MỪNG NGÂN KHÁNH LM ĐỨC CHA ANPHONG |
THÁNH LỄ ANTANG TÂN TÒNG CHƯA RỬA TỘI |
ĐẠI HỘI THÁNH NHẠC HĐGM VN |
Thêm chú thích |
GIÁO ĐIỂM MƯỜNG KHƯƠNG, NƠI KHÓ KHĂN NHẤT LÀO CAI |
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – Năm C
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời Chúa: Cv 13,14.43-52; Kh 7,9.14b-17;
Ga 10,27-30
Thế giới ngày nay không ngừng biến đổi, làm cho chúng ta, những
người già, dường như choáng váng, không theo nổi. Chúng ta thương tiếc cho một
dĩ vãng vàng son, ở đó trật tự và tương lai được bảo đảm.
Thế nhưng, thương tiếc mà làm chi, vì cái dĩ vãng đâu còn nữa.
Không có gì là bền vững vì cuộc sống không ngừng đổi thay. Cái hôm nay tồn tại,
thì ngay mãi sẽ bị thay thế, từ những kiểu thời trang cho đến những hiệp ước, từ
những loại xe cộ cho đến những thữ vữ khí, từ những lập trường cho đến những
phương thuốc trị liệu… Thế giới như quay cuồng, đầy những phân rẽ và bất đồng
trong dư luận, trong đảng phái, cũng như trong chính tâm hồn mình.
Con người như chao đảo, ngả bên này, nghiêng bên kia. Nghe
truyền thanh, xem truyền hình, đọc báo chí, chúng ta cảm thấy như người đang
nói với chúng ta là có lý. Nhưng cái có lý ấy chẳng kéo dài được bao lâu, bởi
vì khi kẻ đối lập với ông ta lên tiếng, chúng ta lại cảm thấy phần có lý ấy lại
chuyển sang phe đối lập. Vì thế, chúng ta khó có thể tìm thấy chân lý, khó có
thể nhận ra sự thật.
Giữa những cái trái ngược nhau như vậy, lời Chúa hôm nay
vang lên, như muốn xác định cho chúng ta một lập trường dứt khoát và chắc chắn:
Ta là mục tử nhân lành. Lời xác quyết này thắp lên trong chúng ta một tia sáng
hy vọng, đồng thời tỏ cho chúng ta thấy một góc cạnh mới về Thiên Chúa.
Ta biết các chiên Ta. Phải, Ngài biết chúng ta không như
viên kỹ sư biết một chiếc máy. Ngài biết chúng ta không như thầy cô giáo biết
những người học trò. Trái lại, Ngài biết chúng ta như một người bạn biết một
người bạn, và sẵn sàng hy sinh cho nhau: Ta hiến mạng sống mình đàn chiên.
Hình ảnh người mục tử nhân lành phải là hình ảnh của một người
chủ chăn luôn canh giữ chuồng chiên, để đoàn chiên được an toàn. Người mục tử ấy
luôn sống giữa bày chiên và luôn chăm sóc đến các con chiên, sẵn sàng chiến đấu
chống lại sói dữ, không quản ngại vất vả, để lên đường tìm kiếm những con chiên
lạc.
Trái tim của con người thời nay dường như đã trở nên chai đá
và băng giá. Họ ít lưu tâm đến những người chung quanh. Trong vũ trụ bao la
này, con người chỉ là một số không. Chẳng ai hỏi han đến chúng ta và khi chúng
ta lên tiêng nói, thì cũng chẳng ai buồn nghe. Chỉ mình Đức Ki tô, vị mục tử
nhân lành, luôn tồn tại giữa những đổi thay. Ngài biết chúng ta và hằng chăm
sóc cho chúng ta.
Vào những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã trải qua những năm tháng
dài bị bắt bớ và cấm cách. Các tín hữu luôn bị đe doạ và gặp phải muôn vàn khó
khăn, thế nhưng dưới những hang toại đạo, hình ảnh được vẽ nhiều nhất trên những
bức tường, đó là hình ảnh người mục tử nhân lành. Chính hình ảnh này đã đem lại
cho họ niềm ai ủi và khích lệ.
Con người thời nay đặt niềm tin tưởng của mình vào những bài
diễn văn của các chính khách, nhưng rồi đến một lúc nào đó, họ nhận ra những
trò bịp bợm trong lãnh vực chính trị và những mánh khoé trong phạm vi tuyên
truyền, để mà bóp méo sự thật. Bấy giờ, họ cay đắng cảm thấy mình bị lừa gạt.
Còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã đặt trót niềm tin tưởng
vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung thành, không phải chỉ nói suông, không phải
chỉ hứa cuội, mà Ngài còn thực hiện, còn hành động. Vì thế, trải qua hơn hai
ngàn năm, hình ảnh người mục tử nhân lành vẫn còn là một hình ảnh sống động và
thời sự, bời vì Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta và đã chết thay cho chúng
ta trên thập giá.
Hãy tin tưởng và yêu mến Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, để
rồi bản thân và cuộc đời chúng ta sẽ được bình an dưới sự dẫn dắt và chăm sóc của
Ngài.
2. Chúng theo Tôi
Suy Niệm
"Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của Chúa,
các thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những bông hồng,
bông súng, những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ
tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của Chúa"
Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp, thấy nằm
trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông đã viết bài này gần ba tuần
trước khi mất để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm sóc ông
trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu đã làm
nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong.
Thế giới hôm nay vẫn cần ai đem đến cho nó chút hương thơm của
Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để thiên đàng chẳng phải là chuyện xa
xôi, huyễn hoặc, Thiên Chúa chẳng phải là huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa: cần bóng
linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước chân mạnh dạn ra đi loan báo
Tin Mừng, cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn tay nhẹ
nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những trái tim không san sẻ, dám
yêu hết mình, dám sống hết tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho mọi người,
đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
Cả nước ta có gần 2.000 linh mục và khoảng 7.000 tu sĩ, một
con số khiêm tốn trong đất nước gần 80 triệu dân. Trong Chúa Nhật đặc biệt cầu
cho ơn thiên triệu, chúng ta nài xin Chúa hãy gọi nhiều tâm hồn và hãy giúp cho
họ nghe được tiếng gọi ấy.
Chiên trong bài Tin Mừng hôm nay để chỉ các Kitô hữu, nhưng
cũng có thể hiểu về những người sống đời thánh hiến.
·
Họ là người được Chúa biết từ trong lòng mẹ, và
họ cảm nhận được cái biết đầy yêu thương đó.
·
Họ là người nghe tiếng của Chúa Giêsu, một giọng
nói với tất cả nét đặc trưng quen thuộc.
Tiếng ấy đã nhiều lần vang lên, thân thương và cuốn hút.
Tiếng ấy mời gọi họ lên đường để theo sát Ngài hết sức có thể,
một Chúa Giêsu nghèo khó, vâng phục và khiết tịnh. Họ vui lòng bỏ lại những gì
họ quý yêu. Nhờ bỏ lại mà họ được tự do thanh thoát. Nhờ sống nghèo, họ được giải
thoát khỏi cái tôi ưa chiếm đoạt. Nhờ vâng phục, họ được ra khỏi cái tôi muốn
bành trướng. Nhờ khiết tịnh, họ có thể yêu mọi người đến vô cùng. Như thế ràng
buộc của đời tu lại đem đến tự do.
Họ có thể được Chúa âu yếm gọi là chiên của tôi, bởi lẽ họ
thuộc về Ngài cách đặc biệt. Ước gì không ai cướp được họ khỏi tay Chúa!
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Hiện nay có ít bạn trẻ sống ở thành phố muốn
dâng mình cho Chúa. Theo ý bạn, cuộc sống xô bồ của thành phố thời kinh tế thị
trường có ảnh hưởng gì trên việc chọn lựa này?
·
Theo ý bạn, làm sao nhận ra Chúa kêu gọi mình sống
đời thánh hiến? Bạn có quen nhiều nhà Dòng không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành, đồng lúa đã chín vàng
chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy đến làm việc
trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay những ước mơ lớn
lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình để yêu
tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức, cảm được
cơn đói khát Lời Chúa và tình thương, thấy được những mất mát của bao người đau
khổ, và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ để họ quảng đại
đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu, sống như Ngài đã sống và tiếp tục làm những
gì Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con, thanh lọc
bầu khí của trường học và xã hội, để tất cả trở thành những môi trường tốt giúp
các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
Người ta kể lại câu chuyện sau đây: Có ba tín hữu nọ, một
ông nhà nghèo, một ông nhà giàu và người thứ ba là kẻ bất lương đều chết trong
một giờ và sau đó phải ra tòa Chúa phán xét.
Thiên Chúa hỏi ông nhà nghèo:
-
Vì lý do gì mà ngươi không lo tìm hiểu và tuân
giữ Lời Chúa ghi trong sách Koran.
Anh nhà nghèo gãi tai và thưa:
-
Dạ! Lạy Chúa, vì con nghèo quá, nên phải đầu tắt
mặt tối lo kiếm gạo nuôi thân, không còn gì cả.
Chúa trả lời:
-
Ông Hellen đã nghèo hơn ngươi rất nhiều thế mà
có được chút tiền là ông để dành một nửa để học luật Chúa và khi nào không có
tiền trả lệ phí thì ông nhịn đói, đứng ngoài trường học nghe lóm Rabbi Eliaza
giảng giải Lời Chúa.
Và Thiên Chúa quay sang hỏi ông nhà giàu:
-
Còn ngươi. Tại sao con lại không tìm học hỏi và
tuân giữ luật Chúa?
Ông nhà giàu thưa:
-
Dạ, tại vì con phải lo công việc quản trị của cải,
tiền bạc và các dịch vụ làm ăn. Bận bịu tíu tít, còn giờ đâu mà học hỏi sự gì?
Thiên Chúa phán:
-
Ngươi đâu có giàu có bằng thầy Rabbi Eliaza, ông
ấy có một trăm chiếc tàu buôn bán đủ mọi thứ hàng hóa và rất bận rộn với công
việc kinh doanh, nhưng Rabbi Eliaza vẫn tìm ra giờ để học hỏi luật Chúa.
Sau cùng, Chúa hỏi tên bất lương:
-
Còn ngươi, kẻ gian ác. Tại sao ngươi đã không học
hỏi luật Chúa?
Tên bất lương tìm cách chữa lỗi:
-
Lạy Chúa, con bị các đam mê lôi cuốn quá, nên
không còn nghĩ đến gì khác nữa.
Thiên Chúa bảo hắn:
-
Ngươi đâu có bị người ta cám dỗ và say mê như
Giuse khi sống bên Ai Cập xưa kia. Ngày đêm bị vợ quan tổng quản Putipha níu
kéo, rủ rê cám dỗ phạm tội với bà ta mà vẫn chống trả tới cùng.
Thế là cả ba người đều phải án phạt sống xa rời Thiên Chúa
và chôn vùi trong nơi khổ ải của âm ty, âm phủ.
Anh chị em thân mến!
Là người Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều có bổn phận học
hỏi, lắng nghe và tuần giữ Lời Chúa. Đây là một bổn phận thiêng liêng vô cùng
quan trọng. Vì nó làm cho phần rỗi chúng ta được bảo đảm.
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không
đề nghị với con người điều gì khác ngoài bổn phận lắng nghe Lời Chúa và đem ra
thực hành trong cuộc sống hằng ngày. Đó là điểm thần học nổi bật trong sứ điệp
của bài Tin Mừng hôm nay. Đây là chìa khóa thần học giúp chúng ta hiểu ý nghĩa
của trình thuật Chúa Giêsu Kitô, Người Mục Tử nhân lành như thánh Gioan ghi lại
trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, từ "hư mất" ám chỉ tội
lỗi, con người thất bại hoàn toàn trong cuộc sống ơn gọi làm người và làm con
cái Thiên Chúa của mình, phải chết đời đời và xa rời Thiên Chúa vĩnh viễn. Là
thụ tạo được phát minh từ bàn tay nhân hiền của Thiên Chúa, con người được đặt
định trở về với bàn tay yêu thương ấy, nhưng con người đã phá đổ chương trình ấy
của Thiên Chúa khi phạm tội khước từ Thiên Chúa và tự tôn mình lên địa vị của
Thiên Chúa.
Vì thế, Thiên Chúa mới phải sửa chữa lại bằng cách cho Đức
Giêsu Kitô xuống thế làm người và giao cho Chúa Giêsu chương trình cứu độ cần
phải hiện thực qua cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài. Chúa Giêsu đến trần
gian chính là để kiếm tìm những gì đã hư mất. Đôi bàn tay của Ngài cũng là đôi
bàn tay của Thiên Chúa. Chương tình cứu độ của Ngài thực hiện qua Tin Mừng cứu
độ. Nước Trời cũng chính là chương trình của Thiên Chúa.
Hình ảnh người mục tử nhân lành diễn tả sứ mệnh ấy của Chúa
Giêsu đối với nhân loại và không ai có thể giật mất đoàn chiên tín hữu khỏi bàn
tay của Ngài.
Trình thuật Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành gồm một số động
từ diễn tả các bổn phận của chủ chăn và bổn phận của tín hữu. Nếu viết chúng
thành hai cột song song, chúng ta thấy có tới bốn động từ diễn tả bổn phận của
chủ chăn. Đó là nói, hiểu biết, hiến mạng sống và gìn giữ. Trong khi đó chỉ có
hai động từ diễn tả bổn phận của tín hữu là lắng nghe và đi theo. Bổn phận đầu
tiên của vị chủ chăn là nói, nghĩa là giảng dạy, huấn luyện, đào tạo, khuyên nhủ,
kêu mời, đề nghị, góp ý kiến. Đây là động từ bao gồm tất cả mọi sinh hoạt rao
giảng của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Từ việc tổ chức các khóa tĩnh tâm, huấn
luyện, đào tạo mọi thành phần nhân lực mục vụ của cộng đoàn địa phương cho tới
việc dùng các phương tiện và kỹ thuật truyền thông xã hội, báo chí, sách vở,
tài liệu, phim ảnh, băng hình, truyền hình... để phổ biến, rao truyền Lời Chúa
và phát triển lòng tin của tín hữu.
"Nói" chứ không phải là nóng nảy, bẳn gắt, la hét
và mắng chửi tín hữu. Trong nghĩa này, "nói" là cả một nghệ thuật gồm
nhiều tập luyện mỗi ngày, từ giọng điệu và kiểu cách cho tới các cử chỉ, từ ngữ
và hình ảnh làm sao để giọng nói được ôn tồn, đầm ấm, và truyền cảm, hình ảnh
được đơn sơ sáng sủa, rõ ràng, xúc tích và thích hợp hầu có thể truyền đạt Tin
Mừng của Chúa đến cho tín hữu một cách hữu hiệu, xác tín và sâu xa hơn. Làm thế
nào để vị chủ chăn rao giảng luôn làm giàu cho người nghe, thắp sáng lên trong
tâm hồn lòng họ ngọn lửa tinh thần, nung nấu đốt cháy con tim họ và thúc đẩy họ
tiến gần Thiên Chúa.
Bổn phận thứ hai của vị chủ chăn, tức là các Giám Mục, nam nữ
Tu Sĩ và Giáo Dân lãnh đạo cộng đoàn là hiểu biết. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh,
hiểu biết có nghĩa là bước vào trong tương quan hiệp thông với tha nhân. Hơn ai
hết, vị chủ chăn phải là người có các liên hệ huynh đệ nhân bản với tín hữu, biết
chú ý đến sự khác biệt, không lẫn lộn tinh thần hiệp nhất với sự đồng nhất máy
móc một chiều, không lẫn lộn cuộc sống với cảnh chạy việc, không lẫn lộn trật tự
với cảnh rộn ràng vô hồn. Nhưng để có thể hiểu biết tín hữu, vị chủ chăn cần phải
tiếp xúc và nhất là biết lắng nghe họ nói, biết cố gắng nhìn mọi người với con
tim của mình, sẵn sàng học hỏi nơi tín hữu của mình. Các tín hữu có thể cho các
vị chủ chăn biết bao nhiêu là bài học quí giá trên mọi bình diện cuộc sống, từ
các đức tính xã hội, nhân bản cho đến các nhân đức Kitô, lòng tin, cậy, mến và
sự thánh thiện.
Bổn phận thứ ba của chủ chăn là hiến mạng sống mình cho cộng
đoàn tín hữu, chết cho họ và vì họ. Nói đúng ra, trừ các trường hợp bắt đạo
bình thường thì chủ chăn ít khi phải chết vì tín hữu. Những điều mà Thiên Chúa
và mọi tín hữu đều mong chờ là các chủ chăn sống hoàn toàn và trọn vẹn cho cộng
đoàn, dành trọn khả năng, sức lực, thời giờ, của cải và toàn cuộc sống của mình
cho tha nhân. Biết noi gương Chúa Giêsu kiên nhẫn, quảng đại, sống sát với tín
hữu.Chia sẻ mọi vui buồn âu lo của họ và trở thành anh em đại đồng của mọi người.
Nghĩa là vị chủ chăn không sống cho mình mà sống cho Chúa và cho cộng đoàn.
Bổn phận thứ tư của chủ chăn là giữ gìn để tín hữu khỏi bị
sói dữ cắn xé để họ không xa Chúa, rời bỏ Giáo Hội, và mất đức tin. Trong thế
giới ngày nay, nhiều khi rất khó nhận diện ra sói dữ, nhưng muốn bảo vệ cộng
đoàn, vị chủ chăn phải để lợi ích thiêng liêng mà các linh hồn và hạnh phúc của
tín hữu lên trên hết trong mọi sinh hoạt thường ngày chứ không phải các lợi lộc
riêng tư, danh dự của mình hay thứ gì khác.
Về phần các tín hữu bổn phận thứ nhất là biết lắng nghe để
cho Lời Chúa thấm sâu vào lòng mình và quyết định sống theo những gì Chúa nói,
thực hành mọi giáo huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống thường ngày. Thái độ
vâng lời ấy phải thể hiện ra trong việc cộng tác, tham gia, đóng góp vào các
sinh hoạt của cộng đoàn tùy các tài khéo và bằng khả năng vật chất cũng như
tinh thần của mình làm sao để cải tiến cộng đoàn, để biến nó thành một môi trường
sinh động tươi vui, tràn đầy yêu thương, bác ái tương trợ lẫn nhau như trong cộng
đoàn Kitô tiên khởi thời các thánh tông đồ. Cộng đoàn tham gia và đóng góp chứ
không phải đứng ngoài chỉ trích, phê bình chửi rủa hay phá đám. Bởi vì nếu nghe
Lời Chúa mà không hoán cải và thay đổi nếp sống cá nhân, gia đình cộng đoàn và
xã hội tức là khước từ Chúa; từ chối Lời Ngài là chối bỏ lòng tin của mình.
Bổn phận thứ hai của tín hữu là đi theo, bước theo Chúa Kitô
Phục Sinh để tiến về cuộc sống vĩnh cửu, để tiến về Đất Hứa. Do đó, hành trình
của Kitô hữu phải là hành trình tươi vui, phấn khởi. Cuộc sống của Kitô hữu phải
là cuộc sống sinh động, nhiều sáng kiến nhiều đóng góp. Khi đóng góp rõ ràng được
mục đích của mình, Kitô hữu mới sẵn sàng hiến thân hy sinh và kiên trì trong những
lúc gặp chướng ngại, thử thách, khó khăn và cám dỗ. Với ý thức đó, vâng lời có
nghĩa là hiểu biết trách nhiệm cao độ mình phải có đối với các chủ chăn và các
anh em khác trong cộng đoàn, thông cảm những khó khăn, những yếu đuối và khả
năng hạn hẹp của họ và cố gắng xây dựng bù đắp cho nhau.
4. Chúa Chiên Lành
- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hình ảnh chiên cừu dễ gây ngộ nhận vì người ta cho rằng
chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong
bài Tin Mừng ta vừa nghe hoàn toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại
phải tích cực, chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn
tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết
chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, nên ta phải
nghe Người. Nhưng nghe được Lời của Thiên Chúa không phải dễ.
·
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa nhẹ nhàng như lời
thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói của đáy đại dương, im lặng và bí
hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỷ lại
ồn ào như một ngày hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
·
Không dễ, vì Lời Thiên Chúa mời gọi người ta vào
con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta lên một ngọn đồi gai góc của thập giá
hy sinh và thách thức ta phục vụ đến hy sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của
trần gian, của ma quỷ mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến dìm
mình trong đại dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quý
trên đời.
Vì thế, để nghe được Lời Chúa, ta phải có một đôi tai thật
bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng
nàn. Nghe Lời Chúa với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình
vào đời người đó. Như thế theo ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ
cuộc sống với người khác.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất:
Thích nhìn, nghe người mình yêu. Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính
toán của đời mình đều có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất
cả những gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở cao độ. Con chiên đi theo
Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết
với Chúa là Chủ đoàn chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu
tóm gọn trong hai động từ: “biết” và “cho”.
Biết. Người chăn chiên tốt lành biết rõ từng con chiên. Ông
biết tên từng con. Ông biết tình trạng sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con
chiên. Tương tự như thế, Chúa Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ
biết mà còn thông cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc
ư? Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay đắng với
kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà, sống ngoài đường
và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì cuộc đời không lối thoát ư?
Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen tối trong vườn Giếtsimani và trên thập
giá. Ta cô đơn vì bị mọi người xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối
bỏ, và Người cảm thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết
uy tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như kẻ tội
đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ
ngách u ẩn trong đáy lòng người, nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả
đoàn chiên món quà quý giá nhất là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên
Chúa, sự sống của chính bản thân Ngài. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn
chiên sẽ kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi
tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng buộc đời
mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ chiên trở thành một
cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp với nhau trong một tình yêu thương
không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống
đang mở ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời sống
tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang bị lôi kéo rời
xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra khỏi cộng đoàn khiến nhiều
người trở thành những con chiên bơ vơ không người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh
mới mẻ như thế, chúng ta rất cần có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của
đoàn chiên và thực sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho
có nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để phục vụ anh
chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục của chúng ta
trở thành những mục tử tốt lành noi guơn Vị Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là là Mục Tử chăn giữ đời con, xin cho con biết lắng
nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Đã bao giờ bạn nghe được tiếng Chúa nói trong
sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2.
Có lần nào bạn cảm nghiệm được sự ngọt ngào được
sống thân mật với Chúa chưa?
3.
Bạn cũng là Mục Tử của gia đình bạn, xóm bạn ở,
sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành không?
5. Hoà hợp tiền định
- Achille Degeest
Đang là mùa đông, người ta mừng lễ Cung hiến ở Giêrusalem. Đức
Giêsu đi lại trong Đền Thờ. Một nhóm người Do Thái vây quanh, và yêu cầu Chúa
nói trắng ra về thân thế Người. Người có đúng là Đấng Mêsia không? Thật vậy,
Thày đã công nhiên nói xa xôi cho người ta hiểu Thày chính là Đấng Mêsia. Có những
người đơn sơ, không rắc rối, có thiện chí, đã hiểu được về bí mật thân thế Chúa
và tin vào Chúa, chẳng hạn người phụ nữ Samaria và kẻ mù bẩm sinh. Người ta cảm
thấy những kẻ chất vấn Chúa nhiều phần thắc mắc khó chịu về Chúa, hơn là sẵn
lòng nghe Chúa với một tâm hồn cởi mở. Chúa muốn cho những kẻ nặng óc thành kiến
phải bỡ ngợ. Chúa không theo lối suy diễn của họ. Vì lẽ họ cho rằng hệ thống
suy diễn của mình không thể sai lầm, ông Giêsu này nhất định sẽ lộ hình tích,
chính ông đưa ra một lời khai đúng cách, lúc đó họ sẽ có quyền ném đá ông. Đức
Giêsu không do dự. Người đưa ra câu đáp trên hai bình diện: tâm tình thích hợp
để dễ dàng tiếp nhận chân lý và Kinh Thánh với một giá trị không thể bác bỏ (Lời
Chúa viện dẫn Kinh Thánh tiếp ngay sau đoạn Phúc Âm hôm nay). Hai câu hỏi được
đặt ra;
1) Tại sao người
Do Thái ngoan cố chối bỏ Đức Giêsu? Chúa bắt đầu bằng cách mời gọi họ thấy gì
thì tin thế, bởi những việc Người làm nhân danh Cha Người đều làm chứng cho
Ngài. Tuy nhiên Chúa nói tiếp ngay, nếu họ bác bỏ bằng chứng ấy, chính vì cớ
tâm hồn họ không phù hợp với sứ điệp của Chúa. Họ đã nhất quyết lối xét đoán sự
việc của họ là tốt. Thế mới con mắt người ta nhìn thực tại theo khuynh hướng của
mình. Nếu thực tại không phù hợp với hệ thống suy diễn của mình, người ta cho rằng
chính thực tại là sai. Nhận định này có giá trị sâu sắc đối hành vi tin. Để thực
hiện một hành vi tin, trước hết con người phải chấp nhận để cho ân huệ chuẩn bị
tâm hồn cách bí nhiệm. Nhưng nhận định này cũng có giá trị đối với phẩm chất của
hành vi tin. Nhiều người tự nhận mình tin vào Đức Giêsu Kitô. Nhưng tin vào Đức
Kitô nào? Dưới khía cạnh triết lý, xã hội, chính trị, v.v… nào? Luôn luôn chúng
ta có lý để băn khoăn không biết con mắt chúng ta có đủ trong sáng không để
nhìn Đức Giêsu Kitô?
2) Ý nghĩa câu:
không ai giật chúng khỏi tay Ta được là gì? Câu đó có nghĩa: không một quyền
năng ngoại giới nào có thể giật người Kitô hữu rời khỏi tay Đức Kitô. Sự trợ
giúp của Chúa sẽ mạnh mẽ vô cùng để thắng những khó khăn ngoại giới. Tuy nhiên
tại sao có những vụ bất trung bất nghĩa, có cả những vụ bỏ đạo chối Chúa nữa? Sở
dĩ như vậy vì quyền năng vô biên của Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do tư tưởng của
con người. Khi một Kitô hữu xa lìa Chúa, không phải vì Chúa bỏ kẻ ấy, mà chính
vì kẻ ấy bỏ Chúa. Cả trong trường hợp đó, Chúa Kitô không rút lại niềm thương
yêu của Chúa. Chúng ta hạy nhớ dụ ngôn cho chiên lạc. Tới đây chúng ta đối diện
với một vực thẳm bí nhiệm thứ hai. Không những tâm hồn có thể từ chối phù hợp với
hành vi tin, mà còn có thể huỷ diệt niềm tin của mình sau khi đã dâng hiến.
Chúng ta không được choáng váng trước bí nhiệm ấy, mà phải tăng cường cảnh giác
trong niềm trung tín. Nói đơn giản hơn, chúng ta hãy tin chắc rằng, đáp ứng thiện
chí hằng ngày của chúng ta, Chúa nắm vững chúng ta trong tình yêu của Người.
6. Con chiên của
Chúa Giêsu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến, chúng ta vẫn quen gọi các giám mục, các
linh mục là các mục tử hay chủ chăn, và anh chị em giáo dân cũng vẫn quen nhận
mình là “con chiên”. Kiểu nói nầy bắt nguồn từ trong Kinh Thánh. Ngay từ thời Cựu
Ước, tiên tri Êzêkiel đã dùng hình ảnh đàn chiên và chủ chiên để báo trước rằng:
chính Chúa sẽ đến chăn dắt dân Israel như mục tử chăn dắt đàn chiên, thay thế hết
các người lãnh đạo dân từ trước đến nay. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã xưng mình
là mục tử và là mục tử tốt lành, đích thực, khác với những kẻ chăn thuê, những
mục tử già.
Tin Mừng hôm nay vắn tắt có bốn câu nói về “con chiên” nhiều
hơn là chủ chiên, tức là nói về “người giáo dân” hơn là hàng giáo sĩ. Người
giáo dân là con chiên của Chúa Giêsu, là người biết “nghe tiếng Chúa”, dám “bước
theo Chúa” để không bao giờ phải hư mất, nhưng “được sống đời đời”.
Trước đây, anh chị em có nghe nói mình là “con chiên của các
cha” thì lấy làm thường tình, chẳng thắc mắc gì. Nhưng ngày nay, hình ảnh con
chiên dễ làm cho người ta hiểu lầm và mặc cảm cho là hạ phẩm giá con người giáo
dân - người ta là con người mà coi như con vật - coi giáo dân còn ấu trĩ và thụ
động trong Giáo Hội.
Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một cuốn
sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo hỏi
linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời:
“Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về
tòa giảng”. Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất một
vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra”.
Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa vị
giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe giảng
và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo Hội
trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa”. Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ không phải
Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng đầu trong
Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả, nhưng có
nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của mình, như những
người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.
Sống đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ nhiên
giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng
hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động.
Chúng ta muốn làm những con người tín hữu đứng hàng đầu, những con người có tinh
thần trách nhiệm, dám nhận lãnh sứ mạng, dám sống bổn phận của mình cách chủ động.
Với điều kiện đó, chúng ta mới “nghe tiếng Chúa” và “bước theo Chúa” cách đúng
đắn và phù hợp với những đòi hỏi của xã hội ngày nay. “Chiên Ta thì nghe tiếng
Ta. Chúng theo Ta, và Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai giựt chúng khỏi
tay Ta được”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận Lời của Chúa và bước theo Chúa là dấn
thân sống Lời Chúa một cách tự do và chủ động. Nghe và theo Chúa là sống gắn bó
thiết thân với Chúa. Bởi vậy, nghe và theo Chúa Kitô tức là bước vào cuộc sống
bất diệt ngay từ đời nầy.
Tiếng Chúa hôm nay đang vang lên từ quả tim của từng con người
nghèo khổ, bị áp bức, bị bóc lột. Tiếng Chúa hôm nay là tiếng kêu của đồng bào,
của cả đất nước, của cả xã hội loài người đang cần nhau để sống, để có cơm ăn
áo mặc đầy đủ, để tạo được hạnh phúc chung. Tiếng Chúa đang vang dội từng ngày,
từng giờ mời gọi thúc bách chúng ta xung phong đi đầu, dấn thân theo Chúa trên
mọi nẻo đường yêu thương, phục vụ, hy sinh. Yêu thương, phục vụ đến chỗ không
còn tìm kiếm gì cho riêng mình, không giữ lấy gì cho riêng mình và đến chỗ dám
liều chết cho anh em được sống, như chủ chiên dám liều mạng sống vì đàn chiên.
Làm con chiên nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa là như thế.
Làm người có đạo hôm nay dám sống đạo thật là như thế. Nghe tiếng Chúa và dám
bước theo Chúa trong xã hội chúng ta hôm nay phải như thế, và như thế nhất định
chúng ta sẽ được sống đời đời, không một sức lực nào có thể cướp giựt chúng ta
khỏi tay Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
Chúa nhật hôm nay với chủ đề mục tử và đàn chiên được Giáo Hội
chọn làm Ngày Thế Giới cầu nguyện cho ơn gọi Giáo sĩ và Tu sĩ. Giáo Hội đang
thiếu các mục tử và nhất là các mục tử tốt lành. Tiếng báo động nầy đang vang đến
tai chúng ta hôm nay ở nơi nầy, trên đất nước chúng ta. Hiệp ý với toàn thể
Giáo Hội hoàn cầu, chúng ta hãy cầu xin cho giới trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của
Chúa và nhất là có đủ can đảm để bước theo tiếng gọi đó bằng cuộc sống dâng hiến
trọn vẹn cho Chúa để phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh
tật, cô đơn, già yếu…
Sự hy sinh hầu như tuổi trẻ có thừa, nhưng cần rất nhiều yếu
tố xã hội góp phần để tuổi trẻ thực hiện quyết định hy sinh quảng đại của mình:
cha mẹ, gia đình, và giáo xứ có đóng góp phần đào tạo ơn gọi thì ơn gọi mới nẩy
nở và mới được bảo đảm. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày thế
giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu đã viết: “Tôi nói với bậc cha mẹ, dựa vào
lòng tin, rằng họ có thể nếm hưởng niềm vui của ân sủng sẽ vào nhà họ, khi một
con trai hay con gái của họ được Chúa gọi để phục vụ Ngài… Đặc biệt, tôi hướng
về giới trẻ của thời nay và tôi nói với họ: Hãy để cho Đấng Vĩnh Cửu quyến rũ
các bạn, và tôi lập lại lời Ngôn sứ Giêrêmia (20,7): “Ngài đã làm cho tôi say
mê, lạy Chúa… Ngài đã chinh phục tôi và Ngài đã mạnh hơn tôi”…
“Hãy để Đức Kitô quyến rũ bạn. Hãy để gương Ngài lôi cuốn
các bạn. Hãy để tình yêu của Thánh Thần yêu mến các bạn… Hãy say mê Đức Kitô để
sống cuộc đời của Ngài, hầu nhân loại có sự sống trong ánh sáng Tin Mừng…”. Đức
Thánh Cha còn nhấn mạnh: “Thời đại chúng ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu sự hiện
diện của những cuộc đời dâng hiến cho tình yêu trở nên khan hiếm. Xã hội chúng
ta sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu không được thúc đẩy để ngước nhìn lên nơi có
những niềm vui chân thật! Giáo Hội chúng ta cũng sẽ nghèo nàn đi biết bao, nếu
thiếu những gì biểu lộ một cách cụ thể và mạnh mẽ tính thời sự vĩnh cửu của việc
dâng hiến cuộc đời vì Nước Trời”.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha giao phó giới trẻ cho Đức Trinh Nữ
Maria, đặc biệt các thanh thiếu niên đã được gọi bước theo Chúa Giêsu. Mẹ biết
rõ tất cả những khó khăn, chiến đấu và trở ngại các bạn trẻ phải trải qua. Xin
Mẹ giúp các bạn trẻ biết nói lên câu: “Xin Vâng” đáp trả tiếng gọi của Chúa,
như Mẹ đã thưa khi được Sứ thần truyền tin.
7. Chúa Chiên Lành
- McCarthy
Suy Niệm 1. CHÚA
CHIÊN LÀNH NHẬN BIẾT CHIÊN CỦA NGƯỜI
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bossco bắt đầu làm việc
cho giới trẻ nghèo khổ và bị lâm nguy tại thành phố Turin ở Ý. Chẳng bao lâu,
các thanh niên nhận ra rằng nơi ngài, đến nỗi một lần kia, khi ngài lâm bệnh nặng,
họ đã hết lòng cùng nhau cầu nguyện sốt sắng, và một số người còn muốn được
thay thế vào chỗ của ngài, bằng cách tận hiến cả cuộc đời mình cho Thiên Chúa.
Sau sự kiện đó Thánh Gioan Bosco đã được hồi phục. Mối tương quan này không thể
tồn tại được, trừ phi có sự gần gũi, và sự gần gũi lôi kéo theo sự nhận biết và
được nhận biết.
Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành nói “Tôi biết các chiên của tôi”.
Người biết các chiên của Người một cách chính xác, bởi vì Người là Chúa Chiên
Lành. Có nhiều mức độ nhận biết khác nhau. Chúng ta quen biết một số người chỉ
qua khuôn mặt hoặc danh tính. Còn đối với những người khác, chúng ta chỉ mới
quen biết sơ giao mà thôi. Và có người chúng ta quen biết với tư cách là bạn
bè.
Có một điều đáng buồn trong việc không nhận biết con người.
Elie Wiesel, một văn sĩ người Do Thái, rất gắn bó với cha của ông, người đã bị
chết tại Aushwitz vào năm 1944. Tuy nhiên, khi viết cuốn tự thuật, ông nói:
“Tôi chưa biết bao giờ thực sự nhận biết cha tôi. Thật đau
lòng khi phải thừa nhận rằng tôi biết rất ít về con người mà tôi yêu thương nhất
trên đời, một con người mà chỉ cần một tia nhìn, cũng có thể lay động tâm hồn
tôi. Tôi thắc mắc không biết những người con trai khác có cùng một vấn đề giống
như tôi không. Liệu họ có nhận biết cha họ như là một con người nào khác với một
khuôn mặt đầy uy quyền, cứ mỗi buổi sáng đều rời khỏi nhà, và trở về nhà vào buổi
tối, để nuôi sống cả gia đình chăng?”.
Tôi e rằng đó là một tiếng than phổ biến. Con cái không biết
gì về cha mẹ của họ; cha mẹ không biết gì về con cái. Để nhận biết về nhau, cần
phải dành ra thì giờ và công sức, những điều này sẽ mang lại thành quả vĩ đại.
Khi thiếu mất sự nhận biết này, thì sẽ để lại hậu quả là sự mất mát lớn lao. Cuộc
sống trôi qua vô cùng nhanh chóng. Chúng ta biết về nhau một cách nghèo nàn. Bạn
không thể yêu thương một người nào đó mà bạn không hề quen biết.
Sự nhận biết đặc biệt quan trọng đối với những người làm
công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người làm
công việc săn sóc người khác. Người săn sóc cần phải nhận biết những người mà họ
săn sóc. Biết tên của những người đó là một bước khởi đầu tốt. Nhưng để thực sự
biết về họ, thì phải biết về lịch sử cuộc sống của họ. Những người được săn sóc
sẽ không hơn gì những chiếc bóng đối với người săn sóc, trừ phi người săn sóc
biết được một số điều về thế giới mà từ đó người được săn sóc xuất phát.
Lối nhận biết mà chúng ta đang nói đến đòi hỏi phải có thì
giờ, sự kiên nhẫn và hy sinh. Nhưng sự nhận biết này được bù đắp bằng phần thưởng
lớn lao. Bất chấp chúng ta không ưa một cá nhân nào đó như thế nào, nhưng một
khi đã biết về lịch sử cuộc đời của người đó, thì thái độ của chúng ta đối với
họ sẽ mềm mỏng hơn.
Tuy nhiên, sự nhận biết này phải là một công việc có hai đường
lối. Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành, biết những con chiên của Người một cách thiết
thân. Nhưng họ cũng biết Người: “Những kẻ thuộc về tôi thì biết tôi”. Đức Giêsu
không ngại ngùng trong việc để cho mình được nhận biết. Nhưng đôi khi, chúng ta
lại có cảm giác đó. Chúng ta không muốn để người khác đi vào cuộc đời của mình.
Sẽ không có ai biết được những cảm giác, nhu cầu, nỗi đau và niềm hy vọng thực
sự của chúng ta là gì.
Có lẽ nỗi sợ hãi bị khước từ làm cho chúng ta tự co rút mình
lại. Chúng ta sợ rằng nếu người ta thực sự biết được con người bất toàn của
mình, thì họ sẽ khước từ chúng ta. Hậu quả là người khác sẽ nhận biết về chúng
ta theo như hình ảnh mà chúng ta có ý tưởng về mình, hơn là đúng với con người
của chúng ta. Sẽ thật là điều đáng buồn, khi chúng ta phải sống và chết đi, mà
chưa bao giờ được người khác biết đến một cách sâu xa, chưa bao giờ được kể ra
câu chuyện cuộc đời mình.
Làm sao chúng ta có thể tạo thành một mối quan hệ với người
khác được, nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách đối với họ, do đó, chúng ta đã
ngăn cản không để cho họ nhận biết mình? Nếu họ cũng giữ một khoảng cách đối với
chúng ta, và nếu điều đó để lại hậu quả là họ không tin tưởng hoặc sợ hãi chúng
ta, thì liệu chúng ta có trách cứ họ không?
Đức Giêsu chính là Chúa Chiên Lành đối với chúng ta. Người
mong muốn chúng ta có được sự sống ở nơi đây và có sự sống đời đời sau này.
Nhưng đây phải là một công việc hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của
Người. Con Chiên trung thành thì phải biết lắng nghe tiếng nói của chủ chiên và
đi theo họ. Chúng ta phải nhận biết Chúa, lắng nghe và thực hành lời của Người.
Suy Niệm 2. TẬN HIẾN
CHO ĐÀN CHIÊN.
Đức Giêsu nói “Sẽ không ai cướp được đàn chiên khỏi tay tôi
được”. Bằng cách này, Người đang nhấn mạnh rằng đối với Người, đàn chiên quý
giá đến thế nào. Nếu có Người giúp đỡ, thì không bao giờ có một điều xấu xa nào
có thể xảy ra cho bất cứ người nào trong số họ.
Khi kẻ làm thuê trông coi đàn chiên, thì lũ chó sói không gặp
rắc rối nào trong việc rình bắt đàn chiên. Ngay khi kẻ làm thuê nhìn thấy một
con chó sói đang tiến lại gần, thì hắn ta liền bỏ rơi đàn chiên. Hắn chỉ nghĩ đến
một điều duy nhất là cứu thoát người thân của mình mà thôi. Người chủ tốt lành
của đàn chiên thì không như vậy. Họ bảo vệ đàn chiên chống lại sự tấn công của
lũ sói, thậm chí họ còn sẵn sàng liều mất mạng sống của mình nữa.
Thật không may, chúng ta đang sống trong một thế giới mà đàn
chiên, đặc biệt là những con cừu, thường bị vồ chụp và vật cho chết. Nhưng đây
chính là một thế giới mà trong đó, hơn bao giờ hết, người ta càng cần đến người
chủ chiên tốt lành. Ngày nay, tất cả mọi sự đều có khuynh hướng to lớn ra và được
tập trung hoá, làm cho việc nhận biết và săn sóc trở nên không dễ dàng gì, bởi
vì tất cả mọi sự đều mất đi tính chất con người. Trong hệ thống này, con người
được thuê mướn và củng cố vì hiệu quả công việc, chứ không vì tình yêu và sự
quan tâm săn sóc, mà họ có khả năng bày tỏ ra.
Ngày nay, người chủ chiên tốt lành không chắc hẳn phải đương
đầu với một đàn chó sói. Nhưng họ có thể phải đương đầu với một điều gì đó còn
tệ hại hơn – một bè lũ tội phạm. Philip Lawrence là một hiệu trưởng tại trường
Công Giáo Thánh George ở Luân Đôn. Vào một ngày trong tháng 12 năm 1995, ông đã
bị đâm nay bên ngoài trường học của ông, trong khi đang cố gắng bảo vệ một
trong số các học sinh đang bị một tên côn đồ tấn công, và ông đã chết vì những
vết thương quá nặng. Ông đã được các thính giả cảu chương trình Thời Đại Ngày
Nay ở đài phát thanh BBC bình bầu là Nhân Vật Ấn Tượng nhất trong Năm. Ông nhận
được 23.130 phiếu bầu, trên cả ông John Major, người sau này làm Thủ tướng
(18.260 phiếu).
Vợ ông đã nói rằng chồng bà “chắc chắn sẽ cực kỳ bối rối về
tất cả điều này. Ông ấy rất khiêm tốn tới mức độ không tán thành chính bản thân
mình”. Thật là một điều hay, khi biết rằng người ta vẫn còn nhận ra sự vĩ đại
nơi một hành động giống như vậy. Và thật là một điều hay, khi biết rằng có người
nào đó có thể làm được một hành động như vậy, và nhìn vào hành động này như là
một điều gì đó bình thường và tự nhiên.
Philip Lawrence là một người chủ chiên nhân hậu đối với các
học sinh của ông. Ông đã cố gắng tạo ra được một môi trường an toàn trong đó
các học sinh có thể được học hỏi và phát triển, để có thể tự hào về bản thân
mình. Đối với ông, ông không thể chấp nhận nổi sự việc cứ để mặc cho một trong
số các học sinh của ông bị một tên côn đồ đánh, mà không ra tay ngăn cản.
Philip Lawrence nhắc nhở cho tất cả chúng ta rằng tình yêu
đích thực có nghĩa là gì, và tình yêu đó có thể mang giá trị gì. Nếu chỉ yêu
thương giới trẻ mà thôi thì chưa đủ, mà chúng con phải được biết rằng chúng được
yêu thương. Điều này không chỉ áp dụng nơi học đường mà còn trong gia đình nữa.
Lawrence đã lấy được sức mạnh và tinh thần nơi đức tin Kitô
hữu của ông. Ông đang mô phỏng theo tình yêu của Đức Giêsu, Chúa chiên lành, Đấng
đã hiến mạng sống cho đàn chiên. Mạng sống của Người không bị lấy đi, cũng
không phải theo lệnh của Chúa Cha. Chính Người đã tự ý trao ban, và trao ban một
cách vui lòng. Người tự hiến cho đàn chiên, để mang chúng về đồng cỏ của sự sống
đời đời.
Mỗi Kitô hữu được gọi là người mang tình yêu thương và sự
chăm sóc. Chúa Nhật hôm nay là lễ của những người biết quan tâm đến kẻ khác. Lễ
này khuyến khích và nâng đỡ những ai đang cố gắng noi guơng Chúa Chiên Lành, và
khêu gợi lương tâm của kẻ chăn thuê.
Những người bước theo đường tình yêu thì tự mở ra khả năng sẽ
hạnh phúc hơn những người khác, và cũng đau khổ hơn. Nhưng, như Carlo Carretto
nói: “Không có gì là khủng khiếp trên trái đất này nếu điều đó dạy cho chúng ta
biết yêu thương”.
Tôi là…
Cần phải đặc biệt chú ý tới hai từ trên mà Đức Giêsu đã
không ngần ngại sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 4,26;
7,29; 8,58; 13,19; 14,20; 17,24; 18,5) Ta cũng biết rằng, hai từ đó gợi lên kiểu
viết "bốn chữ cái không phát âm được là "Tên mầu nhiệm" mà chính
Thiên Chúa đã tự mạc khải cho Môsê trong sa mạc Sinai.
YHVH được chuyển dịch thành YaHVeH và đọc là “Adonai",
"Đức Chúa”.
Hơn nữa, qua nhiều câu trích dẫn như dưới đây, Tin Mừng theo
thánh Gioan đã sử dụng tới ba mươi lần hai từ trên "Tôi là...", kèm
theo một phẩm tính:
- "Tôi là Bánh hằng sống" (Ga 6,35-42,48-51).
- “Tôi là ánh sáng thế gian" (Ga 8.12-9,5).
- "Tôi là Sự sống lại và là sự Sống" (Ga 11,25).
-"Tôi là Cây nho thật" (Ga 15,l-5).
-"Tôi là Cửa cho chiên ra vào" (Ga 10,7-9).
-“Tôi là Mục tử nhân lành" (Ga 10,11-14).
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh đúng đắn, những kiểu nói
trên muốn diễn tả hữu thể thần linh của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết:
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm" (Ga l,14).
Tôi là Mục tử nhân lành (người chăn chiên đích thực).
Ở đây, Đức Giêsu không chỉ sử dụng một hình ảnh đẹp dân gian
và đồng quê, nhưng trước hết đó là một kiểu nói Kinh Thánh vô cùng phong phú.
Trong khắp vùng Đông Phương cổ, các vua chúa thường tự coi mình như mục tử chăn
dắt dân nước. Chính Giavê cũng đóng vai trò đó khi giải thoát dân riêng khỏi Ai
Cập: "Người lùa dân Người đi ví thể đàn chiên, Người dẫn dắt chúng như đàn
cừu ngang qua sa mạc" (Tv 78,52). Đavit, một trong những nhà lãnh đạo
chính trị đầu tiên của Israel, là một cậu chăn chiên tại Bêlem (1 S 17,34-35).
Ông Vua lý tưởng của tương lai, Đức Mêxia, Đavit mới, cũng được loan báo như một
“Mục tử”: "Ta sẽ chỗi dậy một mục tử duy nhất, Ngài sẽ chăn dắt chúng. Đó
là Đavit, tôi tớ của Ta" (Ed 34,23).
Mọi thính giả của Đức Giêsu, cũng như chính Người, đều hiểu
rõ những trích dẫn Kinh Thánh trên, đặc biệt là chương 34 nổi tiếng của ngôn sứ
Êdêkien, diễn tả khá dài những mục tử xấu ác (các vua thời đó) không quan tâm
chăm sóc đoàn chiên của họ trước khi quả quyết rằng, Thiên Chúa Giavê phán thế
này: Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom chúng. Ta sẽ kéo
chúng ra khỏi mọi nơi chúng tán loạn. Ta sẽ chăn nuôi chúng nơi bãi cỏ tốt.
Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta, sấm của Đức Chúa Giavê. Chiên thất lạc, Ta
sẽ tìm kiếm" (Ed 34,1-31).
Như thế, rõ ràng của Đức Giêsu cũng không thể lầm về địa vị
đó. Họ rất hiểu ý định của Chúa: "Nhiều người trong nhóm họ nói: ông ấy
điên khùng rồi? 'Kẻ khác bảo: ông nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự
cho mình, là Thiên Chúa" (Ga 10,20-33). Chính vì thế, họ lấy đá để ném Đức
Giêsu.
Có lẽ chúng ta nên cầu nguyện lâu hơn dựa vào hình ảnh
"Mục tử" biểu trưng này, chẳng hạn dùng Thánh Vịnh 22: "Chúa là
Mục tử chắn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tưới, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, và bổ sức cho tôi”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đi. Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đang chăm sóc. Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu mến con. Và cầu nguyện như thế, không
phải là một kiểu cầu nguyện chủ quan, nặng tình cảm và trống rỗng: Chúng ta sẽ
nhận ra, Đức Giêsu còn tiếp tục gọi lên cho ta nội dung cầu nguyện phong phú
hơn.
Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi.
Ngày nay, hình ảnh con cừu, hình ảnh đoàn vật dễ mang một
nghĩa xấu: Đừng có u lì như lũ cừu? Đừng có tinh thần. đoàn vật? Thực sự, hình ảnh
của Kinh Thánh mang ý nghĩa ngược lại. Ở đây, ba động từ được Đức Giêsu nói
lên, là những động từ tác động rất phù hợp với con người: nghe, biết, theo.
“Nghe": đó là một trong những thái độ cốt yếu, trong
tương quan giữa hai người. Biết lắng nghe, là dấu chỉ của tình yêu đích thực.
Biết bao lần, ngay trong một nhóm người, ngay lúc tụ họp chung quanh một bàn
tròn, ngay trong một cuộc trao đổi mệnh danh là đối thoại, thế mà thực sự ta,
chưa biết lắng nghe. Trong Kinh Thánh, các ngôn sứ không ngừng mời gọi Israel
biết lắng nghe. "Hỡi Israel, hãy nghe đây?" (Đnl 6,4; Am 3,1; Tv
29,3-9). Lắng nghe, đó là khởi sự của lòng tin. Thánh Gioan đã giới thiệu Đức
Giêsu như Ngôi Lời, Lời Thiên Chúa mà Chúa Cha muốn ngỏ cùng thế gian.
"Đây là Con yêu dấu của Ta. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người" (Mt
17,5).
“Theo": đó là một hành động không có gì là thụ động cả,
nhưng diễn tả một thái độ tự do: dính kết toàn thân một người nào đó vào thân
phận một kẻ khác. Theo nghĩa là gắn bó với... Đức Giêsu mời gọi: "Hãy theo
tôi" (Ga l,42).
“Biết”: trong Kinh Thánh, từ này trước hết không mang một ý
nghĩa tri thức. Chính tình yêu mới làm cho ta nhận biết người nào đó một
cách đích thực, đến nỗi đoán được cả tâm tính họ. Sự tin tưởng, hiểu biết lẫn
nhau, yêu mến sâu xa, hiệp thông tâm hồn, trí não, thân xác... là dấu chỉ của
tình yêu vợ chồng (St 4,l).
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt vong,
và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.
Đây đúng là một cộng đồng sinh mệnh giữa Mục tử và đoàn
chiên, giữa Đức Giêsu và "những kẻ nghe tiếng Người và theo Người".
Đúng là một sự liên kết vĩnh viễn.
Lạy Chúa, khi cầu nguyện, con cố tưởng tượng ra, thực sự con
đang ở trong "bàn tay Chúa". Bàn tay mà Chúa đã giơ ra cho người bệnh
để cứu chữa họ. Bàn tay Chúa đã chìa ra cho Phêrô lúc ông chìm sâu dưới lòng biển.
Bàn tay đã cầm Bánh hằng sống, vào chiều Thứ Năm Thánh. Bàn tay mà Chúa đã dang
rộng trên thập giá tại đồi Gôngôtha. Bàn tay bị thương tích do đinh đâm thấu
qua, mà Chúa đã minh chứng với Tôma. Trong bàn tay đó, Chúa đã nắm chặt lấy con
và không ai có thể cướp được con! Lạy Chúa Giêsu xin tạ ơn Chúa.
Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp
được chúng khỏi tay Chúa Cha.
Như thế, chúng ta được cả "hai bàn tay" giữ gìn. Như
một bé thơ được cả cha mẹ giữ gìn, và hướng dẫn trong an toàn tuyệt đối, hình ảnh
đó đẹp biết bao!
Lạy Chúa, con muốn dùng hình ảnh trên để cầu nguyện cùng
Chúa. 'Lạy Chúa Giêsu và Chúa Cha, xin giữ gìn những người con thương mến trong
bàn tay của Chúa.
Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận ra rằng, đó không phải là cảnh
sắc màu mè diễn tả những "mục tử hiền lành" và các chú cừu con lông
xoăn". Người mục tử Đông phương là một người du mục đáng gườm, một thứ
lính chiến, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ... gấu hay sư tử đến để
cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (1 S 17,34-35).
Đức Giêsu, khi Người nói những lời đó, đã nghĩ đến cuộc giao
chiến khốc liệt mà Người sẽ phải đường đầu trong cuộc Thụ khổ để đối phương
"không cướp được" một chiên nào khỏi tay Người. Khác với kẻ chăn
thuê, thường chạy trốn trước sói dữ, Đức Giêsu sẽ phó nộp và đành mất mạng sống
mình vì chiên của Người (Ga 10,12-15). Cùng với Đức Giêsu, tôi có khả năng, chiến
đấu để cứu sống anh em tôi không?
Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Không ai cướp được chúng khỏi
tay tôi.
Thế nhưng, lạy Chúa, làm sao giải thích được những hiện tượng
bỏ hàng ngũ, bất trung thường thấy chung quanh chúng con, hay ngay trong đời sống
chúng con?
Đó là mầu nhiệm của tự do! Nhưng một điều chúng ta cần biết,
đó là không khi nào Chúa buông bỏ! Chỉ có con người rời bỏ bàn tay Chúa. Và
ngay khi con người rời bỏ, Thiên Chúa vẫn tiếp tục tìm liên hệ lại. "Người
nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín
mươi chín con kia ngoài đồng, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?" (Lc
15,4-7). Vậy chúng ta đã tự tạo hình ảnh sai lầm nào về Thiên Chúa, để nghĩ rằng
Người có thể kết án những tội nhân? Chớ gì chúng ta cần cố gắng ít phạm tội đối
với Thiên Chúa yêu thương!
Tôi và Chúa Cha là một.
Các chiên của Đức Giêsu, Người nói chúng đã được Chúa Cha,
Thiên Chúa trao phó cho Người. Nhưng chúng vẫn luôn ở trong bàn tay của Thiên
Chúa.
Những kiểu nói như trên đã dẫn chúng ta bước vào một vực thẳm
choáng váng, khi đứng trước con người Giêsu Nadarét: trong con người thực sự đã
được sinh ra từ một phụ nữ, đã lớn lên, sắp phải đổ máu và bị giết đi, lại
chính là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng và hành động. Đức Giêsu, chính là
Thiên Chúa tự mạc khải trong tình thân hữu với con người. "Tôi và Chúa Cha
là một”. Các Công đồng sẽ phải nỗ lực xác định và đưa ra những quan niệm, nhưng
sẽ không khi nào có được một kiểu nói giúp ta hiểu được mầu nhiệm của con người
Giêsu. Tất cả những gì đã nói, trong công thức trên, chỉ có thể phải "lắng
nghe" trong đức tin: "Chúa Cha và tôi, chúng tôi là một... Thiên Chúa
và tôi, Giêsu, chúng tôi là một"
·
Đó là lý do Đức Giêsu dám quả quyết, Người “ban
sự sống đời đời".
·
Đó là lý do, như chính Thiên Chúa, Người có thể
tuyên bố: "Tôi là...".
·
Đó là lý do Người đã bị buộc tội là một kẻ phạm
thượng, bị người đời đóng đinh, nhưng được Thiên Chúa “minh chính hóa", bằng
cách cho Người từ cõi chết sống lại.
“Ta ban cho các chiên
ta được sống đời đời”.
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hômnay ghi lại lời tuyên bố quan trọng của Chúa
Giêsu về việc Người tự xưng đồng bản tính với Thiên Chúa Cha để trả lời cho những
người Do Thái đến tranh luận với Người về chính nguồn gốc của Người.
II. SUY NIỆM:
Chúa Giêsu đang ở Giêrusalem trong dịp lễ cung hiến đền thờ.
Tại đây xảy ra cuộc tranh luận với người Do Thái về vấn đề người có phải là Đấng
Thiên Sai không và cuối cùng Người đã tự xưng mình là Con Thiên Chúa (Lc 22,70)
bằng cách tuyên bố rằng Cha Người ở trong Người và Người ở trong Cha trong sự
hiệp thông trọn vẹn đời sống và việc làm (Lc 10,22-41).
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần trích trong cuộc tranh luận
và ghi lại lời Chúa Giêsu quả quyết Người đồng bản tính với Chúa Cha.
1. “Chúa Giêsu nói rằng: chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi”
Trước khi trả lời dứt khoát, Người đồng bản tính với Chúa
Cha, Chúa Giêsu tuyên bố sự khác biệt nhau giữa người Do Thái và “Chiên của Người”,
tức là những kẻ tin theo Người. Đối với những người Do Thái, những lời Người
nói và những việc Người làm là các phép lạ, không đủ thuyết phục họ, vì xét cho
cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Ngược lại, chiên của Người là những người
biết ngoan ngoãn đón nhận. Vì họ không cần đến nhiều dấu lạ bên ngoài để làm điều
kiện cho việc đi theo Người.
Động từ “nghe” ở đây bao hàm ý nghĩa tin tưởng và đón nhận.
Nghe Chúa Giêsu là tin tưởng và đón nhận Ngài.
2. “Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”:
a) Tiếng “biết” ở đây bao hàm ý nghĩa chủ động, tức là do
sáng kiến từ Thiên Chúa.
• Thiên Chúa biết Abraham (St 18,19) biểu lộ ý nghĩa Thiên
Chúa tuyển chọn và chăm sóc Abraham.
• Thiên Chúa biết dân Người “Trong các dân tộc trên hoàn cầu
Ta chỉ biết duy một mình có ngươi thôi” (Am 3,2). Ở đây có ý nói Chúa Giêsu tuyển
chọn và chăm sóc các chiên của Người.
b) Chúng theo Tôi: Tiếng “theo” ở đây bao hàm ý nghĩa liên đới
trong sự lệ thuộc. Theo ai là dõi theo bước chân người đó là bước theo sát bước
chân người đó. Ở đây có ý nói các chiên dõi theo Chúa Giêsu để rập theo khuôn mẫu
sống của Người. Hay nói cách khác theo Chúa là đáp trả lời mời gọi của Chúa.
3. “Ta cho chúng được sống đời đời…”:
Con chiên đi theo chủ chăn thì sẽ được dẫn đến dẫn đến đồng
cỏ xanh tươi bảo đảm cho sự sống. Cũng vậy, những ai thực sự đi theo Chúa, tức
là để Chúa dẫn dắt, thì sẽ được bảo đảm đưa đến sự sống đời đời.
Sự sống này, một đàng không thể mất được vì đã được chính
Chúa Giêsu là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống bảo đảm, đàng khác cũng không bị
ai cướp đi được, vì một khi đã được Chúa chăn dắt thì không còn sợ vấn đề Người
không đủ khả năng chăm sóc và bảo vệ cho đàn chiên nữa.
Ở đây muốn nói khi đi theo Chúa Giêsu thì sẽ được Người ban
sự sống đời đời và được Người đảm bảo sự sống ấy cách chắc chắn không thể mất
được.
4. “Điều mà Chúa Cha ban cho Tôi”
Chúa Cha trao ban cho Chúa Giêsu những con chiên, chúng được
coi như là những món quà tặng quý giá nhất. Vì tính cách quý giá như thế nên
Chúa Giêsu phải giữ gìn món quà tặng đó như Chúa Cha đã gìn giữ vậy. Ở đây cho
chúng ta thấy Chúa Cha và Chúa Con cùng làm việc bảo vệ gìn giữ đàn chiên. Và
như vậy Chúa Giêsu liên kết Cha Người vào công trình của Người vì Cha Người là
nguồn mạch mọi ơn huệ.
5. “Tôi và Cha Tôi là một”
Lời tuyên bố này có ý nói đến sự hiệp thông thân mật của
Chúa Giêsu với Chúa Cha, và đây là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần
tính của Chúa Giêsu và mầu nhiệm sâu sa của Thiên Chúa.
Cũng cần lưu ý rằng các Thần học gia từ Tertulien đến
Augustinô đã dùng lời tuyên bố này của Chúa Giêsu làm nền tảng cho việc chứng
minh Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị, để chống lại lạc
thuyết Ariô vốn phủ nhận thần tính của Chúa Giêsu.
III. ÁP DỤNG:
A. Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này trong mùa Phục sinh để
nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Giêsu sau khi Phục Sinh, vẫn còn chăm sóc đàn chiên
của Người và Giáo Hội, và vì vậy chúng ta phải xác tín vào vai trò hoạt động của
Chúa Giêsu trong Giáo Hội và trong từng con chiên là các Kitô hữu.
B. Áp dụng thực hành:
a. Nhìn vào Chúa Giêsu:
1. Xem việc người làm:
- Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh con
chiên để ví người Kitô hữu và mục tử là chính Người để dạy cho chúng ta về sự
chăm sóc của Người đối với mỗi người chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta phải
chăm sóc nhau, nhất là những người có trách nhiệm liên đới tới tha nhân như người
mục tử chăm sóc đàn chiên và lưu tâm từng con chiên.
- Chúa Giêsu đã mạc khải cho
chúng ta về thiên tính của Người, để dạy cho chúng ta biết những công việc của
Người làm là công việc của Thiên Chúa. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta phải biểu
lộ ý hướng ngay lành trong công việc chúng ta làm để gây nên niềm tin tưởng cho
tha nhân.
2. Nghe lời Chúa nói:
- Chiên Tôi nghe tiếng Tôi: là
con chiên đích thực của Chúa thì phải biết nghe Chúa bằng cách tin và đón nhận
lời Chúa vào cuộc sống của mình.
- “Tôi biết chúng…”: Chúa chăm
sóc những ai sống theo Người. Những ai biết chăm chỉ dõi theo Chúa bằng sự suy
niệm, cầu nguyện để sống mỗi ngày một hoàn thiện “như Cha của các con ở trên trời
là Đấng hoàn thiện” thì sẽ được bảo đảm sự sống đời đời.
- “Không ai cướp được chúng khỏi
tay Tôi”: Nhờ ân sủng của Chúa, chúng ta sẽ vượt thắng được mọi gian nan thử
thách và không việc gì có thể tách rời ta ra khỏi Chúa được.
- “Cha Tôi và Tôi là một”: Chúa
Giêsu mạc khải cho ta về sự hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con. Vì vậy ai hiệp
thông với Chúa Giêsu qua các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể thì cũng được hiệp
thông với Thiên Chúa. Thật là diễm phúc cho những ai biết ý thức sự hiệp thông
với Thiên Chúa mỗi khi nhận lãnh Bí tích, nhất là khi rước lễ.
“TA LÀ ĐẤNG CHĂN
CHIÊN LÀNH”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu, Đấng chăn chiên lành.
Bản văn Chúa nhật này quá ngắn, cần đưa trở lại văn mạch tổng
thể một chút. Vào dịp lễ Lều, sau khi chữa một người mù bẩm sinh và anh ta bị
trục xuất khỏi hội đường, Đức Giêsu tỏ ra là một "Đấng chăn chiên, hiến tặng
đời mình cho đàn chiên" (Ga 10,11)
Giờ đây, chúng ta trở lại lễ Cung Hiến, lễ kỷ niệm hằng năm
ngày cung hiến đền thờ và bàn thờ thời Giuđa Macabê. Đức Giêsu đi đi lại lại
nơi hành lang Salômôn (nơi mà sau khi Chúa về trời, các môn đệ thường tụ họp,
Cv 5, 12). Những người Do Thái - từ ngữ chỉ chung các thù địch của Đức Giêsu,
trong Tin Mừng Gioan - tụ tập quanh Đức Giêsu (đúng ra là "quanh Người":
10,22). Tin Mừng ghi: "Lúc đó là mùa đông" (Ga 10,22); nói thế, để từ
thời tiết, chúng ta dễ nghĩ tới "sự băng giá" của lòng người theo
thánh Augustinô sẽ viết sau này. "Nếu ông là Đấng cứu thế, hãy nói huỵch
toẹt cho chúng tôi biết đi".
Những người vây quanh không nắm rõ nội dung từ Cứu thế, nên
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời câu hỏi, Người kêu gọi thính giả suy nghĩ về
những công việc của một vị Cứu thế, nhất là việc chữa người mù bấm sinh mới đậy.
A. Marchadour giải thích: "Các phép lạ được coi như nhũng dấu chỉ, nhờ đó
mà nhận ra Đấng Cứu thế. Rồi, Người tiếp tục đề tài người chăn chiên, hình ảnh
truyền thống của Đấng cứu thế dòng dõi Đavít; ở đây, Người nhấn mạnh đến những
con chiên mà Chúa Cha trao phó cho Người.
2. Làm một với Chúa Cha.
Và bây giờ, một đề tài mới, cho tới lúc này, chưa đề cập tới
lần nào: sự thân mật với Chúa Cha: "Cha tôi và tôi, chúng tôi là một".
Một khẳng định xác lập cội nguồn sứ mệnh của Đức Giêsu. Tình yêu của Chúa Cha,
một tình yêu toàn bích bao bọc các con chiên đến nỗi không ai có thể cướp được
một con nào. "Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả và
không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha"
Đối với người Do Thái, nói thế là quá quắt rồi. Phạm thượng?
Ai lại dám xưng mình là Cứu thế và lại còn thân mật quá thế với Thiên Chúa. Họ
lượm đá để ném Người. Họ nói: "Ông chỉ là phàm nhân mà lại tự cho mình là
Thiên Chúa". Tác giả Tin Mừng kết thúc: “Nhưng Người đã thoát khỏi tay họ”.
Tác giả như muốn mời chúng ta đọc đoạn này dưới ánh sáng của cuộc tử nạn trên
thập giá và sự Phục sinh từ cõi chết. Với ánh sáng ấy, chúng ta sẽ khám phá ra
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã hoàn tất tới cùng sứ mệnh của mình bởi tình yêu đối
với các con chiên thế nào; trên con đường sự sống nào, Người muốn dẫn đưa những
ai nghe tiếng Người và đi theo người; Mối tình hiệp thông yêu thương nào với
Chúa Cha mà Người muốn dẫn đưa chúng ta tham dự vào?
BÀI ĐỌC THÊM
1. Theo Đức Giêsu
(G. Boucher, trong "Thiên đường tại thế").
Lạy Chúa, chúng con không muốn mình bị đồng hóa với đàn súc
vật. Con không thích là một chú chiên chỉ biết đi theo người chăn chiên..Con
cũng không muốn kêu be be như con chiên. Con nói điều con nghĩ, đi nơi con
thích. Con không muốn bị dắt đi.
Ngày nay, chúng con nhấn mạnh đến sự thức tỉnh của lương
tâm: mỗi người sẽ chọn lấy hướng đì mà mình muốn. Mong sao có trong tay phương
tiện thực hiện sự lựa chọn của mình. Ngày nay, chúng con thích chịu trách nhiệm
về số phận mình. Chúng con không muốn trao tấm bảng trắng đời mình cho các nhà
lãnh đạo hoặc những người chúng con bầu ra để họ muốn làm gì thì làm. Ngược lại,
họ phải trả lời cho chúng con về những việc họ đã làm.
Nhưng, Chúa lại nói với con rằng: giữa con và Chúa là sự hiệp
thông. Mong sao Chúa nói lời soi sáng và hướng dẫn đời con. Chúa thuộc một bình
diện hoàn toàn khác.
·
Nghe Chúa và đi theo con đường Chúa đã vạch ra,
con sẽ sống cuộc sống tốt đẹp và trọn vẹn, cho tới nỗi cuộc sống ấy sẽ không ngừng
lại khi sự hiện hữu trần thế chấm dứt. Cuộc mạo hiểm mà Chúa dắt con đi sẽ dìm con
vào sự sống vĩnh hằng.
·
Với Chúa, mọi sự sẽ đổi khác. Chúng con không
còn nguy cơ sẽ bị huỷ diệt nữa. Không ai tiêu diệt được chúng con. Không gì có
thể xâm phạm đến chúng con.
Nghe lời Chúa và đi theo con đường Chúa thiết lập là chúng
con lên đường với Chúa. Con muốn nói: với Thiên Chúa. Với Thiên Chúa của sự sống
và của sự vĩnh cửu. Với Thiên Chúa mà Chúa đã gọi là Cha.
2. Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
(Sứ điệp của Đức Gioan-Phaolô II).
Ngày nay, vẫn còn nhiều nguyên do cản ngăn thanh thiếu niên
và các bạn trẻ sống sự thực của tuổi đời mình trong sự gắn bó quảng đại với Đức
Kitô. Biết bao bạn trẻ đang đánh mất năng lực phát triển đích thực.
Vậy nên mong đợi gì? Trong thâm tâm mỗi thế hệ luôn ẩn tàng
một ước muốn tạo lập một ý nghĩa cho đời mình. Trên
hành trình cuộc sống, các bạn trẻ luôn tìm một người biết thảo
luận với họ, những vấn đề làm họ bức xúc và đồng thời đề ra được những giải
pháp, những giá trị, những viễn cảnh đầu tư được sự dũng cảm đương đầu với
tương lai.
Điều người ta đòi hỏi hôm nay là: một Giáo Hội biết trả lời
cho sự kỳ vọng của tuổi trẻ. Đức Giêsu mong muốn thảo luận với họ qua thân thể
người là Giáo Hội. Người muốn đề nghị với họ viễn cảnh của một chọn lựa có tính
quyết định cuộc đời Như Người đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus,
Giáo Hội ngày nay cũng phải lên đường đồng hành với các bạn trẻ đầy ưu tư, bất
mãn và mâu thuẫn, để loan báo cho họ Tin Mừng kỳ diệu của Đức Kitô phục sinh.
Điều người ta đang cần là một Giáo Hội cho các bạn trẻ, một
Giáo Hội nói chuyện được với lâm hồn họ, hâm nóng con tim họ bằng niềm vui của
Tin Mừng, bằng sức mạnh của Thánh Thể, một Giáo Hội biết đón tiếp và mời gọi những
ai đang đi tìm mục đích cuốn hút toàn bộ cuộc sống của họ; một Giáo Hội không sợ
đòi hỏi nhiều sau khi đã cho đi không ít; một Giáo Hội không sợ đòi hỏi nơi bạn
trẻ sự nhọc mệt của một cuộc mạo hiểm cao thượng và chân chính, cuộc mạo hiểm
bước “theo" Tin Mừng.
CHÚA GIÊSU BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
CHO CÁC CHIÊN CỦA NGÀI
1. Khác với các
phúc âm nhất lãm (Lc 22,66-71 và song song), Gioan không tường thuật vụ án Chúa
Giêsu trước công nghị Do thái trong cuộc khổ nạn. Vì theo ông, vụ án thực sự đã
diễn ra trước khi Chúa Giêsu bị bắt, trong những lần tranh luận với người Do
thái, đặc biệt trong cuộc tranh luận hôm nay. Lúc này cũng như trong vụ án
chính thức theo pháp luật về sau. Chúa Giêsu bị ép buộc trả lời rõ ràng Người
có phải là Đấng Messia không (c.24) và cuối cùng Ngài tự xưng mình là Con TC
(x.Lc 22,70) bằng cách tuyên bố rằng Cha Ngài và Ngài ở trong Cha, trong sự hiệp
thông trọn vẹn đời sống và việc làm.
Tuy nhiên trước khi tuyên bố dứt khoát điều đó, Chúa Giêsu cảm
thấy phải cứ quả quyết không ngừng cho những kẻ đối thoại với Ngài. Đó là điều
làm cho người Do thái và “chiên của Ngài” khác biệt nhau. Đối với người Do
thái, những lời Ngài nói, phép lạ người làm không đủ thuyết phục họ, vì xét cho
cùng họ có dã tâm và không muốn tin. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa Giêsu nói
đến chiên của Ngài, đối nghịch với sự ngoan ngoãn và ngay thẳng của đàn chiên với
tính hiểm ác của người Do thái. Dĩ nhiên Ngài không cần nhiều dấu hiệu bên
ngoài như vậy, vì chúng nghe và đi theo chủ chiên. Phần mục tử, Ngài biết chiên
mình và đảm bảo cho chúng sự sống đời đời. Trong tay Ngài, đàn chiên được an bình
không bị ai đánh cướp.
2. Về câu 29, bản
Hy lạp không được chắc chắn lắm. Các thủ bản ở đây chia làm nhiều nhóm. Ta có
thể tóm gọn thành hai:
Nhóm thứ nhất chọn câu: ho pâtêr mou ho dedoken moi pântôn
meizon estin, dịch từng chữ là “Cha Ta, điều Ngài ban cho Ta thì lớn lao hơn tất
cả” (bản Vaticanus, Versions latines, Sinaiticus, Codex Freer và chung chung
các giáo phụ Latinh). Câu này có thể hiểu được hai cách: điều mà Chúa Cha ban
cho Chúa Con chính là bản tính của Người (Augustin, Thomas, Lnabenhauer...) hay
quyền năng của Người (Schanz, Belser...) và đó là điều cao trọng hơn tất cả.
Nhưng ai mà dám nghĩ đến việc cất bản tính và quyền năng của Chúa Con khỏi tay
Chúa Cha? Cho nên lối giải thích thứ nhất này khó chấp nhận xét theo văn mạch.
Văn mạch nói đến việc ban tặng là ban tặng các chiên (ý kiến chung), vì thế phải
hiểu: “Điều mà Chúa Cha ban cho ta (các chiên) là quà tặng quí giá nhất”, như
thế ta hiểu đó là lý do khiến Chúa Con phải giữ gìn quà tặng đó, và một khi đã
ban cho Con, Chúa Cha cũng luôn lưu tâm đến tặng vật này.
Nhóm thủ bản thứ hai (nhóm K, Codex Coridethi, codex Bezae,
và các giáo phụ Hy lạp) chọn câu: ho pâtêr mou hos dedôken moi pantôn meizôn
estin, có thể dịch: “Cha Ta, đấng đã ban cho chúng ta, thì lớn hơn tất cả mọi sự”,
nghĩa là: Cha Ta, Đấng đã ban cho Ta các chiên, là Đấng cao trọng hơn mọi loài
và vì thế...Ngài đặt chúng trong tay Ta mà không ngừng giữ chúng trong tay
Ngài. Ở đây, tay có nghĩa là quyền năng, quyền năng chung của hai Đấng. Câu này
xem ra thích hợp hơn với văn mạch và đã được số đông tác giả theo (Louis,
Bultmann, Barret, BJ, TOB...). Tuy nhiên nó bị chỉ trích là đã được sửa đổi để
thêm phần sáng sủa. Nói rằng Chúa Cha lớn lao hơn hết mọi sự là điều hiển
nhiên, cần gì nêu lên ở đây. Dầu vậy, câu (b) này ngày nay đã được hầu hết chấp
nhận.
Dù sao, điều làm chúng ta chú ý chính là tay của Chúa Con,
được đặt ngang hàng với tay Chúa Cha, hay đúng hơn cả hai tay cùng bảo vệ giữ
gìn đàn chiên. Chúa Giêsu xem ra tự gán cho mình quyền ban sự sống cho các tâm
hồn và giữ gìn chúng trong tay. Nhưng rồi theo thói quen (5,19tt; 6,37;7,16;
8,49; 10,18), Chúa Giêsu vội vàng liên kết Cha Ngài vào công trình của Ngài, vì
Cha là nguồn mạch mọi ơn huệ: Chúa Cha giao cho Chúa Con một vật và gìn giữ bằng
sức mạnh của mình, cũng như Chúa Con gìn giữ những gì nhận được từ Cha.
3. Lời tuyên bố
trong câu 30 ("Cha và Ta là một") về sự hiệp thông mật thiết của Chúa
Giêsu với Cha Ngài là một mạc khải quan trọng rõ ràng nhất về thần tính của
Ngài và mầu nhiệm sâu xa của TC. Chính trên đỉnh sáng ngời đó mà Chúa Giêsu chấm
dứt tranh luận với người Do thái: Ngài có thể mạc khải thêm cho họ điều gì nữa?
Và đó là nghĩa mà người Do thái hiểu khi nghe Chúa Giêsu tuyên bố như thế, vì lập
tức sau đó họ ném đá Ngài “bởi lẽ ông là một người phàm mà dám cho mình là TC”.
Câu 30 này đã nổi tiếng trong lịch sử tranh luận với tà giáo
Ariô. Chúa Giêsu không nói: “Ta và Cha Ta, chúng ta là một ngôi vị” (heis)
nhưng bảo: “chúng ta là một sự (hen, chose), chúng ta đồng một bản tính và vì
thế mà tay Ta (c.28) cũng quyền năng như tay Cha Ta” (c.29). Tất cả thần học
gia chống Ariô, từ tertullien đến Augustin đã dùng câu 30 làm công thức thánh
kinh nói về việc Chúa Cha và Chúa Con đồng bản tính nhưng khác ngôi vị.
KẾT LUẬN
Ân sủng thần linh cho chúng ta sức mạnh để vượt thắng mọi
khó khăn bên ngoài (Rm 8,31-39) bất cứ từ đâu đến, nhưng ân sủng không ép buộc
ai cả. Con người có thể từ chối không muốn được cứu rỗi: “TC chỉ từ bỏ những ai
xa tránh Ngài trước” (công đồng Triđentinô, DS 1537).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. “Người Do thái
mới vây quanh Chúa Giêsu”. Họ muốn chất vấn Ngài lần nữa vì Ngài làm họ khó chịu.
Họ đột nhiên nói với Ngài: “Cho đến bao giờ nữa, ông còn để lòng trí chúng tôi
phân vân lưỡng lự? Nếu quả ông là Đức Kitô, xin nói trắng ra cho chúng tôi”.
Chúa Giêsu hẳn làm cho họ bối rối nhiều và có lẽ làm cho họ nghi ngờ. Họ muốn
biết thực hư. Ai trong chúng ta không một lần chất vấn Chúa như thế: Ngài là ai
đối với tôi hôm nay? Tìm Ngài chỗ nào? Trong mọi hỗn loạn thời đại, trong bao
cuộc đặt lại vấn đề, Chúa ở đâu? Đâu là sự thật? Đúng hơn, khi một vấn đề đặt
ra khiến phải chọn lựa chúng ta đã không từng muốn một câu trả lời rõ ràng đó
sao? Thảm kịch chính là chúng ta không biết gì nữa; khiến ngập tràn đến độ làm
chúng ta không còn hiểu gì nữa. Đây là một nghịch lý đáng sợ: kiến thức càng
tăng thì càng dẫn đến sự vô tri về chân lý. Như những người Do thái, chúng ta
muốn biết ai là người kêu gọi chúng ta qua phúc âm, ai là người đảo lộn cuộc hiện
hữu của chúng ta và đặt lại vấn đề đời sống chúng ta.
2. Chúa Giêsu xem
ra không trả lời gì cả. Chính công việc Ngài đã thực hiện làm chứng cho Ngài;
và nếu người ta không tin Ngài, đó là vì họ không thuộc đàn chiên Ngài, theo
Ngài và thuộc về Ngài vì Chúa Cha đã ban họ cho Ngài. Và Ngài nói: “Cha ta và
Ta là một”. Phải nói là câu trả lời của Chúa Giêsu làm chúng ta hoang mang.
Chúng ta vừa chấp nhận, vừa bất mãn, vừa nghi nan. Câu trả lời đó của Chúa
Giêsu gợi lên những âm hưởng sâu xa, đánh động tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên
chúng ta không thỏa mãn vì câu ấy đặt ra nhiều vấn đề: làm sao trở thành chiên
của Chúa. Đặt vấn nạn này là vì chúng ta không biết câu trả lời; thế mà hình
như Chúa Giêsu nói rằng câu hỏi chỉ đặt ra cho những kẻ không thể hiểu câu trả
lời. Những phản ứng của chúng ta vừa biểu lộ sự thỏa mãn cũng như bất mãn; điều
đó chứng tỏ chúng ta vừa là chiên vừa là người Do thái, và chúng ta vẫn đặt câu
hỏi mặc dầu một cách nào đó đã biết câu trả lời.
3. Nên lưu ý nghịch
lý này là: những ai đặt câu hỏi thì không thể nghe được câu trả lời; còn những
ai nghe được câu trả lời thì không cần đặt câu hỏi. Người Do thái đặt câu hỏi,
chúng ta cũng vậy, một phần nào đó trong con người chúng ta chưa thuộc về Chúa
cũng muốn hạch hỏi Người. Nếu người Do thái đã có khả năng lắng nghe, thì họ đã
gặp được câu trả lời, đã sống câu ấy và không hỏi gì nữa. Đặt vấn nạn như họ
làm cho họ không nắm được câu đáp, vì họ chỉ chuẩn bị để phê bình, lượng giá
câu trả lời theo các định kiến và hiểu biết của họ. Họ chỉ chấp nhận chân lý
bao lâu họ thấy hòa hợp với những gì họ đã biết. Họ không thể chấp nhận Đức
Kitô bởi không chịu được một giải đáp khác với giải đáp họ đã có sẵn.
4. Trái lại, các
chiên không đặt câu hỏi, không phải vì đã biết được giải đáp, song vì điều đó
không cần thiết. Chúng có một não trạng khác. Chúa Giêsu diễn tả chúng bằng hai
tiếng: “Chúng nghe và theo”; Ngài nói tiếp: “Ta biết chúng” và “chúng biết ta”.
Đàn chiên không cần đặt vấn đề danh tánh Chúa Giêsu. Chúng thuộc về một giống đặc
biệt. Cũng như chúng ta vừa thuộc não trạng người Do thái đang cật vấn Chúa, vừa
thuộc dòng giống này. Chúa Giêsu diễn tả đàn chiên với vẻ âu yếm: Ngài biết
chúng, ban cho chúng sự sống, bảo vệ chúng khỏi những kẻ ám hại. Đàn chiên
không thể cắt nghĩa vì sao Ngài làm như vậy, nhưng chúng biết Ngài nên “chúng
nghe và đi theo Ngài”. Chúng sẵn sàng lắng nghe, đón nhận cái bí ẩn, đi đến nơi
mà Chúa dẫn tới và chấp nhận mọi nghịch cảnh có thể xảy tới.
5. Hôm nay, Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta đừng quá ham chất vấn, luôn tìm cách phân tích cái mới lạ,
giản lược nó thành tầm thường - đó là một cách tự đóng kín mình, làm mình mất
khả năng tiến bộ, biến đổi. Hãy biết lắng nghe, biết mình ngu dốt, biết rằng đấng
vô danh luôn luôn kỳ lạ, rằng một cách nào đó Chúa luôn là một đấng chúng ta
không thể biết rõ, vì chúng ta không thể hiểu được cách tường tận bao lâu còn ở
thế gian này. Nhưng để luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa, để sống hạnh phúc
thật sự ở cõi trần này, chỉ có một con đường: nghe và theo Chúa.
12. Người mục tử
Hình ảnh người mục tử là một hình ảnh rất quen thuộc đối với
dân Do Thái và đã được Kinh Thánh sử dụng nhiều lần.
Thực vậy, tiên tri Egiêkien đã mô tả Đấng Thiên Sai với vóc
dáøng của một người mục tử. Còn Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đám đông đi theo,
Ngài đã thực sự xúc động và nói:
-
Ta thương đám dân này, vì họ bơ vơ tất tưởi như
đàn chiên không người chăn dắt.
Nhất là qua đoạn tin mừng hôm nay, Ngài đã nhấn mạnh chính
Ngài là người mục tử nhân lành.
Theo thói quen lúc bấy giờ, thì khi chiều xuống, những người
mục tử lùa đàn chiên của mình tới một nơi chung để nghỉ qua đêm. Nơi này thường
có hàng rào bao bọc và một cửa ra vào, để người ta có thể kiểm soát một cách dễ
dàng.
Ban đêm, người ta thay phiên nhau canh giữ đàn chiên. Ban
sáng, các mục tử đến tìm đàn chiên của mình. Họ đứng ở cửa và lên tiếng kêu.
Đàn chiên nghe tiếng họ và bước theo họ. Các mục tử khác cũng lần lượt làm như
vậy và dẫn đàn chiên tới đồng cỏ.
Hình ảnh so sánh thật rõ ràng và trong sáng. Chúa Giêsu là
người mục tử nhân lành. Ngài vừa đi đầu, vừa chỉ đường, để dẫn đàn chiên tới đồng
cỏ xanh, cũng như tới nguồn suối mát.
Là người tín hữu, chúng ta phải bước theo Ngài, cũng như phải
noi gương bắt chước Ngài. Ngài nhận biết mỗi người chúng ta, nhưng đồng thời mỗi
người chúng ta cũng phải nhận biết Ngài. Đây không phải chỉ là một sự nhận biết
xuất phát từ trí khôn, mà còn phải xuất phát từ trái tim, từ cõi lòng, hay nói
cách khác từ tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì bây giờ đến lượt
chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương Ngài.
Tuy nhiên, trong sự so sánh này có một vài điểm khác thường,
được Chúa Giêsu sử dụng để làm nổi bật tình thương của Ngài đối với chúng ta.
·
Điểm thứ nhất, đó là người mục tử sẵn sàng chiến
đấu để bảo vệ đàn chiên trước sự tấn công của sói rừng. Nhưng chết để bảo vệ
đàn chiên thì quả thật là hơi hiếm. Người mục tử trong phúc âm không phải chỉ bảo
vệ sự sống của đàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Chính nhờ sự
hiến mạng sống này, mà chúng ta có được kho tàng ơn cứu độ.
·
Điểm thứ hai đó là người mục tử gọi tên từng con
chiên. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ:
-
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy
đã chọn các con và sai các con đi để các con sinh nhiều hoa trái và để hoa trái
các con tồn tại muôn đời.
Là người tín hữu, chúng ta phải ý thức về ơn gọi của mình.
Thực vậy, Chúa Giêsu luôn nói với mỗi người chúng ta:
-
Hãy theo Ta.
Nhưng đồng thời, Ngài cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người.
Nếu ngày xưa, Ngài đã mời gọi người phụ nữ Samaria, cũng như đã mời gọi ông
Giakêu ra khỏi quãng đời tăm tối và tội lỗi, thì hôm nay, Ngài cũng vẫn âm thầm
mời gọi chúng ta sám hối và hoán cải cuộc đời.
Thế nhưng, không phải chúng ta chỉ trả lời Ngài một lần thay
cho tất cả. Lời mời gọi của Ngài không ngừng vang vọng suốt dọc cuộc đời chúng
ta. Bởi đó, cuộc đời chính là một cuộc đối thoại liên tục, chính là một sự đáp
trả không ngừng trước lời mời gọi ân tình của Chúa.
·
Điểm thứ ba, đó là người mục tử đi trước và đàn
chiên theo sau. Người mục tử không đẩy đàn chiên đi trước, nhưng chính ngài là
người đi trước để chỉ đường dẫn lối cho đàn chiên.
Với chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng của người Kitô hữu là
bước theo Chúa. Mặc dù hôm nay chúng ta không nhìn thấy Chúa nhãn tiền, nhưng
tin mừng phúc âm của Ngài chính là những chỉ dẫn cần thiết và bí tích Thánh thể
chính là lương thực bổ sức cho chúng ta suốt cuộc hành trình trần gian.
Chúa Giêsu là người mục tử nhân lành. Còn chúng ta, chúng ta
có thực sự là những con chiên trong đàn chiên đang sống dưới sự chăn dắt của
Ngài hay không?
Tất cả các bài đọc Phụng vụ của Chúa nhật IV Phục sinh hôm
nay, hay còn gọi là Chúa nhật lễ “Chúa Chiên Lành” giới thiệu với chúng ta ơn cứu
độ mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua Chúa Kitô, vị mục tử nhân lành đã
hiến mạng sống mình cho đoàn chiên. Ơn cứu rỗi và Tin Mừng giải phóng mà Thiên
Chúa cống hiến cho con người qua Chúa Kitô là ơn cứu rỗi toàn vẹn, nó có sức mạnh
cứu rỗi con người cả hồn lẫn xác, nghĩa là chữa lành mọi bệnh tật hay khổ đau.
Các bệnh tật của con người không chỉ là các sự dữ mà chúng phải xuất trên bình
diện sâu thẳm hơn, đó là sự không thỏa mãn được những khát vọng sâu thẳm của
con người.
Ơn cứu rỗi Thiên Chúa ban cho con người không phải là thứ giải
phóng giả tạo hời hợt bên ngoài. Qua Chúa Kitô, Thiên Chúa nhập thể làm người,
Thiên Chúa gieo vào trong nhân loại một mầm sống sự sống mới, một hình ảnh mới
về sự sống con người. Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu cho thấy ơn gọi về phẩm
giá vô cùng cao quí của con người với những quyền bất khả xâm phạm, như quyền tự
do và quyền được kính trọng.
Khi mặc lấy hình hài của con người, Chúa Giêsu dạy chúng ta
biết rằng, mỗi một người dù có nhỏ bé yếu đuối, dù có bệnh hoạn tàn tật, dù có
già nua tuổi tác đến đâu đi nữa cũng đều có giá trị cao trọng trước mặt Thiên
Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo thành giống hình ảnh
của Ngài và mang trong mình hơi thở sự sống Thần linh của Thiên Chúa. Chúa Kitô
đã khai sinh một thế giới có giá trị, trong đó tình yêu thương, sự quí trọng đối
với mọi tạo vật, và tình yêu thương quí trọng đối với mỗi người là tạo vật cao
vời nhất kéo theo những hậu quả vô cùng quan trọng và cụ thể trong cuộc sống xã
hội như trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hóa. Chính vì thế nên cảnh con
người quen thói bóc lột con người là một thực tại phản nghịch tinh thần yêu
thương của Chúa Kitô.
Tin vào Chúa Kitô Phục sinh là con người lãnh nhận được toàn
bộ và trọn vẹn ơn cứu độ qua biến đổi cuộc sống trong tâm hồn cũng như trên thể
xác. Bởi vì cuộc sống mới mà Chúa Kitô ban cho con người tinh thần toàn vẹn là
cuộc sống làm con cái Thiên Chúa.
Thánh Gioan khẳng định rõ sự thật này, tin nhận Cháu Kitô và
Tin Mừng yêu thương của Ngài là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, được giống
Ngài và bước vào cuộc sống hiệp thông với Ngài. Phẩm giá làm con cái Thiên Chúa
ấy đã được Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta qua Bí tích Thánh tẩy, mầm sống mới
thần thiêng ấy đã được săn sóc vun xới lớn mãi trong tâm hồn và giữa cuộc sống
thường ngày của chúng ta.
Ơn gọi Kitô như thế là trở thành giống Chúa mỗi ngày một hơn
cho tới khi chúng ta sẽ được biến đổi và hoàn toàn giống Ngài trong cuộc sống hạnh
phúc mai sau bên Chúa, trong cuộc sống của những người được ơn cứu chuộc.
Mục tử và đàn chiên là một đề tài Đức Giêsu ưa thích, vì thế
Ngài không bỏ lỡ cơ hội nào để diễn tả thật rõ ràng, thật đậm màu những đặc
tính chủ yếu của đề tài đó. Đặc biệt trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã
nêu rõ đặc tính tốt lành của vị mục tử và đàn chiên của Ngài thì “biết nghe tiếng
Chúa” dám “bước theo Ngài" để không bao giờ bị diệt vong nhưng được sống đời
đời.
Mỗi ngày, chúng ta được nghe biết bao tiếng ồn ào được phát
xuất từ gia đình, từ quán xá và từ những người xung quanh. Những làn sóng này
có lúc nghe thật êm dịu, nhưng không thiếu những lúc chúng ta có thể điên lên
được; một khi hàng xóm mỗi lúc một “tăng volume” gây náo nhiệt cả hàng xóm. Nếu
chúng ta cũng như họ, nếu chúng ta không bằng lòng với họ, tôi hỏi thử chuyện
gì sẽ xảy ra? Nhưng một khi chúng ta nghe tiếng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy”
thì cách giải quyết của ta sẽ trở nên tốt hơn. Như vậy, giữa những âm thanh cao
độ của thế gian, vẫn còn có tiếng thì thầm của Đấng tràn đầy tình thương đã và
đang lan tỏa trong suốt cuộc sống của chúng ta.
Tiếng của Chúa chính là tình yêu. Ngài yêu thương ta không
phải ta đáng được yêu, nhưng Ngài yêu vì chúng ta cần được yêu. Sống giữa xã hội
còn phân biệt sang hèn, tiếng của Chúa được vang lên từ những trái tim của những
người nghèo khổ, bị áp bức. Tiếng Chúa hôm nay còn là tiếng kêu của đồng bào, của
xã hội loài người đang cần đến nhau để sống, để có cơm ăn, áo mặc, để tạo được
hạnh phúc cho nhau. Và tiếng Chúa vẫn còn vang dội từng ngày từng giờ thúc bách
mỗi người chúng ta dấn thân theo Chúa trên khắp nẻo đường, yêu thương và phục vụ;
yêu thương phục vụ và hy sinh đến chỗ không còn tìm kiếm gì cho riêng mình. Hơn
nữa, dám liều mình vì anh em, như mục tử dám liều mình vì đàn chiên.
Giờ đây, nếu chúng ta nghe tiếng Chúa mời gọi, chúng ta sẽ
đáp lại lời mời gọi làm sao?
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo
tôi”. Nghe tiếng Chúa là tin nhận lời của Ngài, bước theo Ngài là dấn thân sống
lời Chúa một cách tự do và chủ động. Bước theo Ngài không phải là phó thác hoàn
toàn cho Chúa, không phải là trao hết trách nhiệm cho Chúa, và cũng không phải
bám víu vào một mớ giáo lý; nhưng là phải thực hành những điều ta lĩnh hội, là
thực hành như Ngài đã sống. Sống thực hành là đem lại tình yêu thương dẫn dắt
ta trong mọi quan hệ với tha nhân, là mở rộng tâm hồn để tiếp nhận sự thật đến
từ Thiên Chúa.
Trước mọi trào lưu tư tưởng mới, và trước mọi cám dỗ tấn
công, chúng ta hãy đứng vững vì chúng ta đã được nếm thử cùng nghiệm được rằng
Đức Giêsu là đường là sự thật và là sự sống. Như thế, chúng ta sẽ cảm thấy thực
sự mình là người người tín hữu Kitô dám bước theo Ngài và có khả năng làm chứng
cho Ngài trước thế gian. Lúc đó, hình ảnh mục tử và đàn chiên đạt đến mối tương
quan sống động và thân thương giữa Thiên Chúa và con người, giữa Đức Kitô và những
kẻ theo Ngài. Chiên tốt lại gặp được mục tử lòng lành tốt bụng thì thật là tuyệt
vời và còn tuyệt vời hơn khi mục tử hứa cho đoàn chiên “được sự sống đời đời”.
Chiên tôi…. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không
bao giờ hư mất. Với hình ảnh đó, lời dạy đó, chúng ta quen gọi Đức Giêsu là Đấng
chăn chiên lành, Ngài hướng dẫn đoàn chiên của Ngài, Ngài để tâm chăm sóc từng
con chiên trong đàn, Ngài không chỉ dẫn dắt đàn chiên đến đồng cỏ xanh nước
mát, mà còn dẫn chúng đến đích điểm là sự sống đời đời với Thiên Chúa là Cha
trên trời.
Ngay ở trần gian, Ngài là Đấng chăn chiên lành dám thí mạng
vì đàn chiên, Ngài dám chịu mục nát đi như hạt giống gieo vào lòng đất. Như thế,
sự sống đời đời Ngài ban cho ta ngay tại thế này chính là cuộc sống yêu thương
vô điều kiện. Và từ biến cố Phục sinh, con người đã nên mới so với con người
cũ, con người sống sót không còn bị đóng khung sau quyền lợi và giá trị riêng
tư của mình, nhưng là một cuộc sống đầy yêu thương và luôn mở rộng ra với mọi
người.
Nếu mục tử Giêsu biết chiên của Ngài, nghĩa là yêu thương đến
nỗi nên một với nó và hiến mạng vì nó, thì mỗi người Kitô hữu cũng phải có
trách nhiệm liên đới với anh chị em mình trong mọi nỗi niềm và cảnh ngộ của cuộc
sống để cùng đưa nhau về nơi sự sống vĩnh cửu mà mục tử Giêsu đã dọn sẵn cho
chúng ta.
Hôm nay, cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi linh mục,
tu sĩ, chúng ta cũng được mời gọi sống trọn ơn gọi (tiên tri – tư tế – vương đế)
của mình bằng cách lắng nghe và bước theo Thầy Chí Thánh để trở nên những mục tử
tốt cho nhau. Nhất là chúng ta cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều mục tử biết
sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, trung thành với ơn gọi của mình để diễn tả
đúng khuôn mặt của Đức Kitô, bằng việc nỗ lực thi hành từng ngày từng phút sống
phù hợp với tiếng của Ngài không ngừng vang vọng trong thâm tâm ta: “Chiên Tôi
thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước
vị đó thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không có lý
trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng
phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy.
Đâu là bổn phận của con chiên đối với chủ chăn của mình? Qua
bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trả lời câu hỏi ấy và chúng ta ghi nhận được hai bổn
phận chính yếu, đó là lắng nghe và bước theo.
Lắng nghe: mỗi buổi sáng, chủ chăn mở cửa chuồng gọi tên từng
con chiên và dẫn chúng tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát. Ban chiều, chủ
chăn đưa chiên về chuồng và thay phiên nhau canh giữ chúng qua đêm. Vì thế, con
chiên muốn được nuôi sống, muốn được bảo đảm an toàn, thì không những phải biết
nghe tiếng chủ chăn mà còn phải có can đảm bước theo sự dẫn dắt của chủ chăn nữa.
Chúng ta cũng vậy, là những con chiên trong đoàn chiên của
Chúa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là hãy lắng nghe tiếng Chúa. Chúa đã
nói: “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. NHư
vậy, dấu hiệu và cũng là điều kiện để trở thành con chiên tốt lành của Chúa là
nghe tiếng Ngài.
Mặc dù hôm nay Chúa không phán dạy chúng ta cách tỏ tường
như ngày xưa Ngài đã phán dạy dân Do thái và các môn đệ. Thế nhưng Ngài vẫn tiếp
tục nói với chúng ta. Phải, Ngài nói với chúng ta qua tiếng lương tâm, bởi vì
lương tâm chính là tiếng nói âm thầm của Chúa, phát xuất từ thẳm sâu cõi lòng,
thôi thúc chúng ta làm lành tránh dữ. Hơn nữa, Ngài còn nói với chúng ta qua
Tin Mừng, bởi vì với Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn
cho cuộc sống, cũng như những cách thức giúp chúng ta giải quyết những tình huống
gặp phải.
Bước theo: lắng nghe tiếng Chúa là điều tương đối dễ, nhưng điều
quan trọng là phải dám bước theo Chúa. Người Do thái ngày xưa đã từng được nghe
chúa giảng dạy và họ cũng đã từng cảm phục sự khôn ngoan của Chúa, nhưng lại chẳng
bao giờ thực hành, để rồi cuối cùng họ đã quay lưng chống lại Chúa. Họ giống
như những người ngồi xem xiếc. Đúng thế, người xem xiếc cảm phục kẻ đi trên
dây, nhưng nếu bảo họ tiến lên để cùng đi trên dây thì họ lại không dám. Cũng
như chàng thanh niên giàu có, cảm phục Chúa và đã đến hỏi Chúa về con đường trọn
lành. Thế nhưng khi nghe Chúa bảo: “Con hãy về, bán hết của cải và chia sẻ cho
người nghèo, rồi đến theo Ta”, thì chàng đã buồn rầu cúi mặt vì chàng không có
đủ can đảm dứt bỏ những níu kéo của tiền bạc, chàng không dám liều, không dám dấn
thân để bước theo Chúa.
Như vậy, “nghe tiếng” Chúa không phải là chỉ nhận ra tiếng
nói, tiếng gọi của Chúa, mà chủ yếu là tuân theo, là giữ lời Ngài truyền dạy, đặc
biệt là giữ các điều răn của Ngài, nhất là điều răn mới, tức là điều răn yêu
thương: “Cứ dấu này người ta biết các con là môn đệ Thầy”, là các con thương
yêu nhau. Càng yêu thương nhau chúng ta càng chứng tỏ chúng ta là những con
chiên tốt lành của Chúa.
Nói rõ hơn, đối với chúng ta, bước theo Chúa có nghĩa là phải
cố gắng thực thi những điều ngài truyền dạy, đặc biệt là thực thi giới luật yêu
thương, bởi vì giới luật yêu thương chính là cốt lõi của Tin Mừng. Ngày kia, có
một linh mục đứng giảng ở ngã ba đường, kêu gọi mọi người đóng góp cho việc từ
thiện. Rất nhiều người đã hưởng ứng. Tuy nhiên, có một thanh niên, khoảng 30 tuổi,
tiến đến và quì dưới chân vị linh mục, rồi đặt một hòn đá và mấy đồng bạc. Anh
nói: “Thưa cha, xin cha hãy nhận lấy của lễ con dâng và xin cha tha tội cho
con. Bởi vì lúc đầu con đến đây với ý định dùng hòn đá này để đập bể đầu cha.
Nhưng lời Chúa qua sự giảng dạy của cha đã thực sự làm con xúc động và con đã từ
bỏ hành vi ám muội của con”.
Chúng ta gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội là mục tử
hay chủ chăn. Chúng ta đang sống dưới sự hướng dẫn của các ngài, chúng ta hãy
tin tưởng các ngài, vì đức tin bảo cho chúng ta biết: chính Chúa Giêsu, mục tử
tốt lành đích thực, đang trực tiếp chăn dắt chúng ta qua những người lãnh đạo
trong Giáo Hội, là Đức Giáo Hoàng, giám mục, linh mục. Vì thế, chúng ta có bổn
phận nghe theo sự hướng dẫn của các ngài, cộng tác với các ngài, tùy theo hoàn
cảnh và điều kiện của chúng ta, để duy trì và xây dựng đoàn chiên nhỏ bé là gia
đình mình, tập thể mình đang sống, đang làm việc và đoàn chiên rộng lớn hơn là
Giáo Hội.
Sau hết, hôm nay là ngày Giáo Hội toàn cầu dành để cầu nguyện
cho ơn thiên triệu. Chúng ta phải cầu nguyện vì chính Chúa đã dạy: “Lúa chín đầy
đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Nếu muốn
có nhiều người xung phong vào cánh đồng phì nhiêu, chúng ta phải cầu nguyện,
nghĩa là chúng ta luôn cầu xin Chúa gửi tới cho chúng ta nhiều thợ gặt, và nhiều
thợ gặt lành nghề, nghĩa là ban ơn soi sáng cho giới trẻ biết nghe tiếng Chúa
và các linh hồn kêu gọi họ dấn thân tận hiến cuộc đời cho sứ mạng Chúa Giêsu.
Những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ bay lên trước tôn nhan Chúa, Chúa sẽ nhận
lời cầu xin của chúng ta, như Chúa đã nói: Ai xin sẽ được, quê hương nào xin
nơi ấy được.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là mục tử tốt lành. Xin Chúa
cho chúng ta cũng là con chiên tốt lành của Chúa, tức là luôn biết lắng nghe tiếng
Chúa và sống theo lời Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta nhiều mục tử khôn ngoan,
thánh thiện và tài giỏi để tập họp mọi người và dẫn dắt mọi người biết yêu
thương nhau để tất cả trở nên một đoàn chiên duy nhất của Chúa.
16. Suối mát
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Dương Aân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở
một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền nam đảo Đài Loan. Câu chuyện
thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh
tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành
nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc
triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ
tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ
như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc
biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn
chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô:
“Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính
tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi
số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng
theo tôi”. Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng
ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn
mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu
bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu
thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành
cho cô bé tàn tật Dương Aân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của
Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
-
Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh
Thánh, nơi giáo huấn của Giáo Hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình.
Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để
tin vào Người. Thánh Phaolô viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng
là nghe công bố lời Đức Kitô”.
-
Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo
nghĩa tri thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp
cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một
cách đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
-
Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do,
tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa
cũng chính là từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ
đã bỏ mọi sự, Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augustinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi
theo Người.
Nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa để được những gì? Đức Kitô
đã trả lời: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng phải diệt
vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Đoàn chiên đi theo chủ chiên
nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải là đích đến của
chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Người không
những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc chắn
không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng
ta trong bàn tay yêu thương của Người: “Cha Tôi, Đấng đã ban chúng cho Tôi, thì
lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Chúa Cha đã
trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng
gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế,
chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ,
còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa.
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ)
Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà
văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở nam Mỹ: Khi ấy
một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục
ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa
số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại cũng bị
xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì
không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục.
Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con
chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo
dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần
đến ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng
sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng,
giải tội một người lớn là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự
lễ là mấy đồng… tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng
biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong
tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa
dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo
dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình.
Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và
ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ
khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở
lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích
nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước
lúc bị bắt, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh
hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một
người lẫn trong đám đông đang đưa bàn tay ban phép giải tội cho ông, đó là một
linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ
chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:
·
Thứ nhất: Linh mục rất cần cho đời sống đạo của
giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của
mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời
người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh
ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình thánh
Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa
mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc
hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu
thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì
ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị
linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi
vì trong lúc gian truân thiếu thốn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho
họ.
·
Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của
Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong câu chuyện trên đã mang ơn Chúa đến
cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích
ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc “Này là Mình ta” thì Chúa vẫn ngự vào chiếc
bánh trắng; ông nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi
trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực sự là phương tiện Chúa dùng để ban
ơn cho giáo dân.
Hôm nay là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục.
Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta cũng chắc ý thức nhu cầu linh mục cấp
bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều
họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những
đồng lúa chín vàng và bảo “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu
nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết nhu cầu
của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn.
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình
cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét