LỄ LÀM PHÉP DẦU TẠI NỖ LỰC GP. HƯNG HÓA |
LỄ LONG CHÚA THƯƠNG XÓT TAI GX. HÒA BINH GP. HƯNG HÓA |
LỄ PHUC SINH TAI CAM ĐƯỜNG |
GX. HÒA BÌNH |
LỄ PHUC SINH TẠI ĐIỆN BIÊN |
ĐÁM TANG CHÚA Ở ĐIỆN BIÊN |
ĐỨC CHA ANPHONG TẠI ĐIỆNBIÊN |
PHUC SINH TẠI HÀ NỘI |
GX. CỬA BẮC HÀ NỘI |
GX. HÀNG BỘT HÀ NỘI |
NAM ĐỊNH MỪNG CHÚA PHUCSINH |
ĐẠI HỘI GIƠÍ TRẺ HÀ NỘI TẠI NAM ĐỊNH |
ĐỀN THÁNH LÒNG THƯƠNG XÓT TẠI HÒA BÌNH |
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM TẠI THÁI BÌNH |
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Cv 5,27b-32.40b-41; Kh
5,11-14; Ga 21,1-19
MỤC LỤC
Phêrô
và các môn đệ khác đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá
nào, thế nhưng vào ban sáng, vâng theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã thả lưới
một lần nữa và đã có được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan
là người đầu tiên nhận ra Chúa Giêsu, phải chăng đó là do động lực của tình
yêu? Còn Phêrô là người đầu tiên nhảy xuống biển để tiến đến với Chúa, phải chặng
đó là do động lực lòng hăng say nhiệt thành? Còn Chúa Giêsu thì đã cẩn thận dọn
bữa cho các ông, như cho những người con yêu dấu.
Sau
bữa ăn thân mật ấy, Ngài đã tâm sự riêng với Phêrô. Ngài hỏi Phêrô ba lần: Con
có yêu mến Thầy không? Trước khi đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh, thay mặt cho Ngài
ở trần gian, Ngài muốn ông phải yêu mến Ngài một cách quảng đại hơn những người
khác. Đồng thời Ngài cũng muốn sửa lại sự yếu đuối của Phêrô vì đã chối bỏ Ngài
ba lần trong cuộc thương khó. Và Phêrô cũng đã bày tỏ tình yêu của mình một
cách đơn sơ và chân thành, bằng cách trả lời: Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến
Thầy. Chúa Giêsu đã ân thưởng lòng yêu mến ấy bằng cách trao ban cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài.
Như
thế, Phêrô và những đấng kế vị ông trên ngôi Giáo Hoàng đã có được một chỗ đứng
ưu việt trong cộng đồng Dân Chúa. Vào những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất,
chúng ta hãy lắng nghe và ngước nhìn vị cha chung của chúng ta là Đức Giáo
Hoàng. Ngài chính là ngọn hải đăng soi chiếu và dẫn đưa chúng ta tới bến bờ cuộc
sống vĩnh cửu. Giông tố có thể nổi lên. Mặt biển có thể dậy sóng, nhưng chúng
ta vẫn không nao núng, bởi vì ánh sáng từ ngai toà Phêrô luôn toả chiếu, để
chúng ta nhận ra con đường phải đi. Vâng phục Đức Thánh Cha, chúng ta sẽ không bao
giờ bị sóng nước vùi dập.
Sau
khi đã cắt đặt Phêrô đứng đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng đã nói trước cho Phêrô
được biết: Một tương lai không mấy sáng sủa đang chờ đón ông. Tương lai ấy đòi
hỏi Phêrô phải dám hy sinh cả mạng sống như một chủ chăn nhân lành. Ngài nói:
Khi còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, con sẽ giơ tay ra và
người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn. Thánh Gioan đã xác nhận: Chúa Giêsu
nói những lời ấy để chỉ cho Phêrô biết sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên
Chúa.
Qua
dòng thời gian, biết bao nhiêu vị tử đạo đã đi trên dấu chân của Phêrô, sẵn
sàng hy sinh mạng sống để tôn vinh Thiên Chúa. Ngày nay cũng vậy, biết bao
nhiêu người đang âm thầm chịu đựng những khổ đau, những thiệt thòi, để làm chứng
cho đức tin của mình. Những người này đã vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người đời.
Bổn
phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho bản thân, cũng như cho những anh chị
em đang gặp phải những gian nan thử thách, để nhờ đó luôn được đứng vững trong
niềm tin của mình.
2.
Chúa đó
Bảy
môn đệ trở về với nghề xưa, trở về Biển Hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm thầy trò.
Dù
đã chối Chúa, Phêrô vẫn được coi là thủ lĩnh. Ông không ra lệnh, nhưng đưa ra lời
mời kín đáo: "Tôi đi đánh cá đây.”Các bạn khác hiểu ngay và mau mắn đáp lại:
"Chúng tôi cùng đi với anh”. Có một bầu khí dễ chịu, đầm ấm trong nhóm.
Đây quả thực là một nhóm bạn lý tưởng. Họ ở với nhau, làm việc với nhau cả đêm,
và lặng lẽ cùng nhau chia sẻ một thất bại.
Tuy
nhiên, họ cũng là những người có tính tình khác nhau. Người môn đệ được Đức
Giêsu thương mến thì nhạy cảm hơn, nhận ra Chúa Phục Sinh đứng trên bờ. Nhưng
sau đó, ông cứ điềm nhiên ngồi lại trong thuyền. Còn Phêrô thì nồng nhiệt hơn,
vội vã mặc áo, nhảy tùm xuống nước bơi vào, vì nóng lòng muốn gặp Chúa.
Hai
phản ứng khác nhau nhưng cùng diễn tả một tình yêu.
Có
thể coi nhóm môn đệ trên là hình ảnh của Hội Thánh. Hội Thánh hiệp nhất ngay giữa
những khác biệt. Sự hiệp nhất lại làm nổi bật bản sắc mỗi người. Đây không phải
là một nhóm bạn khép kín, nhưng là nhóm bạn được Chúa Phục Sinh sai ra khơi. Chính
sự hiện diện và lệnh truyền của Ngài là bảo đảm cho thành công của những lần
buông lưới.
Hội
Thánh là một nhóm nhỏ được sai vào thế giới. "Không có Thầy anh em chẳng
làm gì được”(Ga 15,5). Nhưng có Thầy, anh em sẽ được những mẻ cá lớn. Nhóm bạn
được sai đi cũng là nhóm bạn được quy tụ, được sai đi bởi Chúa và được quy tụ
bên Chúa.
Chúa
Phục Sinh trở thành người dọn bữa ăn sáng. Ngài cầm lấy bánh trao cho các ông. Cử
chỉ này gợi cho ta về những thánh lễ. Chúng ta thường quên thánh lễ là một bữa
ăn, qua đó Chúa Phục Sinh nuôi ta bằng con người Ngài. Chúng ta được mời dùng bữa
trong niềm hân hoan vui sướng.
Hội
Thánh truyền giáo phải được nuôi bằng Thánh Thể. Hội Thánh vừa lan rộng khắp
nơi, vừa tập trung nơi thánh lễ. Đó là nhịp thở đều đặn và cần thiết cho Hội
Thánh. Hội Thánh cũng là Hội Thánh được lãnh đạo bởi Simon Phêrô. Phêrô tưởng tự
mình có thể theo Thầy và chết vì Thầy, nhưng ông đã chối Thầy như lời Thầy tiên
báo. Ba lần chối được hàn gắn bởi ba lần tuyên xưng tình yêu: "Thầy biết
rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy". Ba lần tuyên xưng tình yêu đi với
ba lần giao sứ mạng: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."
Phêrô
được chia sẻ sứ vụ mục tử của Thầy chí thánh, cũng là chia sẻ thập giá của người
hiến mạng vì đoàn chiên. Hãy theo Thầy để đến nơi anh không muốn đến. Có lẽ bây
giờ Phêrô mới thật sự bước theo Thầy.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Chúa Phục Sinh vẫn đến với chúng ta trong đời thường, giữa lúc ta nhọc
nhằn và tay trắng. Có khi nào bạn thấy Chúa đến với bạn và cho bạn một "mẻ
cá lớn”không?
·
Bạn nghĩ gì về Hội Thánh Việt Nam ? Đó có phải là một Hội Thánh đầy
tình huynh đệ, được sai đi, được nuôi dưỡng bằng các bí tích và được lãnh đạo bằng
tình yêu không?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi
tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc
chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như
Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc
chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến
đem bình an cho các môn đệ.
Lúc
chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng
con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc
chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con
ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy
Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng
con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
3.
Mầu nhiệm Giáo Hội - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sau
khi Phục Sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo Hội để tiếp tục công
cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hình ảnh
về Giáo Hội mà Người mong muốn khi thiết lập.
Hình
ảnh về một Giáo Hội có nền tảng là yêu thương. Chúa Giêsu không thiết lập một
cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người đứng đầu Giáo Hội không phải là người
chỉ huy ra lệnh, nhưng là người chăm sóc. Sức mạnh của Giáo Hội vì thế không phải
ở kỷ luật, uy quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì lẽ
là anh chị em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải
là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn thánh Phêrô
làm Giáo hoàng. Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô, con có mến Thầy không?”. Có
yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của
Giáo Hội. Bao lâu tình yêu mến còn, Giáo Hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến
suy giảm, Giáo Hội sẽ suy yếu.
Hình
ảnh về một Giáo Hội có sức sống truyền giáo. Giáo Hội như con thuyền của ngư phủ.
Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh bắt tôm cá. Sức sống của Giáo Hội là truyền
giáo, là đánh bắt các linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên
đã nói: “Hãy theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn
người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo thuyền, ngồi trên
bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra khơi, ra chỗ nước sâu mới có
nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều linh hồn, Giáo Hội không được ngồi yên
ngơi nghỉ, mà phải lên đường, phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm
kiếm. Ra khơi là phải mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với
sóng to gió lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo
là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải ra đi vì đó
là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là sứ mạng Chúa trao cho Giáo
Hội.
Hình
ảnh về một Giáo Hội hoạt động có hiệu quả nhờ tuân theo Lời Chúa. Giáo Hội quy
tụ những con người. Giáo Hội hoạt động với những cố gắng của con người. Nhưng
chỉ với sức con người. Giáo Hội không làm được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc
suốt đêm mà chẳng bắt được con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có
Chúa hướng dẫn. Khi nghe Lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ
lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung thuyền với
các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa đã về trời. Chúa đứng ở
một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ
đưa ra những chỉ dẫn để hoạt động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu
hình, nhưng Chúa vẫn hiện diện bên Giáo Hội như lời Người hứa: “Thầy sẽ ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo
Hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những con người hữu
hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên Chúa vô hình. Sự vững mạnh
của Giáo Hội không nhờ luật lệ, quân đội, hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu
thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì Giáo Hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của
Giáo Hội không ở tại việc ổn định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính
khi ra đi, Giáo Hội thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo Hội
càng vững mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo Hội luôn mãi.
Lạy
Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn có nghĩ rằng Giáo Hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều người tài
giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
2.
Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết và
yêu mến Chúa không?
3.
Giáo Hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền vững
qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
4.
Bảo đảm cho sự chân truyền - Achille Degeest
Theo
lời Thầy dặn, Phêrô và mấy tông đồ nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, chờ Người
ở Galilê. Các ông là những người rất tích cực, không khoanh tay ngồi chờ, các
ông trở lại với công việc hằng ngày. Trong khung cảnh tâm lý chất phác thực tế ấy,
Chúa bất thần hiện đến với các môn đệ giữa lúc các ông đang đánh cá. Một cách rất
tự nhiên, không cần dùng những lời tuyệt diệu thích hợp với khung cảnh thi vị của
bình minh đang lên, Chúa hỏi các ông có cá để ăn không. Gioan là người đầu tiên
đoán biết chính Chúa đấy. Một cuộc đối thoại diễn ra giữa Chúa và các môn đệ, lời
lẽ đơn sơ nhưng có tầm ảnh hưởng rất lớn. Chúng ta để ý đến cách xử sự tế nhị của
Đức Giêsu. Người đốt than, nướng cá, dọn bánh và một lần nữa nói chuyện với các
môn đệ trong một bữa ăn thân mật. Có lẽ tế nhị hơn nữa là khi Chúa hỏi lấy thêm
cá của các ông mặc dầu Người có sẵn. Chúa làm vậy ngõ hầu nỗ lực và niềm tin của
các ông tìm được phần thưởng kết hợp với ân huệ Chúa. Về phần Phêrô, chúng ta cần
nhấn thêm vào một chi tiết trong bài Phúc Âm và những lời nói của Thày.
1)
Chi tiết được truyền thống Kitô giáo ưa thích làm nổi bật là sự kiện Phêrô vội
vàng nhảy xuống biển bơi chừng trăm thước để vào bờ gặp Thày. Chúng ta ghi sơ
qua rằng bơi được quãng ấy chắc chắn phải là người rất tỉnh táo. Gioan là người
đầu tiên nhận ra Đức Giêsu, Phêrô là người đầu tiên đến gặp Đức Giêsu. Trong
Giáo Hội là như vậy. Rất nhiều phen, tiến bộ về học thuyết và sáng kiến về đức
tin sống thật sự đều xuất phát từ những Kitô hữu nhận được ân huệ thấu triệt
trong khi tìm kiếm chân lý và ân huệ nhiệt thành trong khi thực thi bác ái. Họ
thuộc hàng ngũ tiền tiến. Họ tường trình sự việc với Phêrô. Thuyền trưởng
Phêrô, hay vị thừa kết ngày nay, tường trình với Chúa. Chính Phêrô bảo đảm cho
tính chất chân truyền của hành động, Phêrô là người chịu trách nhiệm quyết định.
2)
Những lời Thày nói với Phêrô đã có tiếng vang mới nhất mấy năm gần đây trong
Công đồng Vaticanô II. Đức Giêsu lựa chọn một số người “lập thành nhóm các tông
đồ, tổ chức họ thành một cộng đoàn, nghĩa là một nhóm người kiên vững. Chúa chọn
Phêrô, một người trong nhóm, làm đầu cộng đoàn” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân
19). “Trong số mười hai tông đồ, Chúa chọn Phêrô và và công bố xây dựng Giáo Hội
trên Phêrô sau khi ông tuyên xưng đức tin… sau khi ông tuyên xưng tình yêu đối
với Người, Chúa trao phó toàn thể đoàn chiên cho ông để ông củng cố trong đức
tin và chăn dắt trong hiệp nhất hoàn toàn, trong khi ấy Đức Giêsu Kitô đời đời
vẫn là đá góc và chủ chăn linh hồn chúng ta” (Sắc lệnh về Hiệp nhất, 2). Đối với
những ai am hiểu lịch sử cận đại Giáo Hội, thấy nổi lên một sự thật hiển nhiên
khích lệ là mầu nhiệm Phêrô bảo đảm cho sự vững bền đức tin và củng cố anh em
ông (các vị giám mục) trong đức tin –mầu nhiệm này đang hoàn tất trước mắt
chúng ta.
5.
Bữa ăn trên bờ biển
Cũng
như các lần trước, Chúa Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ một cách bất ngờ.
Lúc đầu họ chưa nhận ra Ngài. Phải có một lời nói hay một dấu chỉ gì của Chúa
có liên hệ với kinh nghiệm trước kia của họ, họ mới giác ngộ và nhận ra sự hiện
diện rất thật của Chúa Phục Sinh.
Câu
chuyện Tin Mừng kể lại hôm nay rõ ràng gợi lại mẻ lưới lạ lùng trước đó gần ba
năm. Cũng một mẻ lưới như vậy, nhờ đó, Chúa Giêsu đã kêu gọi họ: “Hãy theo Thầy,
từ nay anh em sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá” (Lc 5,10). Ở đây, mẻ lưới
nầy cũng sẽ được gắn với sứ mạng của các tông đồ. Con số 153 con cá bắt được là
con số biểu tượng của tất cả mọi thứ cá biến. Và như thế nó muốn nói rằng, lưới
của các tông đồ rồi đây sẽ quy tụ toàn thể nhân loại để làm thành một cộng đoàn
duy nhất là Giáo Hội.
Thì
ra, mẻ lưới thần kỳ nầy là để mở đường cho một giây phút gặp gỡ thân tình giữa
Thầy và trò, giữa Đấng Phục Sinh và các tông đồ. Đối với Phêrô và các bạn ông
thì đây không phải là gặp Chúa lần đầu. Đã có hai lần trước rồi. Và sau hai lần
đó, họ vẫn tiếp tục nghề cũ. Phêrô nói: “Tôi đi lưới cá đây”. Mấy người kia
nói: “Thì cùng đi”. Thế là họ lên thuyền ra đi, nhưng suốt đêm hôm ấy họ chẳng
bắt được con cá nào! Vất vả mà chẳng được gì! Ngay lúc đó có ai đứng chờ trên bờ
biển và cất tiếng gọi. Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã nhận ra trước tiên và mách
cho Phêrô: “Chúa đó!”. Rồi, ùm một cái, Phêrô đã lao xuống nước, đi đến với người
đang chờ mình, gọi mình.
Sao
Chúa lại đơn giản như vậy? Sao Chúa lại lui cui nướng cá, nướng bánh, dọn một bữa
điểm tâm cho những người đi làm đêm trở về, như một bà nội trợ lo cho người
trong nhà. Rồi thầy trò ngồi bên nhau và chia nhau một bữa ăn thân hữu. Không cần
phải hỏi: “Ông là ai?” Vì biết rồi. Thuyền đây, lưới đây, cá đang chín vàng
đây, bánh đang còn đây. Và Chúa đây, Người Phục Sinh, Người khơi nguồn sống, Vị
Cứu Tinh.
Nhưng,
thưa anh chị em,
Điều
kỳ lạ ở đây, xét cho cùng, chưa phải là mẻ lưới đầy cá. Điều kỳ diệu ở đây
chính là các tông đồ hôm nay đã trở thành những con người khác rồi. Mới cách
đây ít bữa, các ông ấy, nói chung, còn là những con người nhút nhát, thô thiển,
mộc mạc lắm. Thế mà, hôm nay thật đường hoàng, dõng dạc, ung dung trước Công
nghị Do Thái. Công nghị ấy, đến ông Giêsu nó còn giết được, cỡ như ông Phêrô và
các bạn ông, nó coi ra gì. Và đây không phải là lần đầu các tông đồ bị bắt và bị
giải ra trước Công nghị Do Thái. Nhưng điều bất ngờ là Phêrô và Gioan đã mạnh dạn
rao giảng về Chúa Giêsu và làm chứng về Chúa sống lại. Cuối cùng, Công nghị không
biết làm gì hơn là truyền cho đánh đòn hai ông rồi tha về và cấm không được rao
giảng về Chúa Giêsu nữa. Các ông ra về mà lòng hớn hở vui mừng vì thấy mình
đáng được chịu sỉ nhục vì Chúa. Rồi các ông vẫn cứ tiếp tục rao giảng về Chúa
Giêsu và làm chứng về Chúa Phục Sinh ở nơi công cộng cũng như tại tư gia. Ngăm
đe, tù đầy, bắt bớ, không gì ngăn cản được các ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao
phó: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”.
Quả
thật, có một cái gì đó đã xảy ra. Cái gì? Nguyên nhân nào đã làm cho những người
tầm thường đó thay đổi hẳn? Cái gì đó chính là những lần gặp gỡ Chúa Phục Sinh.
Gặp gỡ âm thầm thôi, chốc lát thôi, nhưng cái tiếp cận bằng mắt, bằng tay,
không quan trọng băng sự giao tiếp của cõi lòng, giờ phút cơ duyên làm cho họ
hiểu rằng họ đã đi vào, đã đụng tới một thế giới mới và con người của họ cũng
biến thành mới hoàn toàn. Từ đó, họ đinh ninh một điều: “Giêsu, kẻ đã bị sát hại,
bị treo lên cây gỗ thập giá, thì Thiên Chúa đã nhắc lên bên hữu Ngài, để ban
cho chúng ta ơn hối cải và tha tội”. Vì thế, họ sẽ “vâng phục Thiên Chúa hơn là
người ta”. Từ nay, họ tự do đối với mọi bạo lực, cưỡng bức. Ở tận đáy lòng của
họ, từ nay đã có cái kinh nghiệm đó và niềm xác tín đó.
Anh
chị em thân mến,
Giáo
Hội ngày nay, nếu muốn tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, nếu muốn phát triển,
thì cũng không có con đường nào khác. Giáo Hội của Chúa Phục SInh chỉ có thể
phát triển qua những cuộc đời có khi vất vả, tăm tối, có khi tù túng, nhọc nhằn,
như các Tông đồ kia. Nhưng cũng như các Tông đồ đã gặp được Chúa Giêsu Phục
sinh đang đơn sơ dọn bữa ăn cho họ và mời họ đến ăn chung với Ngài. Do đó,
·
Tin Đức Kitô Phục sinh là tin vào sự hiện diện kề cận của Ngài bên chúng
ta ngay trong công việc sinh sống, làm ăn vất vả hằng ngày.
·
Tin Đức Kitô Phục sinh là tin luôn luôn có cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu
và nỗi đau khổ, thất bại, bị bỏ rơi, đơn độc của chúng ta.
·
Tin Đức Kitô Phục sinh là nhận thấy Chúa vẫn luôn tái diễn những việc kỳ
diệu, những mẻ lưới đầy cá, những lần hoá bánh ra nhiều trong đời sống chúng ta
và trong thế giới, để đáp ứng những nhu cầu ấm no, hạnh phúc cho con người.
·
Tin Đức Kitô Phục sinh là đáp lại lời mời gọi của Ngài đến dự bữa ăn
huynh đệ mà Ngài đã ân cần dọn sẵn cho chúng ta nơi bàn tiệc Thánh Thể, một bữa
ăn hiệp nhất thắm tình Thầy trò xum họp, Cha con đoàn tụ, liên kết mọi người
trong một sức sống của Đức Kitô Phục sinh để tiến đến một tương lai vinh quang
vĩnh cửu.
Chính
niềm tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh đã biến đổi các tông đồ và các tín hữu tiên
khởi của cộng đoàn Giêrusalem. Họ đã đồng tâm nhất trí, yêu thương nhau, chuyên
chăm nghe các Tông đồ giảng dạy, họp nhau cầu nguyện và cử hành nghi lễ bẻ
bánh, tức là Thánh Thể và nhất là coi mọi sự là của chung, góp tiền của lại để
các Tông đồ phân phát theo nhu cầu, đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ.
Vì vậy mà không ai phải túng thiếu. Đó là đời sống mới của những con người đã
tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Đó cũng là đời sống lý tưởng kiểu mẫu cho cộng đoàn.
6. Thiên Chúa không bỏ con người - McCarthy
Suy Niệm 1. CHỊU ĐAU KHỔ VÌ
CHÚA
Bài
đọc từ sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ
phía những nhà lãnh đạo Do Thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ
đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một
thời gian trước đây đã từng chối Chúa Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã
giữ vững lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải
chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các Tông đồ đồng môn của ông đều bị
đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô
có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm nhờ ở Chúa Thánh
Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các Tông đồ đồng môn của ông.
Thật
may mắn là kể từ thời các Tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả
năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những
hoàn cảnh khó khăn nhất.
Tháng
3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động
khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà
nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị
đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt.
Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những
tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẩu giấy,
rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà.
Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng
tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói
“Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần
gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ
chúng tôi”.
Một
yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan
thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương
tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau. Với tốc
độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm
nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho
chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào. Irina
và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một
trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả
chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba
người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống
trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người
trong số họ đã trở thành nữ tu.
“Lòng
tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị
tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả
năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất
cứ hoàn cảnh nào”.
Những
người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ
lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin
tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ
dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách
của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng
rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể
nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được.
Chúng
ta là những môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang
lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta
sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các Tông đồ, hoặc những người giống như
Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu
với một điều gì đó cũng khá tồi tệ –thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng
hành với chúng ta.
Chúng
ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc
sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn
chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta
giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề
có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù
ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp
trả lại gấp trăm lần.
Suy Niệm 2. TIẾNG GỌI THỨ
HAI.
Ngày
xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết
rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh
nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi
cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại
được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn
ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói
vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau
khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra
thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu
trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc
chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.
Đi
xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung
quanh một ngọn lửa cháy sáng rực. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời
anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu
hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh
đã ghé qua”.
Khi
đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua
đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng
con đã không đáp ứng được nhu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói.
Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận được thông điệp này. Anh thức dậy và
không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách
là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao.
Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc
sống của những người bị lạnh lẽo.
Nhưng
rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong
công việc của nah sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt
lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết
đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu
quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với
ơn gọi của mình.
Nhưng
vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối
của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư phũ
phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách
đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên
trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người
đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có
hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu
tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai
xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện
đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi
ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát
hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con
người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời
thưa “Xin vâng” của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất
nhiều.
Câu
chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi.
Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn
gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe và đáp lại nhiều lần.
Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt
chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân
lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng
sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất
cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu –yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ
và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta
trong cộng đoàn).
7.
Chú giải của Noel Quesson
Sau đó, Đức
Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển hồ Ti-bê-ri-a, Người tỏ mình ra như
thế này. Ông Simon Phêrô, ông Tôma gọi là Điđymô, ông Nathanaen người Cana miền
Galilê, các người con ông Dêbêđê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với
nhau. Ông Simon nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây”. Các ông đáp: "Chúng
tôi cùng đi với anh”.
Công
cuộc Phục sinh cần được thực hiện giữa đời thường. Các nhân chứng đầu tiên
không phải là những siêu nhân. Họ lại hoạt động với nghề cũ. Họ tiếp tục đánh
cá ở Biển hồ. Tất cả là bảy người, đều đã sống với Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu
không hiện diện ở đó nữa. Chúng ta cần ghi nhận một chi tiết, Phêrô đóng vai chủ
động khởi xướng. Đó là một biểu tượng đầy ý nghĩa.
Mọi người ra
đi, lên thuyền nhưng đêm đó họ không bắt được gì cả.
Đánh
cá vào ban đêm là một cách thông dụng. Đó là nét thực tế, mang tính lịch sử.
Nhưng ở đây, ta cũng có thể nhận ra một ý hướng của người thuật chuyện: trong cảnh
mù tối.. trong đêm khuya... họ đã mất giờ vô ích. Một mẻ lưới không bắt được
con cá nào. Chúng ta cũng thường gặp như thế trước những lo lắng về gia đình,
nghề nghiệp, xã hội, giáo hội. Đêm tối đời tôi là gì?
Khi trời đã
sáng, Đức Giêsu đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận đó chính là Đức
Giêsu.
Bảy
người đang sống trên "biển nổi sóng", giữa cảnh mù tối. Đối với người
Xê-mít, biển là nơi các thế lực ngầm, các lực lượng âm phủ, thù nghịch, thường
gieo khiếp hãi. Còn Đức Giêsu đang đứng trên đất liền, trước ánh sáng của một ngày
mới lên... nét tương phản cố ý để minh chứng rằng, kể từ nay Đức Giêsu ở một bến
bờ khác? Người vừa mới trải qua một cuộc vượt biển và đang hiện diện ở phía bên
kia, đang chờ đợi ta ở đó! Nhưng họ không nhận ra Người! Trên bến bờ đời đời.
Hôm
nay, Ngài cũng luôn chờ đợi chúng ta như thế.
Đức Giêsu nói
với các ông: “Này các chú, không ăn gì ư?". Các ông trả lời: "Thưa
không". Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi,
anh em sẽ bắt được cá". Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi,
vì lưới đầy những cá.
Đức
Giêsu biết rõ, đêm tối của họ đầy thất vọng và nao núng. Người chia sẻ tình trạng
khổ cực của họ. Người chủ động giúp đỡ họ... ngay lúc họ đang bối rối lo lắng.
Còn tôi, tôi có thể nghe thấy gì, nếu tôi biết lắng nghe tiếng nói của Người vọng
đến từ "bờ" bên kia?
Người môn đệ
được Đức Giêsu thương mến nói với ông Phêrô: "Chúa đó". Vừa nghe nói
“Chúa đó” ông Simon - Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Phêrô
nhảy xuống biển. Ông bơi vội vã. Ta biết Phêrô là thế ông là một con người xung
động. Nhưng, cũng như trong cảnh đến thăm mồ Chúa, tại Giêrusalem, Gioan vẫn là
người phát hiện ra trước Phêrô. Ông sống "yêu thương", nên ông đoán định
theo trực giác. Nhận biết một người, chính là một công việc của tình yêu.
Do
đó, đức tin luôn liên hệ với tình yêu. Đức Giêsu Phục sinh không biểu lộ mình
ra với những kẻ thù nghịch, những đối phương. Người không có ý định khuất phục
họ. Người không thích bá chủ, chiếm hữu và hiển thắng họ! Nếu bạn tìm kiếm Chúa
với tình yêu, Người sẽ tỏ hiện ra với bạn, trong một cuộc gặp gỡ đầy tinh tế và
chân thành. Bạn hãy kiếm tìm dung mạo Người, sự hiện diện của Người.
Các môn đệ
khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ
cách vào khoảng gần một trăm thước.
Đây
là một chi tiết rõ ràng, như chữ ký xác thực của một nhân chứng.
Bước lên bờ,
các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức
Giêsu bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! "
Đây
cũng là một chi tiết nữa, rất khác thường, và do đó đầy tính biểu tượng. Chính.
Đức Giêsu đã chuẩn bị một "bữa 'ăn" cho họ. Không phải bữa ăn họ chờ
đợi, do nỗ lực sửa soạn của họ. Đó là một bữa ăn đã được dọn sẵn! Họ được kêu mời
cứ việc tham dự, bằng cách tăng cường những hải sản mà họ vừa mới đánh bắt được,
theo lệnh truyền của Đức Giêsu. Thực ra, chính Đức Giêsu đang nuôi dưỡng họ.
Ta
biết tầm quan trọng của "bữa ăn” trong những lần hiện ra sau biến cố Phục
sinh: vào chiều tối Thứ Năm Thánh Đức Giêsu cũng đã "phục vụ” các bạn hữu
của Ngài như thế. Ngày nay cũng vậy, đối với các Kitô hữu, việc bẻ bánh và chia
bánh luôn là một dấu chỉ đặc biệt sự hiện diện của Chúa Phục sinh. Vâng, Đức
Giêsu đang ở trên một bến bờ khác và chờ đợi chúng ta, để chia sẻ cho ta sự sống
mới trong một mối hiệp thông mà bữa ăn Thánh Thể là biểu tượng.
Ông Simon -
Phêrô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm
năm mươi ba con.
Cá nhiều như
vậy mà lưới không bị rách.
Sau
trực giác yêu thương của Gioan, con người chiêm niệm… bây giờ đến thái độ dấn
thân của Phêrô, con người hoạt động. Đó là hai vai trò cần thiết để xây dựng
Giáo hội, được coi như "tấm lưới" không bị rách. Cũng như trong đoạn
văn diễn tả "chiếc áo của Đức Giêsu không bị xé rách" (Ga 19,24). Ở
đây ta gặp lại sự ám chỉ Giáo hội cần phải được giữ gìn khỏi mọi ly giáo và
chia rẽ.
Đức Giêsu
nói: "Anh em đến mà ăn”. Không ai trong các môn đệ dám hỏi: "ông là
ai”, vì các ông biết rằng đó là Chúa.
Nhận
xét đơn sơ trên đây giúp ta bước sâu vào "mầu nhiệm". Cuộc Phục sinh
đã khiến Đức Giêsu, người bạn thân và kẻ đồng hành với họ hôm qua Đức Giêsu
Nadarét sống trong một trạng thái hoàn toàn khác... Rõ ràng đúng là Người,
nhưng đồng thời không phải như người hôm qua. Người đã trở nên "O kiirios,
Đức Chúa!”. Và trong trường hợp này, từ đó mang một ý nghĩa mạnh nhất. Người là
Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng!
Đức Giêsu đến,
cầm lấy bánh trao cho các ông, rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba
Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ sau khi chỗi dậy từ cõi chết.
Đây
là bữa ăn thực sự... đồng thời, cũng là bữa ăn mầu nhiệm. Chúng ta hãy nhớ lại
diễn tả dài của Đức Giêsu về Bánh ban sự sống, chiếm gần hết chương sáu Tin Mừng
theo thánh Gioan, sau khi Chúa dùng "năm chiếc bách lúa mạch và hai con cá
nhỏ", từ trong túi ăn của một cậu bé trên bờ hồ Tibêriát, để biến hoá ra
nhiều…
Vâng,
hiện nay Đức Giêsu đang ở "trên bến bờ khác", trên một vùng đất khác,
để trao ban cho ta "lương thực từ trời " Bánh Thiên Chúa ban là bánh
từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian" (Ga 6,33). "Tôi là
Bánh hằng sống... Thịt Tôi thật là của ăn... Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn
đời….” (Ga 6,51-55-58).
Chúng
ta cũng nên nhớ rằng, vào thời gian mà thánh Gioan viết trình thuật Tin Mừng
trên đây, các Kitô hữu thường dùng hình ảnh con cá làm biểu tượng cho Đức
Giêsu. Thực vậy, từ "con cá" (tiếng HyLạp là iktus) gồm năm chữ đầu
các từ định nghĩa Đức Giêsu:
Lèsous Kristos Théou Unios
Sôter Giêsu Kitô Thiên Chúa Con Đấng cứu độ
Khi các môn đệ
ăn xong, Đức Giêsu hỏi ông Simon Phêrô: "Này anh Simon, con ông Gioan, anh
có mến Thầy hơn các anh em này không?". Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy
biết con yêu mến Thầy. Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.
Trong
cuộc đối thoại trên bãi biển, đã ba lần vang lên những lời hỏi thừa thế, Đức
Giêsu biến đổi anh thuyền chài đó trở thành người mục tử. Người thông truyền
cho Phêrô quyền điều khiển Giáo hội. Đừng quên rằng, vị Mục tử duy nhất là
chính Đức Giêsu. "Tôi chính là Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho
chiên" (Ga 10,11). Giờ đây Đức Giêsu phải ra đi.. Người. không còn hiện diện
"bằng xương, bằng thịt" nữa. Người trao cho Phêrô trách vụ phải tiếp
tục sứ vụ của Người trên thế giới và trong lịch sử. Nhưng các chiên vẫn là
chiên của Đức Giêsu: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy".
Lần thứ
hai... rồi lần thứ ba, Đức Giêsu lại hỏi: "Này anh Simon, con ông Gioan,
anh có mến Thầy không?”. Ông Phêrô buồn, vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có
yêu mến Thầy không?". Ông đáp: Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết
con yêu mến Thầy". Đức Giêsu bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy".
Bị
hạch hỏi tới ba lần, Phêrô cảm thấy đau xót khi liên tưởng tới ba lần ông chối
Thầy. Đó là thái độ cực kỳ tế nhị của Đức Giêsu. Người không hề nhắc lại với
Phêrô về tội lỗi của ông! Người chỉ yêu cầu ông ba "lần biểu lộ tình yêu!
"Anh có mến Thầy không?": Câu hỏi đó, ngày nay đức Giêsu cũng đang đặt
ra cho chính tôi. Trong thinh lặng, tôi lắng nghe câu hỏi trên: "'Này anh
X... anh có yêu Thầy không?". Tôi hãy thay tên X bằng tên riêng của tôi.
Tôi
sẽ trả lời ra sao? Tôi không thể dựa dẫm vào câu trả lời của kẻ khác. Chính tôi
đang được để ý và hỏi han….
Như
thế, người đã phạm tội nặng nhất, kẻ đã trói Đức Giêsu vào ngày Người bị kết án
và chịu khổ hình (thật là một tội khủng khiếp!) hoàn toàn được phục hồi trong
tương quan thân mật và yêu thương. Và Đức Giêsu lại uỷ thác cho con người tội lỗi
đó, trách nhiệm trọng đại nhất trong toàn thể lịch sử nhân loại. Oâi, tình yêu
thật là quan trọng! Tình yêu phải trở nên khuôn thước cho hành động. Quyền bính
trong Giáo hội, tác vụ trong Giáo hội, là một phục vụ, một tình yêu: cần phải
phục vụ yêu thương anh em mình (Mc 9,35; Ga 13,4-16)... nhưng trong chính tác động
đó, cũng là phục vụ yêu thương Đức Giêsu... Đó là một trong những nguồn gốc mầu
nhiệm của đời độc thân tận hiến.
Thật Thầy bảo
thật cho anh biết: "Lúc còn trẻ anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ
ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn
anh đến nơi anh chẳng muốn". Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết
cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy".
Anh
chị em, chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nhỏ bé cuối cùng của Đức Giêsu: Về tuổi
trẻ như biểu tượng của tự do và hoạt động ("Anh đi đâu tuỳ ý")... và
tuổi già như biểu tượng của sự gò bó và thụ động ("một người khác sẽ thắt
lưng cho anh"), nghĩa là sự từ bỏ triệt để của tuổi già đầy yếu đuối khiến
ta không thể tự mình ăn mặc được nữa)... Thái độ thụ động, đành phải chấp nhận
này, cũng là cách thế thuận theo của Đức Giêsu trên thập giá. " Đó là hoạt
động cuối cùng của con người khi chỉ còn biết phó mình trong bàn tay của một Đấng
khác: đó chính là tác động yêu thương. Thái độ này không làm giảm thiểu hay làm
mất thể diện Thiên Chúa, nhưng là tôn vinh Người. Đối với Đức Giêsu, cái chết
là hoạt động cuối cùng.
8. Suy niệm của nhóm Nha Trang
“Chúa Giêsu đến, cầm bánh
và cá trao cho họ ăn”
I. Ý CHÍNH:
Chương
21 của Tin-Mừng thánh Gioan được gọi là phụ trương. Vì Gioan muốn nói thêm về
việc Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên ở Galilê và đặt Phêrô làm thủ lãnh của
Giáo Hội. Bài Tin-Mừng hôm nay là phần đầu của chương này, nói về việc Chúa
Giêsu dùng mẻ cá kỳ lạ để làm dấu chỉ cho các Tông Đồ tin nhận Người Phục Sinh.
II. SUY NIỆM:
1. “Lúc các
môn đệ đang ở bờ biển Tibêria…”
Khi
khởi sự công việc rao giảng ở trần gian, Chúa Giêsu đến bờ hồ Giênêgiarét và
tuyển chọn những môn đệ đầu tiên (5,1) để huấn luyện các ông. Bây giờ sau khi
phục sinh, Chúa Giêsu lại hiện đến với các ông đang ở bờ biển Tibêria để trao sứ
mạng, cách riêng trao quyền thủ lãnh Giáo Hội cho Phêrô (Lc 21,15-23).
2. “Simon
Phêrô, Tôma cũng gọi là Đidimô….”:
danh
sách các môn đệ đã được Chúa hiện ra ở đây chỉ có năm nhưng theo diễn tả của
doanh có thể hiểu là bảy. Sở dĩ hiểu như vậy là vì thánh Gioan không kể đến tên
các người trong gia đình mình nên có lẽ trước kia chữ “hai con ông Giabêđê”người
ta để trong ngoặc cho độc giả hiểu, sau này chép đi chép lại, người ta bỏ ngoặc
đi.
3. “Simon
Phêrô bảo: tôi đi đánh cá đây”:
Phêrô
là người khởi xướng việc đánh cá. Câu này muốn nói lên vai trò thủ lãnh Giáo Hội
của Phêrô.
4. “Chúng tôi
cùng đi với ông….”:
Ơû
đây muốn nói lên sự tùng phục của các môn đệ đối với vị thủ lãnh là Phêrô.
5. “Nhưng đến
hôm ấy không bắt được con cá nào”:
Ở
đây cũng liên tưởng đến Luca 5,5: “suốt đêm chúng tôi đã vất vả mà không bắt được
gì”. Điều này chứng tỏ sự bất lực của con người.
6. “Lúc rạng
đông Chúa Giêsu hiện đến bên bờ biển”:
Đây
là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ của Người. thoạt đầu các ông
cho nhận ra Chúa là vì các ông chưa am hiểu về sự Phục Sinh của Chúa, mặc dầu
các ông tin Chúa sống lại (Ga 20,9).
7. “Này các
con, có gì ăn không?”:
Đây
là câu hỏi thông thường như người ta quen hỏi những người đi đánh cá hay những
người đi săn về. Đặt câu hỏi này Chúa Giêsu muốn tỏ cự thân mật quen biết để gợi
cho các môn đệ nhớ lại Người. Và cũng là câu hỏi để mở đầu câu chuyện.
8. “Họ đồng
thanh đáp: thưa không!”:
Ở
đây bày tỏ sự bất lực.
9. “Hãy thả
lưới bên hữu thuyền thì sẽ được”:
Ở
đây liên tưởng đến Lc5,4: “Ra khơi mà thả lưới đánh cá”. Mặc dù các môn đệ chưa
nhận ra Thầy mình, nhưng Chúa Giêsu cũng ra lệnh: Một thứ ra lệnh như người có
quyền và nắm chắc được hiệu quả của việc “Thả lưới” thì sẽ được.
10. “Các ông liền thả lưới…”:
Tin
tưởng trong tinh thần phó thác, các môn đệ thả lưới như lệnh truyền và tức khắc
có hiệu quả là “không kéo nổi lưới lên vì đầy cá
11. “Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với
Phêrô”:
Nếu
qua những dấu chỉ của ngôi mộ trống, Gioan người môn đệ Chúa yêu dấu, “Thấy và
tin”, thì ở đây qua dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ, ông cũng nhận ra và nói với Phêrô
“Chính Chúa đó”. Điều này cho chúng ta thấy sức mạnh dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ,
đã đánh động sự nhận thức và đức tin của Gioan.
12. “Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác
áo vào”:
Phêrô,
dân chài, khi làm việc thì mặc áo cụt tay hay đóng khố, vì thế khi nhận ra Chúa
thì ông khoác áo choàng để đến gặp Chúa: Đây là cử chỉ bày tỏ sự tôn kính Chúa
Giêsu, Thầy mình. ông nhảy xuống biển để bơi vào bờ cho nhanh hơn. Ở đây nói
lên niềm vui mừng và lòng nhiệt thành của Phêrô đối với Chúa Giêsu phục sinh.
13. “Các môn đệ khác chèo thuyền vào…”:
Phêrô
bơi vào trước còn các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ sau. Sự kiện này diễn tả
vai trò điều khiển Giáo Hội của Thánh Phêrô.
14. “Khi các ông lên bờ thấy có sẵn lửa và
than”:
Ở
đây Chúa đóng vai trò “Anh nuôi”: Chúa dọn cho các môn đệ bữa ăn thanh đạm như
bao bữa ăn khác mà Chúa thường ăn với các ông khi còn sống trong vùng này. qua
hành động đó, Chúa muốn gợi lên cho các môn đệ nhớ lại những cử chỉ quen thuộc
của Người trước đây, để các ông tin nhận ra Người.
15. “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”:
Chúa
đòi các môn đệ đem cá mới bắt được đến, vì Chúa muốn các môn đệ nhìn qua dấu chỉ
của mẻ cá để nhận ra Người.
16. “Lưới đầy toàn cá lớn, tất cả được 153
con”:
Con
số 153 không có ý chỉ số lượng cá cho bằng chỉ ý nghĩa biểu hiệu. Theo thánh
Hiêrônimô thì các nhà vạn vật học thời xưa khám phá ra được 153 loại cá. Vì thế
con số ở đây chỉ số lượng tất cả các loại cá, và như vậy ý nghĩ của con số 153
này trùng hợp với thành ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước-Trời (Mt 13,47).
Giáo
Hội phải quy tụ trong lưới của mình tất cả các dân tộc như mục tử chân chính
qui tụ trong đàn mình mọi con chiên đến từ đàn khác ngoài Israel (Ga
10,1), như con người kéo lôi tất cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (Ga
12,32; 6,44).
Vì
vậy mẻ cá kỳ lạ bắt được do một nhóm các môn đệ, dưới sự chỉ huy của Phêrô,
theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu là hình bóng mở mang Giáo Hội.
Lưới
không rách là hình ảnh của Giáo Hội, sự hợp nhất, không bị phá vỡ do số nhiều
(Mt 13,57-60). Những con cá là hình ảnh các Ki-tô hữu đã được chinh phục do
Chúa Giêsu bằng lời giảng qua các Tông Đồ.
17. ‘Chúa Giêsu bảo rằng: các con hãy lại mà
ăn”:
Dấu
chỉ mẻ cá cũng như cách cư xử thân mật quen thuộc “các con hãy lại mà ăn” của
Chúa Giêsu là những bằng chứng khiến cho các môn đệ nhận ra “là Chúa”, nên không
ai dám hỏi “ông là ai? nữa”.
18. “Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các
môn đệ …”:
Ở
đây Chúa Giêsu lập lại cử chỉ như trong bữa tiệc ly người đã làm để tỏ bày cho
các môn đệ nhận ra rằng Giêsu, Thầy mình, khi còn sống ở trần gian trước đây,
thì bây giờ cũng là Giêsu, Đấng đã phục sinh từ cõi chết, đang hiện diện trước
mặt các ông đây. Và như vậy, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho các môn đệ về sự hiện
diện của Người sau khi phục sinh.
19. “Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu hiện ra…”:
Sự
kiện này muốn nói các lần hiện ra khác mà Tin-Mừng nhất lãm kể lại xảy ra ở
Galilê đều sau lần hiện ra nầy. Đây là lần thứ ba Chúa hiện ra với nhóm các môn
đệ. Hai lần trước được ghi lại nơi (Ga 20,19-31).
III. ÁP DỤNG:
A. Áp dụng
theo Tin Mừng:
Qua
bài Tin-Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta, một đàng nhờ những dấu chỉ của những
sự việc xảy ra trong lần thứ ba Chúa hiện ra ở đây để chúng ta xác tín vào sự Phục
Sinh của Chúa, và đàng khác biết nhận thức sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội
và trong đời sống của mỗi người chúng ta.
B. Áp dụng thực
hành:
1. Nhìn vào Chúa Giêsu:
a. Xem việc Người làm:
- Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ đang lúc đánh
cá đánh động niềm tin của các môn đệ về sự phục sinh của Người. sự tiếp xúc với
nhau là phương tiện gây lên tin tưởng thông cảm và hiểu biết nhau.
- Chúa Giêsu hiện đến lúc các môn đệ chưa nhận ra
Người. Nhưng nhờ việc làm, lời nói và cử chỉ, các môn đệ nhận ra là Chúa. chúng
ta cũng vậy lúc đầu chưa hiểu nhau, nhưng dần dà nhờ sự tiếp xúc nhận biết nhau
qua những cử chỉ lời nói, việc làm và những tâm tình trao cho nhau. Cũng vậy,
muốn tin nhận Chúa, chúng ta cũng cần tiếp xúc với Chúa thường xuyên bằng sự cầu
nguyện, suy niệm, lãnh các phép Bí Tích.
b. Nghe lời Chúa nói:
- Này các con có gì ăn không? Chúa có thể dùng đủ mọi
cách thế: tha nhân, việc làm, các biến cố điềm trời, vạn vật và ngay chính bản
thân mình để khơi dậy cho chúng ta cái nhu cầu cần đến Chúa vì không thấy mình
là không có gì cả.
- “Hãy thả lưới bên hữu thuyền…”ý Chúa được thể hiện
cho chúng ta đôi khi nó không hợp với lý lẽ của ta, nhưng vì đó là ý Chúa,
chúng ta cứ thực thi thì sẽ thấy hiệu quả.
- “Các con hãy đem cá mới bắt được vào đây”Chúa đòi
hỏi chúng ta phải biết nhận ra những ơn Chúa ban để trình lên Người trong tâm
tình cảm tạ và kính phục Chúa.
2. Nhìn vào các môn đệ:
a. Các môn đệ, do Phêrô khởi xướng đi đánh cá,
nhưng đêm ấy chằng bắt được con cá nào. Con người sẽ bất lực với sức riêng
mình. Nhưng nghe lời Chúa các ông thả lưới, các ông bắt được đầy cá. làm việc
thuận theo ý Chúa bao giờ cũng sinh hiệu quả nhất là hiệu quả phần rỗi cho ta.
b. Gioan và các Tông Đồ khác cũng nhận ra Chúa quả
dấu chỉ của mẻ cá kỳ lạ. Chúng ta tìm được những dấu chỉ qua những cái kỳ lạ
Chúa làm để tăng thêm niềm tin vào Thiên Chúa.
9. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU PHỤC
SINH VẪN HIỆN DIỆN
TRONG HỘI
THÁNH CỦA NGƯỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tảng sáng, Đức Giêsu đã
có mặt trên bờ biển hồ.
Các
câu 30-31: "Còn nhiều phép lạ... " kết thúc bài Tin Mừng Chúa nhật
trước hiển nhiên là đoạn kết của Tin Mừng thánh Gioan. Bới vậy, nhiều nhà
chuyên môn coi đoạn 21 như một phụ lục được thêm vào sau.
Alain
Marchadour nhanh chóng quả quyết: "đoạn phụ lục này không phải chỉ là một
"lời bạt ", nhưng là một nối tiếp có tính Giáo Hội học cho một Tin Mừng
nặng tính Kitô học. Giữa Tin Mừng tập trung vào Đức Kitô coi như kết thúc sau đoạn
20 là phụ lục là đoạn 21 không có mâu thuẫn mà chỉ là sự chuyến hướng nhắm vào
Giáo hội (I. Zumstein). Những trung gian cần thiết để Đấng Mạc Khải tiếp tục
công trình đều được trưng diễn: bữa ăn tạ ơn trong đó sự hiện diện của Người được
tiếp tục nhiệm vụ mục tử của Phêrô là các Đấng kế vị, nhiệm vụ của người môn đệ
được Chúa yêu và Giáo Hội của Ngài " ("Levangile de Jean ",
Centurion, trg 253).
Một
lần nữa, chúng ta lại thấy 3 giai đoạn của tiến trình Phục sinh:
- sáng kiến của Đấng Phục sinh
- nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết Người đã
chết
- sứ mệnh Đấng Phục sinh trao cho Phêrô
a/
Khung cảnh diễn ra trên bờ hồ Tibêriát, nơi họ gặp Đức Giêsu Nadarét. Simon Phêrô
và 6 anh em khác: Tôma, Nathanael quê Cana xứ
Galilêa, hai con ông Zêbêđê và hai môn đệ nữa đang dưới thuyền đánh cá. Nhưng
không được gì hết. "Nhưng suốt đêm ấy họ không bắt được gì.? (so sánh với bản
tướng thuật khởi đầu sứ vụ tại Galilê của Luca 5,1-11).
b/
Tảng sáng, Đức Giêsu phục sinh hiện đến trên bờ hồ.
Các
môn đệ không nhận ra Người. A. Marchadour chú giải rằng: "Họ không nhận ra
Người. Sự Phục sinh đã tạo một biến đổi nào đó nơi Đức Giêsu. Vì sự biến đối đó
nên các bản tường thuật cũng có những chi tiết khác biệt. Ở đây, cả sự hiện diện
thể lý, cả giọng nói cũng không làm cho các môn đệ nhận ra, trừ người môn đệ được
Chúa yêu." (Sđd, trg 256).
Khi
Đức Giêsu hỏi: "Các con bắt được con cá nào không? (Hãy nghĩ tới câu Chúa
hỏi các môn đệ trên đường đi Emmaus: các bạn nói chuyện gì mà rầu rĩ thế?) họ
thú thật: vất vả thâu đêm mà chẳng được gì, nhưng, vâng lời Người, "họ thả
lưới ".
c/
Sau đó, mẻ cá lạ lùng được trình bày như một biểu trưng cho sứ mệnh tông đồ của
cộng đoàn. Các tông đồ tự sức mình, không thể thành công trong sứ mệnh, nhưng,
dựa vào lời Đấng Phục sinh, họ bắt tay vào việc, và ngoài sự mong đợi, họ tập hợp
được muôn người khắp nơi (bội thu: 153 con cá, gợi nhớ ở tiệc cưới Cana nơi Ga
2; bánh hoá nhiều Ga 6). Lại còn hình ảnh hợp nhất (chính sử đã muốn tượng
trưng bằng chi tiết: lưới không bị rách, theo ngữ nghĩa Hy Lạp, không bị phân
ly, không có chia rẽ).
2. Chúa đó
-
Gioan, người môn đệ Chúa yêu (như nơi Ga 20,2-10: "ông thấy và ông
tin"), đã tỏ ra bén nhạy với dấu lạ. Và nhờ trực giác chiêm niệm này mà mắt
các anh em khác mở rộng để thấy Đấng Phục sinh hiện diện trên bờ hồ: “Chúa đó
". Thánh Phêrô Chrysologue chú giải: " Kẻ được yêu thấy trước vì con
mắt tình yêu tinh hơn, và kẻ được yêu cảm nhận bén nhạy hơn.”
Lời
của Gioan làm cho Phêrô tin tưởng, ông vội khoác áo vào và nhảy ùm xuống (Thi vị
thật. Phêrô đang ở trần. Xin nhớ đến Luca 5,8: "Lạy Thầy, xin xa con ra,
con chỉ là tên thuyền chài”)..
-
Cái gì làm cho tâm trí Phêrô trì trệ vậy ông vẫn là người ban phát cho người
khác mà bây giờ phải nhờ người khác mách bảo. Vẫn thánh Phêrô Chrysologue chú
giải: "Đâu rồi lời tuyên xưng " thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa 'hằng
sống ". Hay tại ông đã chối Thầy khi nghe một đứa nữ tỳ tra vấn? Khi bạn
ông nói “Thầy đó”. Ông vội lấy áo vì đang ở trần, nhảy xuống biển, như muốn rửa
sạch các vết tội như chối Thầy 3 lần. Ông, người đứng đầu các Tông Đồ, trở
thành kẻ sám hối đầu tiên”.
Vào
tới bờ các môn đệ thấy bánh và cá đã nướng sẵn đó. Trong bữa ăn mà Chúa đã chuẩn
bị để đãi họ ("đến mà ăn "). Ánh sáng thâm nhập tâm hồn: Không môn đệ
nào còn hỏi Người Thầy là ai? Vì họ đều biết đó là Chúa?
A.
Marchadour chú thích rằng: " Trong những bích hoạ cổ, bánh và cá biểu tượng
tiệc Thánh Thể. Như vậy, trình thuật này của thánh Gioan, muốn nhắc độc giả nhớ
rằng: cử hành Thánh Thể là sự nối dài là hiện thực hoá điều mà các chứng nhân
tiên khởi của biến cố Phục sinh tin nhận trong sứ vụ cũng như công việc đời thường,
tín hữu cần nhớ: Chúa Giêsu vinh hiển đang chờ họ, đang chuẩn bị cho họ bữa ăn
nuôi sống họ và làm cho họ có sức mà gặp được Người" (Sđd, trg 257).
3. Hãy chăn các chiên của
Ta.
Toàn
bộ trình thuật của Gioan khẩn khoản mời chúng ta hướng về Phêrô. Ở bờ hồ, Phêrô
được liệt kê trước hết trong danh sách các môn đệ. Ông là kẻ khởi xướng chuyến
ra biển, các anh em khác theo ông và xuống thuyền của ông; chính ông nhào xuống
nước lội vào gặp Đấng mà Gioan vừa chỉ ra là Chúa; và rồi, chính ông trở lại
thuyền để kéo lưới vào tận bờ, đầy những cá lớn và trình mẻ cá cho Đức Giêsu thấy.
Và bây giờ, trong câu chuyện có tính quyết định, Phêrô đóng vai trò chính yếu
nhất, khi Đấng phục sinh long trọng xác nhận sứ mệnh tông đồ đặc biệt của ông
cũng như những điều kiện cần thiết để chu toàn sứ mệnh ấy.
Ba
lần hỏi: "Con có yêu mến Thầy Không? Con có yêu mến Thầy hơn những người
này không? " những câu hỏi vừa gợi lại vừa sửa lỗi ba lần Phêrô đã chối Thầy
(Ga 13,37 và 18, 17.25.27). Đức Giêsu đón nhận một tội nhân sám hối.
Ba
lần trao nhiệm vụ. Kẻ mới chối Người, Người lại trao một nhiệm vụ đặc biệt
trong Giáo Hội Người. Ba lần trao nhiệm vụ theo thói quen thời đó, Đức Giêsu đã
chính thức uỷ thác cho Phêrô nhiệm vụ chăm sóc đàn chiên. Nhiệm vụ này, Phêrô
đã chu toàn khi "theo " Thầy mình cho tới cái chết để làm chứng. (Ga
13,36): tham dự vào sứ mệnh của Đức Giêsu, chính là tham dự vào mầu nhiệm chết
và sống lại của Người; và cũng chính là chấp nhận hiến dâng mạng sống cho những
anh em đã được Chúa trao phó như Đức Giêsu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Giêsu trên bờ biển Hồ
("Bible
du Dimanche"" trg 582).
Đức
Giêsu đã hứa với các Tông đồ: Người sẽ gặp các ông ở Galilê sau khi sống lại.
Người đang ở bờ biển Hồ (biểu tượng của vĩnh cửu), trong khi các môn đệ đang vất
vả trên.mặt biển, trong thử thách, hiểm nguy. Các Tông đồ không nhận ra Người
ngay. Chỉ đức tin mới làm cho người ta nhận ra Người qua những dấu chỉ Người tỏ
bày.
Đức
Chúa vinh hiển, Đấng từ xa kêu gọi và chỉ tỏ mình trong đức tin, lại cũng chính
là người mời phục vụ chuẩn bị bữa ăn và mới gọi chúng ta ngồi chia sẻ bữa ăn ấy.
Đức Kitô sai các Tông đồ đi chài lưới người ta. Mẻ chài này, Người điều khiển.
Người làm cho cá vào đầy lưới, biểu tượng Nước Trời (Mt.13,47). Người trao nhiệm
vụ chủ chăn cho Phêrô. Uy quyền này được trao cho một con người rất bình thường
(Simon con Giona), một con người mỏng giòn, đã chối bỏ Người và không thể yêu
Người sâu xa hơn ngoài sự gắn bó thuần tình cảm.
Nhưng
từ đây, Đức tin của Phêrô dựa trên Đức Giêsu chứ không dự' trên sức mình:
" Thầy biết ". Phêrô không đòi chia sẻ mọi tâm tư của Thầy, ông chỉ
còn việc duy nhất phải làm: theo Thầy.
Số
phận của Phêrô cũng sẽ là số phận của các tín hữu: từ lòng tin nhiệt thành phác
hoạ lối đi, ông tiến tới đức tin chín chắn, dám để cho Chúa dẫn dắt cuộc đời
cho tới chết, tới tử đạo.
2. Người của bờ biển Hồ
(G.
Bessière, trong dieu si proche, Nãm C". DDB, trg 57-58).
Không
ai nhận ra con người đứng trên bờ biển Hồ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu đã kêu
lên: " Chúa đó! " Vào sáng phục sinh, ông là người đã đến mồ trước
tiên, "ông đã thấy và đã tin; và trong ánh sáng của tình yêu, ông còn là
người đầu tiên nhận ra Đấng Phục sinh. Phêrô cũng là người có phản ứng rất đặc
biệt: nhảy ùm xuống nước mà lội vào với Chúa.
Bản
tướng thuật như quên những anh em khác để tập chú vào hai nhân vật này. Mỗi người
một vẻ. Người thì được Đức Giêsu quá yêu thương. người thì là.thủ lãnh năng động
của tập thể. Giáo Hội sơ khai cần nhận ra đặc điểm của hai khuôn mặt vĩ đại
này. Đó là hai cực sống động của những cộng đồng quan trọng tiên khởi, hai trào
lưu khác nhau của Kitô giáo thuở đầu. Cả hai vị đều tiếp nhận từ Đức Giêsu vai
trò đặc biệt của mình.
Còn
một biểu tượng rất giàu ý nghĩa: người ta chèo thuyền, người ta thả lưới, đêm
dài vô tận, bình mình nhợt nhạt, mà thuyền cá nhẹ tênh. Phải nhìn ra đấng Phục
sinh đang ở xa xa, phải biết đi tới tận cùng thế giới. Nghe người chỉ mà quay lại
quăng lưới. Chỉ Người có thể dẫn ta vào những cuộc mạo hiểm khi nhắc cho ta những
đòi hỏi và hạnh phúc của cuộc mạo hiểm đó, đời sống của Giáo Hội phải luôn được
"hiệu chỉnh " dưới ánh mắt của Đức Giêsu''
Lưới
không rách. Cộng đồng Kitô giáo cũng vậy. Nhiều dị biệt. Nhưng là nơi người ta
nghe nhau, hiệp thông với nhau dù rất khác biệt. Đức Giêsu luôn mời gọi. Người
hiến tặng bánh và cá, như thời nuôi dân trong hoang địa, như bữa tiệc chiều ly
biệt. Chúng ta thoáng nhận ra hình ảnh bữa tiệc ngày thế mạt mà Người muốn mời
cả loài người. Chân trời này gợi nơi ta một mối quan tâm vô cùng sâu sắc.
Các
Kitô hữu, thực hiện sứ mệnh mỗi người mỗi cách, nhưng phải trùng hợp với ý Đức
Giêsu, nhận ra Người, nghe "được tiếng Người khi thi hành sứ mệnh Chính
Người nuôi dưỡng và làm cộng đồng sống động: chúng ta nghĩ đến Bữa tiệc ly
Thánh Thể. Và như tại Emmaus, chúng ta nhận ra Đấng Phục Sinh nhờ cử chỉ khi hiện
diện, phục vụ và chia sẻ của Người.
10.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA HIỆN RA BÊN BỜ HỒ
TIBÊRIAT
1. Đa số các nhà phê bình nhất
trí cho rằng chương này là một phụ chương được thêm sau khi phúc âm hoàn toàn
chấm dứt; một số khác cho rằng chính tác giả phúc âm đã soạn thảo ra nó, vì
chương có những nét đặc biệt của Gioan (ngôn ngữ, bút pháp, ngữ vựng...). Đúng
vậy, nhưng người ta cũng thấy những yếu tố xa lạ với Gioan và gần với Lc hơn
(có những con số; x. phép lạ hoá bánh, Lc 9,10-17). Hãy thận trọng khi giải
thích những con số này vì cách tường thuật cuộc đánh cá kỳ diệu và việc hoá
bánh ra nhiều rất khác nhau. Ngoài ra, vì có khá nhiều thành ngữ không thuộc Gioan,
nên người ta nhìn nhận là không phải chính Gioan viết, nhưng là một môn đệ của
ông viết thêm vào, dựa trên những câu chuyện của chính Gioan kể lại. Có lẽ phụ chương
này được thêm vào ngay từ đầu. Thật vậy, người ta thấy nó trong tất cả mọi thủ
bản và được nhiều tác giả Kitô giáo đồng thời với chính phúc âm được xuất bản,
nghĩa là được phổ biến trong các giáo đoàn. Hình như tác giả phúc âm đã chết
vào thời đó (c.21-23); toàn chương nói về ông như nói về một người khác
(21,7:ekeinos, người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến ấy). Đàng khác ngôn ngữ thần học
thường thấy trong các văn tập của Gioan ở ấy đã nhường chỗ cho việc mô tả các
nhân vật và tương quan của họ trong Giáo hội. Người biên soạn bản văn này chú ý
nhiều đến chi tiết cá nhân. Bản danh sách trong 21,2, việc nhắc đến nguồn gốc của
Mahanael (ông từ Cana đến) và việc nói đến 2 con ông Giebêđê (mà phúc ân thứ tư
đã cố tình tránh né) cho thấy điều đó. Và cách giải thích quyền tối thượng của Phêrô
trên Gioan minh chứng rõ ràng có sự can thiệp của một biên tập viên khác hằng
muốn làm nổi bật giá trị của phúc âm, hằng muốn cho người ta biết rằng tác giả
đã suýt trở thành nhân vật điều khiển Giáo hội. Theo ý kiến nhiều người thì phần
kết luận (cc.24-25) là do một người môn đệ đặc trách việc xuất bản viết, phúc
âm gia không phải là tác phẩm phần kết luận đó, vì ông chính là môn đệ dấu yêu
mà trình thuật cuối cùng nói đến.
Như
thế, vì thiếu chứng cớ rõ ràng dựa trên ngôn ngữ và văn thể, toàn bộ dữ kiện và
chiều hướng chung của bản văn cho phép nghĩ rằng chương 21 là công trình của
môn đệ đặc trách việc xuất bản. Việc Gioan đã kết thúc phúc âm ở 20,30-31 bênh
vực cho kết luận này của chúng ta. Tưởng cũng nên lưu ý rằng bất xác thực tính
này (non-authenticité) không ảnh hưởng gì đến linh hứng tín của chương 21; tuy
nhiên bất xác thực tính đó không phải tuyệt đối, vì trình thuật này dựa trên cơ
sở những gì chính tác giả phúc âm kể lại.
2. Đoản văn ghi chú các tông
đồ bắt được 153 con cá trong mẻ lưới lạ lùng. Phải nghĩ gì về con số lạ lùng
này? Có thể người ta vì tò mò, đã đếm xem số lượng... Tuy nhiên ở đây không chỉ
có việc ghi lại cách chính xác số cá bắt được. Các giáo phụ đã đưa ra nhiều giả
thiết, trong đó lối giải thích của thánh Jêrôme dễ chấp nhận nhất: các nhà vạn
vật học thời xưa biết được 153 loại cá. Thực ra, một biểu hiện không hề có cơ sở
trong CƯ như thế mà lại được ghi nhận trong phúc âm Gioan, kể cũng hơi lạ. Dù
sao, nếu thánh Jêrôme có lý, thì ý nghĩa của con số này trùng phùng với thành
ngữ “đủ mọi thứ cá” trong dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13,47). Giáo hội phải hội tụ
trong nước mình tất cả mọi dân tộc, như mục tử chân chính qui tụ trong đàn mình
mọi con chiên đến từ chuồng khác ngoài Israel (10,1b), như Con Người kéo lôi tất
cả mọi người vào trong mẻ lưới cánh chung (x.12,32; 6,44). Vì thế, phải liên kết
đề tài biểu tượng này với các chi tiết liên quan đến chiếc thuyền duy nhất và chiếc
lưới không bị thủng.
3. Một câu hỏi, lặp lại ba lần
“Phêrô, con có mến Ta không?” xem ra được nhấn mạnh bù lại ba lần chối Chúa, hầu
hết các nhà chú giải đều nhất trí như thế. Nhưng chỉ sau lần hỏi thứ ba, mới
nghe Chúa Giêsu thôi nói với Phêrô: “Hãy chăn nuôi đàn cừu của Ta”, như thể ngầm
bảo rằng ông đã được tha. Vậy tại sao lời uỷ nhiệm này được trao cho ông ba lần
luôn?
Nhiều
nhà chú giải nhấn mạnh: việc lặp lại này nhằm tăng thêm phần long trọng cho
khung cảnh. Theo Bultmann, việc long trọng lặp lại như thế gợi lên “một tập tục
tế tự hoặc một tập tục pháp lý có tính cách ma thuật”. Còn P. Gaechter đề nghị
cách giải thích sau: như những công thức luật pháp cổ xưa thường không được viết
ra nhưng phải được lặp lại ba lần trước những nhân chứng. Cũng thế, lời uỷ nhiệm
chính thức được trao ban cho Phêrô cũng có giá trị pháp lý nhờ lặp lại ba lần
trước các nhân chứng. Để minh chứng cho ý kiến này ông đưa ra nhiều ví dụ rút từ
luật giá thú xứ Palestine và nhắc lại công thức ba lần đã được dùng đến khi Abraham
nhận căn động của Makpéla để chôn xác Sara (St 23,3-18). Ngoài ra, có thể kể
thêm trường hợp luật dòng thánh Biển Đức, thế kỷ thứ sáu, buộc phải đọc lời khấn
ba lần. Nói tóm lại, tâm thức luật pháp chung chung của cổ thời giúp ta dễ dàng
hiểu lời uỷ nhiệm ba lần được lặp lại này. Việc lặp lại có ý nói rằng Phêrô
chính thức được giao phó nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Đức Kitô.
4. Ba lần Chúa Giêsu hỏi và
ba lần Phêrô trả lời tạo nên tâm điểm của trình thuật: địa vị Phêrô và môn đệ dấu
yêu có đủ mọi cơ may được phong làm người lãnh đạo: các con ông Giêbeđê (được
đó có Gioan) và mẹ các ông đã chẳng ngần ngại xin những chỗ tốt trong Nước Trời
sao? (Mc 10,35-41)
Nếu
Phêrô đã chiếm chỗ nhất, đó không phải là vì công lao của ông. Ba lần Chúa
Giêsu hỏi rõ ràng là dư âm của ba lần ông chối Chúa. Ông đã thề theo Chúa Giêsu
cho đến chết, dù các người khác chối bỏ Người... (Mc 14,29). Và giờ đây, ông bị
tra vấn về tình yêu và lòng trung tín của ông:"Con có mến ta hơn những người
này không?”, câu hỏi đầu tiên là vậy. Để hướng dẫn kẻ khác, phải chứng tỏ có một
tình yêu lớn hơn. Chúa Giêsu hoàn toàn không muốn khơi lại niềm đau xa xưa.
Nhưng Phêrô hãy biết rằng việc ông được quyền tối thượng không do công lao của
ông. Mọi trình thuật về ơn gọi, trong CƯ cũng như trong TƯ, luôn đi theo lời
xác quyết tính cách bất xứng của đương sự (15,16). Khi Chúa hỏi Phêrô có yêu mến
Ngài hơn những người khác không, câu hỏi này nhắm đến tương lai nhiều hơn là
quá khứ. Phêrô không được chọn vì đã yêu nhiều. Các sự kiện quá khứ đều phủ nhận
điều đó; chỉ có Gioan, vì yêu nhiều hơn nên mới dám đến đứng dưới chân thập giá
sau khi đã chạy trốn. Nhưng vì một khi được chọn, ông phải từ đó yêu nhiều hơn
những kẻ khác.
5. Vì là người lãnh đạo, từ
nay, theo chân Chúa Giêsu Phêrô phải đi trước đoàn chiên (13,36). Xưa kia vì
quá tự tin, ông đã tuyên bố có thể theo Chúa cho đến chết. Ông sẽ có cơ hội thực
hiện điều đó. Khi trích một châm ngôn bình dân, Chúa Giêsu báo cho Phêrô biết một
ngày kia ông sẽ chết tử vì đạo. Lúc còn trẻ, người ta có thể tự mặc áo, thắt nịt,
như Phêrô đã làm lúc nãy (21,7). Nhưng khi về già, sẽ bị người khác áp chế.
Cũng vậy, Phêrô sẽ giăng tay để người khác thắt lưng. Hình ảnh này nói lên việc
mất tự do, chứ không nói đến hình thức cụ thể của việc Phêrô tử đạo; truyền
thuyết ghi nhận đã bị đóng đinh.
Lời
bí ẩn mà Chúa Giêsu đưa ra có được Giáo hội giải thích như là lời tiên báo về
cuộc tử đạo của Phêrô. Chính tác giả cũng gợi lên cách giải thích này (12,33;
18,32). Nhờ việc tử đạo, Phêrô sẽ tôn vinh TC. Từ ngữ tôn vinh ở đây không có
cùng một ý nghĩa như trong trình thuật Tử nạn của Chúa Giêsu (13,31; 17,1). Nhờ
cái chết, Chúa Giêsu mạc khải cho mọi người thấy vinh quang của Cha Ngài và một
cách nào đó trở nên lăng kính của vinh quang TC. Nhờ việc tử đạo, Phêrô tuyên
xưng vinh quang hay thần tính của TC, khi thực hiện thánh ý của Ngài (1P 4,16).
Trong lúc chờ đợi, Phêrô chỉ cần đi theo Chúa Giêsu (10,4; 12,26). Con đường
này đương nhiên đưa ông đến cuộc tử đạo (12,26.36).
KẾT LUẬN
Giavê,
mục tử Israel (Ez 34,11-12; Tv 23) đã cho Chúa Giêsu trở nên mục tử tốt lành và
đích thực (Ga 10,1-16; 1P 5,4). Từ đây chính Phêrô sẽ thay mặt Đức Kitô thi
hành quyền chăn dắt hữu hình: ông trước hết rồi đến những người kế vị ông.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người mục tử nhân lành
săn sóc đàn chiên mình mà chúng ta đã biết mà phúc âm đã trình bày, đó chính là
Đức Kitô; tuy nhiên Phêrô hôm nay được giao phó một công việc thật đặc biệt:
coi sóc để mỗi con chiên được ăn đầy đủ. Chúng ta có thể dễ dàng hiểu đây là của
ăn đã được Chúa Giêsu đưa ra, của ăn chính Ngài thiết lập và không thể thiếu: Mình
và Máu Ngài. Với Thánh Thể, còn có của ăn Lời chúa đi kèm nữa. Nếu Chúa Giêsu vẫn
là mục tử tối cao, thì Phêrô đặc trách về lương thực và an toàn thiêng liêng của
đàn chiên.
Trong
cách Chúa Giêsu trao phó sứ mệnh Ngài cho vị thủ lãnh đầu tiên của Giáo hội,
chúng ta có thể tìm thấy hai bài học:
- Nếu Phêrô
và qua ông, những đấng kế vị, có bổn phận nuôi dưỡng thì chúng ta phải biết chạy
đến với các Ngài. Có lẽ bổn phận đầu tiên của chức tư tế, qua đoạn phúc âm này,
là bảo đảm của ăn thiêng liêng phát triển và giữ gìn Giáo hội.
- Cũng như
Phêrô, tất cả chúng ta đều có chức vụ phải thi hành, vai trò nắm giữ để phục vụ
tha nhân. Dù chức vụ khiêm tốn hay hào khoáng, quan trọng hay tầm thường, hiệu
lực hay không đáng kể, cũng chẳng sao. Có lẽ hôm nay chúng ta nên suy nghĩ về
cách thức chúng ta đã thi hành công việc: có đúng như Chúa Giêsu đòi hỏi Phêrô,
nghĩa là làm vì yêu, trong tinh thần phục vụ và vô vị lợi hay không?
2. Chính vì Phêrô xác quyết
yêu mến Chúa, nên được Chúa trao phó đoàn chiên cho. Và chính vì đàn chiên được
trao phó cho mình mà Phêrô phải lệ thuộc và vâng lời. Nếu Phêrô được trao công
việc này là vì ông yêu Đức Kitô. Việc ông phục vụ tha nhân sẽ được nung nấu
không phải là vì lòng ham danh cầu lợi, nhưng vì lòng tín trung với tình yêu Đức
Kitô. Tình yêu với Đức Kitô thanh tẩy ý hướng phục vụ tha nhân của ông.
Khi
phục vụ tha nhân vì yêu Chúa, ông can đảm dấn thân trong con đường lệ thuộc,
vâng lời. Đa số các nhà chú giải thấy trong dụ ngôn kỳ lạ của Chúa Giêsu lời
tiên báo việc tử đạo của Phêrô vào cuối đời. Nhưng người ta cũng thấy trong đó
lời tiên báo: cuộc đời Phêrô, vì ngày càng bận bịu phục vụ tha nhân, sẽ được
thúc đẩy bởi một sự vâng lời đến nỗi ông bị chiếm đoạt hoàn toàn.
Đây
là một sự lệ thuộc chặt chẽ giữa tình yêu Chúa, việc phục vụ tha nhân là sự từ
bỏ chính mình, tất cả những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi Phêrô, thủ lãnh Giáo hội.
Do đó, được trao ban quyền bính, với sứ mạng thiết lập một sứ mạng mới, Phêrô
phải tuân hành trong sự vâng phục thánh linh. Ông được chính Chúa bảo vệ khỏi
cám dỗ thống trị anh em. Khỏi quyến rũ áp đặt một quyền lực tôn giáo, khỏi tham
vọng mưu đồ địa vị cá nhân.
3. “Người môn đệ Chúa Giêsu
yêu mến mới nói cùng Phêrô: “Chúa đó” (c.7). Theo văn mạch, người môn đệ nhận
ra Đức Kitô không phải vì nhìn thấy Chúa trực tiếp, nhưng vì thấy phép lạ Chúa
làm. Truy nhiên không phải ai cũng nhận ra; bản văn cho thấy chỉ một mình môn đệ
Chúa Giêsu yêu mới có được sự minh mẫn mà các tông đồ khác không có. Đối với
chúng ta cũng thế: việc nhận ra Chúa Giêsu, sự khám phá ra hiện diện của Ngài,
trước tiên không nằm trong tầm trí giác bén nhạy và tức khắc, nhưng được thực
hiện nhờ việc giải thích biến cố trong đó biểu lộ hiệu lực của Lời Ngài và hiệu
năng của công việc chúng ta dựa trên “Lời Ngài” (Lc 5,5). Chỉ một mình môn đệ
Chúa Giêsu yêu mến mới có thể làm được điều ấy, bởi vì sự vắng mặt lâu của thầy,
sự nặng nề của công việc mà thói quen dễ thất vọng đã không dập tắt trong ông
cái nhìn của tình yêu. Khi mà các môn đệ khác chỉ thấy một sự may mắn bất ngờ,
thì ông lại khám phá ra sự can thiệp của Đấng phục sinh. “Ông thấy và ông tin”
(20,8). Ngược với Tôma muốn thấy và sờ đến trước khi tin, ông không cần một
minh chứng rõ ràng, nhưng đức tin và cái nhìn trở nên một nơi ông: điều ông thấy
mạc khải cho ông Đấng ông tin, vì Đấng ông tin làm cho ông thấy. Và chúng ta, những
Kitô hữu, sự phục sinh của Đức Kitô có thâm nhập và biến đổi cuộc đời chúng ta,
có canh tân cùng tinh luyện cái nhìn của chúng ta về các biến cố không?
11. Có Chúa nâng đỡ
Phần
lớn các tông đồ đều sinh sống bằng nghề chài lưới. Hôm được nhiều, hôm được ít
và có hôm chẳng được gì. Đó cũng là kinh nghiệm sống vốn thường xảy ra cho
chúng ta.
Thực
vậy, nhiều khi chúng ta đã suy nghĩ, đã cân nhắc, đã cố gắng hết sức, thế mà vẫn
cứ thất bại. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn, đó là thái độ của chúng ta trước
những thất bại. Có những kẻ nản lòng và thối chí, nhưng cũng có những người vẫn
kiên trì theo đuổi, vì họ nghĩ rằng:
- Thua keo nay, ta bày keo khác.
- Thất bại là mẹ thành công…
Và
sự kiên trì nhiều khi đã xoay ngược tình thế, mà đem lại những thành quả tốt đẹp.
Ông
Schmitt, thuở còn là thanh niên, đã bán tất cả gia tài, sang Mỹ tìm vàng. Tìm
mãi tìm hoài mà vẫn chẳng thấy. Tiền bạc thì mỗi lúc một cạn, còn đói khổ và cực
nhọc thì cứ mỗi ngày một gia tăng. Chịu không nổi, nhiều người đã bỏ cuộc. Trong
khi đó, ông ta vẫn miệt mài tìm kiếm và sau cùng ông đã thấy được những dấu vết
của vàng trong lòng một ngọn núi. Ông kêu gọi mỏi người góp vốn, nhưng tất cả đều
lắc đầu từ chối. Không thất vọng, ông ta tiếp tục làm việc. Sau ba mươi hai năm
vất vả, ông đã trở thành một nhà tỷ phú.
Thất
bại trong cuộc sống là một sự kiện bình thường, như ca dao Việt Nam đã nói:
-
Cơm sôi cả lửa thì khê,
Việc
làm hay hỏng, là lề thế gian.
Sự
thành công có được một phần do kiên trì chịu đựng và cố gắng:
-
Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng,
đổi nghề mặc ai.
Thế
nhưng, kinh nghiệm còn cho chúng ta thấy được một sự thật khác nữa, đó là với sức
riêng, khi thì chúng ta thất bại, khi thì chúng ta thành công, Chẳng ai thất bại
hoài và cũng chẳng ai thành công mãi. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta chắc chắn
sẽ thành công dù bên ngoài xem ra như không có thể.
Thực
vậy, các tông đồ đã vất vả cực nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào.
Thế nhưng, vâng lời Chúa, các ông đã ra khơi thả lưới, và lập tức đã có được một
một mẻ cá lạ lùng. Thất bại đã trở nên thành công, khó hoá thành dễ và không có
thể đã biến thành có thể.
Tìm
tưởng vào mình đã đành, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải tin tưởng vào Thiên
Chúa nữa, bởi vì như lời Chúa đã phán:
-
Không có Thầy, các con không thể làm gì được.
Thánh
Phaolô đã xác quyết:
-
Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho
đâm bông kết trái.
Và
người Việt Nam chúng ta cũng thường nói:
-
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Tôi
xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể. Chẳng hạn khi làm ruộng, chúng ta phải dùng mọi
phương thế tự nhiên như cày bừa, gieo xạ, xịt thuốc và bón phân…Tuy nhiên, lúa
tốt và trúng còn lệ thuộc vào thời tiết, mưa thuận gió hoà. Việc này thì dường
như ngoài tầm tay của chúng ta.
· Chẳng hạn khi buôn bán,
chúng ta phải điều nghiên thị trường, hàng tốt, giá cả phải chăng…Tuy nhiên, nếu
gặp phải thời buổi loạn lạc, thì chắc hẳn số người đến mua cũng chẳng bao
nhiêu.
· Chẳng hạn khi lập gia đình,
chúng ta phải tìm hiểu và bàn hỏi… Tuy nhiên, chẳng may sau khi cưới và chung sống
với nhau, chúng ta mới thấy người mình yêu không giống với người mình mơ ước vì
có quá nhiều khuyết điểm. Lúc đó phải làm sao đây? Hôn nhân không giống như một
chiếc áo, vừa thì mặc, không vừa thì bỏ. Nhờ người này người nọ nhắc nhở bảo
ban mà vẫn không chuyển biến. Nếu kéo lê cuộc tình như vậy suốt dọc cuộc đời
thì qua là một gánh nặng.
Trong
trường hợp như thế, vẫn còn có một phương thế đó là tin tưởng và phó thác cho
Chúa, vì Ngài có thể làm được mọi sự, như lời thánh vịnh đã xác quyết:
Ví như Chúa
chẳng xây nhà,
Thợ nềvất vả
chỉ là uổng công.
Thành trì
Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện
tướng cũng không ra gì.
Hay
như lời thánh Félix de Nole đã nói:
-
Với Chúa, thì màng nhện cũng trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì
tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Và
chính Chúa cũng đã phán:
-
Đối với Thiên Chúa, không việc gì là không có thể.
Tóm
lại, trong mọi việc, chúng ta hãy sử dụng sử dụng hai phương tiện trợ giúp cho
nhau, đó là tự nhiên và siêu nhiên, đó là sức mình và ơn Chúa, nhờ đó mới bảo đảm
được những thành quả tốt đẹp.
Các
bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh
tương lai của Giáo Hội. Cộng đoàn là những kẻ tin nhận Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế.
Vận
mệnh tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng vững chắc là niềm
tin vào Chúa Kitô Phục sinh. Ơn cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người là sự dấn
thân của con người dưới ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa,
cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao ban ơn tha tội, giao hoà
con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi
bài đọc 1 trích từ sách Tông đồ Công vụ giúp chúng ta nhìn thấy thái độ mà các
tông đồ phải đấu tranh, bị những người lãnh đạo đầy uy quyền nhưng không tin nhận
Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, bị những người lãnh đạo Do thái ngăn cấm không được
lên tiếng làm chứng về Chúa Kitô Phục sinh, không được rao giảng sự thật của
Chúa.
Thánh
tông đồ Phêrô đã mạnh dạn trả lời: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
loài người”. Thiên Chúa Cha đã cho Chúa Kitô sống lại, Đấng mà các ông đã giết
chết bằng cách đóng đinh Ngài trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người
bên hữu Ngài, làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế để ban cho
dân Israel ơn ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi: “Về tất cả điều này
chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng”.
Vận
mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên thái độ can đảm này. Thái độ sống
đức tin, làm chứng cho Chúa Kitô và cho sự thật cứu rỗi của Ngài: “Chúng tôi phải
vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người”.
Đọc
và suy nghĩ về lời tuyên bố này của thánh Phêrô trong hoàn cảnh mà thánh nhân
và các tông đồ khác lúc đó phải trải qua, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của nó.
Khi những người lãnh đạo dân Do thái, những vị lãnh đạo đầy uy quyền mà lạm dụng
quyền hành của họ để xen mình vào việc tôn giáo thì các tông đồ đã mạnh dạn làm
chứng cho Chúa Kitô Phục sinh để trao ban ơn tha tội cho con người, làm chứng
cho một sự thật tôn giáo.
Khi
các vị lãnh đạo lạm dụng quyền của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của các
tông đồ, bắt buộc các ngài phải chọn một trong hai thái độ là theo Chúa Kitô hoặc
chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do thái thì chính lúc đó thánh Phêrô
đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Kitô Phục sinh, chọn
vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người.
Đây
là câu trả lời cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo, chứ không phải là
một lời kêu gọi con người nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị. Nếu sinh
hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh, rao
giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi,
của những sự xấu, của những sự dữ đang làm cho con người thù ghét nhau, chia rẽ
với nhau thì các tông đồ đã chọn sự tự do ấy, đó là việc rao giảng Tin Mừng giải
phóng cho con người. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tôn trọng, nói
theo kiểu nói ngày nay được hưởng sự tự do như đang được thì các ngài đâu cần
phải xác nhận phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Làm sao con
người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế Thiên Chúa được.
Trong
thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút này làm sao chúng ta có thể
nói là mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa, không cần được ơn Thiên Chúa
giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội để sống đúng địa vị con người, sống
như là con cái Thiên Chúa và như là anh chị em với nhau. Ai trong chúng ta
không cần được sự nâng đỡ để sống trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống
lãnh nhận từ Thiên Chúa và cuối cùng qua 20, 30 năm hay 100 đi nữa thì cũng sẽ
phải trở về lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái
độ các tông đồ được trình bày trong bài đọc 1 của bài đọc hôm nay đã xây dựng
Giáo Hội cho đến ngày nay. Chúng tôi và Chúa Thánh Thần không phải tự sức riêng
các tông đồ, nhưng là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Chúng tôi
và Chúa Thánh Thần làm chứng cho ơn Chúa, nhưng con người chúng ta có cộng tác
với ơn Ngài ban hay không?
Bài
Phúc âm hôm nay kể lại biến cố Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ đang bị cám dỗ
từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống hằng ngày, trở về với nghề chài
lưới. Nhưng Chúa đến để kêu gọi họ trở về với ơn gọi tông đồ, đồng thời Ngài củng
cố đức tin cho các tông đồ.
Điều
gì đã xảy ra cho các ngài? Từ đó Chúa đến củng cố các ngài nhờ một phép lạ và một
bữa ăn; bữa ăn bổ sức trong tinh thần. Ước gì chúng ta cũng được củng cố như vậy
trong Bí tích Thánh Thể, để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa, chứng
nhân hữu hiệu trong mọi hoàn cảnh và cho mọi người ở khắp mọi nơi.
13.
Sống lại
Đặc
biệt tôi rất vui mừng khi thấy có rất nhiều anh chị em mà tôi xin được phép gọi
là các bạn trẻ đang hiện diện trong ngôi thánh đường này.
Có
một sự thật – thật đến nỗi đã có nhiều người không dám tin là có thật: Đó là sự
kiện Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại hiển vinh. Đây chính là trọng tâm,
là cốt lõi, là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Thánh Phaolô còn xác quyết: “Nếu
Đức Kitô đã không sống lại thì điều anh em tin thật là hão huyền… và chúng ta
là những kẻ đáng thương nhất trên trần gian này”.
Tất
cả chúng ta vừa trịnh trọng lắng nghe thánh Gioan tông đồ thuật lại việc Đức
Giêsu sau khi sống lại đã hiện ra với các tông đồ tại biển hồ Tibêria. Đây
không phải là một cuộc thoáng hiện của Đức Giêsu, nhưng Ngài còn ngồi lại, cùng
dùng bữa thân mật với các ông nữa. Chính trong khung cảnh lãng mạn đó, Đức
Giêsu đã đặc biệt ngỏ lời, đã tỏ tình với Phêrô: “Phêrô, con có yêu mến Thầy
không?... Phêrô, con có yêu mến Thầy nhất không, hơn các người này không?”
Nghe
đến đây, tôi và các bạn có lẽ đã tức điên lên và tự nhủ: Chúa Giêsu ơi! Sao
Chúa dại quá vậy? Chúa hết người để yêu rồi hay sao mà lại đi yêu và yêu đến cuồng
si Phêrô, kẻ đã từng phản bội – kẻ đã từng chối Chúa, xử quê Chúa trước mặt
công chúng, Chúa có còn nhớ hay không?
Thánh
Têrêsa thành Avila từng trách Đức Giêsu đã quá yêu con người đến điên dại, kể
cũng không quá đáng. Phêrô là con người thế nào? Chúng ta đã quá rõ: Một tên
ngư phủ quê mùa, tính tình thì nóng nảy, thuộc “tuýp bốc”, hay làm tàng, ta
đây… được Đức Giêsu thương nhận làm đệ tử, cho ngồi đồng bàn, chia sẻ vui buồn,
dạy dỗ đủ điều… lại còn được mời gọi trao ban sứ vụ tông đồ cao cả… Thế mà, khi
có sự cố, hàn vi, biến loạn xảy đến lại chối Thầy bỏ bạn. Con người đó hỏi thử
có gì đáng để Đức Giêsu yêu thương đến thế?
Đúng
ra, trong số các tông đồ, nếu Đức Giêsu có muốn yêu thì Gioan là xứng đáng hơn
cả, hay là Natanaen – một con người không có gì là gian dối, (như Đức Giêsu đã
từng khen).
Ngẫm
nghĩ: tình yêu thật khó hiểu! Con tim của Đức Giêsu có những lý do riêng mà
chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tôi thường nghe Hồng Nhung hát bài “vẫn mãi
hát lời tình yêu”của Dương Thụ. Nhưng thực sự giờ đây tôi mới hiểu và dám quả
quyết: chỉ có Đức Giêsu mới thật sự là người vẫn mãi hát lời tình yêu mà thôi.
Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu thật có lý khi xác tín rằng: “Bạn đừng sợ Chúa, Chúa
chỉ có biết yêu mà thôi”
Con
người Phêrô cộc cằn và đáng ghét đó. Đúng ra nên dành một dấu chấm hết cho xong
chuyện. Thế nhưng, Phêrô lại được Đức Giêsu yêu thương một cách đặc biệt và chính
tình yêu Giêsu đã cảm hoá được Phêrô cách lạ lùng. Con người bất trị đó cuối
cùng đã phải thốt lên: “Thầy biết mọi sự mà, Thầy biết con yêu mến Thầy
mà!”Đúng là “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”. Một lần bị nguyền rủa là Satan,
ba lần chối Chúa – chán nản, bỏ cuộc, về hưu đánh cá, coi như lòng đã chết. Giờ
đây lại chỗi dậy bằng ba lần cam kết yêu thương.
Điều
gì đã làm Phêrô biến đổi như vậy? Phải chăng Phêrô đã ân hận vì quá khứ nhiều
xót xa? Hay choáng ngợp vì mẻ cá lạ với 153 con mà lưới không rách?
Đó
cũng chưa là lý do đầy đủ để thuyết phục và chinh phục Phêrô. Nguyên nhân sâu
xa nhất là Phêrô đã khám phá và xác tín vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức
Kitô. Bằng chứng là suốt quãng đời còn lại của Phêrô đã không ngừng rao giảng
và hầu như chỉ rao giảng và làm chứng về Đức Kitô Phục sinh – Đấng đã dùng tình
yêu để cảm hoá Phêrô.
Tình
yêu của Đức Giêsu thật sự có sức mạnh cảm hoá con người và đối với bất cứ ai, nếu
người ta biết đặt niềm tin vào Ngài. Tình yêu Giêsu sẽ mở ra tương lai cho tội
nhân và khép lại quá khứ để trở thành thánh nhân. Sống giữa cuộc đời ô trọc –
thị phi – hư danh – chóng qua này; tình yêu Giêsu là một lý do cuối cùng để con
người hôm nay hy vọng.
Khám
phá và tin vào mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh của Đức Kitô là điều không dễ.
Chúng ta dù vẫn biết rằng: Đức tin là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa,
nhưng từ Tin đến Yêu và yêu tha thiết, yêu say đắm như Phêrô lại là cả một quá
trình cảm hoá từng bước, ngày qua ngày trong cuộc sống. Đức Kitô đã đi vào lịch
sử, đã chấp nhận lịch sử và không bị lịch sử giới hạn bằng chính sự thật Phục
sinh của Ngài. Với thời gian, mãnh lực cảm hoá của tình yêu Giêsu sẽ được chúng
ta kiểm chứng cảm nghiệm giống như ly rượu đào uống dần – thấm lâu – say mãi. Để
một khi đã yêu thật sự, chúng ta sẽ không còn hờ hững nữa; nhưng trái lại là một
sự lựa chọn, dấn thân và hiến thân trọn vẹn cho tình yêu Giêsu đó.
Ngày
nay, trước xu hướng của tình yêu “thời mở cửa”, mọi cái đều phải quảng cáo,
tranh thủ, tốc độ, chộp giật… Tình yêu cũng dễ dàng bị nhuốm màu kinh doanh đó.
Vả lại, từ tình yêu lãng mạn của “khung trời đại học”đến thứ tình yêu thực tế
phũ phàng được cân, đo, đong, đếm bằng “cơm-áo-gạo-tiền”. Người trẻ chúng ta dù
muốn dù không cũng có ít nhiều ngờ vực, nghi nan khi bước vào ngưỡng cửa của tình
yêu, mà trước đó người ta dễ dàng đã thấy quảng cáo, tiếp thị, bầy bán với hàng
trăm thứ quan niệm lệch lạc về tình yêu nơi các cửa hàng giả hiệu, bất chấp
đúng sai, miễn sao có lời.
Chẳng
hạn, có một số bạn trẻ cho rằng tình yêu là “thứ trời cho”nên họ sẵn sàng biến
thành thú “trò chơi”. Một số khác lại thực tế hơn đi tìm và xây tổ trước khi có
tình yêu, bạn đời họ cần phải là “nhà mặt phố, bố làm to”. Ngoài ra, còn có kiểu
“tình hờ”, “tình cờ”, “tình cho không biếu không”… kết cuộc lối chịu chơi đó biến
cuộc đời của những chàng trai, cô gái thành những trái táo thối chín non, rẻ mạt!
Gút
lại, những kiểu tình yêu phát xuất từ những xu hướng lệch lạc thời mở cửa này,
thực chất có mang lại tình yêu và hạnh phúc đúng nghĩa thật sự cho người trẻ
hôm nay hay không? Chúng ta hiểu: trong tình yêu luôn có muôn vàn sắc thái, mùi
vị, ngọt, bùi, đắng cay… Tuy nhiên nếu tình yêu không bắt đầu bằng sự rung động
của con tim và cần có thời gian để cảm hoá, thanh luyện cho thật tinh ròng, là thứ
quí hơn vàng, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ nếm được hương vị ngọt ngào do
tình yêu mang lại. Trong tình yêu, ngay cả niềm tin cũng không được lạm dụng;
chọn lựa phải chắc chắn, dấn thân triệt để. Có như vậy việc hiến thân cho nhau
mới trọn vẹn và đến cùng. Thách đố lớn nhất của thời đại hôm nay, của tình yêu
hôm nay: lòng trung thành.
Các
bạn đang nghĩ gì và làm gì để xây dựng đời sống “văn minh tình yêu”cho chính
mình và người khác? Trước ngưỡng cửa nửa tối – nửa sáng của cuộc đời bạn đang
tin tưởng hay chối từ, nghi nan? Chắc chắn chúng ta cần phải có một thần tượng,
một lý tưởng để theo đuổi và can đảm bước tới trong hy vọng: tình yêu Giêsu thật
sự là lý do cuối cùng, là khuôn mẫu đích thực cho chúng ta hôm qua, hôm nay và
mãi mãi.
Dốc
hết vốn liếng đức tin ra, chúng ta cần xác tín một điều: “Thiên Chúa chỉ có biết
yêu mà thôi”. Và đối với tình yêu Giêsu thì chỉ một lần được sống lại, sẽ không
bao giờ chết nữa.
14. Làm chứng
Trong
một buổi toạ đàm về lễ Phục sinh, có một thanh niên tên là Lim, không tin Đức
Kitô Phục sinh. Anh nói: “Tin tôi đi, các bạn, chẳng có Đức Kitô nào sống lại hết.
Đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng mà thôi, tranh cãi làm gì mất công, phí thời giờ,
các bạn sẽ thấy ngay bây giờ, tôi cho Đức Kitô hai phút, nếu có Ngài thì Ngài cứ
việc đánh tôi chết”. Nói xong anh ưỡn ngực chờ đợi. Hai phút trôi qua, chẳng có
gì xảy ra. Lim đắc thắng nói: “Đó, các bạn thấy rõ rồi nhé, Đức Kitô có đâu
nào?”. Mọi người đều im lặng.
Một
lúc sau, có một người lên tiếng: “Anh Lim này, tôi là một người cha. Tôi có một
đứa con trai, có lẽ bằng tuổi anh. Giả như bây giờ nó có mặt ở đây và nó cầm
dao đưa cho tôi rồi nói: “Tôi không chắc ông có phải là cha tôi thật không, người
ta nói sao thì tôi biết vậy thôi. Họ bảo ông là cha tôi, nếu thực sự đúng như vậy,
thì sao đây, ông hãy cầm lấy và đâm tôi đi, nếu không, chính tôi sẽ đâm ông”.
Anh nghĩ coi: tôi phải xử trí thế nào? Thú thật tôi không đủ khả năng cho nó thấy
tôi là cha nó theo cách nó đòi hỏi. Nhưng có phải từ sự kiện tôi không dám đâm
chết nó mà anh có thể kết luận: tôi không thực sự là cha nó không? Vì thương nó
nên tôi không đâm chết nó. Là cha nó, tôi thà để mình bị đâm chết hơn là cầm
dao đâm chết con. Chết vì tay nó, tôi chứng tỏ cho nó thấy tôi chính là cha nó.
Nó đòi hỏi, nhưng tôi không làm theo cách nó mong muốn, mặc dầu tôi có thể đâm
nó chết. Anh Lim này, anh hiểu điều tôi vừa nói chứ? Anh cũng vừa phỉ báng
Thiên Chúa như thế đấy, nếu Đức Kitô không đánh chết anh, thì không phải là vì
không có Ngài, mà vì Ngài thương anh đó thôi. Bởi vì trong tình yêu bao giờ cũng
có một yếu điểm nghịch thường mà người ta không thể diễn tả hết được”.
Người
ấy nói tiếp: “Anh nghĩ xem, giả như anh nắm tay đấm vào đá thì tay anh sẽ bị
đau chứ không phải là đá. Đá phản ứng lại cử chỉ kiêu căng của anh một cách
mãnh liệt. Nhưng nếu anh đấm xuống nước, tay anh không hề hấn gì, nước chỉ dao
động một chút rồi thôi. Và nếu anh đấm vào không khí chúng ta đang thở, anh sẽ
chẳng cảm thấy gì hết. Không khí có vẻ bất lực ấy lại cần cho đời sống của
chúng ta hơn là đá cứng nhiều. Cũng thế, Thiên Chúa trở nên như yếu đuối và như
vô hình giữa chúng ta. Giả như chúng ta có chửi bới Ngài, Ngài chẳng bợp tai
chúng ta, trong khi nếu chúng ta làm thế với bất kỳ ai khác, chúng ta sẽ lãnh đủ.
Thiên Chúa trở nên yếu đuối và bất lực, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cần đến
Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Anh Lim này, Đức Kitô yêu anh lắm, anh cũng phải
yêu lại Ngài nhé. Anh hãy tin Ngài và sống đạo tốt hơn anh sẽ cảm thấy điều tôi
nói là chân thật”. Chúng ta hãy cám ơn Chúa đã ban ơn đức tin cho chúng ta, và
chúng ta vẫn còn kiên trì giữ vững đức tin cũng như tuyên xưng đức tin. Đức tin
ấy Chúa ban cho chúng ta ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Đức tin ấy như một
đèn sáng hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Nguyên việc chúng ta có mặt trong nhà thờ
lúc này là một bằng chứng cụ thể rõ ràng. Và chúng ta đến nhà thờ mỗi ngày Chúa
nhật là chúng ta chứng tỏ đức tin và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Phục sinh.
Mỗi Chúa nhật là một lễ Phục sinh. Việc Đức Kitô Phục sinh là một thực tại chắc
chắn. Điều đó các tông đồ không cần phải tin, vì đích thân các ông đã được cảm
nghiệm: đã thấy Chúa, đã nghe tiếng Chúa rõ ràng, đã thấy những việc quen thuộc
Chúa thường làm, đích thực 100/o Chúa đã sống lại. Còn chúng ta, chúng ta tin,
vì chúng ta không thấy. Dù không thấy, chúng ta vẫn tin một cách tuyệt đối.
Chúng ta đi đạo, theo đạo, giữ đạo, tin đạo, tức là chúng ta tin Đức Kitô đã Phục
sinh. Chúng ta tin Chúa sống giữa chúng ta và đang điều khiển vũ trụ này. Một trong
những điều đòi hỏi chúng ta thể hiện đức tin, cũng là điều ghi lại trong bài
Tin Mừng, đó là các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không được gì. Lúc ra về, họ
đành thú nhận tay trắng, công dã tràng. Đó là sự giới hạn của họ và cũng là bài
học cho tất cả chúng ta. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Nếu con người
chúng ta cứ thành công mãi như ý mình, chúng ta sẽ tưởng mình là vô địch, mình
có thể làm được mọi sự mà không cần đến Chúa. Nhưng rất may, ở trần gian này có
một định luật là sự giới hạn: giới hạn của vật chất chung quanh chúng ta, giới
hạn của khả năng con người, giới hạn của chính đời sống chúng ta… Không ai
trong chúng ta có thể sống vượt ra ngoài những giới hạn đó.
Cho
nên, chúng ta tin Chúa là chúng ta nhận biết thế đứng của mình trước Thiên
Chúa, biết sự giới hạn của mình trước Đấng toàn năng đã phán: “Không có Ta, các
ngươi không làm gì được”. Vì thế, trong mọi hoạt động của đời sống, chúng ta phải
cầu xin Chúa thực thi chương trình của Ngài nơi mỗi người chúng ta và xin cho
chúng ta biết thân phận mình, biết sự giới hạn của mình, để chúng ta luôn tin
tưởng và cậy dựa vào Chúa.
Một
điều nữa chúng ta cũng cần ghi nhớ: các tông đồ tin Chúa sống lại, các ông
không giữ lại niềm tin đó cho riêng mình, nhưng các ông đã ra đi rao giảng, làm
chứng cho mọi người biết Chúa đã sống lại. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải
rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách thánh hoá những việc làm hàng ngày,
là đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, trong lời nói, trong việc làm của
chúng ta, và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta,
tức là phải đem tinh thần Tin Mừng vào công việc trần thế, vào nghề nghiệp, vào
các giao tiếp với người khác, vào cả những lúc vui chơi giải trí… Chúng ta xao
lãng bổn phận này hay chúng ta tách rời tinh thần Tin Mừng khỏi đời sống là
chúng ta chưa sống đạo đầy đủ đúng nghĩa.
Trong
mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép “Lạy Chúa, chúng con loan truyền
Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa lại đến”. Chúng ta
tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng. Và chúng ta biết rằng hiệu quả
hơn chính là trong cuộc sống. Đời sống của chúng ta là bằng chứng rõ ràng nhất
diễn tả đức tin. Chúng ta hãy cố gắng sống thế nào để người khác nhận biết chúng
ta là người có đức tin, là người con cái Chúa.
15.
Vì Chúa
Bài
đọc từ sách Công vụ Tông đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ
phía những nhà lãnh đạo Do thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ
đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một
thời gian trước đây đã từng chối Đức Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã
giữ vững được lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông
đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các tông đồ đồng môn của ông
đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu
mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm là nhờ ở
Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các tông đồ đồng môn của ông. Thật may mắn
là kể từ thời các tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt
qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh
khó khăn nhất.
Tháng
3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động
khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà
nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị
đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt.
Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những
tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẫu giấy,
rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà.
Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.
Lòng
tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói
“Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần
gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ
chúng tôi”. Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là
mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ
tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với
nhau, và làm cho họ cảm thấy có trách nhiệm đối với nhau. Với tốc độ tiến triển
và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng
rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học
rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.
Irina
và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một
trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả
chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba
người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống
trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người
trong số họ đã trở thành nữ tu. “Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn,
không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm
đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có
thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”. Những người giống như Irina
và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng
yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi
bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu,
khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người.
Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy
Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa
theo cách đó được. Chúng ta là những người môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc
vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ
có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các tông đồ,
hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có
thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ – thói vô cùng
lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta. Chúng ta không thể nói trước
được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi
chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp
sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần
đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi
đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi
bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.
16. Tiếng gọi
Ngày
xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết
rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh
nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi
cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại
được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn
ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói
vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất.
Tuy
nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu
chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa
lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh
viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của
anh.
Đi
xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung
quanh một ngọn lửa cháy rực sáng. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời
anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu
hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh
đã ghé qua”.
Khi
đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua
đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng
con đã không đáp ứng được yêu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói.
Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận thông điệp này. Anh thức dậy và không thể
ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một
người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc
của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của
những người bị lạnh lẽo.
Nhưng
rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong
công việc của anh sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt
lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết
đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu
quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với
ơn gọi của mình.
Nhưng
vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối
của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư là
phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một
cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên
trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người
đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.
Có
hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu
tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu. Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau
khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi
đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối
với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về
công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được
chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn
ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “xin
vâng”của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.
Câu
chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi.
Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn
gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe một lần, và đáp lại
một lần mà thôi, nhưng phải lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần
của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là
một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta
đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc
đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.
Tất
cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu – yêu mến Chúa và yêu mến chiên
mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng
ta trong cộng đoàn).
17. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
CHÚA PHỤC SINH ĐỂ Ý ĐẾN CÁC
TÔNG ĐỒ
Đức
Giêsu Phục Sinh vẫn luôn luôn ở với con người, nhưng có thể họ không nhận ra
Ngài. Đức Giêsu Phục Sinh luôn quan tâm săn sóc con người, như xưa Ngài quan
tâm săn sóc các tông đồ. Ngài không bao giờ bỏ con người, Ngài sẽ ở với con người
cho đến ngày tận thế.
Hành vi không bình thường
Các
tông đồ trở lại Galilê và ít nhất có bảy người tham dự đêm đánh cá với Simon
Phêrô. Sau một đêm mệt nhọc mà không được gì, Đức Giêsu đã chờ họ sẵn ở bờ hồ.
Ngài gợi chuyện, hỏi thăm, và tìm cách giúp đỡ: “thả lưới bên mạn thuyền thì có
đó”.
Mẻ
cá lạ giúp Gioan nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh: “Thầy đó”. Chúa vẫn hiện diện đó,
nhưng người ta không nhận ra Ngài. Vẫn cần một dấu lạ, ngay cả đối với các tông
đồ, để con người có thể nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh; và cũng phải nói, không phải
ai cũng nhận ra.
Thái
độ của Phêrô rất là tức cười. Đang ở trần, nghe Gioan nói đó là Thầy, ông liền
mặc đồ vào, rồi nhẩy xuống biển bơi vào bờ để gặp Chúa, bỏ các bạn ở lại với lưới
cá dù rằng chính ông là người đề nghị các bạn đi đánh cá!Tại sao vậy? Vào bờ,
ông nói gì với Chúa, hay ông chỉ làm vậy vì muốn gần Thầy mà thôi?
Cách hành xử của Đức Giêsu
Đức
Giêsu đã dọn sẵn bánh và cá cho các tông đồ bên bờ hồ. Đức Giêsu dọn ăn cho các
tông đồ. Đức Giêsu vẫn làm công việc của một người đầy tớ, Ngài vẫn luôn là người
phục vụ những người Ngài yêu thương. “Hãy mang cá các anh vừa bắt được lại
đây”. Một khi có bếp và lửa, có bánh và cá, tại sao Ngài không dọn cho đủ? Thiên
Chúa vẫn muốn có sự đóng góp của con người, ngay cả trong chuyện nhỏ nhất.
Tại
sao lại là con số 153 con cá? Có người nói rằng, vì đó là tất cả các loại cá mà
con người ngày đó tìm được. Con thuyền Giáo Hội, tung một mẻ lưới với sự trợ
giúp của Đức Giêsu Phục Sinh, bao gồm tất cả mọi dân tộc trên hoàn vũ này.
Không
một ai trong các ông dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều biết đó là Chúa. Dường
như Ngài vẫn có một cái gì đó khác trước, vì nếu không thì tại sao lại “không
ai dám hỏi Ngài là ai”. Tuy vậy, không ai dám hỏi “Ngài là ai”, vì tất cả đều
biết đó là Thầy.
Số phận và thái độ cần có của
con người
Sau
bữa ăn, Đức Giêsu hỏi Phêrô: “anh có yêu Thầy hơn những người này không?”Nếu chỉ
là câu hỏi: “anh có yêu Thầy hơn yêu những người này không”, chắc là Phêrô không
cảm thấy khó khăn để trả lời. Có lẽ câu hỏi là: “Phêrô, anh có yêu Thầy hơn những
người này yêu Thầy không?”Phêrô, trước đó khi ở bữa tiệc ly đã quả quyết: “dù tất
cả mọi người bỏ Thầy, con thà chết chứ không bỏ thầy”, và hậu quả là Phêrô đã
chối Thầy ba lần. Bây giờ, Phêrô khiêm tốn hơn: “Vâng, Thầy biết rằng con yêu
Thầy”. Ba lần hỏi, bù vào ba lần chối. Phêrô không còn dám tin vào mình nữa: “Lạy
Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết rằng con yêu Chúa”. Dường như Phêrô muốn nói:
Với bao lần phản bội, Chúa biết con sẽ như thế nào trong tương lai, nhưng lúc
này, Chúa biết rõ rằng con yêu Chúa. Khiêm tốn là thái độ rất quan trọng của
người lãnh đạo, chăn dắt đàn chiên của Chúa.
“Khi
con còn trẻ, con muốn đi đâu tuỳ ý, nhưng khi con về già, con sẽ giang tay và
người ta sẽ dẫn con tới nơi con không muốn”. Phêrô được ơn biết tương lai mình.
Còn những người khác? Tương lai của chúng ta ở trong tay Chúa, chúng ta không
dám tin vào sức mình, nhưng có một điều rất chắc chắn: Thiên Chúa yêu thương
chúng ta vô cùng, và Ngài sẽ làm điều tốt nhất cho chúng ta. Thiên Chúa của
chúng ta, là Thiên Chúa quyền năng trong tình yêu.
“Phải
vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta”. Phêrô đã trả lời những người lãnh đạo
dân Do Thái như vậy. Đây là một tiêu chuẩn mà mỗi người tin vào Thiên Chúa đều
phải áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, dù điều này có gây hại cho mình. Thái độ
tương tự như vậy, đã dẫn Phêrô và những người “làm chứng”đến cái chết.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Xin bạn trình bày lý do tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh!
2.
Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng hôm nay? Tại sao?
3.
Tại sao “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời con người”?
18. Niềm vui Phục Sinh – Lm. Bùi Quang Tuấn
Theo
một số các nhà chú giải, chương cuối cùng trong Tin Mừng thứ tư là phần bổ túc
từ một bàn tay khéo léo nào đó trong các môn đệ của Thánh Gioan. Bởi vì không
lý nào với những lời từ biệt kết thúc ở chương 20 -- "Các điều đã viết đây,
là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin
thì anh em được có sự sống nhờ danh Ngài”(Ga 20:31) -- rồi sau đó vị thánh sử lại
từ biệt thêm một lần nữa-- "Còn lắm điều khác, Đức Giêsu đã làm, nếu viết
lại từng điều thì thiết tưởng thế gian không đủ chỗ mà chứa sách viết ra (Ga
21:25).
Tác
giả của chương cuối này trình thuật câu chuyện các môn đệ Đức Giêsu đang lâm cảnh
"rắn mất đầu.”Còn chừng bảy người đang ở với nhau. Sau hôm Thầy chết, họ
trở nên buồn phiền, chán nản. Bao nhiêu kỳ vọng đã tan thành mây khói. Nhớ lại
quá khứ: bỏ hết tất cả rồi! Nhìn vào tương lai: băn khoăn chẳng có chi. Rồi đây
biết tựa vào ai? Đi đâu? Làm gì? Bao câu hỏi chờn vờn tâm trí các ông.
Nhiều
người đã rời Giêrusalem trở về quê cũ. Lòng kẻ ở lại trĩu nặng ê chề. Chẳng ai
buồn nói chuyện. Trong bầu khí tang tóc u trầm đó, một quyết định vang lên:
"Tôi đi đánh cá.”Phêrô đã thốt lên câu nói đó.
Thế
rồi ông được anh em phụ hoạ: "Chúng tôi cùng đi với ông.”Tất cả cùng lên
thuyền ra khơi. Đêm đen mịt mù như lòng của họ. Gió lạnh, sương rơi, sóng trào,
cả bên ngoài lẫn bên trong tâm hồn. Nhưng đâu còn gì hơn nữa ngoài việc cật lực
tung lưới kiếm cho được ít cá để sống qua ngày.
Thế
nhưng, dù vất vả đánh vật với sóng gió của biển khơi, "đêm ấy họ vẫn không
bắt được gì”(Ga21:3). Hoá ra, dù có trong tay phương tiện đánh cá, dù đã hăng
hái nhất trí cùng nhau, và dù hao công tổn sức cách mấy, nhưng nếu không có Đức
Kitô Phục sinh, chắc hẳn kết quả chỉ là một nỗi thất bại ê chề. Song, một khi
có Chúa hiện đến, thăm hỏi, hướng dẫn, lúc đó người ta mới thu được kết quả phi
thường.
Phải
chăng không ít hội đoàn hay tổ chức cũng từng có cùng kinh nghiệm như các người
môn đệ: cũng hăng hái, đồng tâm, cũng đầy đủ phương tiện tiến bước, nhưng sao
"ra khơi”nhiều lần mà kết quả thu được chẳng là bao. Có phải vì vẫn còn
thiếu vắng sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh? Hay vì người ta, như các tông đồ
theo Đức Kitô trước Phục sinh, còn tranh chấp ghế ngồi "bên hữu bên tả",
và còn trốn chạy cả khi đối mặt với một cô... "đầy tớ"?
Kết
quả của lần kéo lưới thứ hai, sau lời hướng dẫn của người-lạ trên bờ hồ, là một
mẻ cá đầy ắp. Diễn tiến tiếp theo là việc các môn đệ nhận ra người-lạ đó:
"Không ai trong các ông dám hỏi: Ngài là ai, bởi mọi người đều biết là Chúa”(Ga
21:12).
Cuộc
tao ngộ Thầy trò bên biển hồ Tibêria được đúc kết bằng việc Đức Giêsu trao ban
năng quyền dẫn dắt Giáo hội cho Phêrô. Khởi đầu mỗi lần trao năng quyền là một
câu vấn đáp về lòng mến yêu: "Simon, con của Gioan, ngươi có yêu mến Ta
không?"
Căn
cứ vào mạch văn thì hẳn đây là lần đầu tiên Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ,
những người đã không yên ủi Chúa được một lời lúc Ngài chịu đau khổ đến rướm
máu trong vườn Cây Dầu. Họ cũng đã bỏ Chúa chạy lấy thân khi gặp quân lính hung
ác. Thậm chí còn chối Ngài lúc gặp thử thách gian nan. Thế nhưng, đứng trước những
con người lỡ lầm và đầy thiếu xót đó, Đức Giêsu không hề nhắc lại quá khứ nhát
hèn của họ. Ngài chẳng hỏi: "Các ngươi trốn nơi đâu?”cũng không hề trách:
"Này anh Phêrô, Tôma, Giacôbê, các anh có cảm thấy xấu hổ khi bỏ Thầy và
chối Thầy không?"
Trong
câu hỏi của Đức Giêsu không thấy nhắc gì đến quá khứ, cũng chẳng có giận hờn
trách móc hoặc ngăm đe, nhưng chỉ là hiền từ, yêu thương và trao phó. Điều kỳ lạ
là khi ký thác đàn chiên cho Phêrô, Đức Giêsu lại muốn vị đại diện phải có lòng
yêu mến Ngài, thậm chí còn phải yêu Ngài hơn những người khác (Ga 21:15). Thế
ra không yêu mến Chúa sẽ chẳng ai có thể làm trọn trách vụ chăn chiên. Không thương
Chúa hơn tất cả, người ta sẽ chẳng bao giờ trở nên người chăn chiên đích thực.
Có chăng chỉ là hạng chăn thuê, thấy sói đến là để đàn chiên tan tác.
Chúa
gặp lại các môn đệ trong bầu khí yêu thương quảng đại. Không hề có chuyện nhắc
đến lỗi lầm của họ. Quá khứ đầy thiếu sót phải nhường cho hiện tại giàu thương
yêu. Nhắc nhở lỗi lầm ngày xưa chỉ tạo nên rạn nứt phân ly hôm nay. Tha thứ và
khoả lấp bằng lòng khoan dung nhân ái sẽ tăng sức mạnh dâng hiến trao ban tràn
đầy. Đây chính là bài học quí báu cho mọi cộng đoàn và gia đình.
Trong
yêu thương có thứ tha. Khi tha thứ người ta chấp nhận bỏ mình, ngang qua sự chết.
Với hành trình như thế yêu thương sẽ đạt đến cao điểm của phục sinh. Bước theo
Đức Kitô Phục sinh là cùng chung hành trình với Ngài. Trong đó có hy sinh, vị
tha. Trong đó có thái độ chấp nhận các thói hư tật xấu và những điểm dị biệt của
tha nhân với một thiện ý và một lòng mến thương thật sự. Và nhất là trong đó có
niềm vui phục sinh sau lúc đã ngang qua sự chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét