KIỂM TRA TAY NHỊP CỦA HỌC VIÊN |
CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Đnl. 30, 10-14; Cl. 1, 15-20; Lc. 10, 25-37
MỤC
LỤC
1. Tội thờ ơ
2. Nhớ mang theo
trái tim - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Yêu rồi làm –
Thiên Phúc
4. Hãy yêu
thương thì sẽ được sống – André Sève
5. Ai là anh em
của tôi? – Veritas
6. Ai là người
thân cận
7. Hãy đi và làm
như vậy
8. Phục vụ nâng
cao giá trị con người
9. Ông hoàng
hạnh phúc – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
10. Người
Samaritanô nhân hậu
11. Yêu người
12. Ai là người
Samaria tốt nhất? - Charles E. Miller
13. Người Samari
tốt lành – Flor McCarthy
14. Giới luật
yêu thương - R. Gutzwiller
15. Tình yêu và
hạnh phúc
16. Một lệnh
truyền khó xử – Achille Degeest
17. Yêu Thiên
Chúa và yêu tha nhân
18. Suy niệm của
JKN
19. Người
Samaria nhân từ
20. Yêu thương
21. Chú giải của
Fiches Dominicales
22. Ai là người
thân cận của tôi? - Lm Vũ Phan Long
23. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
24. Chú giải của
Noel Quesson
1. Tội thờ ơ.
Tôi đã chứng
kiến không chỉ một lần cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường phố.
Có khi đó là hai thanh niên quyết ăn thua đủ với nhau. Có khi đó là một người
đàn ông đánh đập tàn nhận một người đàn bà. Có khi đó là hai cô gái sừng sổ với
nhau. Điều đáng nói là mọi người dường như có vẻ dửng dưng, như chứng kiến một
cánh đấm đá trên màn ảnh? Phải chăng con người ngày nay đã xơ cứng trước nỗi
thống khổ của kẻ khác?
Thực tế có lẽ
không đến nỗi quá quắt như vậy. Người ta chỉ thờ ơ để khỏi mang vạ vào thân
giữa một xã hội mạnh ai nấy sống. Tuy thế cũng thật đáng buồn và đáng suy nghĩ.
Tôi chắc có nhiều người cũng như tôi, không hẳn là mình không muốn can ngăn
những cuộc ẩn đả xảy ra ngoài đường phố hay trong khu xóm. Có điều cái thói thờ
ơ, để khỏi bị liên luỵ và được yên lòng, đã chiếm lĩnh lối sống ích kỷ, cầu an
cá nhân của mình. Sống với tâm trạng như thế, chúng ta đọc sao được câu chuyện
người Samaria nhân hậu của Tin Mừng.
Người Samaria là
một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống
bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực
để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria
ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và
Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu
thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng
ta thì sao?
Tôi xin thưa
chúng ta cũng phải trở nên là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm
nay. Có nghĩa là chúng ta không phải chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho
người khác. Chúng ta không chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm tới hết mọi
người chung quanh. Chúng ta không chỉ nghiêm túc trong giờ phụng vụ mà còn
nghiêm túc trong mọi lãnh vực kinh doanh và sản xuất.
Trong xã hội, kẻ
thờ ơ với tha nhân cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không
thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi
mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ
giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha
nhân. Vậy thì để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã
thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi
việc kế cận với chúng ta hay chưa?
2. Nhớ mang theo
trái tim - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trường sinh bất
tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn
đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi
Chúa "làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời".
Để trả lời ông,
Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một
người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh
nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế
tránh qua bên kia đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria,
một người ngoại đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa
hết, ông còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ
quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.
Qua câu chuyện
người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời
đời.
Đường Giêrikhô
tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là
con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để
vượt qua thử thách, vũ khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng
có những phẩm chất như sau:
Đó phải là một
trái tim nhạy bén.
Người xứ Samaria
nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi
nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen
lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người
bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không
nghe. Hay nói đúng hơn, các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng
kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh
cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không
được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn
bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai
thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy
bén có đôi mắt sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong
tâm khảm.
Đó phải là một
trái tim quan tâm.
Trái tim quan
tâm đưa ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh
em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn
đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm
nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm
tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu,
nào là băng vải. Chẳng học nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành
thạo. Chẳng luyện tập mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo.
Chẳng có kỹ thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm
tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự
chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.
Đó phải là một
trái tim chung thuỷ.
Trái tim chung
thuỷ không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ
không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ
Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ
quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục
săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn
toàn.
Qua dụ ngôn,
Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người
vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và
Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ
Samaria đã đi đến nơi vì ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy
bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận
như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy
tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng
nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim.
Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang
theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là
con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu
hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1- Theo ý bạn
đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
2- Mỗi khi gặp một
người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý
do để thoái thác?
3- Sau khi nghe
dụ ngôn "Người xứ Samaria nhân hậu", bạn có quyết tâm gì?
4- Mang theo
trái tim nghĩa là gì?
3. Yêu rồi làm –
Thiên Phúc
(Trích dẫn từ
'Như Thầy Đã Yêu')
Một vị ẩn sĩ
sống trong một khu rừng luôn bị một cô gái chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự
thanh thản của vị tu hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của
người đàn ông, cô liền hỏi một câu chế nhạo:
- Thầy không
biết yêu sao?
Vị ẩn sĩ trả
lời:
- Chưa đến giờ
đó thôi?
Câu chuyện bỏ
lửng tại đó. Một lần kia, trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người
con gái hay đến phá phách mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống
thiếu chết bên lề đường. Ông bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết
thương và đưa cô về thành phố điều trị
Cô gái sững sờ
nhìn vị ân nhân mà chưa biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:
- Đã đến giờ rồi
đấy, giờ của lòng thương xót!
Người thông luật
trong bài Tin mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: "Ai là người thân cận của
tôi?" Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành:
Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn
lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và
Lêvi "tránh qua bên kia mà đi", thì người Samaria ngoại đạo lại dừng
chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi
lại người thông luật: "Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?" Hỏi
tức là trả lời. Và người thông luật đáp: "Chính là kẻ đã thực thi lòng
thương xót". Chúa Giêsu bảo: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.
Vị ẩn sĩ trong
câu chuyện trên đây và người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách
tuyệt vời, đó là "yêu bằng việc làm". Yêu không chỉ trên đầu môi chót
lưỡi, rồi phủi tay không làm gì cả, mà yêu chính là "miệng nói tay
làm", làm thực sự với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường
hùng hồn hơn những lời nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim
đến đôi tay. Chúa Giêsu muốn chúng ta đi hết con đường đó: "Hãy đi và làm
như vậy". Pascal đã nói: "Khuyết tật lớn nhất của một người là phục
vụ quá ít cho những kẻ họ yêu thương".
Sở dĩ người ta
không dám làm một cái gì đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm
vượt qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế
và thầy Lêvi "tránh qua bên kia mà đi" là vì các thầy sợ ô uế khi
đụng vào xác chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản
thân.
Sở dĩ chúng ta
không dám làm một cái gì đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta
sợ phải thiệt thòi, sợ tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng
đến sự an toàn, tiện nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và
thầy Lêvi đã tự hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn
sóc người anh em bị đánh nhừ tử?" Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu
hỏi: "Điều gì sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không
dừng lại và chăm sóc người ấy?" Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một
hành động vị tha đầy nguy hiểm.
Yêu thương không
phải là cho đi một cái gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy
sinh, là quên mình, là hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói
chí tình: "Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi
chính mình, bạn mới thực sự cho đi". Càng đi tìm bản thân, con người càng
đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng
chết dần mòn trong nỗi cô đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong
thân.
Nỗi khát khao
hạnh phúc của con người chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống
phục vụ tha nhân.
Con người chỉ
thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi họ dám sống chết cho anh
em.
Người tín hữu
Kitô chỉ thực sự là con Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa
Calcutta nói: "Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình".
Yêu rồi làm. Khi
đã yêu rồi chúng ta sẽ biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng
ta sẽ có sáng kiến để xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau
khổ. Khi đã yêu rồi, chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận,
kẻ thù địch nên người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi
xuống trước anh em.
Lạy Chúa, cuộc
sống đạo của chúng con sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu
thương chỉ là điều phụ thuộc. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính
toán ích kỷ; chai đá, dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy
chúng con biết chạnh lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng
con. Amen.
4. Hãy yêu
thương thì sẽ được sống – André Sève
(Trích dẫn từ
'Tin Mừng Chúa Nhật')
Rõ ràng là từ
yêu thương được nói đến nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm
vì nếu không có hai từ này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.
Đàng khác, mở
đầu câu chuyện diễn ra rất nhanh:
- Tôi phải làm
gì để được sống? Luật sĩ hỏi.
- Hãy yêu
thương, Chúa Giêsu nói, cứ làm như thế ngươi sẽ được sống
Vào lúc kết
thúc, sau câu chuyện đẹp về tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ
làm như thế. Để chiến thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm:
cuộc đối thoại đanh thép và câu chuyện không thể quên được.
Cho nên phải làm
gì để được sống? Yêu mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết
chặt chẽ với nhau đến nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai.
Chúa Giêsu công nhận lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: "Ngươi hãy yêu mến
Chúa và thương yêu anh em". Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn
cần phải dựa vào mối liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những
bản văn cuối cùng của Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: "Nếu
ai thấy anh em mình cần đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có
lý nào đức ái Thiên Chúa ở cùng người ấy được" (1Ga 3,17). Đây là lời
khuyên cho những kẻ tin rằng với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho
phép mình ích kỷ hoặc có tính xấu.
Chúng ta hãy xem
xét khẳng định của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức
yêu thương bằng được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu
có, chúng ta hãy cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của
chúng ta. Nhưng đây là điều phải kiểm chứng.
Khi Chúa Giêsu
nói đến yêu thương ở đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình
yêu hoặc tình bạn, là những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu
thương anh em rất có tính cách bó buộc, cụ thể. "Phải làm điều đó!".
Và đây không luôn luôn là điều làm thích thú.
Trên đường
Giêricô, thầy tư tế và thầy Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ
rằng người kia đã chết, họ sợ bị ô uế "theo tập tục" (theo những luật
lệ Do Thái giáo), điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu
nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng
"yêu thương là được sống".
Tuy vậy chỉ cần
so sánh họ với người Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không
phải nơi những bản chất nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm
hoảng sợ. Than ôi người ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này
cám dỗ, với cái giá phải trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.
Người Samari đã
chọn một cuộc sống hao tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó,
ông có lẽ đã cảm thấy cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống
của ông chiến thắng những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động
lòng thương và ông làm mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không
tính toán. Không chờ đợi một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm,
hạnh phúc vì đã làm một người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp
tục sống lay lắt. Còn người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói:
"Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống".
5. Ai là anh em
của tôi? – Veritas
(Trích dẫn từ
'Hãy Ra Khơi')
Sáng nay, khi
đọc đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa chia sẻ với nhau trong thánh lễ này, tôi đã
nghĩ đến ngay bài tập viết đầu tiên mà tôi đã phải cố gắng vẽ ngoằn ngoèo trên
trang tập đầu tiên mới mua về. Đó là ngày tôi được thầy cho lên lớp bắt đầu tập
viết những chữ a, b, c... Trưa về nhà khoe với mẹ, đúng ngay lúc cha tôi đang
ngồi tiếp chuyện với một ông cụ nhà nho quen biết trong làng.
Nghe tôi khoe,
cha tôi cầm lấy cuốn tập, mấy trang đầu đã đề những chữ a, b, c, rồi nói với
ông cụ ngồi đối diện: Xin cụ viết giùm vào trong trang thứ hai này bốn chữ
"Kính Chúa Yêu Người". Cụ nhà nho viết xong, cha tôi đưa sang cho tôi
đang đứng bên cạnh và nói: "Đây, con đến ngồi trên ghế cạnh kia rồi đồ lại
những chữ này". Thật là khốn khổ cho tôi lúc đó mới học viết được ba chữ
a, b, c, mà bây giờ cha tôi lại bắt viết trọn cả bốn chữ "Kính Chúa Yêu
Người".
Tôi còn nhớ rõ
hình ảnh những chữ mà tôi cố gắng vẽ theo mà không hiểu gì cả, chỉ biết rằng
đây là bốn chữ nói "Kính Chúa Yêu Người". Biết được bằng lỗ tai, nghe
qua miệng cha tôi nói, chứ lúc đó làm gì mà tôi đã đọc được bốn chữ "Kính chúa
Yêu Người". Và biến cố đã in sâu vào tâm trí tôi, đến nỗi mỗi lần nhớ đến
cha tôi là mỗi lần tôi nhớ đến bài học đầu tiên này và cũng là bài học mà giờ
đây tôi hiểu là cần phải học mãi suốt đời cũng chưa xong: "Kính Chúa Yêu
Người". Nhìn vào những chữ ngoằn ngoèo mà tôi đã phải viết ra hay nói đúng
hơn phải đồ lại cho đầy trang giấy rồi mới được đi chơi, và có thể đây là hình
phạt cho tật hay khoe của tôi lúc đó. Cha tôi mỉm cười bảo: "Con phải làm
sao để sống được bốn chữ này cho đến chết mới thôi".
Cuộc gặp gỡ giữa
Chúa Giêsu và nhà thông luật hôm nay phần nào cũng có thể được ta hiểu theo
viễn tượng của kinh nghiệm nhỏ của tuổi thơ tôi ngày xưa. Người luật sĩ đến với
Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất của cuộc đời:
"Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Và đây cũng là
thắc mắc của mọi người, không ai có thể dập tắt được câu hỏi này trong tâm hồn
họ. Tạm thời, họ có thể dẹp qua một bên câu hỏi này, vì những lo toan cho cuộc
sống hoặc vì những mê lợi của lợi danh, của quyền lực... Nhưng rồi vào lúc nào
đó con người và mỗi người chúng ta cũng sẽ phải đặt ra cho mình câu hỏi này:
"Tôi sống đây để làm gì? Và tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Bản tính con
người là như vậy, không thể nào chối bỏ được khát vọng hướng về trời cao, đó là
khát vọng căn bản sâu xa nhất của con người, của mọi người chúng ta. Chúa Giêsu
đã gợi ý cho nhà thông thái trả lời đúng như Kinh Thánh dạy, mà nội dung theo
tôi nghĩ không khác xa gì bốn chữ tôi đã học được từ cha tôi ngay từ khi mới bắt
đầu đi học: "Kính Chúa Yêu Người".
Đây không phải
là vấn đề về hiểu biết, một người nông dân bình thường không biết chữ như cha
tôi cũng biết tóm gọn luật Chúa trong bốn chữ "Kính Chúa Yêu Người"
để truyền lại cho tôi. Vấn đề là nơi thực hành là phải biến đổi tâm hồn của
chính mình để nhìn nhận mọi người là anh chị em của mình.
Chúa Giêsu đã
phải dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để soi sáng cho nhà thông thái, để
rồi rốt cuộc như thể chính ông cũng khám phá ra được chân lý. Chúa Giêsu không
đặt vấn đề như nhà thông thái: "Ai là người thân cận của tôi", mà
Ngài đã đặt lại vấn đề: "Ai đã trở nên người thân cận của người anh em bị
nạn kia", và nhà thông thái đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ đã tỏ ra
lòng thương đối với người đó".
Tâm hồn cần có
tình thương, nhất là cần được đầy tràn tình thương của Chúa thì mới dễ dàng trở
thành tâm hồn thân cận của mọi người, trở thành người anh chị em của mọi người,
bất luận người đó là ai. Không phải dễ thực hiện sáu chữ của Chúa Giêsu cho nhà
thông thái: "Hãy đi và làm như vậy".
Chúa Giêsu cũng
nói với mỗi người chúng ta hôm nay, chúng con, những đồ đệ của Ta. Chúng con
phải có tâm hồn đã biến đổi bởi tình yêu Chúa, để rồi có thể trở thành người
anh chị em của mọi người mà thực hiện trọn vẹn giới răn: "Kính Chúa Yêu
Người".
Cử hành Bí tích
Thánh Thể, nhất là được thông phần vào Mình và Máu Thánh Chúa, được chia sẻ
chính sự sống của Chúa, người Kitô có được sức mạnh mới để thực hiện tình
thương trong cuộc sống của mình, trong bất cứ môi trường sinh sống nào.
Chúng ta đây, chúng
ta có biết quí trọng việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta
không? Chúng ta có năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể để múc lấy sức
mạnh sống tình thương đối với anh chị em hay không? Không đến với Chúa, chúng
ta cũng khó đến với anh chị em xung quanh. Xin Chúa thương nhắc nhở chúng ta,
củng cố lòng mến nơi chúng ta và nhất là củng cố đức tin nơi mỗi người chúng
ta, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
6. Ai là người
thân cận
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm
nay có bốn động từ làm.
Tôi phải làm gì
để được sự sống đời đời (c.25)? - Cứ làm như vậy, ông sẽ được sống (c.28). - Kẻ
đã thực thi (làm) lòng thương xót... (c.37). - Ông hãy đi, và cũng hãy làm như
vậy (c.37).
Tình yêu đòi thể
hiện bằng việc làm cụ thể.
Người Samari đã
chạnh lòng thương trước nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông.
Anh đã thể hiện lòng thương xót qua hành động.
Từ trái tim đến
đôi tay là một con đường dài.
Mẹ Têrêsa
Calcutta đề nghị mỗi tối trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào hai
bàn tay. Hôm nay tôi đã làm gì cho Giêsu và với Giêsu?
Yêu bằng hành
động đòi ta nhiều can đảm.
Người Samari
phải vượt qua những nỗi sợ tự nhiên. Sợ bị nhơ uế bởi đụng vào xác chết. Sợ bọn
cướp còn quanh quẩn đâu đây. Sợ cuộc hành trình bị chậm trễ. Sợ những phiền luỵ
phức tạp cho mình. Những nỗi sợ rất khôn ngoan và hợp lý.
Nỗi sợ khiến
người ta tránh qua bên kia mà đi, khi nỗi sợ ấy lớn hơn lòng thương người bị
nạn.
Chỉ ai thắng
được nỗi sợ mới dám ngừng lại, đến gần và cúi xuống. Chỉ ai không sợ mới thấy
thực sự.
Thầy tư tế và
thầy Lêvi đều thấy nạn nhân. Nhưng nỗi sợ đã khiến họ nhắm mắt làm ngơ và biến
họ trở thành người không thấy.
Người không thấy
điều đã thấy thì chẳng thể nào là người thân cận.
Người Samari dám
đến gần, gần hơn qua cử chỉ săn sóc, và anh đã trở nên người thân cận của kẻ bị
nạn.
"Ai là
người thân cận của tôi?"
Đó là người đồng
bào, đồng đạo, thuộc dân Thiên Chúa. Người Do Thái thời Đức Giêsu dễ trả lời
như thế.
Ở cuối dụ ngôn,
Đức Giêsu đã lật ngược câu hỏi trên:
"Ai là
người thân cận của kẻ bị cướp?"
Chỉ cần đổi lối
đặt câu hỏi, tất cả cánh cửa như mở tung, mọi hàng rào bị phá đổ.
Tôi không chỉ
phục vụ cho người thân cận của tôi.
Khi tôi đến gần
ai mà phục vụ thì tôi trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy trở thành
người thân cận với tôi. Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi,
miễn là tôi dám yêu họ như chính mình.
Người Samari bị
dân Do Thái khinh miệt, nhưng họ có thể sống luật yêu thương cách tuyệt vời.
Hôm nay vẫn có các
Kitô hữu đi dự lễ về, nhưng sống xa lạ với đức ái Kitô giáo.
Ước gì chúng ta
đơn sơ và hồn nhiên hơn khi yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu
là những dấu hiện cho thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
"Yêu người
thân cận như chính mình." Yêu chính mình là một điều quan trọng. Theo ý
bạn, một người yêu chính mình một cách đúng đắn là người như thế nào? Đâu là
những tội phạm đến chính mình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc
đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con
hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn
được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng
con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người
nối với người,
vòng tay con
người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích
Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay
chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa
giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh
em.
7. Hãy đi và làm
như vậy
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Tôi phải làm gì
để được sự sống đời đời?
Phải yêu, yêu
hết mình, yêu Thiên Chúa và yêu người thân cận.
Đức Giêsu khen
câu trả lời của người luật sĩ và bảo: "Hãy làm như vậy và ông sẽ có sự sống."
Để có sự sống,
cần phải yêu, nghĩa là ra khỏi mình và trao hiến.
Ai không yêu là
huỷ hoại chính mình và người khác.
Con người được
dựng nên bởi Đấng là Tình Yêu, được khuôn đúc theo hình ảnh của Tình Yêu đó,
nên con người hướng về Tình Yêu như hoa hướng dương quay về phía mặt trời.
Con người chỉ
thật là mình khi biết yêu thương.
Hãy yêu người
thân cận như chính mình.
Nhưng ai là
người thân cận của tôi? Đức Giêsu giúp ta tìm thấy câu trả lời bất ngờ qua dụ
ngôn người Samari nhân hậu.
Người thân cận
của tôi là mọi người đang cần đến tôi, là người hôm nay tình cờ tôi gặp trên
đường.
Người thân cận
là người gần tôi vì tôi đã đến gần người ấy, đã cúi xuống và phục vụ.
Không phải vì
người đó là thân cận của tôi nên tôi đến gần mà phục vụ. Nhưng khi tôi đến gần
bất cứ ai mà phục vụ, tôi biến mình thành người thân cận của họ.
Chẳng ai là
người xa lạ với tôi, nếu tôi không tránh họ như hai thầy Lêvi và tư tế.
Người thân cận
với tôi không chỉ là người cùng nhà, cùng nhóm, cùng tôn giáo, cùng quê hương,
cùng lý tưởng.
Người thân cận
với tôi không phải là một ý niệm trừu tượng nhưng là bà mẹ già gần bên, là
người bạn chung phòng, là người hàng xóm mà tôi phải chịu đựng, là tất cả những
ai đã và đang làm tôi đau khổ.
Tất cả đều có
thể được tôi yêu thương và đều có thể trở nên người thân cận của tôi.
Tình yêu là một
phép mầu, chỉ cần tôi dám bước tới, xích lại và cúi xuống là người lạ nên quen,
người xa nên gần, kẻ thù nên bạn.
Những khoảng
cách được lấp đầy, những rào chắn phút chốc sụp đổ.
Nhưng yêu không
phải là chuyện dễ dù con người hôm nay cứ tưởng mình đã biết yêu.
Lúc nào cũng có
cớ để người ta né tránh yêu thương. Thầy tư tế và Lêvi đều tránh qua một bên mà
đi. Phải chăng họ sợ bị ô nhơ nếu đụng nhằm xác chết? Phải chăng họ sợ bọn cướp
vẫn còn ở đâu đây? Những nỗi sợ làm người ta bỏ đi.
Chấp nhận là đến
gần và cúi xuống là chấp nhận liều lĩnh và trả giá. Cuộc hành trình bị chậm
lại, chương trình phải thay đổi. Tiền bạc, thời giờ, công sức là những điều
phải trao đi. Tất cả chỉ vì chạnh lòng thương, vì con tim biết nhói đau trước
nỗi khổ của người khác.
Tình yêu thực sự
bao giờ cũng cụ thể: chấp nhận cả tay và người bị dơ bẩn lấm lem, chấp nhận gặp
rắc rối, xáo trộn và nguy hiểm, vì Tình Yêu đòi hiến trọn con người.
Chúng ta cần
thành thật nhận mình chưa biết yêu, vì yêu như thế thì vượt quá sức con người.
Cần đón lấy nguồn Tình Yêu Thiên Chúa đổ vào tim ta (Rm 5,5) để tim ta trở nên
mênh mông và quảng đại, để ta thi hành được điều Chúa nói:
"Ông hãy đi
và cũng hãy làm như vậy."
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn có sự sống
đời đời, cần phải yêu, nghĩa là mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân. Bạn có nghĩ
rằng muốn có sự sống ở đời này, cũng cần phải yêu không? Ai không yêu, người ấy
đã chết ngay khi còn sống, bạn có cảm nghiệm được điều đó không?
Thế giới còn quá
nhiều người lây lất, nửa sống nửa chết. Thế giới vẫn cần những người Samari dám
ngừng lại và cúi xuống. Có lần nào trong đời bạn là người Samari không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc
đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó
chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để
vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng
con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người
nối với người,
vòng tay con
người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích
Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay
chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa
giang tay trên thập giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là
anh em.
8. Phục vụ nâng
cao giá trị con người
(Trích dẫn từ
'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trước mắt người
Do Thái thì dân Samari thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã
kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ
bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem
người Samari như những người hạ cấp đáng bị tẩy chay.
Thế nhưng hình
ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời. Giá trị của
người đó gia tăng thật cao. Nhờ đâu được như vậy. Chúng ta hãy theo dõi câu
chuyện do Chúa Giêsu thuật lại như sau:
Tại một khúc
đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra
trấn lột hết tiền bạc của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương nằm thoi
thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng.
Thế rồi, một tia
hy vọng loé lên trong đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ
hành đang từ xa đi tới. Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao
vì đây là một vị tư tế, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi
vị tư tế cố tình rảo bước cho nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh
nằm thoi thóp giữa đường.
Một lát sau, có
một thầy trợ tế đi qua, niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên nhưng rồi
vụt tắt, vì thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, rồi cũng vội vàng
rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn
lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn
khổ kia...
Cuối cùng, có tiếng
lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện, một người dân Samari. Ôi
thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người nầy, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là
lai căng và rối đạo!
Thế nhưng thật
bất ngờ, người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm
thương con người xấu số.
Có thể giờ nầy
vợ con ông ta đang nóng lòng mong đợi ở nhà, có thể bọn cướp còn đang lai vãng
đâu đây lại xông ra để cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu
số, lại phải mất công, bỏ việc vì nạn nhân nầy... nhưng thôi, đành phó mặc...
Thương người như thể thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.
Thế là người
Samari vội mở hành trang lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những
vết thương còn rỉ máu, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên
lừa của mình, quay ngược đường trở về quán trọ.
Đến nơi, ông ta
lo liệu cơm cháo thuốc men, săn sóc nạn nhân như cho người thân yêu của mình
suốt đêm. Sáng hôm sau, vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng
trước khi ra đi, ông ta dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn:
"Xin ông vui lòng chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí
thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông".
Thật là một hy
sinh hết sức lớn lao! Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn
được Giáo Hội truyền tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời. Sáng
giá thay con người biết yêu thương, hy sinh và phục vụ!
Thế là đang khi
danh giá người Samari lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái thì danh giá vị tư
tế và thầy Lê-vi bị tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy
sinh giúp đỡ nạn nhân trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo.
Phục vụ còn là
điều kiện để được sống đời đời
Nhưng sự hy sinh
phục vụ của người Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta mà thôi, mà còn
là một điều kiện tiên quyết giúp ông được sống đời đời.
Khi người thông
luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu giúp ông ta
khám phá ra câu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người
thân cận như chính mình."
Chúa Giêsu không
lý thuyết suông, Ngài cụ thể hoá quy luật mến Chúa yêu người bằng hành động
nhân ái của người Samari trên đây với lời kết luận: "Ông hãy đi và làm như
vậy". Như thế, những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ
như người Samari trên đây.
* * *
Quên mình phục
vụ tha nhân, một việc làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị
của mình và được hưởng sự sống đời đời.
Lạy Chúa, biết
đến bao giờ con mới có thể trở thành một người Samari mới cho xã hội hôm nay!
Biết bao giờ con mới dám hy sinh phục vụ để đạt được sự sống đời đời!
9. Ông hoàng
hạnh phúc – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ
'Cùng Nhau Suy Niệm')
Có một câu chuyện
ngụ ngôn kể rằng: ở một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất
hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên
một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu
tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều
đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước
rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông
Hoàng. Ông đang khóc. Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim
én ngạc nhiên và hỏi rằng:
- Tại sao ông
khóc? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà!
- Ông hoàng trả
lời: Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và
không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt
ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được,
tôi phải bay đi cho kịp đàn đang bay về phương bắc.
- Hãy làm ơn
giúp ta đêm nay đi.
- Chim én ngập
ngừng giây lát rồi nói: Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp
lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền
gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
- Chim én dùng
mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con
bà khỏi bệnh.
- Hôm sau Ông
Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một
người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết
ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho
người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã
là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
- Một buổi sáng,
người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần
trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc
của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
Đôi khi trong
cuộc sống chúng ta vẫn vô tâm như vậy. Nhiều người đã được sống hạnh phúc nhưng
họ đâu biết rằng hạnh phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của
biết bao nhiêu người. Có thể đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ
từng ngày vất vả trên nương đồng, hay trên công trường. Có thể đó là sự hy sinh
nhịn nhục của những người thân chịu thiệt thòi để họ được hạnh phúc. Có thể đó
là sự hy sinh nhường nhịn của bạn bè để họ được vui hơn trong cuộc sống. Thế
mà, nhiều người vẫn tưởng rằng mình lớn lên không cần ai giúp đỡ. Lối suy nghĩ
đó đã dẫn đến một đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ
với đồng loại.
Thực vậy, ở
trong cuộc đời này vẫn còn đó biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp
từng miếng vải để giúp kẻ cơ hàn. Cuộc đời vẫn còn đó biết bao người hy sinh cả
cuộc sống mình để phục vụ các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y. Vẫn còn
đó cả hàng triệu người đang đổ mồ hôi vật vã trên công trường, trên nương đồng
để làm ra của cải và sản phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng. Vâng,
cuộc đời vẫn còn đó biết bao người biết hy sinh vì tha nhân, biết kiến tạo niềm
vui trong những giọt mồ hôi lao nhọc để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, giòng đời
vẫn còn đó những trái tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng với
nỗi đau của đồng loại. Họ đâu biết rằng cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo
một giòng chảy của trần đời. Họ được đón nhận thì cũng phải biết trao ban. Vì
chẳng ai có thể giữ mãi cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có
rồi một mai cũng bị cuốn trôi theo thời gian.
Lời Chúa hôm nay
mời gọi chúng ta hãy biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta,
hãy biết chia sẻ với những khó khăn của tha nhân. Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi
đã bỏ lại đằng sau tiếng kêu cứu của đồng lại diễn tả một thế giới mà con người
luôn hối hả bận rộn với giòng chảy cuộc đời. Họ bị giòng đời cuốn trôi đến nỗi
đã quên rằng, cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha
nhân. Một cuộc đời có ý nghĩa là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha
nhân trong yêu thương và phục vụ. Và một cuộc đời đã mất khi không còn khả năng
để giúp đỡ anh em. Ông Hoàng hạnh phúc đã không còn hạnh phúc khi ông nhận ra
mình không còn khả năng để giúp đỡ đồng loại. Ông cảm thấy bất hạnh khi mình
không còn khả năng để xoa dịu nỗi đau của đồng loại. Ngược lại, người Samaria
nhân hậu, ông đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa
dịu nỗi đau của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó
nỗi đau của đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu
mến thân thương. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ
đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ nay trở thành kẻ thân thích. Ông đã
biết dùng của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau. Đó chính là mẫu
người mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.
Ước gì trong năm
thánh với chủ đề Giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ sẽ là lời nhắc nhở
chúng ta về Giáo hội của Chúa, do Chúa sáng lập và hiện diện thì mỗi ky-tô hữu
cần phải hiệp nhất với nhau trong Chúa, cần nhìn nhận nhau là anh em và hãy
biết sống đời kytô hữu bằng sự dấn thân để phục vụ tha nhân trong yêu thương
chân thành. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống
yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
10. Người
Samaritanô nhân hậu
(Trích dẫn từ
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một đạo sĩ Ấn
giáo nọ hỏi các đệ tử của ông như sau
-"Làm thế
nào để biết được đêm đã tàn và ngày bắt đầu?"
Sau vài phút suy
nghĩ, một đệ tử giơ tay xin trả lời:
-"Tôi biết
được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông thấy một con thú từ
xa mà ta phân biệt được nó là con bò hay là con ngựa",
Câu trả lời đã
không làm cho nhà đạo sĩ ưng ý chút nào... một đệ tử khác lên tiếng:
-"Ta biết
được khi nào là đêm tàn và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy một cây lớn từ đàng
xa mà ta phân biệt được đó là cây xoài hay cây mít",
Vị đạo sĩ lắc
đầu không đồng ý. Khi các đệ tử nhao nhao muốn biết giải đáp, ông mới ôn tồn
nói như sau:
-"Khi ta
nhìn vào gương mặt bất cứ người nào mà nhận ra người đó là người anh em của ta
thì đó là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế,
thì cho dù đêm có tàn, ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay
đổi".
Thưa anh chị em,
Nhân loại đã
chìm ngập trong đêm tối của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và
chối bỏ lẫn nhau giữa người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan ĐÊM tối và
khai mở NGÀY mới, trong đó người nhận ra người là anh em, người trở về với
Thiên Chúa.
Như nhà đạo sĩ
đã giải đáp: "khi ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra
người anh em của ta trong người đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu".
Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó chính là nhìn thấy hình ảnh của
Thiên Chúa nơi mọi người cũng như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó. Nhận
ra người anh em nơi một người nào, đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất
hạnh và ngay cả lỗi lầm của người đó như của chính mình.
Nhận ra người
anh em nơi một người nào, đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người
đó xúc phạm đến ta và không muốn nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em nơi một
người nào, đó cũng có nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của
người đó. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là muốn nói
với người đó rằng, cách nầy hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng
đáng với ơn gọi làm người hơn.
Trái lại, nếu ta
không nhận ra người khác là người anh em của mình thì mình vẫn ở trong bóng tối
đêm đen. Chỉ khi nhận ra được người khác là người anh em của mình, thì mình mới
bước vào ánh sáng ban ngày. Người khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da,
chủng tộc, ngôn ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em của tôi.
Thế nhưng, thưa
anh chị em, trong Tin Mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa: "Ai là anh em
tôi?". Để trả lời, Chúa Giêsu đã kể cây chuyện người Samari nhân hậu.
Người Samari nầy đã nhận ra nạn nhân đang năm lây lất bên đường là người anh em
gần gũi của mình, đang khi thầy Tư tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân
nằm bên vệ đường kia là người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng là người Do Thái
đồng bào và đồng đạo với mình. Nạn nhân đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào
hoàn cảnh bất hạnh.
Câu chuyện muốn
làm nổi bật thái độ dễ thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông
xuống ngựa và đến cúi xuống trên con người đang quằn quại ở vệ đường. Ông chẳng
để ý xem kẻ bất hạnh là ai? Là người Do Thái hay Samari – hai dân nầy vẫn coi
nhau như thù địch- ông chỉ thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình,
nhưng lại không được như mình. Thế nên ông đã săn sóc, băng bó vết thương và
chở đến quán trọ gần nhất cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi phí tổn nữa.
Như vậy, người
Samari nhân hậu nầy đã trở nên người anh em thân cận, gần gũi với người bị nạn,
mặc dù ông không cùng chủng tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như kẻ thù
của người Do Thái bị nạn nầy, đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là người Do
Thái vừa là bậc thầy dạy đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào xa lạ. Chính
những hành động bác ái thương người cụ thể như tế mới làm chứng ai thật là
người có đạo, ai thật là người, vì có lòng nhân ái.
Anh chị em thân
mến,
Ngày 11 tháng 2
năm 1984, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành một Tông thư mang tựa đề:
"Salvifici doloris" nói về "ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô
giáo" để toàn thể Giáo Hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo
Hoàng đã nhắc lại dụ ngôn "người Samari nhân hậu", không phải chỉ để
gởi tới các bệnh nhân, những người phải chịu đau khổ, mà còn gởi tới mọi người.
Bởi vì đau khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ
bị cám dỗ 'bỏ đi qua"một cách dửng dưng. Sự dửng dưng nầy là một nét đặc
trưng của thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn "Người Samari nhân
hậu" đã trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hoá đạo đức cũng như nền văn
minh phổ quát của nhân loại. Nhưng "khi đến với đau khổ của người khác,
không một tổ chức nào, tự nó, có thể thay thế người". Và vào ngày phán
xét, Chúa sẽ nói với mỗi người chúng ta rằng: "Ta bảo thật các ngươi, mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đâu, là
các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (x. Tông thư SD. Số 28-30).
Chúa Giêsu đã
bảo luật sĩ: "Cả ông nữa, hãy đi và làm như vậy". Hôm nay, chính với
chúng ta, Chúa Giêsu ban huấn lệnh cấp bách nầy: "Hãy đi và làm y như
vậy". Chúng ta hãy đi và làm như người Samari đã làm. Tất cả chúng ta phải
tiếp tục nhiệm vụ của người Samari nhân hậu bên cạnh tất cả những ai chúng ta
gặp và chân tình giúp đỡ, băng bó các vết thương của họ, nhưng vết thương,
nghèo đói, đau yếu, bệnh tật, cô đơn, chết chóc... Đừng ngồi đặt vấn đề:
"Ai là anh em tôi?", nhưng hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của
mọi người". Đừng dừng lại tìm xem người đó là ai, có đạo hay không có đạo.
Nhưng hãy đi và làm như người Samari kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó,
nhìn thấy người đau khổ thì cứu giúp. Phải vượt qua quan niệm hẹp hòi của người
Do Thái, để đi đến tình huynh đệ phổ quát, đại đồng.
Yêu mến Chúa
trong nhà thờ, không đủ, nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người
anh em đồng bào, đồng loại. Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật
day mến Chúa yêu người trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: "Anh em
đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc
làm". Ngài còn nói: "Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh
em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong
ánh sáng. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối đã làm cho người ấy ra
mù quáng" (1Ga 2,9-11).
Hãy nhận ra
khuôn mặt của tất cả mọi người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra khỏi
bóng tối đang bao trùm chúng ta và được tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.
11. Yêu người
Ai là người thân
cận của tôi? Câu hỏi mới nghe như đơn giản nhưng thực ra đó lại là mấu chốt để
giải thích cho đúng đắn lề luật Maisen. Vì lẽ luật này đòi hỏi chúng ta phải
yêu người thân cận như chính mình.
Theo lẽ thường
của người Do Thái thời bấy giờ thì quan niệm về người thân cận bị thu hẹp vào
các thành phần Israel. Như vậy hạng ngoại kiều không có chỗ đứng trong những
hoạt động bác ái, thành ra dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người Samaria nhân hậu có
hiệu quả như một trái bom hay như một cú đấm vào lương tâm của những kẻ tự ru
ngủ bằng điệp khúc bình an vì đã làm tròn bổn phận tối thiếu của mình.
Quả thực qua dụ
ngôn Chúa Giêsu đã chỉ trích gương xấu cần phải tránh mà điển hình là ông tư tế
và thầy Lêvi, hai ông viên chức của phụng vụ đền thờ và được coi như là hàng
đạo đức bởi đã giữ đúng lề luật. Đồng thời Ngài cũng nêu lên gương tốt phải
theo mà cái khuôn mẫu là người Samaria, một ngoại kiều, một địch thủ, một tên
lạc đạo. Bất chấp mọi thứ rào cản xã hội hay tập tục truyền thống, ông ta đã
xông xáo tiến lại người xấu số để giúp đỡ anh ta đang bị bỏ dở sống dở chết
trên đường. Chắc hẳn tình người của ông đã phát xuất từ lòng nhân từ rộng rãi
của ông chứ không phải từ những bộ luật rườm rà phiền toái.
Đưa ra những
nhân vật điển hình trên, chắc hẳn Chúa Giêsu nhằm giải thích một cái gì đó
thiết yếu trong giáo huấn của Ngài, điều mà con người mọi thời, nhất là chúng
ta ngày nay, trong hoàn cảnh cụ thể của mình, cần được soi sáng. Cái thiết yếu
chính là ý nghĩa của câu hỏi lật ngược: Không còn hỏi ai là thân cận của tôi,
mà hỏi tôi là người thân cận của ai?
Đó là tinh thần
cách mạng của Tin Mừng mà không bao giờ chúng ta múc cạn được chiều sâu của nó.
Bởi vì vấn đề không còn là ngồi đó mà xem ai là kẻ thân cận của mình, như thể
một số người nào đó được chỉ định trước để chúng ta sử dụng như là phương tiện
làm chiếu sáng đức yêu người của chúng ta, trong khi một số những người khác có
thể thoát ra ngoài những hoạt động yêu thương ấy mà không gây ra một nguy cơ
nào cho lương tâm. Chúng ta đi tìm những người thân cận trong một danh sách đã
lập trước. Trong khi đó chính tình yêu đòi buộc chúng ta phải đi tìm gặp những
người thân cận ở trong một giới hạn vô biên vì giới hạn của tình yêu là yêu
không giới hạn. Khi đó mọi người đều có thể là người thân cận, là người anh em
của chúng ta, đặc biệt là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bị ruồng bỏ. Người
chúng ta phải yêu thương trước nhất phải là người chúng ta thương không nổi,
phải là người sống bên lề xã hội, tức là hạng người tội lỗi, yếu đuối và bị
khinh khi. Bao lâu chưa đạt tới đó, thì chúng ta hãy còn ở trong cái mức của
ông tư tế, cái mức của thầy Lêvi là những người đã cố tạo khoảng cách cho đủ xa
những kẻ bất hạnh.
Đừng giả đui giả
điếc trước tiếng gọi của những người anh em đó, dù họ là ai, dù họ ở đâu, thì
họ vẫn là những người thân cận của chúng ta, nếu chúng ta biết tiến lại gần họ
với một con tim bằng hữu và với những cánh gay giơ ra để giúp đỡ như người
Samaria và như Đức Kitô ngày xưa.
12. Ai là người
Samaria tốt nhất? - Charles E. Miller
(Trích dẫn từ
'Mở Ra Những Kho Tàng')
Chúa Giêsu thích
kể các dụ ngôn khi Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi có
người đặt câu hỏi: "Ai là người láng giềng của tôi?". Chúa Giêsu đã
không cho một câu trả lời trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đã kể một câu chuyện dụ
ngôn.
Dụ ngôn này thì
quen thuộc và để lại ấn tượng mạnh mẽ khi được diễn tả trong một ngôn ngữ. Nói
với một người nào là Samaria nhân lành có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ
người khi cần. Trong câu chuyện, người Samaria đã dừng lại và giúp đỡ người đàn
ông bị bọn trộm cướp đánh đập và tước lột tất cả, minh chứng chính ông là người
láng giềng tốt mà Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samaria này đã
không biết nạn nhân xấu số và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samaria.
Trong câu chuyện
dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu thường đưa ra một đường vòng không ngờ. Và đường
vòng cho câu chuyện dụ ngôn này là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ"láng giềng".
Sự kiện anh hùng là một người Samaria. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được nói với
người Do Thái, những người khinh bỉ người Samaria. Những người Do Thái nhìn
người Samaria như là những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần. Những thính giả
đang nghe Chúa Giêsu phải bị sốc rất nặng. Họ phải giận dữ khi Ngài đề nghị với
họ một mẫu gương là một người Samaria anh hùng.
Một số giáo phụ
tiên khởi của Giáo Hội đã đặt một đường vòng khác vào câu chuyện. Các Giáo phụ
thấy người mà chúng ta gọi là người Samaria nhân lành là hình ảnh của chính
Chúa Giêsu. Nói cách khác, các giáo phụ nghĩ rằng ít nhất một con người đã được
giới thiệu với chúng ta là người luôn giúp đỡ và Chúa Giêsu đã luôn làm điều
đó.
Nòi giống con
người bị thoái hoá đi bởi tội lỗi. Tội lỗi đã tước bỏ nơi chúng ta mọi giá trị
như là con người. Nó đã đánh cặp của chúng ta để lấy đi khỏi chúng ta những ân
sủng của Thiên Chúa. Nó đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt khiến tất cả
chúng ta đều giống như là một người dở sống dở chết. Chúa Giêsu đã nâng chúng
ta dậy, không chỉ là trên một con vật, nhưng là trên chính đôi vai của Ngài và
mang chúng ta đến với Giáo Hội, để chúng ta có thể được chăm sóc cho đến khi
Ngài trở lại trong vinh quang, ngày Phục Sinh của chúng ta.
Nhưng sau đó,
Chúa Giêsu đã mang chúng ta vào trong Giáo Hội, Ngài đã không để mặc chúng ta
đi trên con đường của Ngài. Ngài ở với Giáo Hội mọi ngày và cho đến tận thế.
Qua sứ vụ của Giáo Hội, trong phép rửa Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương
tội lỗi, phục hồi sự sống của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị là con cái
của Thiên Chúa. Và trong phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng
bên trong chúng ta, Ngài đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của
Thiên Chúa và thừa tự Nước Trời. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong Giáo Hội,
qua Lời và các bí tích: Lời của Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể là chính Mình
và Máu Người nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Từ"láng
giềng" theo nghĩa chữ là một người ở gần bên chúng ta. Chúa Giêsu đã minh
chứng chính Người còn hơn là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần
chúng ta, Ngài đã làm cho chúng ta trở nên thành phần của thân thể mầu nhiệm
của Ngài là Giáo Hội. Trong Ngài chúng ta tiếp tục hiện hữu, như bài đọc II đã
dạy chúng ta: "Ngài là Đầu của thân thể là Giáo Hội".
Khi chúng ta
bước đi trong đời sống, tội lỗi vẫn còn tiếp tục tàn phá và làm tổn hại chúng
ta, chúng đang chờ đợi một khoảnh khắc bất ngờ, chểnh mảng để chúng có thể tấn
công chúng ta vào lúc chúng ta yếu đuối. Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc
trong cuộc chiến đấu của mình. Thật sống động khi chúng ta họ bài học của bài
Thánh Vịnh ngày hôm nay: "Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ
sống". Khi chúng ta hướng về Chúa sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu
nhiệm và xa xôi khỏi chúng ta. Chúa Giêsu không quá đơn giản là một người
Samaria nhân lành. Ngài là một người tốt nhất.
13. Người Samari
tốt lành – Flor McCarthy
(Trích dẫn từ
'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. LÒNG
NHÂN TỪ TỰ PHÁT
Alaska là một xứ
sở hoang dã, cô độc, lẻ loi nhưng đẹp lạ lùng. Đó là một thánh địa cho những du
khách thích phiêu lưu. Tuy nhiên vùng đất ấy không cho phép bạn xuống tinh
thần. Các thị trấn ít ỏi và xa nhau. Những người sống ở đó phải đối diện với
những thời kỳ cô lập lâu dài. Đặc biệt các chủ nông trại sống một đời sống rất
lẻ loi.
Một lần kia, một
người Mỹ đi du lịch Alaska trong một cái nhà di động (xe kéo) thì nỗi lo sợ
kinh khủng nhất của ông đã ập đến: chiếc xe làm nhà bị gãy trục, và ông rơi vào
tình huống khó khăn ở giữa một nơi không rõ là nơi nào. Ông cho gia đình rời
khỏi căn nhà di động và quyết định đi bộ với hy vọng tìm được một ai đó có thể
giúp đỡ họ. (Thời đó chưa có điện thoại di động).
Sau khi đi được
ít dặm, ông đã gặp vận may: ông đến đúng một nông trại. Ông nói với chủ nông
trại về tình trạng khó khăn của ông. Chủ nông trại rất thông cảm. May thay, ông
này có máy hàn. Ông kéo căn nhà di động về sân nông trại với chiếc máy kéo của
ông, và sửa chữa cái trục bị gãy. Khi công việc đã hoàn tất, người du khách lấy
ví tiền và nói: "Tôi nợ ông bao nhiêu?"
"Ông không
nợ tôi đồng nào" người chủ nông trại đáp.
"Nhưng tôi
thấy tôi phải trả công cho ông"
"Ông đã trả
công cho tôi rồi", người chủ nông trại nói.
"Tôi không
hiểu", người du khách nói.
"Ông đã cho
tôi niềm vui của gia đình ông trong mấy giờ liên".
Người du khách
ngạc nhiên nhưng vui sướng đã gặp một tấm lòng quảng đại như thế. Những người
như thế làm chúng ta lấy lại niềm tin vào sự tốt lành, nhân từ của con người.
Lòng nhân từ cũng là một mầu nhiệm như điều xấu. Nhưng ở đâu điều xấu làm đau
buồn và chán nản thì lòng nhân từ làm vui sướng và đem lại cho chúng ta cảm
hứng.
Tình trạng cao
nhất mà chúng ta có thể đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân
sủng một cách dễ dàng, tự nhiên và không tính toán. Khi nó tuôn ra từ chúng ta
mà chúng ta không nhận thấy, như môt chiếc lá từ cây mọc ra. Trong trường hợp
của người chủ nông trại, rõ ràng chúng ta gặp được một hành động của lòng nhân
từ tự phát. Cũng giống như trường hợp của người Samari. Rõ ràng lòng nhân từ
của người Samari trở thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt
đẹp mà người ấy làm cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc
biệt. Đối với một số người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác,
lẻ loi, đối với những người khác, đó là một cách sống.
Làm thế nào để
một người đến được tình trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành một
sớm, một chiều. Nó phải được học hỏi bằng sự thực hành lâu dài. Nó không được
hoàn thành bởi một ít công việc vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ bé. Người
ta làm những công việc vĩ đại không phải bởi sự bốc đồng nhưng bởi một loạt
những công việc nhỏ được liên kết với nhau. Phần thưởng thật sự cho một hành
động tốt là để làm cho việc tốt kế tiếp được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của
ngày thường làm nên hoặc không làm nên nhân cách.
Điều gây khó
chịu trong câu chuyện của Đức Giêsu không phải ở chỗ một người vô tội bị tấn
công, nhưng ở sự kiện hai người mà bạn chờ đợi giúp đỡ người bị thương đi ngang
qua không bày tỏ chút thương xót nào với người ấy. Một người Kitô hữu chân
chính không dửng dưng trước sự đau khổ của người khác.
"Ai là
người lân cận của tôi?" người thông luật hỏi. Câu trả lời chung của thời
ấy sẽ là: Người lân cận của tôi ở trong cùng một bộ tộc hoặc cùng phe nhóm, tôn
giáo của tôi. Nhưng lời đáp của Đức Giêsu đưa ra là: "Người lân cận của
tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người lân cận". Lời đáp thật sự là
tôi không quan niệm ai là người lân cận của tôi nhưng ai là người mà tôi muốn
đối xử như một người lân cận?
Tôi là loại người
lân cận nào? Đây là một câu hỏi mà thỉnh thoảng mỗi người chúng ta phải tự hỏi,
nhưng đó là một câu hỏi mà chính chúng ta không thể tự trả lời.
Suy Niệm 2. TRẮC
NGHIỆM VỀ NHÂN CÁCH
Theo Tolstoy,
một bi kịch không nói với chúng ta về toàn bộ đời sống của một con người. Điều
nói gây ra là đặt con người vào một tình huống. Rồi tuy theo cách mà con người
xử sự với tình huống ấy, nhân cách của người ấy được bộc lộ cho chúng ta.
Đây đúng là điều
mà Đức Giêsu thực hiện trong câu chuyện của Người. Người đặt thầy tư tế, thầy
Lêvi và người Samari vào một tình huống. Họ được đặt trước một quyết định: hoặc
dừng lại để giúp đỡ người bị thương, hoặc tiếp tục công việc riêng của họ?
Không có lối thoát cho họ, không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân vào con
đường này hoặc con đường khác. Thầy tư tế và thấy Lêvi quyết định đi qua; người
Samari quyết định dừng lại và giúp đỡ.
Khủng hoảng tạo
ra nhân cách, nó hầu như làm biểu lộ nhân cách. Trong những thời kỳ khủng
hoảng, con người bộc lộ điều đã có sẵn trong tâm hồn họ: con người quảng đại
hay con người ích kỷ, anh hùng hay kẻ hèn hạ. Một lúc nào đó hoặc một biến cố
nào đó có thể khiến một người bộc lộ bản chất của họ. Gặp một người bị thương
tích là một thời điểm cho thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari.
Điều đó đã bộc
lộ điều gì về nhân cách của thầy tư tế và thầy Lêvi? Nó bộc lộ một điều rất
đáng lên án, tức là họ là những người vị ngã. Họ không quên mình để giúp đỡ
người khác. Khi có sự cố xảy ra, họ đặt họ lên hàng đầu.
Và điều đó đã
bộc lộ điều gì về nhân cách của người Samari? Một điều rất đáng khâm phục đó là
ông là một con người quan tâm chăm sóc cho người khác. Ông thuộc loại người
không thể bỏ qua một người khác đang đau khổ và tìm cách làm vơi đi nỗi đau của
họ.
Đời sống trắc
nghiệm chúng ta liên tục. Mỗi ngày, chúng ta được trắc nghiệm bằng những cách
nho nhỏ; và thỉnh thoảng bởi những cách lớn. Những trắc nghiệm ấy cho biết
chúng ta là loại người nào: người có bản chất vị kỷ, hoặc người có bản chất vị
tha.
Những cơ hội lớn
thường hiếm hoi, mà ít người hoàn thành. Nhưng chúng ta có được nhiều cơ hội
nhỏ, những cơ hội khó nhìn thấy hơn để chúng ta bày tỏ sự chăm sóc và mối quan
tâm với người khác đang cần được giúp đỡ.
Sự trưởng thành
về đức hạnh được xác định không phải bởi những điều chúng ta làm trong những trường
hợp phi thường, nhưng bằng thái độ bình thường của chúng ta. Chính các sự việc
khiêm tốn mỗi ngày thay vì là những biến cố to lớn bộc lộ tư cách rõ nhất. Mỗi
sự việc nhỏ hình thành nhân cách của chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Larry Skutnik,
28 tuổi là một người đàn ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở
Washington. Vào buổi chiều ngày 13 tháng Giêng năm 1982, một cơn bão tuyết
nghiêm trọng tràn vào thành phố. Ông đang trên đường trở về nhà và chạy trên
con đường tắc nghẽn băng qua một chiếc cầu trên sông Potomac Kiver. Ông bỗng
nhận thấy nguyên nhân của sự việc – một chiếc máy bay với bảy mươi chín hành
khách đã đâm sầm vào dòng sông. Ông ra khỏi xe, tìm kiếm và thấy có ba người,
đang bám chặt vào đuôi máy bay chổng ngược bên trên mặt nước.
Một máy bay trực
thăng đã đưa hai người trong số đó vào bờ, còn người thứ ba, một phụ nữ rơi
xuống nước giá lạnh và bắt đầu chìm xuống. Không chút nghĩ ngợi, ông cởi giày
và áo khoác lặn xuống nước và đưa người phụ nữ ấy lên bờ. Sau đó, ông nói ông
chỉ muốn về nhà. Sau một chuyến đi ngắn đến bệnh viện, ông được phép về nhà.
Hành động mạo
hiểm cứu người của ông được chiếu lên truyền hình. Sáng hôm sau, ông thức dậy
thấy mình trở thành một anh hùng của quốc gia. Nhưng ông tránh né mọi sự quảng
cáo. "Từ "anh hùng" làm tôi e thẹn" ông nói: "Tôi đã
phản ứng một cách tự nhiên, thế thôi".
Thật đẹp khi
biết rằng người ta vẫn còn thừa nhận sự cao cả của một hành động như thế. Và
cũng thật đẹp khi biết rằng người ta có thể làm một hành động như thế và coi đó
như một việc bình thường và tự nhiên.
14. Giới luật
yêu thương - R. Gutzwiller
1. GIỚI LUẬT
Như Đức Giêsu
lên đường đi Giêrusalem, người ta cũng lên đường tiến về Giêrusalem trên trời.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào biết được con đường dẫn đến nơi đó và điều
cốt yếu để đạt đích hệ tại điều gì.
Câu hỏi của luật
sĩ nói lên 2 chủ đề ấy: 'Lậy Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?'. Câu
trả lời quá rõ. Đức Giêsu để cho luật sĩ tự rút từ sách luật ra câu trả lời: đó
là một mệnh lệnh kép về lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
+ Kính mến Thiên
Chúa
Thiên Chúa là
cùng đích. Yêu mến Thiên Chúa là con đường. Đây là tâm điểm của Cựu ước và Tân
ước, của Lề Luật và Phúc âm, và xét từ bên ngoài, của ngoại giáo và Kitô giáo,
qua môi miệng những đại biểu tốt nhất, đều đồng tâm nhất trí như vậy.
Yêu thương là
mầu nhiệm thâm sâu nhất của nền đạo đức tự nhiên và của nền luân lý được đặt
lên trên nền tảng siêu nhiên. Vì cả 10 giới luật không là gì khác hơn là nhiều
phạm vi hoạt động của cùng một giới luật yêu thương. Các nhân đức chỉ là những
nhánh phát sinh từ thân cây ấy thôi. Lời cầu nguyện một đàng phát xuất từ tình
yêu, đàng khác lại cầu xin tình yêu. Phụng vụ chẳng qua chỉ là thờ kính Thiên
Chúa, phát sinh do tinh thần hy sinh và đạo đức, đồng thời cũng là ân huệ Thiên
Chúa ban cho con người trong tình yêu thương hợp nhất hay nói cách khác là
'thông hiệp, hiệp lễ'.
Chính giáo luật
cũng nói đến sự liên hệ căn bản với tình yêu. Vì luật là mệnh lệnh của tình
yêu, là thân thể mà tình yêu sẽ gán cho một tâm hồn. Bởi vậy, tình yêu là
nguyên lý thành lập, là sức mạnh sáng tạo, là thành tố cốt yếu của lòng kính
tin, hợp nhất và đơn nhất hoá mọi điều.
+ Yêu thương tha
nhân
Nhưng con người
không phải là lữ khách độc hành, một mình lên đường đi về với Chúa. Như suốt
lịch sử thế giới cho thấy, cuộc đời, theo kế hoạch của Thiên Chúa là một bước
đi của các dân tộc đến cùng Thiên Chúa, một đoàn lũ hợp nhau trở về nơi định cư
của mình. Đó là lý do tại sao một tu sĩ không nên rút lui vào nơi thanh vắng
một mình. Sống cốt yếu là sống cộng đoàn. Thế nên, tình yêu chân thực đối với
Thiên Chúa phải thực sự triển nở nơi tình yêu đồng loại.
Những thái độ
sẵn lòng đối với Thiên Chúa mà ta có thể sánh như cái đà 'hàng dọc' sẽ triển
khai thành 'hàng ngang' đối với đồng loại. Tôn giáo xét tự nền tảng vốn có tính
xã hội, nó không phải là khu vực của một cá nhân mà ở đó có thể quan tâm đến
anh em mình hay là không cũng được. Ngay cả một thày tu trong căn phòng nhỏ bé
của tu viện, một ẩn sĩ trong sa mạc, tự bản chất vẫn hiện diện một cách 'xã
hội' trong lời cầu nguyện và thành tâm sám hối.
Không ai có thể
và được phép tách biệt khỏi cộng đoàn. Như tình yêu đối với Thiên Chúa nhất
thiết phải sinh ra tình yêu đối với đồng loại, thì tình yêu đối với đồng loại
cũng vậy phải do từ tình yêu chân thành đối với Thiên Chúa. Người ta có thể coi
đó (và thực đã có như vậy) như một tình bằng hữu, một chủ nghĩa nhân đạo, nhưng
tình yêu ấy không trợ giúp anh em dựa trên nền tảng chính yếu: cùng nhau bước
tiến trên đường về với Chúa. Và vấn đề là ở chỗ đó.
Vậy, sau khi đề
cập đến tình yêu kép đôi này, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điểm căn bản sâu xa này:
'hãy làm thế và ông sẽ được sống'. Nói cách khác: 'anh đã đi đúng đường, đã
tiến tới gần đích, 'là sống trong Chúa'.
2. DỤ NGÔN
Luật sĩ muốn
biện bạch. Xét cho cùng, ông chẳng thực tâm trong khi đặt vấn nạn mà cũng chẳng
có tinh thần tìm tòi cho bằng ông muốn 'thử' Đức Giêsu. Thua cuộc rồi, ông cố
tránh né yêu sách gắt gao và hỏi thêm để che đậy sự thất bại và dùng mọi mánh
khoé để Chúa phải lúng túng.
Dẫu thế, Đức
Giêsu vẫn giải đáp cho vấn nạn ông nêu ra. Ngài đưa ra một thí dụ, thí dụ về
một con đường. Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô bị lũ cướp bóc lột và
bị đánh đập dở sống dở chết. Ai trên đường đi về với Chúa ắt có thể cũng chịu
chung một số phận như thế. Thực ra qua bao thế kỷ, cho thấy con người luôn gặp
phải như thế trong suốt cả hành trình lịch sử của mình. Satan đã cướp phá nhân
loại này, cướp mất đời sống siêu nhiên phong phú của nhân loại khi còn ở trong
vườn Diệu quang xưa kia, khiến nhân loại phải chịu cảnh dở sống dở chết như bây
giờ.
Những khả năng
hiểu biết về mặt tôn giáo, hành động theo luân lý, đã bị giảm thiểu thật đáng
kể. Những khả năng ấy không chết đi, mất đi mà là bị tổn thương trầm trọng. Có
những người cũng bước qua con đường ấy và được coi là những người luôn có tình
mến Chúa: các tư tế và Lêvi chẳng phải là những người luôn luôn phụng sự Thiên
Chúa đó sao?
Họ từ đền thờ ra
đi và vẫn khoác trên mình những dáng vẻ hoa mỹ và oai vệ của lễ nghi. Họ bước
qua mà cứ phớt tỉnh chẳng màng chi đến những người không may gặp nạn và họ lại
còn đấm ngực tự mãn cho rằng thái độ dửng dưng ấy bằng lòng mến yêu Thiên Chúa
của họ. Vị tư tế tự nhủ rằng mình hiện diện chỉ để phục vụ Thiên Chúa chứ không
để phục vụ nhân loại. Còn Lêvi lại tự nghĩ rằng mình phải cẩn thủ sự thuần
khiết của bậc Lêvi, nhân danh tình yêu đối với Thiên Chúa, không để mất nó khi
rờ tới một người có thể chết trong tay mình.
Hai thứ người
này tưởng rằng mình yêu Thiên Chúa mà không cần yêu đồng loại. Và những ai cư
xử không dựa trên xã hội đang khi vẫn phát huy những việc đạo đức, những nghi
tiết những việc phụng thờ, là những người đã muốn tách hẳn tôn giáo khỏi thế
tục, muốn hoàn tất thái độ chẳng có chút gì là đạo đức, như các tư tế và Lêvi
bỏ qua không màng tới nhân loại đang lâm cảnh đau thương.
Một lữ khách thứ
ba xuất hiện, đó là một người ngoại, người xứ Samaria, người này hẳn là phải đi
một đoạn đường dài và xa hơn những người kia; có thể là một thương gia, luôn
bôn tẩu ngược xuôi. Con người đó hẳn là rất xa lạ với nạn nhân kia, khác quốc tịch,
khác cả tôn giáo. Xét mối tương quan nào đi nữa, bên ngoài hay bên trong, dân
sự hay tôn giáo, hắn cũng là một kẻ xa lạ hoàn toàn.
Nhưng chợt thấy
một người bị lâm nạn nửa sống nửa chết như thế, hắn tiến lại gần ngay. Qua cử
chỉ ấy, hắn trở nên một người rất thân cận của nạn nhân. Chính hắn đích thân
mang nạn nhân đến quán trọ và vì gấp rút qua hắn đành ra đi; để lại số bạc cần
thiết và hứa sẽ trả số còn lại khi trở về. Như thế hắn vẫn tiếp tục quan tâm
đến nạn nhân xấu số và trong tâm hồn không thể quên người ấy được, trong khi
mong mỏi sớm về gặp lại.
Một người khá xa
lạ lại nên người gần gũi, thấy tha nhân lâm nạn, hắn nên bạn thân ngay. Và đó
không phải đơn giản là một thứ bác ái cảm tình, màu mè, nhưng thật là một hành
vi ra tay trợ giúp. Ta có thể nhận ra tính tốt của hắn qua các chi tiết sau:
'Lại gần, băng
bó thương tích, xức dầu và rượu, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa về
quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền ông trao cho chủ quán mà bảo:
ông hãy săn sóc người ấy, và phải tiêu pha gì thêm thì khi trở về tôi sẽ trả
cho ông'.
Người Samaria
được đưa ra làm tiêu biểu ấy chính là Đức Kitô. Nhân loại đang cơn hấp hối,
Ngài không bỏ rơi mà còn từ trời cao xuống thế, cất bước lên đường, ân cần săn
sóc nhân loại, cúi xuống, đổ tràn dầu và rượu các nhiệm tích trên những vết
thương do tội lỗi gây nên. Ngài đã dẫn đưa nhân loại vào Giáo Hội là quán trọ
trong cuộc hành trình qua bao thế hệ, Ngài đã uỷ thác cho Giáo Hội việc ân cần
chăm sóc chữa trị nhân loại; Ngài đã trả bằng giá máu Ngài và còn hứa thanh
toán số còn lại trong ngày sau hết, tức là ngày Ngài Quang Lâm: khi ấy mọi thụ
tạo được lành lặn toàn vẹn sẽ tiến về cùng đích của cuộc hành trình.
Để kết thúc dụ
ngôn, Ngài khuyên bảo: 'Hãy đi và làm như thế và ông sẽ được sống'.
Như thế, con
đường lại được đặt thành vấn đề. Vì từ lúc này, con người biết: mình phải đi
con đường nào và phải bước đi trên con đường ấy bằng tinh thần nào; điều chi sẽ
xảy đến cho mình và người lữ khách sẽ nhìn rõ bổn phận nào phải thi hành đây.
Bởi đó, câu chuyện này phải là một dấu định hướng thực sự.
15. Tình yêu và
hạnh phúc
Ngay từ hồi còn
nhỏ, chúng ta đã thuộc lòng câu giáo lý:
Hỏi. Ta sống ở
đời này để làm gì?
Thưa. Ta sống ở
đời này để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu
thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau
được hạnh phúc đời đời.
Nói tóm lại, mục
đích chúng ta theo đuổi trong cuộc sống là xây dựng hạnh phúc ở đời này cũng
như ở đời sau. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: Hạnh phúc là điều mọi người đều
mong muốn và tìm kiếm.
Bất kỳ ai chối
bỏ cuộc đời mai hậu, thì cũng không thể huỷ diệt được niềm khát khao hạnh phúc
vĩnh cửu. Bất cứ ai là người, thì đều mong mỏi tình yêu có nghĩa là yêu và được
yêu.
Chính trong niềm
mong mỏi, khát khao tình yêu và hạnh phúc trong cuộc sống, đã gợi lên những
thắc mắc trong thẳm sâu cõi lòng. Tình yêu và hạnh phúc chỉ có được khi sống
với người khác. Không ai sống đơn độc lẻ loi mà lại cảm thấy hạnh phúc toàn
vẹn. Thế nhưng phải sống và phải yêu như thế nào?
Qua đoạn Tin
Mừng sáng hôm nay, ông luật sĩ đã đến để chất vấn Chúa Giêsu về sự sống đời
đời. Và Ngài đã nhắc lại điều quan trọng nhất trong lề luật đó là kính mến
Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình ta vậy. Điều này thì
ông luật sĩ đã quá biết, ông ta chỉ thắc mắc:
- Ai là người
anh em?
Chúa Giêsu đã
không đưa ra một định nghĩa có tính cách triết học và trừu tượng về người anh
em, trái lại Ngài đã kể một câu chuyện cụ thể và đòi chúng ta phải hành động
như vậy.
Đúng thế, có một
người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, chẳng may bị bọn cướp trấn lột và đánh
trọng thương. Lần lượt xuất hiện các nhân vật. Bắt đầu là thày Tư tế, rồi thày
Lêvi và cuối cùng là người Samaria. Chúa Giêsu nhấn mạnh: để đạt tới sự sống
đời đời, nếu chỉ hiểu biết cặn kẽ về luật mà thôi thì cũng chẳng ích lợi gì.
Thực vậy, thày Tư tế và thày Lêvi, là những đấng vị vọng trong đạo, đương nhiên
họ rất thông hiểu giới luật yêu thương. Họ có đủ cách để giảng dạy cho dân, thế
nhưng họ đã không thực hiện, bởi vì họ đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước
tiếng kêu cứu của nạn nhân đang cần sự giúp đỡ. Còn người Samaria là hạng người
bị khinh miệt, không mấy thông hiểu về lề luật, bị coi như người ngoại giáo.
Thế nhưng, ông đã làm ngược lại với thái độ của hai đấng vị vọng nói trên.
Chúa Giêsu muốn
chúng ta xác định cho rõ ai trong ba người, qua thái độ cư xử của mình khi đứng
trước nỗi đau khổ của người khác đã thực thi giới luật yêu thương?
Không phải sự
hiểu biết, mà chính là việc thực thi tình thương yêu mới dẫn chúng ta đến việc
trở nên người anh em của đồng loại mình.
Đây chính là
điểm quan trọng, cần phải canh tân tâm hồn, cần có cái nhìn hướng đến hành động
trước những nỗi khổ đau của người anh em. Sẽ không có tình yêu, sẽ không có
hạnh phúc và sẽ không có hy vọng được sống đời đời nếu như chúng ta lẩn tránh
và làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em mình.
16. Một lệnh
truyền khó xử – Achille Degeest
(Trích dẫn từ
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Theo Phúc Âm
thuật, Đức Giêsu đặt lại tất cả mọi vấn đề. Người luật sĩ biết quá rõ Lề Luật
giải quyết cách nào vấn đề người ấy đặt ra cho Thầy, nhưng vẫn muốn dồn Thầy
vào chỗ lúng túng khó xử. Vì vậy sau câu đáp của Đức Giêsu, người lúng túng
nhất chính là người luật sĩ ấy. Thật vậy, Đức Giêsu phá vỡ những hàng rào vừa
chắc chắn vừa dễ chịu ngăn đỡ người Do Thái ngoan đạo giữ được chừng mực, khỏi quá
nhiệt thành trong việc bác ái. Những luật sĩ từng chẻ cái tóc làm tư, đem nghĩa
vụ bác ái mổ xẻ thành cơ man điều luật, sắp xếp theo nhiều tiêu chuẩn khác
nhau: chủng tộc, cách giữ lề luật, giá trị về mặt xã hội, tuổi tác, nam nữ
v.v... Chỉ một câu thôi, Chúa lật đổ mọi hàng rào. Đối tượng bác ái là con
người, đơn giản thế thôi. Về sau, Chúa mở rộng viễn ảnh ra xa nữa: lòng yêu
thương vì bác ái nhắm vào con người trong tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là
cùng trong liên hệ Cha con với Thiên Chúa tất nhiên phải thương yêu nhau như
anh em ruột thịt. Ở tầm cao đó, không một thang giá trị nào đứng vững. Về điểm
này Công Đồng Vaticanô II đã khai quang một số viễn ảnh rất đáng chúng ta chú
ý.
1) 'Bác ái Kitô
giáo thực sự lan tràn tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội
hay tôn giáo, bác ái không cầu mong một lợi ích hay một sự tri ân nào. Như
Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu vô vị lợi, các tín hữu cũng phải
lấy tình bác ái mà lo lắng cho con người bằng cách yêu mến họ với cùng một ý
hướng như khi Chúa tìm kiếm con người. Do đó, như Đức Kitô đã rảo qua khắp các
thị thành làng mạc, chữa lành mọi kẻ tật nguyền bệnh hoạn, làm dấu chỉ Nước
Thiên Chúa đã đến, Giáo Hội cũng nhờ con cái mình mà liên kết với mọi người
thuộc mọi hoàn cảnh, nhất là với những người nghèo hèn đau khổ, và tình nguyện
hy sinh cho họ' (Sắc Lệnh Ad Gentes 12).
2) Bác ái Kitô
giáo phải quan tâm cách rất thực tế đến việc chữa lành những vết thương của bất
công trên nhân loại. 'Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người
khác để tổ chức đứng đắn những công việc kinh tế xã hội'. Công đồng đưa ra hai
phương thức ưu tiên hành động để tiến tới sự tổ chức thế giới công bình hơn, đó
là việc giáo dục, và sự viện trợ cho thế giới thứ ba. '... Họ phải quan tâm đặc
biệt đến việc giáo dục các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường
học khác nhau. Các trường này không những phải coi như phương tiện tuyệt hảo để
huấn luyện và nâng cao giới trẻ Kitô hữu, mà đồng thời còn là một công cuộc
phục vụ nhân loại hết sức giá trị -nhất là đối với các quốc gia đang phát
triển- để nâng cao nhân phẩm và chuẩn bị những hoàn cảnh hợp nhân bản hơn'. –
'Ngoài ra, họ còn phải tham gia vào nỗ lực của các dân tộc đang cố gắng tạo ra
những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn, và củng cố hoà bình thế giới, bằng cách khuất
phục đói khát, dốt nát và bệnh tật' (Sắc Lệnh Ad Gentes). Người ta có thể công
bằng mà nhìn nhận rằng Giáo Hội với danh nghĩa một định chế của Đức Giêsu, đã
không sai lầm trong việc thực hành bài học mà Giáo Hội đã biết rút ra từ dụ
ngôn người Samaria nhân lành. Tuy nhiên Giáo Hội cũng là mỗi người trong chúng
ta. Về thực tế, giá trị và kích thước lòng bác ái của chúng ta lớn hay nhỏ? Nếu
chúng ta lúng túng trong khi tìm câu đáp, phải chăng chúng ta không sáng suốt
hay thiếu sáng suốt, hoặc chúng ta thuộc hạng người dễ thoả mãn về thành tích
của mình?
17. Yêu Thiên
Chúa và yêu tha nhân.
(Suy niệm của
Lm. Vũ Thái Hoà)
Khi người thông
luật đặt câu hỏi: "Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm
gia nghiệp?" và tìm được câu trả lời trong Luật: "Ngươi hãy yêu mến
Đức Chúa Thiên Chúa của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí
khôn ngươi, và người thân cận như chính mình". Chúa Giêsu trả lời:
"Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Vì muốn cho
người thông luật này hiểu rõ hơn thế nào là "người thân cận", Chúa
Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành.
Qua dụ ngôn,
Chúa Giêsu giúp người thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn
hẹp của mình. Người thân cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa
thích, không cùng màu da, không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị.
Chúng ta đến gặp tha nhân với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không
còn là "ai là người thân cận của tôi?", mà là "tôi là người thân
cận của mọi người như thế nào một cách cụ thể?"
Ngày xưa, trong
một làng nhỏ, tại miền Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tuỵ, đói rách và
mang bệnh phong hủi. Khi biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá
xua đuổi em ra khỏi làng.
Giữa cảnh hỗn
loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những
trận đòn và những viên gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người
mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: "
Đồ hủi! Đồ hủi!"
Với những giòng
nước mắt chảy dài trên má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ
không phải là những giọt lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: "Tại
sao ông lại lo lắng cho con?" Nhà truyền giáo trả lời:"Vì Ông Trời đã
tạo dựng cả hai chúng ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là
anh của con"
Suy nghĩ hồi
lâu, em bé cất tiếng hỏi: "Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp
của ông?" Nhà truyền giáo mỉm cười đáp: "Con hãy trao tặng lại cho
những kẻ khác tình yêu này càng nhiều càng tốt."
Kể từ đó đến ba
năm sau, khi em bé tắt thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của
các bệnh nhân khác trong trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và
nhất là em tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã
cõi đời, em bé chỉ mới 11 tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em
nói với nhau: "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời".
Tinh thần Kitô
giáo được tóm gọn trong hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với
nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công
thức Phúc Âm này không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.
Thánh Gioan Tông
đồ có viết: "Nếu ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4,20). Như
thế, tình yêu tha nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Câu đầu và câu
cuối của bài Tin Mừng hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu
hỏi của người thông luật: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Câu cuối cùng là câu trả lời của Chúa Giêsu: "Cứ làm như vậy là sẽ được
sống", nghĩa là thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không
điều kiện với tất cả mọi người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành.
Như thế, đức ái không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ
thể.
Chúng ta thường
dễ dàng yêu thích những người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải
yêu thương mọi người, kể những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt
5,44). Đó chính là tinh thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa
Giêsu truyền dạy cho chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta
đích thực là con cái Chúa, và chúng ta sẽ "được sự sống đời đời làm gia
nghiệp".
Nguyện xin Chúa
Nhân lành luôn ban ơn cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và
yêu tha nhân trong đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.
18. Suy niệm của
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Yêu Chúa và
yêu người, cái nào quan trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể
tách hai tình yêu ấy thành biệt lập với nhau không?
2. Tinh thần yêu
thương của Đức Giêsu khác với tinh thần của Cựu Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn
so với Cựu Ước?
3. Xét câu hỏi
của Đức Giêsu: «Trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã
bị rơi vào tay kẻ cướp?», bạn nghĩ gì về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ ra
là người thân cận», chứ không nói «ai là người thân cận»?
Suy tư gợi ý:
1. Yêu thương là
cốt tuỷ của Luật Thiên Chúa
Lề luật vốn có
rất nhiều điều luật, mỗi điều luật lại có một số khoản luật, làm sao giữ luật
cho trọn vẹn để trở nên công chính? Muốn thế, phải nắm được cốt tuỷ của lề
luật. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cốt tuỷ của lề luật là lòng yêu thương.
Theo Cựu Ước – được thầy thông luật trưng dẫn trong bài Tin Mừng hôm nay – thì
có hai đối tượng của lòng yêu thương: một là Thiên Chúa, hai là người thân cận.
Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối
tượng ấy được tổng hợp lại thành một thực tại duy nhất có hai mặt, tương tự như
một tờ giấy duy nhất có hai trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và
yêu người là hai mặt của một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích thực tất
nhiên phải yêu người, «ai nói mình yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối»
(1 Ga 4, 20). Thánh Phaolô tóm cả lề luật vào một mối duy nhất là yêu người:
«Tất cả lề luật được tóm gọn trong một điều này: Hãy yêu người lân cận như
chính mình» (Gl 5, 14), vì yêu người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong đó
rồi. Nói khác đi, yêu người chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích
thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào
cả, thậm chí không phải để được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được
Thiên Chúa thưởng mình, hay vì một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hoá
ra đó là mình tự yêu bản thân mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là
một hình thức vị kỷ, chứ đâu phải là tình yêu!
2. Yêu thương là
giữ trọn lề luật (x. Gl 6,2)
Chúng ta đang
sống thời Tân Ước, vì thế chúng ta không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước.
Thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu
chuẩn để nên công chính vào thời đó là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ
đúng luật bao nhiêu thì càng công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người
Pharisiêu là những người hoàn chỉnh nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật
sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo
từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ,
nhưng Đức Giêsu đã nhận ra rằng trong lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ
có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai, hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm
điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì
mới là người công chính, và mới được Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh
cho người khác rất nhiều, mà lòng họ có thể chẳng yêu thương người ấy bao
nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi, chứ không phải tình yêu đòi hỏi.
Tới thời Đức
Giêsu, Ngài thấy Dân Chúa đã sống trong trình độ tâm linh ấy cả ngàn năm rồi,
bây giờ Ngài phải nâng trình độ ấy lên. Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ
phải được nâng cao hơn: không nên làm vì lề luật buộc, mà vì tình yêu đối với
tha nhân đòi buộc và thúc đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em không ăn ở công
chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt
5,20). Ý của Ngài không phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người
Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính
hơn họ ở chỗ có tình yêu bên trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải
vì lề luật buộc phải làm như thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề
luật, mà trái lại là làm cho lề luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ
luật vì tình yêu, đưa tình yêu vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích
thực, thì như thánh Âu-Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Tình yêu
sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được
lập nên cho người có tình yêu, mà cho người không có tình yêu: «(9) Lề Luật có
đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và
bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ,
sát nhân, (10) dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống
ngược với giáo lý lành mạnh» (1 Tm 1,9-10).
Nếu không có
tình yêu, thì việc làm theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh
Phaolô nói rất rõ: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp
cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì
cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành
động có vẻ đầy yêu thương, nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn
toàn vị kỷ, chẳng có chút tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục,
để được mang tiếng là thương người, là đạo đức.
3. Hai thái độ
giữ luật trong dụ ngôn người Samari tốt lành
Trong dụ ngôn
của bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy có hai thái độ giữ luật:
– Một là của
thầy tư tế và thầy Lêvi, tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo
họ, trong lề luật, không có khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong
hoàn cảnh như thế này cả. Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch
sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và
không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11). Như vậy,
nếu mình không cứu người ấy thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy
mà lỡ người ấy chết trên tay mình, thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn
bánh thánh. Thái độ lãnh đạm của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ
nghĩ: điều quan trọng là làm theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi
hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình»
(Lv 19,18), chứ phải yêu bất cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy
chỉ dành cho người lân cận, nghĩa là sống gần mình mà thôi.
– Hai là của
người Samari, tượng trưng cho những người không sống theo Lề Luật: trong họ, những
người tốt thì sống theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn.
Do đó, thấy người bị nạn thì người Samari tốt lành này động lòng thương, lương
tâm và tình thương đồng loại đã thúc đẩy anh ta cứu giúp người bị nạn đến nơi
đến chốn, bất chấp nạn nhân là người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích với
dòng tộc anh. Cách hành xử đầy yêu thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa ra
dụ ngôn này để trả lời cho câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là người
thân cận của tôi?». Theo câu hỏi mà Đức Giêsu đưa ra sau dụ ngôn: «Vậy theo ông
nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào
tay kẻ cướp?», thì vấn đề không phải là ai là người thân cận để mình yêu
thương, mà là phải tỏ ra mình là người thân cận với mọi người, bằng cung cách
xử sự đầy yêu thương với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ tình yêu
thương tôi bằng những hy sinh cụ thể, dù người ấy là người tôi chưa hề quen
biết hay ở xa tôi vạn dặm, thì hành động yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi
trở nên gần gũi nhau, thân mật với nhau. Tình yêu thương và sự hy sinh ấy càng
lớn thì sự gần gũi ấy càng tăng lên, thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột
thịt. Trái lại, dù gần gũi, dù là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu
thương nhau, thì lại trở nên như kẻ xa lạ. Như vậy, theo tinh thần của Đức
Giêsu, chúng ta phải biến tha nhân thành ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng
cách cư xử đầy yêu thương với họ, hơn là chọn lấy những người nào là ruột thịt
hay gần gũi với mình để yêu thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin
cho con một tình yêu đích thực, vị tha, làm động lực thúc đẩy cho mọi hành động
của con. Cho con biết thật sự quên mình được thể hiện bằng những hy sinh cụ thể
cho tha nhân, vì đó chính là dấu chứng của tình yêu đích thực mà con cần có để
nên công chính.
19. Người
Samaria nhân từ
Câu chuyện về
người Samaria nhân từ làm cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra
thường ngày.
Chẳng hạn một
người bất ngờ bị trúng gió, hay bị một tai nạn nào đó, đang nằm quằn quại bên
vệ đường. Kẻ qua người lại, xúm đến coi xem rồi bỏ đi và tặc lưỡi:
- Thật tội
nghiệp.
Thế nhưng, chỉ
có một người đã vội vã đi gọi xe cứu thương và đưa kẻ bất hạnh ấy vào bệnh
viện. Thiên hạ hỏi xem anh ta có phải là bà con họ hàng với kẻ gặp nạn hay
không, thì anh ta đã trả lời:
- Tôi không có
họ hàng bà con chi cả. Thế nhưng, tôi chỉ biết việc cần phải làm ngay bây giờ
là lo cấp cứu cho người ấy.
Vậy trong số
những người chứng kiến, ai là người công giáo, ai là người đã sống tinh thần
của Chúa hơn cả?
Tôi xin thưa đó
là người đã vội vã đi gọi xe cứu thương.
Hằng ngày chúng
ta chứng kiến biết bao nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường
phố cũng như nơi khu xóm. Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai
ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ
của chúng ta vẫn chỉ là thái độ thờ ơ và dửng dưng, thái độ của kẻ mũ ni che
tai, hơi đâu mà để ý đến. Đó là chuyện bên tây, bên tàu chứ có phải là chuyện
của mình đâu mà lo.
Tác phong của
chúng ta vẫn chỉ là tác phong của kẻ "cháy nhà hàng xóm, bình chân như
vại". Chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình,
phe nhóm mình mà thôi. Và chúng ta cảm thấy được bình an thư thái, chẳng có tội
lỗi chi cả, vì chúng ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù
ghét, không cướp của, không giết người.
Thế nhưng, nếu
suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: yêu thương không chỉ dừng lại ở những tiếng
"không" lạnh lùng ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh
tiêu cực ấy, mà còn phải bước vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm gì cho
những người mình thương mình mến chứ.
Khi đọc kinh cáo
mình, chúng ta đã thú nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói,
việc làm và những điều thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì? Tôi xin
thưa chính là những điều chúng ta phải làm mà đã không làm.
Nghĩ xấu, nói
hành, ăn trộm, giết người...đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế
nhưng, không dạy bảo con cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người
nghèo, không thăm viếng người đau yếu khi có thể... đó là những việc thiếu sót
và cũng là lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú
nhận trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.
Dưới một góc
cạnh nào đó, chúng ta có thể định nghĩa người Kitô hữu không phải chỉ là những
người có Đức Kitô trong tâm hồn, mang Đức Kitô trong cuộc sống, mà hơn thế nữa,
người Kitô hữu còn phải là người nhìn nhận Đức Kitô trong mọi người, coi những
vui mừng và những hy vọng, những buồn phiền và những lo lắng của người khác là
của chính mình. Chia sẻ những đớn đau và những khát vọng của anh em mình. Coi
những vấn đề của người khác là của chính mình và tìm cách giải quyết. Đó mới là
yêu người như mình ta vậy.
Vì thế, đừng chỉ
sống đạo theo luân lý cá nhân, nhằm cái lợi cho riêng mình, mà còn phải có ý
thức xã hội, nhằm cái lợi cho người khác nữa.
Chẳng hạn khi mở
máy truyền hình vào ban tối, thì cần nghĩ ngay đến người láng giềng đang cần sự
yên tĩnh để nghỉ ngơi. Khi đổ rác thì đừng đổ xuống dòng sông vì phải nghĩ ngay
đến phép vệ sinh công cộng. Khi rước kiệu, thì đừng giăng hàng chiếm trọn cả
mặt đường khiến cho bao nhiêu xe cộ bị kẹt cứng. Trong lúc đi rước, họ lâm râm
đọc kinh và hát xướng. Họ tưởng thế là làm sáng danh Chúa cũng như làm sáng
danh mình mọi đàng, đang khi ở hai đầu dân tài xế, lơ xe và còn biết bao nhiêu
hành khách đang lên tiếng chửi bới họ và rất có thể cũng đang chửi bới đạo.
Hãy biết tế nhị
giúp đỡ những người chung quanh, đó là cách thức làm chứng cho Chúa giữa lòng
cuộc đời, bằng không, danh hiệu Kitô hữu của chúng ta cũng sẽ bị mai một với
những phiền toái do chính chúng ta gây ra.
20. Yêu thương
Tôi xin hỏi các
bạn: "Ai trong các bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai
hay là không muốn một ai yêu thương tôi cả?" Chắc chắn là không có ai dám
khẳng định như vậy cả. Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại
nơi từng con người, nhưng vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là:
tôi yêu ai? Yêu với một thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu
hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm
riêng của mỗi người.
Hôm nay, qua
trang Tin Mừng thánh Luca tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho
chúng ta một quan niệm mới về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời
sống người Kitô hữu và được đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta:
Mến Chúa và Yêu Người. Chúa Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối
tương quan của người Kitô hữu với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên
Chúa và tình yêu tha nhân nơi người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau
để người Kitô hữu ngày càng trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến
Chúa và yêu thương anh em cũng đã viết: "Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà
không yêu anh em mình là kẻ nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ
trông thấy thì làm sao họ có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không
thấy".
Cũng như người
thông luật trong bài Tin Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha
nhân thì rất nhiều xét trên mối tương quan, qua mỗi quan điểm... từ đó anh ta
bối rối khi xác định cho mình người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi
cũng vậy.
Qua dụ ngôn
người Samaria tốt lành, Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân
cận, nhưng Ngài đã giúp ta nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó
không chỉ là những người thân quen "cùng hội cùng thuyền", cũng không
chỉ là những người cùng tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng
là những người đang gặp khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể
nói khi đến gần ai – không có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến
người đó thành thân cận của chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho
tình yêu đối với tha nhân không?
Người Việt chúng
ta có câu: "Thương người như thể thương thân". Hay như một nhạc phẩm
đã diễn tả: "Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình
yêu". Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa
Giêsu: yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không
lý lẽ và không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không
ngần ngại đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao
điều phiền toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí
có thể bị thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính
toán: khi dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không
ngần ngại nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc
những đồng tiền để lo cho người bị nạn.
Yêu tha nhân như
chính mình, sứ điệp Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi
cái tôi của mình, phục vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn
chính bản thân mình, để người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.
Chuyện người
Samaria tốt lành ngày xưa có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày
hôm nay nữa không? Thưa nó vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông
luật, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta: "Hãy đi và làm như vậy để
được sự sống đời đời". Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày
là chứng từ sống động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút
người khác đến với Thiên Chúa.
Cha sở giáo xứ
Taejou (Nam Hàn) – cha Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới
chết ở ngoài chợ, các bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền
mua hòm để lo hậu sự cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem
ông ta đến nhà thờ để cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức
thánh lễ và đưa ông ta đi chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham
dự. Mấy ngày sau, cha xứ có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số
thì có hai ông lão đến gặp và nói: "Sự bác ái và kính trọng của người Công
giáo đối với người chết làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo
Hội Công giáo đã làm cách nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng
tôi muốn xin trở lại đạo". Và cha Cluny kết luận: "Thật tuyệt diệu!
Các bạn trẻ trong xứ đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt
của người ngoại giáo và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo".
Ngày nay, một xã
hội đang có nhiều con người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống
chết không ra chết, luôn là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của
các bạn đang có, tình yêu của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống
làm chứng cho Tin Mừng bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.
"Hãy đi và
làm như vậy". Sứ điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi
ngày một việc làm cụ thể trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở,
nơi trường học, trên đường đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho
dù một cữ chỉ nhỏ của chúng ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho
tình yêu của Thiên Chúa lan toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình
thương cho thế giới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua
sứ điệp ngày giới trẻ thế giới lần thứ 16 vừa qua rằng: "Vậy đừng sợ đi
trên con đường Chúa đi. Với tuổi trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng
và lòng nhiệt thành vốn là đặc trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ
ba". Chúng ta hãy cùng trở nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc:
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất
cả mọi người, không loại trừ người ngoại bang hay kẻ thù.
21. Chú giải của
Fiches Dominicales
THEO CHÂN ĐỨC
GIÊSU, TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
1. Một giới luật
yêu thương
Đức Giêsu đã lên
đường đi Giêrusalem, nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình.
Lúc đó có môt người thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: "Thưa Thầy,
tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? ". Đức Giêsu đáp
lại bằng một câu hỏi: "Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? ".
Giống như một cậu học sinh trả lời cho "người mà ông ta muốn thử tầm hiểu
biết và tính chính thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền
của sách Đệ Nhị Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần
trong kinh Shema: "ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi". Và ông liền đọc
tiếp Luật của sách Lêvi 19,l8: "Và người thân cận như chính mình ".
Trích dẫn câu Kinh Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu.
Người vừa "khen ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy
thực thi giới luật yêu thương theo hai chiều kích ấy. "Làm" như vậy
sẽ cho phép ông nhận được "sự sống đời đời " làm gia nghiệp, điều ông
đã thắc mắc qua câu hỏi ban đầu.
2. Để đem ra
thực hành
" Cuộc đối
thoại ngay sau đó được chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật,
"muốn chứng tỏ mình là người công chính ": "Những ai là người
thân cận của tôi? ". Ta càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta
biết rằng có một vài khoản trong Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài
trường hợp - như phần tiếp theo của bản văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến
Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem ra loại trừ nhau.
Đức Giêsu tránh
trả lời trực tiếp, để khỏi sa vào cái "mớ bòng bong " của khoa giải
các nố luật. Người nêu ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn... mở ra cho giới
luật yêu thương tha nhân một lãnh vực không giới hạn.
Sự kiện xảy ra
trên quãng đường dốc rất thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài
25 cây số) từ Giêrusalem đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.
Ngoài tên đạo
tặc và người chủ quán, ba nhân vật hết sức điển hình là một "thầy tư tế',
rồi một "thầy Lêvi ". Cả hai là khách qua đường, sau cùng là
"người Samaria ". Cả ba người đều bất ngờ gặp "người bị kẻ cướp
trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ lại nửa sống nữa chết ở bên đường"; ta không
biết thân thế trong đạo ngoài đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một
khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau
trong cách xử sự của các nhân vật.
- Người đầu tiên
đi trên đường này là một "thầy tư tế", người của phụng tự, người của
Đền Thờ. Ông trông thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong
sách Dân Số 19, 11 - 13, 16: "Ai chạm vào xác chết... vào một người bị ám
sát...một người chết, sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách
ngôn sứ Ôsê 6,6: " Ta muốn lòng nhân từ chứ.không muốn hy lễ ". Ông
"tránh qua bên kia mà đi ".
- Sau đó tình cờ
có thầy Lêvi, một nhân vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông
"cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi ", chắc hẳn cũng vì những lý
do vừa nói.
- Sau cùng,
"một người Samaria đi đường " cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ:
"Người này là một người lạc giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh,
mà phi bác Luật truyền khẩu. Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người
hoàn toàn đối chọi với hai vị tôi tớ đáng kính của Đền Thờ."
("L'evangile de Luc", Centurion, tr. 158).
"Vậy trong
khi hai vị kia tránh xa người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ
thành ra dơ, thì người Samaria "chạnh lòng thương " - giống như chính
Đức Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà
đau khổ. Trong khi hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách
rời lòng mến Thiên Chúa với lòng yêu tha nhân, và... đã tránh qua bên kia
đường, thì người Samaria lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người
ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà
săn sóc ". Bằng hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà
ngôn sứ Ôsê đã diễn tả, hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia
nhiều.
R. Meynet còn
lưu ý thêm: "Không ai là người ngoại" trong số ba ứng viên cứu nạn
kia, nhưng cả ba đều có đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi
đứng về phía quân cướp...; vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy
nửa sống nửa chết, các ông còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người
Samaria, là quân lạc đạo bị người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu
người bị thương như chính mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh
tiền bạc " ("L'Evangile de Luc. ánalyse rhétorique", cuốn 2, trg
126).
3. Trở nên người
thân cận với bất cứ ai gặp nạn.
Để kết thúc dụ
ngôn, Đức Giêsu đổi ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy:
"Vậy ai là người thân cận của tôi?". Đức Giêsu hỏi lại ông ta: "Theo
ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi
vào tay kẻ cướp? "
Không do dự, vị
tiến sĩ luật đáp rất chính xác: " Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót
đối với người ấy ". Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận
của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận,
người gần gũi với bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: "Hỏi
ai là người thân cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế
giới, và nhìn mọi người như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo
ngược vấn đề. Người thân cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải
người hưởng thụ lòng xót thương".
- Đến lúc này,
Đức Giêsu chỉ cần kêu mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ
nhưng-không, vô vị lợi, thực tế, giống như người Samaria lạc đạo " ông hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy! "
Chúa nhật XIII,
chúng ta đã theo chân Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu
rằng con đường lên Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên
mọi luật.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Hãy là người
thân cận của mọi người.
Mọi người đều
biết dụ ngôn người Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt
ra lúc đầu là: "Ai là người thân cận của tôi? " Cuối cùng lại trở
thành "Ai đã là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp? ".
Sự đảo ngược này
mang đầy ý nghĩa và nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối
tượng của lòng xót thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý
xem sinh tử sở hữu: "của tôi " (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào.
Người ta đã chỉ trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên
làm việc từ thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người
thân cận không phải' một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành
nhân đức. Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để
kiến tạo ta nên một người thực sự gần gũi.
Trở nên gần gũi
không dễ dàng đâu. Cần phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng
cần phải có sự sáng suốt và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là
một chút nhẹ dạ. Điều đẹp đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính
vô-vị-lợi của ông; ông không màng tới một lời cám ơn.
Có những người
khiến người khác phải mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người
khác gánh nặng bác ái từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có
bác thật sự khi nó giải thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên
người anh em vì vốn chẳng ai mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.
2. Được mời gọi
"hãy làm như vậy", cùng với vị thông luật.
Sao lại trách cứ
vị tư tế thánh thiện và vị "phó tế" nhiệt thành này? Họ là những
người có trách nhiệm phục vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết
mọi sự. Hai người tôi tớ trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong
sạch theo luật định, bởi vì "ai chạm vào xác chết (...), hoặc một người bị
ám sát, một người chết (....) sẽ mắc dơ trong 7 ngày " (Ds 19, 11-13.
16)... Trong trường hợp đó vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng
tự.
Những người giữ
luật như vậy lầm rồi. Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn
kính Thiên Chúa, họ lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình
dưới dạng một người bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.
Đấy không phải
lúc tra ván xem nạn nhân thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn
ngữ nào, cũng không phải là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền
thống để được an toàn. Việc đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện
non yếu và tạm thời phải nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định.
Đức ái bày tỏ ra trong tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình
yêu chân thành của ta đối với Chúa.
Kết cục có hậu,
cái bẫy đã không hoạt động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành.
Ông ấy, và sau ông, cả chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không
phải Lề Luật có thể cứu độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành
luật, nhưng chính là việc hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.
Hiểu Luật theo
cách của Đức Giêsu, không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm
thế nào để "trở nên người thân cận của ai đó? ", là biết "chạnh
lòng thương" biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa
vị và tôn giáo.
Khi cử hành tiệc
Thánh Thể, ta đã nhận biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về,
hãy cố gắng đừng giả bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên
vệ đường.
22. Ai là người
thân cận của tôi? - Lm Vũ Phan Long
Trong lãnh vực yêu
thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi
từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi.
1. NGỮ CẢNH
Đức Giêsu vừa
mới đặt đối lập các môn đệ như là "những người bé mọn" với "các
bậc khôn ngoan thông thái" (10,21); Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc
vì được thấy được nghe nhiều điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được
(10,23-24). Nay tác giả Lc tiếp tục phần tường thuật hành trình lên Giêrusalem
bằng cách giới thiệu một trong các vị thông thái để ông này hỏi Đức Giêsu và
trắc nghiệm giáo huấn của Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn
đệ nay được nối tiếp bằng một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói về sự sống
đời đời và tình yêu đối với Thiên Chúa và người thân cận. Sau đó, do vị thông
luật còn cật vấn, Đức Giêsu đã kể Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37) để
minh hoạ đòi hỏi của tình yêu.
2. BỐ CỤC
Bản văn có thể
chia thành hai phần chính:
1) Điều kiện để
được sống đời đời (10,25-28):- Người thông luật đặt câu hỏi (c. 25),
- Đức Giêsu trả
lời bằng câu hỏi (c.26),
- Người thông
luật trả lời bằng cách trích Kinh Thánh (c. 27),
- Đức Giêsu xác
nhận (c. 28);
2) Dụ ngôn người
Samari nhân hậu (10,29-37):
- Người thông
luật cật vấn (c. 29),
- Đức Giêsu kể
dụ ngôn để đưa tới câu hỏi (cc. 30-36),
- Người thông
luật trả lời (c. 37a),
- Đức Giêsu xác
nhận (c. 37b).
3. VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
- Thử (25): Động
từ ekpeirazein, "test", để diễn tả một thái độ thù nghịch. Chính câu
hỏi về người thân cận mới là cái bẫy giăng ra cho Đức Giêsu.
- Ngươi phải yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích Đnl
6,5 theo bản LXX. Đây là phần mở đầu của kinh Shema, tức là lời tuyên xưng đức
tin mà người Do Thái đọc mỗi ngày hai lần.
Các phương diện
của con người được nói đến ở đây phải được hiểu theo nghĩa Cựu Ước: kardia,
"tim, lòng", là những phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con người;
psychê, "linh hồn", là sinh lực và khả năng nhận thức; ischys,
"sức lực", là chiều hướng bản năng, và dianoia, "trí khôn",
là khả năng trí tuệ và lên kế hoạch. Tổng hợp lại, các phương diện này muốn
diễn tả toàn thể con người.
- yêu mến người
thân cận như chính mình (27): Câu đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản
LXX), nhưng nối với câu trước như một đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào trong
Cựu Ước liên kết hai điều này với nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác nhận cách làm
này, và như thế Người đã đơn giản hoá mà cũng là đào sâu 613 qui định của Lề
Luật.
Trong sách Lêvi,
"người thân cận" ở thế song đối với "những con cái của dân
ngươi", nghĩa là người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở rộng đến cả
"ngoại kiều" (gêr) trong xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với
những người khác, chẳng hạn các gôyým, "các dân [ngoại]".
- Cứ làm như vậy
là sẽ được sống (28): nghĩa là được sống đời đời. Chỉ người nào đưa điều răn
yêu thương ra thực hành thì mới đạt được sự sống. Động từ zêsê ("anh sẽ
được sống") rất có thể gợi đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống cho
ai vâng phục các quy tắc và quyết định của Đức Chúa. Như thế, những lời Đức
Giêsu nói đã thêm vào một lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì lệnh truyền
này vẫn còn có tính lý thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm gửi
đến cho độc giả Kitô hữu.
- từ Giêrusalem
xuống Giêrikhô (30): Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 • 474), còn đường này dài
khoảng 150 stadia (khoảng mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng 185m) đi
qua vùng "sa mạc và lởm chởm đá". Giêrikhô, "thành phố chà
là" (2 Sb 28,15), nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường
giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong
việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoặc các
sĩ quan, binh lính Rôma. Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu Ước (= Tell
es-Sultan), mà là thành được Hêrôđê Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi về phía
nam trên bờ tây của cánh đồng Giođan.
- một thầy tư tế
(31): Rất có thể thầy đã xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ Giêrusalem, nay
đang đi về nhà. Truyền thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có một số
tư tế cư ngụ.
- một thầy Lêvi
(32): Tên này lúc đầu chỉ một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu của
người con thứ ba của Giacóp (St 29,34). Trong Cựu Ước, danh hiệu "thầy
Lêvi" thường được dùng để gọi những người không thuộc dòng dõi Aharon,
nhưng được giao cho làm những việc lặt vặt liên hệ đến việc phụng tự và các
nghi thức ở Đền Thờ.
- người Samari
(33; x. 9,52): tức dân cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do
vua Omri sáng lập vào khoảng năm 870 tr CG. Sau này, tên gọi "người
Samari" (hl. Samaritês) trở thành một tên gọi mang tính chủng tộc và tôn
giáo để chỉ những người cư ngụ trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây
sông Giođan. Sự đoạn tuyệt giữa người Samari và người Do Thái được giải thích
khác nhau tuỳ mỗi bên. Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc
đế quốc Átsua đưa người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722
tr CG và đưa những người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó
(2 V 17,24). Có lẽ cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đả phá những
người Do Thái hồi hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem
(x. Er 4,2-24; Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận
Bộ Ngũ Thư là Kinh Thánh và đã xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs)
vào thời Hy-lạp (đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128
tr CG).
- chạnh lòng
thương (33): Động từ splanchnizesthai có nghĩa là "đau lòng, lòng quặn
thắt".
4. Ý NGHĨA CỦA
BẢN VĂN
* Điều kiện để
được sống đời đời (25-28)
Chuyện xảy ra
khi một vị thông luật hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được
sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Ông quan tâm đến sự sống đời đời. Ông
xác tín rằng ông phải làm điều gì đó để có sự sống này, chứ sự sống đời đời
không từ trời rơi xuống. Câu hỏi này đi xa hơn những mối bận tâm và lợi lộc
hằng ngày. Câu hỏi này giả thiết là mọi sự không chấm dứt với cái chết, nhưng
có một sự sống đời đời, không hề mai một, một sự sống vượt thắng cái chết. Với
mối bận tâm có ý thức và với tinh thần trách nhiệm, vị thông luật hỏi: "Tôi
phải làm gì để cuộc sống bên kia cái chết không trở thành cho tôi một hoàn cảnh
bị phạt, nhưng là một sự sống vĩnh cửu đầy niềm vui?".
Giống như Đức
Giêsu, vị thông luật cũng đi từ tiền giả định là có một sự sống đời đời. Ông
hoàn toàn đồng ý là để đạt được sự sống ấy, dứt khoát phải yêu mến Thiên Chúa
và người thân cận trong cuộc sống hiện tại. Đức Giêsu đã đánh giá là ông trả
lời đúng và đề nghị cứ làm như thế.
* Dụ ngôn người
Samari nhân hậu (29-37)
Cảm thấy bị nhục
vì phải tự tìm câu trả lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý:
"Ai là người thân cận của tôi? Ai thuộc về khối những người mà tôi phải
yêu thương như chính mình tôi?". Dường như ông xác tín rằng phải có những
giới hạn trong số những người mà ông phải yêu thương. Đối với người Do Thái,
chỉ người đồng hương mới được coi như là người thân cận, và người ta mới phải
yêu thương và giúp đỡ. Vẫn tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh luận, Đức Giêsu coi
câu hỏi của vị thông luật là quan trọng, và vì nhắm phục vụ công cuộc cứu độ
các linh hồn, Người trả lời bằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu".
Con đường đi từ
Giêrusalem xuống Giêrikhô băng qua sa mạc. Cho đến cuối thế kỷ XX, đây là một
con đường không an toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô
danh, không rõ địa vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn
cướp. Ông bị đánh nhừ tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là
một tình cảnh hết sức quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy
cần được giúp đỡ, và ai giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này
thật rõ ràng trước mắt mọi người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm
đó dở sống dở chết, nhưng đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm
đến sự an toàn và sự tiện nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn.
Lối xử sự của người Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi
sự khác vào bình diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người
đang nằm trên đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương,
ông tìm mọi cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng
tốt. Ông đã tận dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu,
rượu, con lừa, bạc).
Đức Giêsu đã cố
tình chọn một người Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hề có
kiến thức của nhà luật học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi,
lại tỏ ra hết sức nhân ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu
Ước về đức mến. Do đó, chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân
chính.
Đức Giêsu cho
thấy rằng trong vấn đề yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác.
Người không nêu ra những tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà
ta phải yêu thương. Như trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn,
mở rộng chân trời. Vị thông luật hỏi: "Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà
tôi phải yêu thương?". Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: "Ai đã tỏ ra là
[ai đã trở thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?".
Như thế, Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu
hoàn toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: "Thưa Thầy, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (c. 25).
+ Kết luận
Trong lãnh vực
yêu thương người thân cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải
khởi đi từ nhu cầu thực tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ
khi đó, đời sống ta mới trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị
thông luật tưởng có thể giữ cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ
Đức Giêsu đã đưa được ông về bình diện những thực tại sống động và đặt ông
trước một chọn lựa: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (c. 37).
5. GỢI Ý SUY
NIỆM
1. Có một thái
độ ngược lại với thái độ của vị thông luật: "Tôi chẳng hề quan tâm tìm
biết là sau cái chết, sự sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế
nào. Tôi đang có khá nhiều chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không
muốn nặng lòng với những mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta
không biết được gì chắc chắn. Tôi tìm cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong của
tôi trong đời sống hiện tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời có thể
có". Một thái độ như thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là "ngu" (Lc
12,13-21). Người ta không thể giải quyết một câu hỏi bằng cách nhắm mắt lại và
không muốn chấp nhận nó. Người ta tránh trả lời một cách có trách nhiệm câu hỏi
về sự sống đời đời, bằng cách nói rằng người ta không muốn dính dáng gì đến nó.
Ngược lại đối với Đức Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định. Bởi vì
nếu không có sự sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng
sống, thì rốt cuộc người ta xử sự thế nào trên con đường đưa tới Giêrikhô cũng
chẳng quan trọng gì. Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi mọi sự. Sẽ chẳng có ai
cật vấn tôi và tôi sẽ chẳng phải trả lẽ với ai cả. Nhưng trách nhiệm trước mặt
Thiên Chúa không phải là chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này đưa tới
trung tâm của đời sống hiện tại của chúng ta và qui định hình thức của đời sống
này. Nó qui định điều gì là đúng và điều gì là sai trên đường đưa tới Giêrikhô.
Không có trách nhiệm này, chỉ còn một vấn đề duy nhất là làm thế nào sống càng
lâu càng tốt và sống càng thoải mái càng tốt.
2. Ta không thể
nói: "Người thân cận của tôi có thể còn là người bà con đời thứ ba; người
cư ngụ cùng đường phố với tôi; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với tôi;
người có thiện cảm với tôi, v.v.". Đức Giêsu không chấp nhận những giới
hạn cho tình yêu thương đối với người khác. Tôi không được suy nghĩ khởi đi từ
chính bản thân: "Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp
đỡ ai? Kể từ điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng đến tôi nữa?". Không
phải là bậc họ hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui định ai là người thân cận của
tôi, nhưng là tình trạng cần được giúp đỡ thực sự trong đó người kia đang lâm
vào. Bất cứ ai xuất hiện trên đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng quẫn
bách, đều là người thân cận mà tôi phải yêu thương và giúp đỡ.
3. Muốn thực sự
giúp đỡ người lâm nạn, người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm
cho ta phải mất thì giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên
tĩnh cũng như chương trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình
nữa. Nhưng đấy chính là thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến
sự sống đời đời. Như thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra
được rằng ai đang thật sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế
nào. Hôm nay trên đường đời, vẫn còn có vô số "kẻ cướp", nên sẽ còn
vô số người rơi vào tay "kẻ cướp", nằm trên đường ta đi, và chờ đợi
ta trợ giúp.
4. Câu hỏi về sự
sống đời đời đưa thẳng vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta phải chịu
trách nhiệm về lộ trình chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ trình này trở thành
hành trình đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Muốn thế, cần biết không vội vàng
lo cho bản thân và lo cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết dừng lại để mau
mắn giúp đỡ những ai ở bên vệ đường đang cần được cứu giúp.
5. Đức mến phải
phát xuất từ lòng của từng con người, phải thiết thực và hữu hiệu. Người Samari
đã dừng lại, băng bó vết thương, thanh toán mọi chi phí cho chủ quán. Ông không
cần tìm hiểu xem đây phải chăng là một người Do Thái, tức một kẻ thù không đội
trời chung. Ông chỉ cần biết đây là một người đáng thương cần được cứu giúp, và
ông đã cứu giúp.
23. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
MẾN CHÚA VÀ YÊU
NGƯỜI THÂN CẬN
Phải làm gì để
được sống đời đời? Bản tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều
răn lớn nhất; mà cả hai tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một
câu hỏi khác, riêng của Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm
sáng tỏ bằng dụ ngôn người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng
không ngừng lại giữa đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông
tiếp tục minh hoạ cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải
hiểu thế nào là yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công
việc tương tự về điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có
người khác trong khi tiếp nhận từ Chúa.
1. Điều Răn Lớn:
10,25-28
Và này có người
thông luật kia đứng lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở
hoạt cảnh trước. Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề
Luật, ông ta ép buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền
thống và suy tư cá nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong
Luật (S. Légasse). Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả
thuận trong Do Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những
phương thế để đón nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời
đáp của Chúa Giêsu thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của
mình, Ngài biết rằng đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài
mới hỏi: về vấn đề này: ông đọc thế nào?
Lúc đó Luật sĩ
trưng ra điều luật của Đnl 6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một
ngày trong kinh Shema Israel và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào
Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu
người thân cận. Khi đặt hai câu ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống
Do Thái đánh giá tình yêu tha nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu
Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải
thích của Chúa Giêsu, chính Người đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn
gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị
luật sĩ đem ra thi hành giới răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như
vậy thì sẽ được hưởng sự sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả
cũng được mời gọi nối kết với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của
tình yêu đối với Thiên Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải
chăng không là việc hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông
đã phụng tự, ông sẽ trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được
sự hiện diện hoạt động của Thiên Chúa.
2. Dụ Ngôn Người
Samari Tốt Lành: 10,29-37
Hoạt cảnh lại
tiếp diễn bởi vì ông luật sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi:
ông muốn tỏ ra mình có lý khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả
lời câu hỏi. Đưa ra một định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi
li của luật mà Ngài đã từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ
trở thành một luật sĩ mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ
kết thúc bằng một câu hỏi ngược lại (c.36).
Trong hoạt cảnh,
những người ẩn danh được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp
và chủ quán cư ngụ tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường,
người Samari đi đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật
thành văn là bộ Ngũ thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông
luật sĩ, anh ta hoàn toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn
về con người nửa sống nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta
cũng chẳng biết anh ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân
vật như thế, Chúa Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt
ra, có thể đưa Ngài tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng
Samari nửa sống nửa chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi
đường ấy. Cũng như các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng
người kia đứng cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm
uế: họ tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng
thương – cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong
khi các giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa
khỏi tình yêu người thân cận (xc.27) và"tránh qua bên kia" mà đi, thì
người Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu
động từ ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao
tiền cho chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế,
thay vì phải ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông
dự trù trở lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ
hỏi tin tức về người ông đã cứu giúp.
Phù hợp với tâm
trạng của các nhân vật trong dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa
Giêsu đặt ra làm biến đổi câu hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29).
Ông luật sĩ tự đặt mình làm trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của
ông. Chúa Giêsu đảo ngược vấn đề:"Ai đã là người thân cận của người bị rơi
vào tay kẻ cướp?". Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không
phải kẻ thụ hưởng lòng thương xót."Người thân cận không còn phải là người
khác để yêu thương, nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành
động đã được làm vì anh ta" (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được
chính xác khi bảo người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl
37). Chẳng sao cả: chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với
luật, đã biết giữ luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng
tự... Lúc đó, Chúa Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống
như vậy.
24. Chú giải của
Noel Quesson
Và này có người
thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi
phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"
Vào thời Đức
Giêsu, câu hỏi này tất nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những
người Pha-ri-sêu tin có đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những
người Sa-đu-xê-ô không tin chuyện đó.
Ngày nay, những
người ở xung quanh chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó.
Vậy, điều này không có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định
thì vấn đề đời sống vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con
người có thể tự đặt ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo
hiểm. Pascal đã thử đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với
"sự đánh cuộc của Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu
hoặc không hiện hữu. Nhưng chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi.
Điều này không cố ý bạn đã bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện
hữu", nếu bạn thắng, bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả.
Vậy bạn hãy đánh cuộc Người hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một
cuộc sống vô cùng với hạnh phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con
số hữu hạn, những khả năng mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn.
Điều này loại bỏ hết mọi do dự... "
Thực vậy, hai
giả thuyết (Thiên Chúa hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một
trọng lượng. Nếu chúng ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn
lựa giữa "mặt sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con
số giới hạn các ngẫu nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy
ra (tất cả... hoặc không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào
mà không ngần ngại chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện
sự chọn lựa ấy? bạn sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một
người bạn chân thành, trung thực.
Thực ra, bạn sẽ
không sống trong những lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui;
nhưng bạn sẽ không có những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn
sẽ thu được những điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực
hiện trên con đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư
vô của điều mà bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho
một điều chắc chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".
Mọi thời đại và
trong mọi nền văn minh, con người đều hy vọng vào "một đời sau". Đức
Giêsu thường nói về nó. Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu" ấy đã
được bắt đầu. Đối với những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa
hoàn thành, dĩ nhiên rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có
nó? Đó là câu hỏi của người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.
Người đáp:
"Trong Luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu
mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết
trí khôn người và người thân cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta:
"ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Trước hết, người
thông Luật đọc lại kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma,
trích ra từ sách Đệ Nhị Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày
nhiều lần. Nhưng Người thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.
Để được sự sống
đời đời, phải yêu thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm
thấy trong hai Tin Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31).
Nhưng chính Lu ca không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một
giới răn "thứ hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người
thân cận không thể tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế
không?
Nhưng ông ấy
muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai
là người nhân cận của tôi?"
Cho tới lúc này,
chúng ta chưa thấy có gì độc đáo.
Giáo huấn của
Đức Giêsu không khác Luật của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp
của Đức Giêsu nhân bản một cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con
người.
Nhưng câu trả
lời của Đức Giêsu cho câu hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ
hướng chúng ta về cái mới mẻ thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một
tình yêu phổ quát, yêu thương cả "kẻ thù" mình.
Đức Giêsu đáp:
"Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay
kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa
sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông
thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi
tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi...
Một "thầy
tư tế", một "thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai
chuyên viên về sự thờ phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ
mỉ Luật và các nghi thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ
về việc không nên làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có
một thái độ hoàn toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không
phải của Kitô giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang
gặp nguy hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và
Luật Do Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu"
để được ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ
tại Đền thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ
không muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.
Bằng việc cố ý
chọn lựa hai ví dụ đó, Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng
của Kinh Thánh (Ô-sê 6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không
tôn trọng Luật phụng tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình
yêu thương huynh đệ (Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh
này rất có ý nghĩa. Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục
vụ tha nhân trong đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành
phụng tự và cầu nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền
thờ nếu trước tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!
Tôi có là một
Người "hành đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa
nào?
Tôi có
"thực hành" bác ái, có quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác
không?
Nhưng một người
Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương
ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại,
rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau,
ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho
người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại
bác?
Luca là thánh sử
duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng
nhân hậu, thương xót, của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.
Các bạn hãy đọc
lại sáu hành động của lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của
Thiên Chúa, đây sự thờ phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới
sẽ biến đổi lịch sử cho phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Và đó là một
"Người Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của
những Người Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét
không chịu "thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao
giờ đặt chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài
ngày, Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức
Giêsu lại lấy một người như thế để làm gương!
"Ông chạnh
lòng thương xót... " "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này
chứa đựng một hình ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ
lòng". Vậy phải dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy
trong tiếng Do Thái hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng
mang cùng một ý nghĩa: "Rahamim" cũng chỉ "ruột gan",
"lòng mẹ", "tấm lòng", "sự dịu dàng", "lòng
tốt", "lòng trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ
"chạnh lòng thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước
những đám đông khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt
9,36; 14,14; 15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).
Các Giáo phụ,
vốn gắn với những phương thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ
ngôn này bằng cách áp dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng
thế, trước tiên không phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công
bố", sự "mạc khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người
Sa-ma-ri tốt lành, trước hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần
chết, chính là nhân loại bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi
Đức Giêsu đưa con người đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng
tuyệt diệu này thành một bài học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng
này nói với chúng ta "Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người
không ngừng "sinh ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã
là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ
hiền của Thiên Chúa, và chúng ta, đối với người "thân cận" của mình
chúng ta phải chia sẻ lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên
không phải là một "khoa đạo đức" điều đó không có nghĩa là Tin Mừng
không chứa đựng những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi
nguyên tắc.
Hãy yêu thương!
phải, bạn hãy yêu thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ
phụng" thật. Tại sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa
là tình yêu, và ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan
4,8). Hỡi thầy tư tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên
Chúa không thích lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp
mặt Người thân cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không?
Bạn có yêu thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?
Vậy theo ông
nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào
tay lũ cướp?" Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng
thương xót đối với người ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và
cũng hãy làm như vậy".
Đức Giêsu lật
ngược hoàn toàn ý niệm về người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là
người thân cận của tôi? (theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính
" những người khác" là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông:
"Bạn tỏ ra mình là người thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)...
trong nghĩa này, chính chúng ta phải là người thân cận" của những người
khác, hoặc là không. Người, "thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức
Giêsu, lại chính là "tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng
yêu thương Người tạ không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của
tôi... nhưng "tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân
biệt như thế nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét