mácta ơi!..." thật êm ái và yêu thương. Sao mà cô không
tỉnh thức được. "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Một điểm dừng làm thay đổi nhận thức,
làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang đến một sự đổi
mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.
Câu trả lời của Chúa
chắc chắn làm Mácta ngạc nhiên, giật mình vì ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có
một cái nhìn mới, đón nhận những giá trị mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi
lương thực vật chất, nhưng phải lo lắng cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn
trần thế mau hư nát, Chúa hướng cô đến lương thực Nước Trời trường tồn. Từ
lương thực nuôi sống thân xác phàm tục Chúa hướng cô đến lương thực linh hồn
thiêng liêng Lương thực Nước Trời thì tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất đó
chính là Lời Chúa, đó là ơn Chúa.
Đến điểm dừng của Kitô
hữu trong cuộc sống;
Cuộc sống con người ngày
nay hoạt động nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật
phát triển vùn vụt, con người như bị cuốn hút vào vòng quay của nó đến nỗi
dường như không có thời gian để thở, để thư giãn, để nghĩ ngơi...Người Kitô hữu
trong hoạt động Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác ái từ thiện, dấn thân xã
hội...dường như cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới còn nhiều người chưa
nhận biết Chúa, còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp hoạn nạn, đau
khổ...cho nên bổn phận, trách nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu còn nặng nề,
cần nhiều hoạt động cụ thể và thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ, truyền giáo,
bác ái của chúng ta có phản ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa quả của tình
yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch trương ảnh
hưởng của chúng ta, kéo sự chú ý của người khác về phía mình, yêu cầu Chúa làm
theo ý mình?
Chúa có thể mải mê công
việc của Chúa mà không được quên đi chính Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với
công việc của cuộc sống, nhưng không được quên đi mục đích của cuộc sống. Cần
có những điểm dừng trong cuộc sống để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho
những hoạt động của chúng ta. Chiếc ly cần phải đứng yên mới có thể hứng lấy
nguồn nước từ vòi rót xuống. Thiên Chúa không thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều
gì cả nếu trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta
cần phải có tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi mình trước. Hoạt động Tông đồ là
mang tình yêu Chúa đến với anh em. Thế giới không thích thú gì khi gặp gỡ ta,
những thế giới đang khao khát tình yêu Thiên Chúa, đang khao khát những gì
Thiên Chúa muốn trao ban cho họ qua trung gian chúng ta.
Khi bị quay cuồng trong
cuộc sống, nếu chúng ta biết dừng lại như Mácta và cầu cứu Chúa: "Chúa ơi!
Con mệt quá", lúc đó chúng ta sẽ được Chúa tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ
được Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan trọng nhất, điều nào là phụ thuộc
và qua đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng
ta đừng quên chọn Chúa và Lời Chúa là phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của
chúng ta phải là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả
không phải vì cành, nhưng vì cành biết kết hợp cùng cây.
Hành trình nào cũng cần
có những điểm dừng, những điểm dừng ấy thật cần thiết để tiếp sức cho hành
trình đạt đến đích. Hành trình về tiếp nhận ân sủng, tăng cường sức khỏe thiêng
liêng, bồi bổ tâm linh cho hành trình đến đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng,
cầu nguyện là cần thiết nhất để giao tiếp với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận
ơn Chúa.
Thế nhưng liệu có thinh
lặng cầu nguyện được trong thế giới ồn ào náo nhiệt, tràn ngập công việc này
chăng?
Mẹ Têrêsa Calcuta, một
nữ thánh giữa đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục
Calcuta" để chăm sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp
hối" để an ủi các kẻ liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể một
tiếng đồng hồ, để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt
huyết tông đồ.
21.
Việc cần
Truyện cổ tích Arập có
kể lại câu chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với
một vị hiền triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền
triết, suốt ngày không thèm nói lời nào với hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử
hãy ngồi im bên cạnh mình.
Sau một tháng im lặng
như vậy, hoàng tử bực mình hỏi:
- Thưa thầy, cha tôi gởi
tôi đến đây để học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi mà tôi chưa học được
gì cả?
Nhà hiền triết ôn tồn
trả lời:
- Này hoàng tử trẻ tuổi
của ta, nếu con không học quí trọng sự thinh lặng của ta thì con sẽ không thể
nào quí trọng được những lời ta nói. Nếu con không học được bài học sống trong
thinh lặng thì con sẽ không học được gì nữa cả.
Triết gia người Pháp ông
Pascal đã nhận định về thời đại của ông như sau: "Sau khi đã quan sát cuộc
sống của những người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận
rằng, một trong những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức xáo trộn cho con
người là vì con người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa".
Ông Pascal đã sống xa
chúng ta hơn ba thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp. Căn bệnh của những
thời đại ông vẫn còn là căn bệnh của những người hay nhiều người của thời đại
hôm nay, đó là căn bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn
ào, những bạn trẻ lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng
phải đùa chơi với bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này còn
tồn tại. Nhưng không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không
có gì cả. Người Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này,
vì có sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của
người Kitô là sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để
được nhìn thấy Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.
Thử hỏi trong một ngày
sống chúng ta dành ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này? Bao
nhiêu giây phút chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể? Bao
nhiêu giây phút chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa? Đây
là điều tốt nhất mà Maria đã chọn như trong Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại
cho chúng ta.
Sự thinh lặng để lắng
nghe Lời Chúa, đó là sự thinh lặng có đầy Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng,
nhưng luôn đi trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa,
được đồng hóa với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta
nhận thấy nơi vị tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II. Sống trong sự
thinh lặng có đầy Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình
như là một cuộc sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì
còn thiếu nơi cuộc thương khó của Ngài.
Cách nói còn thiếu nơi
sự thương khó của Chúa không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều
gì, nhưng muốn nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong
cuộc đời của tông đồ Phaolô. Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới
có đủ can đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa
trong những hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.
Tâm thức sống ồn ào là
tâm thức của những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống. Sống trong thinh lặng có đầy
Chúa như Maria ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân
thập giá. Đó là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử
thách của chúng ta trong hoàn cảnh ngày nay.
Xin Chúa ban cho chúng
ta được sống trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm
sức mạnh của Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa.
22.
Lắng nghe
Đoạn Tin Mừng thánh Luca
kể lại câu chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và Maria tại nhà của
họ ở làng Bêtania. Chúng ta thấy tất cả câu chuyện xoay quanh cách thức hai
người tiếp đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết thúc câu chuyện là nhận định của Chúa
Giêsu về cách tiếp đón của mỗi người.
Trước hết, chúng ta thấy
cả hai người đều tiếp đón Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ:
Marta thì bận rộn tíu tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi
bên chân Chúa, tiếp chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm
hài lòng Chúa hay được Chúa yêu thích hơn? Đó là cách tiếp đón của cô Maria.
Chính Chúa đã nhận định như thế: "Maria đã chọn phần tốt nhất". Còn
với cô Marta, Chúa nói: "Con lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá".
Thật ra, cả hai chị em đều hết lòng tiếp đón Chúa. Nhưng đối với Chúa:
"Người ta sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng còn bởi lời Thiên Chúa:,
nghĩa là người ta không phải chỉ có sự sống như thực vật, động vật, mà còn phải
có lẽ sống. Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta lẽ sống và đường sống. Vậy
thì lời Chúa phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe lời Chúa chúng ta mới có
thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực với lẽ sống và đường sống
mà Thiên Chúa cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế. Đây là bài học thứ nhất
chúng ta ghi nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công việc thế nào cũng phải
biết dành thời giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.
Thực vậy, ai trong chúng
ta cũng có nhiều việc phải làm. Đừng kể những người lười biếng hay những người
chỉ muốn ăn không ngồi rồi, còn hầu hết chúng ta, nếu sống đúng vai trò và
nhiệm vụ của mình, chúng ta đều thấy việc thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai
mươi bốn tiếng mỗi ngày hãy còn quá ngắn. Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh
bay đi, để lại công việc cứ tiếp nối nhau mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc.
Sống trong hoàn cảnh quá nhiều công việc như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô
Maria càng cần thiết cho chúng ta, chúng ta không thể để cho công việc lôi kéo
mà quên mất mục đích chính của đời mình. Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp
chỉ là phương tiện nuôi sống, là con thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không
thể là mục đích của đời chúng ta. Có lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng
nữa, khi thấy chúng ta quá bận rộn vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu
sức lực của tuổi đời, bao nhiêu thời gian quí giá, để lo cho những công việc
không có giá trị trường cửu, để rồi kết thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ
hãi về số phận đời sau.
Như vậy, điều chúng ta
cần ghi nhớ là chúng ta phải biết gặp gỡ Chúa trong hoạt động, trong việc làm.
Nói cụ thể hơn, trong một ngày và trong hoạt động, chúng ta phải biết dành ra
ít giây phút cho việc gặp gỡ Chúa. Thí dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc
nâng tâm hồn lên cao, một ít phút đọc Kinh Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để
tâm sự với Chúa và lắng nghe Chúa nói với tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta
cần tìm ra ý nghĩa sâu xa những câu nhận định của Chúa Giêsu: "Chỉ có một
chuyện cần mà thôi", "Maria đã chọn phần tốt nhất", nghĩa là
cuộc đời của chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều công việc phải làm,
nhưng chúng ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái gì cần làm, cái gì
phải làm trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.
Đàng khác, bài Tin Mừng
còn gợi cho chúng ta suy nghĩ thêm một vấn đề nữa, đó là câu nói của Marta:
"Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?".
Câu nói của Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị thường sẵn có trong
lòng mọi người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội
nặng. Kẻ ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì
tỏ ra khó chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của
người khác... Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi.
Nhưng có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba,
nhan sắc, thành công, nhân đức... Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh,
cùng môi trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen
nhau; nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen
tị nhiều hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn
tới, rồi họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn
người lớn ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.
Chẳng hạn, vua Saolê,
khi thấy Đavid được dân chúng ca tụng là tài giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức
với Đavid, đến nỗi từ đó tìm đủ cách để giết Đavid, dù Đavid không có tội gì
hết. Saolê ghen tị thật vô lý. Đavid là một tay tài giỏi, thắng trận trở về,
xứng đáng được toàn dân ca tụng biết ơn. Còn Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì
Đavid đã đem phần thắng về cho mình, thì Saolê đã làm ngược lại là ghen tức và
cay đắng trả thù. Đúng như câu nói: "Khi một người thắng trận trở về nhà,
dù lòng đang vui cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác hơn mình, thì niềm vui
đó sẽ trở thành buồn bực và đau khổ". Nếu như chúng ta ở trong trường hợp
của Saolê, có lẽ chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có thể cười người
khác khi thấy họ ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con. Nhưng chính
chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy
người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ. Ngược lại,
thử hỏi chúng ta có vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn thành
công chăng? Thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui. Chúng ta
hãy nhớ: Ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói hành, nói
xấu, vu oan cáo vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất tình bác ái
và gây nên nhiều gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta phải tốp lại
cái thói ghen tị vô lối của mình.
Bài Tin Mừng cũng như
những điều tìm hiểu trên đây nhắc nhở chúng ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã
tiếp đón Chúa, gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời Chúa như thế nào trong cuộc sống:
theo kiểu của Marta hay Maria? Chúng ta có biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt
động trong cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi phát triển con người toàn diện
không? Chúng ta có tự cho mình là đúng, công việc của mình là hay hơn cả, để
rồi phủ nhận hoặc công kích người khác, công việc của người khác không? Trong
khi có thể chính người đó mới đúng và công việc của họ mới đáng kể? Ước mong
mỗi người hãy suy nghĩ và kiểm điểm để đổi mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi
hoặc thiếu sót trong đời sống đạo của mình.
23.
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thử đặt ngược lại vấn
đề: nếu cả Mácta cũng tiếp chuyện Đức Giêsu mà không có ai lo việc tiếp đãi
Ngài, cụ thể là lo nước nôi tiếp khách và bữa ăn cho Ngài, thì có nên không?
Ngài có hài lòng về cách tiếp đãi đó không?
2. Giữa hai chị em với
nhau, thái độ của mỗi người có chỗ nào hay, chỗ nào dở? Mỗi người phải sửa đổi
lại thái độ của mình thế nào cho hoàn hảo?
3. Bạn nghĩ gì về người
năng cầu nguyện mà không năng hành động, hay năng hành động mà không năng cầu
nguyện?
Suy tư gợi ý:
1. Hiếu khách phải là
một đặc điểm của người Kitô hữu
Đức Giêsu đến làng
Bê-ta-ni-a, nơi nhà Mácta và Maria, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một
dịp tốt để hai chị em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách
như hai chị em này là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải
là đặc điểm của mọi Kitô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của
tình yêu thương vốn là nền tảng của Kitô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ
ra thật hiếu khách. Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa.
Nếu bình thường ông không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng
người thường, làm sao ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp
chúng ta ý thức lại: mọi người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của
Thiên Chúa, và phần nào là hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn
yêu mến hết lòng. Như thế, quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.
2. Cần có sự phân công
hợp lý trong gia đình, trong tập thể
Để tiếp đón Ngài cho
phải lẽ và làm hài lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài
ngồi không một mình thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện
nước nôi và những món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách
ra về bụng đói, hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì
còn gì là quí mến khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân
công: một người hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật
hợp lý. Nếu cả hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều
lo nấu ăn, thì ai tiếp chuyện Ngài?
3. Cần quan tâm đến nhau
và tìm cách làm cho nhau hạnh phúc
Ưu điểm của Mácta là
tinh thần năng động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục
vụ, quan tâm tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng
điều không hay nơi Mácta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức
Giêsu, có vẻ nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền.
Cô không thể dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách
móc Đức Giêsu: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới
sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!». Có vẻ như cô cảm thấy không được ai
chú ý tới, nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này
rất đáng thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!
Cái hay của Maria là
biểu lộ tình yêu và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận,
học hỏi những điều hay từ Đức Giêsu. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về
mặt tâm linh. Nhưng cái thiếu sót của Maria là dành độc quyền nói chuyện với
khách, mà không nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ
công việc với chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện
với Thầy và làm bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp
Thầy, vừa lo chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!
Trong cuộc sống chung
của gia đình hay tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui,
nỗi khổ, đến những nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở
nên hạnh phúc biết bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta
đối với nhau. Nếu không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến
niềm vui và nỗi khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở
thành hỏa ngục.
4. Cần ưu tiên cho đời
sống tâm linh.
Cách trả lời của Đức
Giêsu: «Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà
thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi», khiến cho nhiều người
nghĩ rằng Đức Giêsu đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài
hơn chuyện lo chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện
thì đáng quí và làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề:
nếu cả hai chị em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giêsu, mà chẳng ai lo bữa ăn chu
đáo cho Ngài, thì Ngài có hài lòng lắm không?
Là người hướng dẫn tâm
linh, Ngài thấy đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó
Ngài muốn, bằng câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và
lo cho đời sống tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh
hướng lãng quên đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ
dành rất nhiều thì giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi
vật chất, chuyện quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại
là những chuyện liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm,
hoặc ít người quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng
những đem lại hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài
đời sau.
5. Cần có sự điều hòa và
quân bình giữa tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động
Trong thực tế, hai khía
cạnh của sự sống – tâm linh và thể chất – liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía
cạnh này tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia.
Tuy nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho
khía cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một
cách điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê
khía cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.
Cũng tương tự như thế,
cần phải có sự điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu
nguyện nhiều mà không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động
thực tế, thì sự cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực,
nghĩa là không thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu hiện nay ở trong
tình trạng này. Họ cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã
dành rất nhiều thì giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ
đến hành động để thể hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được
khi cầu nguyện đích thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải
làm, nhưng họ đã không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ
hoặc quá nhấn mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến
bổn phận phải hành động.
Tuy nhiên, năng hành
động mà không năng cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích
riêng của mình, chứ không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế
xét về mặt tâm linh thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng.
Người hành động nhiều mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một
vùng đất lạ, chỉ biết đi tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để
biết mình đang ở đâu, và biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế,
có rất nhiều khả năng là họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết
dừng lại để ăn uống, hay để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp
nhiên liệu cho phương tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi
hết cuộc hành trình. Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời
sống Kitô hữu mà chúng ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong
cuộc sống.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, bất kỳ một
nhân đức nào trong đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối
nghịch với nó thì nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con
ơn khôn ngoan và khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà
cương quyết, năng cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v... Tóm lại, cho con vừa
biết lắng nghe lời Chúa như Maria, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc
như Mácta. Amen.
24.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MATTA VÀ MARIA
Trình thuật đưa độc giả
vào đề tài tình yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường và xin chỗ trú
ngụ. Bà chủ nhà và người con gợi nhớ tới, đối với ai biết Tin Mừng thứ tư, hai
người chị của Ladarô ở Bêtania (Ga 11;12,1-8). Nhưng trong trình thuật của Luca
còn ghi lại là những người xa lạ mà theo lôgich1 thì ngược lại là những người
kia ở mãi Giêrusalem. Maria không có gì để đồng hoá được với Maria Magđala cả
(8,2; 24,10).
Sự tương phản giữa hai
chị em trước hết là ở việc được trình bày Maria như một đệ tử hoàn hảo, ngồi
dưới chân Thầy để đón nhận giáo huấn Ngài. Ngồi là tư thế cổ điển (x.8,35; Cv
22,3); truyền thống lại đã chẳng nói: Ước gì nhà con là nhà hội họp cho các
hiền nhân, hãy níu lấy bụi đất ở chân họ và uống lấy lời của họ cho đã khát!
(Misnha, Abot 1,4). Có điều không ổn ở đây nói tới một phụ nữ! Khi một Kinh sư
nổi tiếng ở cuối thế kỷ thứ nhất dám nói: "Dạy cho con gái mình luật thì
như dạy nó sống truỵ lạc" (Misnha, Sota 3,4), thì Chúa Giêsu lại khuyến
khích một phụ nữ theo giáo huấn của mình. Thái độ của cô chủ nhà thì khỏi cần
khách sáo: cô tất bật lo việc phục vụ –điều đó rất phù hợp với vai trò các phụ
nữ- môn đệ ở 8,3. Nhất là cô muốn người em cũng phải phục vụ như cô: cô còn xác
tín rằng Chúa không thể nào không đồng ý với cách thẩm định giá trị của riêng
cô (c.40).
Ngoài tiếng gọi
"Chúa!" –tước hiệu "Chúa" ở đây được Luca dùng hai lần. Như
lời tuyên tín của cộng đoàn Kitô hữu đối với Đấng Phục Sinh (x. Cv 2,36), chính
Chúa ở đây cần can thiệp trong Giáo Hội Người, bởi vấn đề được nêu lên luôn
luôn có tính cách thời sự. Ở Cv 6,2-4, ta sẽ gặp được một đối nghịch tương tự
giữa phục vụ Lời Chúa và phục vụ bàn ăn. Ngoài chuyện nêu lên việc phục vụ bàn
ăn; vấn đề là nhìn nhận có một tầm mức quan trọng khác nhau giữa hai việc: Chúa
trách cô chủ nhà về sự băn khoăn lo lắng của cô là điều trái ngược với tâm
trạng của người tín hữu đích thực (12,25-26) và, khi cô cho việc phục vụ bàn ăn
là ưu tiên, Ngài bênh vực cô Maria đã đặt việc nghe lời Ngài lên trước mọi quan
tâm khác. Như thế, làm môn đệ Chúa Giêsu, chính là chọn điều cần duy nhất. Thực
ra, đó không phải chính là yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực...
sao? Khi trình bày câu chuyện như ông đã làm từ câu 25, đó chính là điều mà
Luca muốn gợi lên cho độc giả của mình.
Có cần xác định thêm là
một phụ nữ có thể là môn đệ đúng hệt với danh nghĩa ấy như một nam nhân và
không bị giới hạn vào việc phục vụ bàn ăn chăng? Chắc chắn rồi... Khẳng định
theo đó "phần tốt này sẽ không bị lấy đi" lại không chói tai đối với
nhiều Kitô hữu là những người, như Matta, lấy làm khó chịu khi phải chấp nhận
để một người phụ nữ nghe Lời và phục vụ Lời sao?.
25.
Chú giải của Noel Quesson
Trong khi thầy trò đi
đường, Đức Giêsu vào làng kia.
Chúng ta chớ quên đang
cùng với Đức Giêsu trên "con đường" nào.
Vẫn luôn luôn là chính
lộ lên Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương
dài (Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba
thường niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người
quyết tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười
bốn, chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật
vừa qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi
kilômét để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng
ta dừng lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania,
cách trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu
nói chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời
điểm mà Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan
trọng của các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.
Chúng ta sắp tham dự vào
một cảnh thể hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.
Chúng ta còn nhớ Người
ta không muốn tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu
tìm được một gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc
nào Đức Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang
không nới trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để
nghỉ ngơi, để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời gian... và thời gian của tình
bằng hữu không phải là thời gian đánh mất!
Ở đầu dốc, bên cạnh con
đường đầy bụi có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt,
một cây táo đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm
ngát. Đức Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. "Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy
vào!"
Có một người phụ nữ tên
là Mácta đón Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria
Đó là hai chị em. Họ có
một em trai là Ladarô.
Các sách Tin Mừng nói về
họ ba lần, trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống
nhau trong mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm
lặng. Thánh Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: "Đức Giêsu quý mến cô
Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô" (Ga 11,5). Và trong
dịp gia đình họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã
khóc. Một lần khác, người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria
"cứ ngồi bên chân Chúa" (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những
người bạn gái Tuần lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà
họ (Mt 2 1,7 -26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).
Vậy thì ít nhất đó là
một nơi mà Đức Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.
Trong sách Khải Huyền,
Gioan sẽ sử dụng hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: "Này
đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà
Người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh
3,20).
Cô này cứ ngồi bên chân
Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.
Ôi! Một bức tranh thánh
kỳ diệu! Phải ở yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình
ảnh ấy. Ví dụ như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử
hình dung lại các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im
lặng, những khuôn mặt và những tấm lòng.
Đức Giêsu nói chuyện với
cô Maria ngồi bên chân Chúa... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì?
Giọng nói của Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt
lành chăng? Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức
Giêsu đã không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của
hạnh phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria
những lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.
Người lên Giêrusalem là
vì việc đó! Nó chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo
lắng của Người với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu
không? Về câu chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt
vời của tình bạn cởi mở đó sao." Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta
biết rằng người phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm
cái chết, sự mai táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại
Bêtania trong nhà cô những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria
sẽ thực hiện trước một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.
Các phụ nữ sẽ không thể
thực hiện việc ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ "ngày đầu tiên trong
tuần" để làm việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm
việc đó rồi, với sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó:
"Điều gì làm được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để
chuẩn bị ngày mai táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng
Thầy; còn Thầy, anh em không có mãi đâu"(Ga 12,7-8).
Cô tiến lại mà nói:
"Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin
Thầy bảo nó giúp con một tay!"
Sự can thiệp này của
Mácta làm nổi bật sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả
lời của Đức Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô
chị. Ở đây không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục
vụ của cô là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu
"phục vụ" những người khác... "Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy
đến. Vì xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống"
(Mt 25,34).
Lạy Chúa, con xin dâng
cho Chúa những công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô
số các phụ nữ trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.
Chúa đáp
Chúng ta không thể không
nhận thấy sự trang trọng khi Luca dùng danh xưng "Đức Chúa" ba lần.
"Đức Chúa" chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ
cho chúng ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù
rất thú vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một "mạc khải". Đấng
sắp nói chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải
được chúng ta tiếp nhận "trong đức tin". Vả lại, toàn bộ câu chuyện
trên đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:
Mácta! Mácta ơi! Chị băn
khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!
Hẳn người ta có thể mong
đợi Đức Giêsu kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình
huống. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta phải "phục vụ", phải yêu thương.
Rõ ràng, câu trả lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng
Mácta lo lắng và "giao động" quá nhiều. Đây là một đề tài được Người
ưa thích. Người đã nói rằng "những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt
Lời Chúa đã được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ
không nên lo lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các
thừa sai chớ lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà
án (Lc 12,11). Người sẽ nói rằng chớ để "lòng mình ra nặng nề vì lo lắng
sự đời" trong lúc chờ đợi Con Người lại đến" (Lc 21,34). Đức Giêsu
nói: "Bạn ơi! Chớ quên điều chủ yếu!"
Đức Giêsu không lên án
Mácta vì công việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự
căng thẳng, sự giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng
là một sự bực bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.
Chúng ta hãy tiếp nhận
lời lời gọi của Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta
cũng chạy, phi nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra
phải trở thành thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để
"sống" thay vì để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn
điều này, bạn chớ quên điều chính yếu.
Chỉ có một chuyện cần
thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi
Vậy "chuyện cần
thiết duy nhất" ấy là gì?
Đó là làm điều Maria đã
làm "Ngồi bên chân Chúamà nghe lời Người dạy". Khi khẳng định đó là
điều cần thiết duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ,
Đức Giêsu đã thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi
lo lắng trần gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những
dịp khác. "Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4).
"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga
4,34) Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.
Vậy quả thật Đức Giêsu
không đánh giá thấp sự "phục vụ" mà Mácta đem lại khi bận rộn với
việc "nội trợ và bếp núc". Nhưng để "đi theo Đức Giêsu" thì
ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc
5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con
người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối,
triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà
Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình
trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa
trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu
không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã "'lắng nghe Lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành" (Lc 1 1,27-28).
Vả lại khác với các
Thánh sử khác, rõ ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với "Lời của
Thiên Chúa" (Lc 5,1-8-11-21-11,28).
Lòng chúng ta yêu thích
lắng nghe Lời như thế nào? Có phải đó là "phần tốt nhất" hàng ngày
của chúng ta? Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?
26.
Matta và Maria – R. Gutzwiller
Ta chỉ có thể hiểu dễ
dàng những lời Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương quan mật
thiết với chủ đề 'lên đường'. 'Lên đường' không có nghĩa là dửng dưng với những
cái thuộc về vật chất hay những lo toan trần thế.
Đây không có vấn đề đối
nghịch giữa đời chiêm niệm và đời hoạt động, mà chính là giá trị và sự hài hoà
đúng đắn giữa hai đời sống đó. Chúng ta không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy
hoạt mà hãy biết sử dụng những giây phút trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp
với Thiên Chúa -dĩ nhiên là không tìm kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng
chính là kín múc ở đó một năng lực mới để phục vụ con người. Vì sống là 'lữ
hành' là 'đi' nên con người phải dành cho đời mình những lúc 'dừng chân đứng
lại', 'nghỉ ngơi lại sức' định lại hướng đi, dò lại bước đường đã qua để có thể
vững bước tiếp tục cuộc hành trình và ra đi phấn khởi hơn.
Hoạt động phải được xen
kẽ bằng chiêm niệm và chiêm niệm phải chứa chan cuộc sống và triển nở trong
việc làm. Trong Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi
sáng những người khác thì quan trọng hơn là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội
tâm thôi.
Dĩ nhiên chúng phải bắt
nguồn nơi việc chiêm niệm nhưng thay vì khư khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải
thông truyền sự hiểu biết và thông suốt nội tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác
động hợp nhất với Thiên Chúa và sự hợp nhất với Ngài triển nở ra việc làm, mới
cấu thành một mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối cao....
Những lời Chúa nói với
Matta, là một cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt động ồn ào, giả tạo, quá khích tức
là thứ hoạt động không hề hay biết đến dành cho những khoảnh khắc để cầu
nguyện, hay ít là những lời nguyện tắt, không để ý gì đến tiếng Chúa mời gọi
trong cái thinh lặng và dần dà để mình bị tha hoá, thác loạn.
Còn việc Chúa khen cô
Maria không có nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi,
để thấy rõ điều này, chúng ta hãy xem gương của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài
khen cô Maria chẳng qua là Ngài nói đến tinh thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống
trọn vẹn và tích cực cho Chúa, vào lúc mà Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách
đặc biệt.
Lên đường có nghĩa là đi
về với Chúa, tức là luôn hướng nhìn về Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế
không phải là dừng laị và nghỉ ngơi trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp
tục cuộc hành trình kết hợp với Chúa đích thực. 'Chiêm niệm trong hành động'
hiệp nhất với Thiên Chúa trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho
thấy việc phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai
biết dành những khoảnh khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể
hiến thân trọn vẹn phục vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo
Chúa Kitô giả thiết một thái độ tương tự như thế.
27.
Người khách muốn gì? – Lm Vũ Phan Long
"Phần duy nhất cần
thiết" của đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là
để cho Người tiếp tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở
trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria
chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta
phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này
truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi,
mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện
này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem
truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người
"lắng nghe lời" Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc
"lắng nghe lời" này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói
đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói
đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được
Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa
Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những
điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở
đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp
nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người
mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ "lắng
nghe" (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày
cuộc đối thoại về "điều răn lớn" (10,25-37), với câu kết: "Ông
hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí
truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của
Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà "các vua
chúa và ngôn sứ" không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng
có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn
Người Samari nhân hậu. Ông này đã "chạnh lòng thương"
(esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn
bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu
mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Khung cảnh và các
nhân vật (10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta
và Đức Giêsu (10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- một làng kia (38):
Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn,
"làng" này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta
biết rằng Mácta và Maria, hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần
Giêrusalem.
- Maria (39): Cô này
cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này
với Maria Mácđala ở 8,2.
- ngồi bên chân Chúa
(39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).
- Chỉ có một chuyện cần
thiết mà thôi (42): dịch sát: "Chỉ cần một điều mà thôi". Lời Đức
Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách
bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức
Giêsu, ta mới hiểu ra rằng "một điều" không chỉ là "một
món" mà còn có ý nghĩa khác. "Một điều" đây chính là "phần
tốt nhất" (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của "phần tốt
nhất" ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân
vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở
trong chuyến đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là
Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và
tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà
nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được
ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài.
Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên
Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người
nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta
nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta
và Đức Giêsu (40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên
tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn
cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người
ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai
chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu
cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề
là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến
chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ
muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất?
Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do
thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người
khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn,
cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan
tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng
trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn
nhiều.
Maria lắng nghe Ngài.
Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức
Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để
được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức
Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn
cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh
hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là
đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng
nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều
thật sự mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác
giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu
trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn
nhấn mạnh đến "phần duy nhất cần thiết" là: làm môn đệ Đức Giêsu, là
lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng,
chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn
của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là
thuộc về "điều duy nhất cần thiết", và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng
mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi
luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối với Mácta, tiếp
khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút
bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện
ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì
giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng
cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang
các giá trị để đi theo.
2. Các Kitô hữu cần
thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng
điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những
thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản
chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và
đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự
cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như
thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện.
Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi
đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định
hướng và thay đổi.
3. Trong đời sống chung
(cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ...), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi:
"Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật
chất?". Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần
được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần
được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để
trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng.
Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng
nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ
niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương
hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói
nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là
có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
tiếp
khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút
bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện
ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì
giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng
cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang
các giá trị để đi theo.
2. Các Kitô hữu cần
thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng
điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những
thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản
chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và
đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự
cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như
thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện.
Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi
đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định
hướng và thay đổi.
3. Trong đời sống chung
(cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ...), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi:
"Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật
chất?". Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần
được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần
được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để
trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng.
Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng
nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ
niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương
hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói
nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là
có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét