CỘNG ĐOÀN MƯỜNG XO CHƯA BAO GIỜ CÓ LỄ |
THÀNH PHỐ LAI CHÂU |
Thêm chú thích |
CỘNG ĐOÀN MƯỜNG TÈ CHƯA BAO GIỜ CÓ THÁNH LỄ |
CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG
MỤC LỤC
1.
Chết
2.
Sa mạc
3.
Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas Asia
4.
Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa
5.
Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát
6.
Con đường nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7.
Dọn đường cho Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
8.
Có Lời Thiên Chúa phán
9.
Hãy dọn đường cho Chúa – Lm. Nguyễn Cao Siêu
10.
Tuân giữ luật Chúa từ trong lòng – Achille Degeest
11.
Suy niệm của McCarthy
12.
Sám hối canh tân
13.
Suy niệm của André Sève
14.
Dọn đường cho Chúa đến
15.
Hãy dọn đường cho Chúa
16.
Tiếng kêu trong sa mạc
17.
Sứ giả của Chúa Kitô
18.
Sám hối và cải thiện đời sống – JKN
19.
Chuẩn bị đón mừng Chúa đến
20.
Hãy dọn đường
21.
Chú giải mục vụ của R. Gutzwiller
22.
Chú giải của Noel Quesson
23.
Chú giải của Fiches Dominicales
1.
Chết.
Chúng ta
đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc
đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố
lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi
lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày
cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất
này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào?
Chúng ta
nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông
Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng
Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi
lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc
cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.
Chúng ta
hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này Chúa đến với tôi, thì
liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời với Ngài hay không?
Có một
cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã
hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và bị kết án tử hình.
Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư như thế này:
"Thưa
bố quý yêu!
Thật là
khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho bố, để báo tin rằng con
đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo
léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con. Và
chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là
một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm thấy rõ ràng mình đang ở
gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón chờ cái chết. Con nghĩ
rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng mình đã xưng thú hết mọi
tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.
Con của
bố".
Ước chi
vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta cũng nói lên được như vậy.
Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị những hành trang cần
thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho đến lúc này, chúng ta
đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mạng ấy.
2.
Sa mạc.
Thomas
Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh giáo, nhưng khi còn
trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại, chàng đã vào dòng khổ
tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng như sau:
Hôm đó
tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý
của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng,
không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại sao một thiếu nữ
trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách
hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?
Dĩ nhiên
cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện
và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình của cô gái với Thiên Chúa
trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ
gặp Chúa và theo đạo sau này.
Ngôi
thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy, phải chăng là hình
ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa
giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động này.
Thực vậy,
theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu thử thách, vừa là nơi con
người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa mạc thì khô cằn sỏi đá.
Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.
Đó chính
là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và sự hiện diện của
Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng.
Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng của thân phận, cái vô
nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải chỉ là cát bụi.
Nhận thức
này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng và ngạo mạn, đồng thời mở rộng
tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.
Đường vào
sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến điểm hẹn, gặp gỡ với Thiên
Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài.
Trong
cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa là càng sống thinh lặng và
cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với Thiên Chúa một cách mật
thiết và gắn bó hơn.
Dân Do
Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm trời. Trong thời gian
này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã được chứng kiến biết bao
việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.
Chúa
Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã vào sa mạc suốt bốn mươi
đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này, Ngài đã ăn chay, cầu
nguyện và chịu cám dỗ.
Còn chúng
ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống, chúng ta có biết vào sa mạc, có
biết dành lấy những giây phút thinh lặng để thực sự cầu nguyện, gặp gỡ và kết
hiệp mật thiết với Chúa hay không?
3.
Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas Asia.
(Trích
trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Thomas
Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên
60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi
ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong
chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì
tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ
cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào
Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:
"Khi
bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông
thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô
cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi
bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy
tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự
nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào
nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để
cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh
trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ
đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm
đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau
này".
Ngôi
thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể
gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này. Qua
các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu mời chúng ta hãy biết tạo
ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9
sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn cứu độ theo truyền thống
Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri Giêrêmia, nhưng thật ra
sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp nhặt đó đây và được soạn
chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch. Tiên tri Barúc
muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều
có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải sống trong cay đắng, tủi
nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng
ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi, và các kỳ
công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ phẩm giá của con người khi giới
thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của toàn dân Chúa. Trong chiếc áo
mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo tang của sầu buồn mà tiên tri
Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ
phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự sống khổ nhục họ phải chịu
trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương diễn tả thời gian và khung
cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho
chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Đức
Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của
thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả tơi, hôi thúi của tội lỗi
từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa, vì đã
đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi
loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới,
chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm
giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân Chúa, cũng mang một tên gọi
mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên
cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó thuộc quyền sở
hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở yêu thương
và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên cho là Hòa Bình, Công
Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của Thiên Chúa từ nay, sẽ
làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân từ, thương xót và
vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng linh của Ngài. Vương
quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ, trên trần gian này,
với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong tên gọi mới này cũng tiềm
ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn
cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài người luôn bị sự dữ cám dỗ
và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên
Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài,
mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ
ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào
Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa
xanh tươi.
Trong
chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến cố ấy trong khung
cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt
động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời
hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14.
Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine hồi ấy cũng gồm 3
châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai
thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau Tây
lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây lịch).
Tuy
nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là các biến cố lịch sử
chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng
định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi
nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần
gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để
cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả
trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con
người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối
sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã
hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc
nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một điểm thần học nổi bật
khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên
Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc
sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện diện của Thiên Chúa.
Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Những tình
trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô nghĩa của đời
mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến
cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ trương coi mình là
thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con
người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa.
Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên
Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết
năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông
Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường thuật Phúc Âm thánh
Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng nhân của các biến
cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước thanh tẩy của cuộc
sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh
nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh Luca là hình ảnh thánh
Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người đã nhận được Lời Chúa
trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của Thiên Chúa là động
lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con người và các
chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn
cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu
độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong
chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con
đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Đó là luôn
kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả
năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được
như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và hiện thực nơi con
người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.
4.
Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
(Trích
trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Với Chúa
nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi
chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu
chuộc con người.
Nơi bài
đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho dân chúng Israel đang tản
mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất thủ, ông với một số người
cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng
mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông phác họa cho dân lưu đày thời
gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại huy hoàng của Giêrusalem đang
gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy
áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay
để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở về. Đó là hình ảnh của
Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua hiển trị các dân. Các
nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội lỗi và sự dữ phân tán
tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho sự gặp gỡ giữa Thiên
Chúa và con người được nhanh chóng: "Hãy san bằng những núi cao và những
đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm. Uốn cho ngay những con
đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi và cao rao vinh quang
của Thiên Chúa".
Qua hình
ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải tâm hồn bằng cách hồi tâm,
suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để xem con đường của mình có
ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo, xuống hố, mà nhất là có phải
là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và mờ ám?
Nơi bài
đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô mở ra con đường
lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh nhân tin tưởng rằng
Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên Chúa đã bắt đầu,
Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống của những kẻ tin
nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng tin tưởng. Nhưng
điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi người biết
thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự. Việc yêu
thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực hiện khi
tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến hạnh phúc
của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang sống.
Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh Phaolô
muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một người bị ức hiếp một
cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu kẻ ghét
mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm điều gian
ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa đã dạy:
"Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn cho chúng
con", nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để phân biệt
con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì phải yêu
thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong tình anh em
con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc tác hại cho
người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau thật sự.
Dầu vậy,
thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào cũng hãy sống không có gì
đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân đưa ra bằng chứng đời sống
của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư này. Nhưng rất tiếc, không
hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ, người ta lại bỏ câu 7. Từ câu
6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh Phaolô nói: "Tôi cầu xin anh
em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi khi tôi bị
xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần
vào ơn sủng tôi đã nhận được". Nói thế, tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh
Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn, sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài
Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những
nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu
rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó
chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này, đừng
chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt đầu từ thời xa xưa trong
Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng của Gioan Tẩy Giả để cho
thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời
tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy trong bài đọc thứ nhất:
"Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp
mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng,
con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa".
Trong
khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ
Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác trong năm. Nhưng phải làm
sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia đình, trong cộng đoàn của
mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và sống được như thế tức là
chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có
việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong những công việc mệt
nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần Chúa hơn? Để được
thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa với cá nhân tôi
cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và nếu được, cũng hãy
chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự khai thông bế tắc
giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.
5.
Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát.
(Trích
trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng
hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau. Trên một cái
phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng
đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua
bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn
thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo
tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một
cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là
Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc
nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ
nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.
Sa mạc
vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa
và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để
được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang
thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất
Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống
lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và
mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa
mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là
đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng
và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe
được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội
luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân
Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại
càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng
mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những
phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin
được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong
sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học
khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà
còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn
đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi
núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho
bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn,
thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của
một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ
mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài
không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài
chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo
vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do tại sao trong dịp tấn
phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y.
"Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người
hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá
trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại
và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng
sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công.
Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải
mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm
manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp
và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong
giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền
đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không
bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận
thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó
và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa
mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng
của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt
mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho
bằng".
Khi cuộc
sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên
những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi
người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.
6.
Con đường nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin
Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời
đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới
thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ
Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em ông cai trị miền Nam. Từ Anna
đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên
tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do
Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ
Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường
phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Baotixita hôm nay khi kêu
gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới
gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh Gioan Tiền Hô, đường nội tâm có
những đặc điểm sau:
Đường nội
tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà
Chúa chẳng ngỏ lời với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với
Thánh Gioan Baotixita. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ
đô đất nuớc nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ
lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao
cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục
vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan Baotixita
nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa.
Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ao thế
tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương
trình cứu độ của Chúa.
Đường nội
tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ
những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất
tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự
đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang trọng. Tự mãn yến tiệc linh đình.
Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm
nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm
tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong
trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng
mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa
tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội
tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu
với chính mình. Cuộc chiến đấu được Thánh Gioan Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia
diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường
vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có
những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi
một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn
lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một
cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống
ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời
Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội
lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút
thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên
giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở
đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. khi
nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy
Chúa.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1. Đường
nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào
cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh
Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con
đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao?
7.
Dọn đường cho Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong
những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị nước ngập; nhiều
đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi lại được... Dân
làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử dụng được nữa.
Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên
đành chịu bó tay.
Những con
đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường
đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa
người với người.
Đường sá
hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với
người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con
người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
* * * * *
Bạn thân
mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng "con đường thiêng liêng" còn cần
hơn...Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất
là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận
được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Con đường
thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo, luôn muốn nâng mình
lên, luôn khoe khoang, không chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn
núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu
tha thứ.
Con đường
thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả,
muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây
ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố
sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh lợi, thú vui dục vọng
Con đường
thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không
thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính
mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả
hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Con đường
thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc
ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì sự lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến
bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây
dựng.
Tất cả
những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy
ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng ta được mời gọi hãy sửa
chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt đẹp hơn để đón Chúa đến
Hãy bạt
đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đầy những hố
sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những
quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề độc ác; những
câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.
* * * * *
Lạy Chúa,
Đổi mới
một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn thẳng những khúc quanh thì
thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ hơn... Nhưng đổi mới tâm hồn,
dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì không dễ chút nào. Để chuẩn bị
cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp sức cho con trên con đường
phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết "bắt đầu lại" công việc dọn
dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn con. Amen.
8.
Có Lời Thiên Chúa phán.
(Trích
trong 'Manna' – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mỗi lần
mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan. Một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.
Hoang địa
là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn
lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc
ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm
tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa
ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người. Lời
Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng
Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là
vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong
dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và
Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu
vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử
ấy.
Lịch sử
dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan
biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình
trước lịch sử.
Gioan mời
dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi
đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu
gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi
dây giày.
Đường
quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao
lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu
vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có
những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho
đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối
là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành
đại lộ. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn.
Vấn đề
không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong
tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã
là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta
phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn
sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ
ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ
đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay
thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh
Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc
của nhân loại.
Gợi Ý Chia
Sẻ
Ngôn sứ
là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám nói một điều do lương tâm
đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi, nguy hiểm không?
Đường sá
là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển. Bạn đã làm gì trong mùa Vọng
này để dọn đường cho Chúa đến?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu,
Sám hối
không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình
lầm lỗi.
Chúng con
ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ
Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã
muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con; xin cho
chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo
để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì
Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp
nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin
đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh phúc vì được tự do và
được yêu mến.
9.
Hãy dọn đường cho Chúa – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
(Trích
trong 'Manna')
Suy Niệm
Đôi khi
trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình. Chúng ta tự hỏi mình là
ai. Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết.
Gioan Tẩy
Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều người nghĩ rằng ông là đấng
Mêsia, là Êlia... Còn ông, ông biết rõ ông là ai. Gioan không đánh lừa mình hay
đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc.
Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).
Cả cuộc
đời Gioan là một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy đã vang lên từ khi ông được thụ thai,
một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống tuổi. Tiếng kêu ấy rõ dần qua
cuộc sống đặc biệt của ông: nơi hoang địa, mặc áo lông thú, ăn châu chấu và mật
ong rừng. Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven sông Giođan.
Một tiếng
kêu khẩn thiết: hãy sám hối. Một tiếng kêu cấp bách: hãy dọn đường cho Chúa
đến. Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến cái chết: "Vua không
được phép lấy bà ấy làm vợ" (Mt 14,4).
Gioan hấp
dẫn vì ông sống điều ông giảng: ông sống khổ hạnh và mời gọi người ta sám hối.
Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm mình. Ông sống vai trò của người
mở đường, người giới thiệu cho Đấng đến sau ông nhưng lại quyền thế hơn ông.
Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được nổi bật. Chính vì thế mà ông trở
nên cao trọng.
Con người
chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa.
Mỗi lần
mùa Vọng trở về, chúng ta có dịp gặp lại Gioan, người dọn đường.
Chúa
Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới biết tiếng kêu thức tỉnh nhân
loại, biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã đến.
Dọn đường
là lội ngược dòng, là chấp nhận bị khai trừ, bị từ chối.
Gioan đã
dọn đường bằng cả cuộc đời để cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và nhân loại thành
tựu.
Hội Thánh
vẫn cần những người dám sống điều mình nói, và dám nói điều mình sống.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Giáo Hội
mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo của vật chất, hưởng thụ. Có
khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống theo ý Chúa?
Trong
cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn hơn cả?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa,
Khi đến
với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con; con cởi bỏ đồng hồ:
thời khóa biểu của con; con đóng lại bút viết: các quan điểm của con; con bỏ
xuống chìa khóa: sự an toàn của con; để con được ở một mình với Ngài, lạy Thiên
Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi
được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa, con sẽ đeo đồng
hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của
Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa, con sẽ cầm chìa khóa
lên để mở những cánh cửa của Chúa.
10.
Tuân giữ luật Chúa từ trong lòng – Achille Degeest.
(Trích
trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Sứ vụ
thánh Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị việc Đấng Cứu Thế đến. Ông rời bỏ hoang địa sau
thời gian tĩnh tâm lâu ngày. Để trả lời cho những kẻ nghĩ rằng cứ giữ đúng những
nghi thức Lề Luật là được Thiên Chúa thương yêu, ông giảng về sự cần thiết phải
hồi tâm và thay đổi nếp sống. Thật ra, ông chỉ tiếp nối lời giảng dạy của các
ngôn sứ. Ông là người cuối cùng, đến trước Đức Kitô, trong chuỗi dài những ngôn
sứ không ngớt nhắc nhở Israel về sự cần thiết chuẩn bị nghênh đón Chúa. Công
việc chuẩn bị này là nhiệm vụ toàn dân cũng như của mỗi người. Sửa soạn đón Đức
Giêsu là không được quên lãng việc thờ phượng Thiên Chúa, là xua đuổi ngẫu
tượng, là uốn thẳng những đường ngõ bị bất công và ích kỷ làm cho cong queo
khúc khuỷu.
Chúng ta
có thể từ đoạn Phúc Âm trên đây rút ra hai câu quan trọng:
1) Thiên
Chúa phán với Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
Nói
chung, người ta nhận thấy trong Kinh Thánh điều này: Thiên Chúa chuẩn bị những
sứ giả của Người bằng một thời gian tĩnh tâm vắng vẻ lâu dài. Trong thế giới
hiện tại, lối chuẩn bị như thế vẫn có giá trị đối với bất cứ Kitô hữu nào.
Không phải tất cả các tín đồ đều phải dành nhiều ngày giờ để sống trong cô
tịch. Nhưng chính trong chừng mực mà, theo ơn gọi, Kitô hữu nào đảm nhận một
trách vụ trong Giáo Hội, thì phải sắp đặt thời giờ cần thiết để cầu nguyện mặt
đối mặt với Chúa.
2) Gioan
Tẩy Giả rao giảng một sự thanh tẩy bằng sám hối, trở lại để lĩnh ơn tha thứ.
Biệt phái
và Sa đốc là giới thính giả được thánh Gioan chú trọng đặc biệt. Họ dễ tin rằng
hễ tuân giữ đúng Lề Luật là giữ đạo cách đầy đủ. Nhưng ông nói với họ: Điều chủ
yếu là phải đổi mới tâm hồn. Ít lâu sau, Đức Giêsu sẽ phán dạy rằng những điều
làm cho người ta ô uế, chúng xuất phát từ trái tim: Đó là thù hận, tà dâm, ghen
ghét, bất công, là chủ trương duy vật thực tế của thế gian. Để chuẩn bị nghênh
đón Đức Giêsu, thánh Gioan Tẩy Giả loan báo sự cần thiết phải thanh luyện tâm
hồn. Chúng ta có thể ghi lấy điều sau đây: Tuân giữ giới răn Chúa mới chỉ là bề
ngoài; còn phải kèm theo một nội tâm thật sự xua đuổi sự tội. Tâm tình ấy chính
là thái độ thành thật đối với Thiên Chúa.
11.
Suy niệm của McCarthy.
Suy Niệm
1. CHUẨN BỊ CON ĐƯỜNG CHO CHÚA
Có một
nhà giảng thuyết nổi tiếng, cứ hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác, đều đến
giảng tại một cộng đoàn rộng lớn. Họ rất chăm chú lắng nghe. Vào một Chúa nhật,
khi ông đang đi đến bục giảng, thì những lời trong Tin Mừng vang bên tai ông:
"Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi". Một
ý tưởng bất chợt đến với ông: "Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa
đường cho Người, nhưng chính chúng ta mới cần".
Từ trên
bục giảng, ông nhìn vào các gương mặt đang chờ đợi của giáo dân, và tự hỏi
không biết những lời đó có ý nghĩa gì đối với họ. Những điều cần phải chấn
chỉnh trong cuộc sống của họ là gì? Ông nhận ra rằng chỉ bản thân họ mới có thể
trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, có một lãnh vực mà ông cảm thấy đáng nói đến:
các mối quan hệ thường xuyên bị bóp méo và rối loạn của họ.
Ông đã
quen biết những người này cả một thời gian dài. Họ đã từng đến với ông, để được
giúp đỡ và hướng dẫn qua những vấn đề của họ. Ông biết những đố kỵ nhỏ nhặt làm
cho tâm hộn họ bực bội, những hận thù khiến cho người này chống lại người kia,
những cuộc cãi vã vặt vãnh vẫn còn tồn tại, những ghen tỵ và hiểu lầm, sự tự
hào xuẩn ngốc.
Ông quyết
định gởi một thông điệp cho những con người cố chấp, đầy cay đắng, không chịu
tha thứ và bỏ qua đó. Ông sẽ ghi khắc nơi họ ý tưởng rằng cuộc đời vốn dĩ quá
ngắn ngủi rồi, không ai nên gây hận thù và bất mãn cho nhau nữa. Ông sẽ van nài
họ nên cư xử trong sự hiểu biết và khoan dung đối với nhau. Ông sẽ nói với họ
từ tận tâm hồn của ông, như thể ông đang nói riêng với từng người vậy. Thế là
ông bắt đầu:
Anh chị
em thân mến, tôi xin được nhắc lại những lời trong Tin Mừng: "Hãy dọn sẵn
con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi". Thiên Chúa không cần
chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta cần.
Chúng ta
cứ để mặc cho những chuyện hiểu lầm diễn ra từ năm này sang năm khác, với ý
nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ khai thông chúng. Chúng ta cứ để cho những cuộc
cãi vã tiếp tục tồn tại, bởi vì chúng ta không thể sắp xếp tư tưởng, để dẹp bỏ
và chấm dứt lòng tự hào của chúng ta.
Chúng ta
đi ngang qua những người khác với vẻ mặt sưng sỉa, không hề nói với họ một lời
nào, mà không có một vài thái độ đố kỵ vớ vẩn, mặc dù chúng ta biết rằng mình
sẽ hối hận và xấu hổ nếu nghe tin rằng ngày mai một trong những người đó sẽ qua
đời.
Chúng ta
cứ để mặc cho người đồng loại của mình bị đói khát, cho đến khi chúng ta nghe
tin rằng người đó đang chết đói, hoặc chúng ta làm cho người bạn của mình bị
đau lòng, vì một lời đánh giá mà một ngày nào đó chúng ta đã nói với họ.
Nếu chúng
ta nhận ra rằng "thì giờ ngắn ngủi", thì câu nói này sẽ gây ảnh hưởng
mạnh đến thế nào. Làm sao để chúng ta có thể ra đi ngay tức khắc, và làm được
những điều, mà có thể không bao giờ chúng ta có cơ hội khác để thực hiện.
"Tôi
xin nhắc lại: Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người nhưng chính
chúng ta cần. Vì thế, nếu chúng ta có thái độ quanh co, hoặc lối sống không
ngay thẳng, hoặc mối quan hệ không chân thật nào đó cần được chấn chỉnh lại,
thì chúng ta hãy sửa đổi ngay. Sau đó, chúng ta sẽ thực sự chuẩn bị đường cho
Chúa đến với chúng ta".
Ông kết
thúc bài giảng của mình ở đó. Nhưng lời nói của ông thật đáng suy gẫm. Đối với
những người đang đi trên một con đường quanh co, thì quả thật mọi sự đều khó
khăn. Nhưng mọi sự đều trở nên dễ dàng, đối với những người đi trên đường ngay
nẻo chính –đường lối của sự thật, lương thiện và tốt đẹp. Nhưng để đi trên một
con đường ngay thẳng, người ta cần có sức mạnh, sự khôn ngoan và chân thật.
Thiên
Chúa không hề từ bỏ con người, khi chúng ta bị lạc khỏi đường lối ngay thật.
Người vẫn mời gọi chúng ta rời bỏ con đường quanh co, để đến với đường ngay nẻo
chính. Mùa Vọng là một thời gian tuyệt vời, để chúng ta biết nhắm bản thân đến
đường hướng ngay thẳng, và tự mình cam kết đi trên đường lối đúng đắn. Chúng ta
phải cầu xin Chúa cất đi sự mù lòa khỏi cặp mắt chúng ta, sự yếu đuối khỏi ý
chí chúng ta, và sự cứng cỏi trong tâm hồn chúng ta, để sao cho cuộc sống chúng
ta được tràn đầy ân sủng trong ngày Người đến.
Suy
Niệm 2. TỰ MỞ LÒNG RA CHO ƠN CỨU ĐỘ
Ơn cứu độ
là một trong những chủ đề lớn của Mùa Vọng. Hôm nay, một lời mời gọi lớn lao
xuất phát từ Phụng vụ "Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng
để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy. Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp;
khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết
mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Đây là
những lời tuyệt vời. Đây là lời tuyên bố về tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta. Nhưng ở đây, có thể phát sinh ra một vấn đề. Một số người cứ nghĩ
rằng để được Thiên Chúa yêu thương, thì họ phải hoàn hảo. Họ nói: "Thiên
Chúa không bao giờ muốn gặp tôi trong tình trạng tội lỗi và bất toàn của
tôi". Vì thế, họ nỗ lực trở nên con người hoàn hảo, nhằm đạt được tình yêu
của Thiên Chúa. Điều này đưa đến hậu quả là họ cứ cố gắng tự mình xoay sở lấy.
Thiên Chúa khó cứu độ những người như vậy.
Lần kia,
có một tu sĩ tên là Ambrose. Vốn là một chuyên gia về đời sống thiêng liêng, tu
sĩ Ambrose rất đòi hỏi trong cách nói chuyện và suy niệm. Ông còn là một người
rất thông minh, và chăm chỉ làm việc. Vì là một con người ưa sự triệt để hoàn
hảo, nên ông luôn luôn thích được sắp xếp và kiểm soát mọi sự. Ông làm cho mọi
người lóa mắt thán phục về năng lực và kiến thức của ông.
Nhưng khi
đang ở trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, thì ông bị một căn bệnh ở giai đoạn cuối
làm cho ông quỵ ngã. Dường như thể sứ mạng của ông đã kết thúc. Tuy nhiên, sự
việc lại không diễn ra như vậy. Trái lại, chính khi ông trở nên yếu đuối, và
hoàn toàn không kiểm soát được mọi sự, thì ông lại trở nên có hiệu quả nhất.
Điều này
diễn ra như thế nào? Ông quyết định sử dụng căn bệnh của mình để tiếp cận với
những người đau khổ khác. Và nhờ đó, ông đã quá thành công, đến nỗi chính căn
bệnh ở giai đoạn cuối của ông lại chuyển thành một giai đoạn hiệu quả nhất.
Trước khi qua đời, ông nói "Tôi đã đi theo một phương hướng, thì đột
nhiên, tôi lại bị bắt buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng trong quá trình
đó, tôi được học hỏi về bản thân mình, và về tấm lòng tốt của người khác, nhiều
hơn là tôi đã từng học hỏi được trong suốt những năm tháng trước đây của cuộc
đời tôi".
Và về mức
độ cá nhân, thì tu sĩ Ambrose đã trải qua một sự biến đổi tuyệt vời. Dường như
thể cái vỏ bọc bảo vệ nào đó đã nứt vỡ ra, và làm nổi bật lên một con người
thực sự có sức quyến rũ. Trước đây, ông là một người có vẻ cô độc trong cộng
đoàn. Bây giờ, ông đã tự đặt mình vào giữa cộng đoàn, cùng ăn uống với các tu
sĩ bạn, nhưng cũng đóng góp một cách rộng rãi vào tinh thần của cộng đoàn, nhờ
sự dịu hiền và an bình mà ông tỏa ra. Đây là công trình của ân sủng, và điều
này chứng tỏ sự thật trong vài câu ngắn sau đây:
Hãy rung
lên những hồi chuông nào vẫn còn có thể vang vọng được.
Hãy quên
đi sự hiến thân hoàn hảo của bạn.
Trong tất
cả mọi sự, đều có một vết nứt.
Đó là
cách để ánh sáng thâm nhập vào.
Những
hoàn cảnh làm cho chúng ta mở lòng mình ra, để đến với điều mà Thiên Chúa mong
muốn ban cho chúng ta quả thật lạ lùng. Khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ
trạng thái đầy đủ và mạnh mẽ của bản thân, thì chúng ta đặt Thiên Chúa sang một
bên. Nhưng khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ tình trạng yếu đuối và có nhu
cầu, là chúng ta mời gọi Người đi vào tâm hồn của mình. Thông qua sự bất toàn
của mình, mà tâm hồn của chúng ta được mở ra cho ân sủng của Thiên Chúa. Sự bất
toàn của chúng ta chính là những vết thương thu hút sự chú ý của Thiên Chúa,
khiến chúng ta xứng đáng được Người thương xót và chữa lành.
Trong
cuộc sống chúng ta, có một thái độ quanh co, hoặc cách cư xử không ngay thẳng
cần được chấn chỉnh lại, chúng ta hãy cố gắng làm điều đó. Nhưng chúng ta không
được suy nghĩ rằng Chúa sẽ không đến với chúng ta, trừ phi chúng ta vẹn toàn.
Nếu chúng ta đã hoàn hảo rồi, thì Thiên Chúa không đến với chúng ta nữa. Thiên
Chúa đến, bởi vì chúng ta là những tội nhân cần được cứu độ. Người đến, bởi vì
chúng ta là những đứa con bị thương tích, cần được chữa lành. Điều mà chúng ta
cần, đó là lòng khiêm tốn và sự chân thành, để tỏ cho Người thấy những tội lỗi
và vết thương của chúng ta.
Có những
người nói rằng chúng ta không nên bộc lộ sự yếu đuối, bởi vì điều này không tạo
ra được sự kính trọng, và do đó, tốt hơn là nên mang lấy gánh nặng của bản thân
mình trong sự bí mật. Nhưng chính sự am hiểu về nỗi đau khổ của cá nhân, lại
càng làm cho chúng ta có khả năng cống hiến kinh nghiệm bản thân mình, như một
nguồn suối để chữa lành cho người khác. Những ai không che đậy sự đấu tranh của
họ, nhưng biết sống bằng chính con người thật, nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa,
thì có thể mang lại niềm hy vọng cho người khác.
12.
Sám hối canh tân.
(Trích
trong "Như Thầy Đã Yêu" – Thiên Phúc)
Đời Chiến
Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra
mắt vua Sở.
Nói xong
câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay. Vua Sở bảo: "Quả nhân nghe tiếng
tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản
xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?"
Tô Tần
thưa: "Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế,
quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua
muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở
khẩn khoản nói: "Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá
rồi".
Một đất
nước mà vật giá đắt đỏ: "Gạo châu củi quế", vua quan xa cách dân
chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau
khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì
ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần
mùa vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta
và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy giả: "Có tiếng
kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người
đi" (Lc 3,4)
Nếu Tô
Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do
thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn
Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Anna và
Caipha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi
hiểm trở.
Gioan
nhắc lại lời tiên tri Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh
co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng" (Lc 3,5). Ông
kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường
vào cõi lòng.
Phải lấp
cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn
cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san
cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự kiêu.
Phải bạt
cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám
hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của
tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan
là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị
cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên
Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu.
Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Lạy Chúa,
thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi
lầm.
Xin ban
cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp
nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến, mang nguồn vui
ơn cứu độ. Amen.
13.
Suy niệm của André Sève.
THIÊN
CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI
Luca là
tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như
trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: "Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề
Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan
báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào" (Lc 16,16)
Luca muốn
xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta đi vào trong lịch sử một
cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: "Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu
chỉ ...". Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả
vén màn lịch sử: "Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê..." Đây là
tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một
lời loan báo phi thường: "Mọi người sẽ được ơn cứu độ". Đây là điều
ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: "Vì chính mắt con được
thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân
ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài". Chúng ta thường quá thu hẹp các
chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia. Và
chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là nỗi
ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn
cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do
thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim họ rung động khi nhìn
vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: "Có phải người này là Đấng Cứu
Thế hay không?".
Điều này
sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự phục sinh và hiện xuống
để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một cách khó khăn!) cho điều
không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu
chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy
giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: "Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến,
tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong
Thánh Thần và lửa".
Nhưng
cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các thế kỷ đầu tiên, kinh
nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên điều không thể được
trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Chúa Con đã làm
người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng
lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của việc cứu độ tất cả mọi
người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn việc tiếp nhận: Gioan
Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường. Hai hình ảnh giải toả
và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này một lần nữa: làm bung
ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà chúng ta đã làm cho
chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với Chúa: "Xin
hãy vào trong con" đòi buộc một sự hoạt động tích cực.
Tôi có đi
quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả "tất cả mọi người sẽ
xem thấy ơn cứu độ" đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng
không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không được làm cho
chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa người Tây Ban
Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: "Ông hãy tỏ ra có tấm lòng tốt, thì đó
đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp". Nói với Chúa trong mùa
vọng: "Hãy đến cứu độ tất cả chúng con" sẽ là một lời nguyện của kẻ
mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi
người trong chúng ta.
14.
Dọn đường cho Chúa đến.
(Suy niệm
của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có vô vàn
ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau.
Ngăn cách
vì tường cao luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm trở đã hoá thành xưa cũ, không
còn là vấn đề đối với phương tiện đi lại tân tiến hôm nay.
Ngăn cách
vì đường xa thiên vạn lý đã dần dần bị thu ngắn lại; hai người ở cách nhau nửa
quả địa cầu có thể gặp nhau sau một vài ngày lên máy bay.
Thậm chí
ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc cầu.
Bên cạnh
những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn cách về quan điểm, về ý
thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có
thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi những quan điểm và chủ
trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân
loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua. Vậy
mà hôm nay những chia cắt như thế xem ra đã được thu hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc,
chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng hận thù, do ghen tị, do
hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn tại lâu dài nhất
trong lịch sử loài người.
Những
ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách
không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không
nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một
mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Con người
đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố, bắc qua những dòng sông
rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây dựng những nhịp cầu
thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách?
Thánh
Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp cầu như thế.
Theo Tin
Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa
đến:
"Có
tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho
thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho
phẳng."
Phải dọn
đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người ta
thường rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi trời cao thẳm mà lãng quên
các chi thể của Ngài đang sống kề cận quanh mình. Chính những chi thể của Thiên
Chúa quanh ta mới cần ta dọn đường để đón tiếp.
Chúa
Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong các anh chị em
chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho
chính Ngài. (Mt 25, 40)
Vậy thì
dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn đường cho anh chị em chung
quanh có thể đến được với mình.
Các chủ
quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh
Giu-se và Mẹ Maria) là trực tiếp khước từ Thiên Chúa.
Hài Nhi
Giê-su phải sinh trong chuồng bò vì con người đã không tiếp nhận con người.
Tất cả
những ai hành xử như thế với người chung quanh sẽ bị Chúa Giê-su cảnh cáo:
"Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước" (Mt 25, 43)
Vậy thì
đón tiếp Chúa không là gì khác ngoài việc hoà thuận tiếp nhận mọi người không
trừ ai.
Dọn đường
đón Chúa không là gì khác ngoài việc xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng
lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.
Chỉ khi
nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân li ngăn cách, ấy mới
là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến được với mình.
15.
Hãy dọn đường cho Chúa.
Người ta
kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ nổi danh Leonardo da Vinci vẽ
bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều người khen ngợi cho đến ngày
hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người láng giềng, tâm tình thù hận
trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung nhân từ dịu dàng của Chúa
Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo da Vinci không thể nào tập
trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông quyết định đi tìm để làm hòa
với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an bình thư thái, ông đã vẽ được
dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly, và dung mạo của Chúa
Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc tinh thần của Chúa Giêsu mà
cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào theo kịp.
Hơn
Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi không phải chỉ vẽ chân dung
Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể hiện chính Chúa Giêsu, trở
thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không thể nào thành công làm công
việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những tật xấu, những tội lỗi,
những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi người chúng ta cần thực
hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong đức bác ái: "Lòng
bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để
anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô ngự
đến". Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta đang cử hành,
mùa chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn chúng ta khỏi
những gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để chúng ta có thể
không phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón nhận hoàn toàn ân
sủng cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô trong bài Phúc âm hôm
nay lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái thời Ngài đang bị cám dỗ
bỏ quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên Chúa mà họ đã được mời gọi
làm chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn thống hối, thay đổi nội tâm
đã được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm trần, người ta chỉ cần
chưng diện treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng và hô to những khẩu hiệu
ngoài môi miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và họa lại chân dung của
Chúa trong chính đời sống của mình thì con người phải thay đổi thực sự tâm hồn,
phải thực hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi những tâm tình xấu xa tội
lỗi.
Ước chi
trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Gioan tẩy giả và
nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ cửa chờ ta để trở nên
hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm vinh danh Thiên Chúa và
cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với con người mỗi ngày một
hơn.
Xin Chúa
giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân đời sống trở về với Chúa mỗi
ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.
16.
Tiếng kêu trong sa mạc.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một mẩu
chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói
quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm
thế. Anh ta giải thích như sau: "Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được
làm một ngôi vườn xinh tươi".
Sa mạc
mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con người luôn hướng tới
về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non,
điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của
con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ
mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được vun xới và tưới bằng cố gắng,
phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống
đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi... để biến sa mạc của tâm hồn thành
một khu vườn tươi tốt... Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta
không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng
hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta
nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: "Có tiếng kêu trong sa mạc: "Hãy dọn
đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi". Đó là tiếng kêu của Gioan
Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng –
Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như
"tiếng kêu" gắn liền với Đấng là "Lời của Thiên Chúa". Đàng
khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía
sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa
Giêsu, Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để tha tội.
Từ ngàn
xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước
để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước,
tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ
khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của
Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy "Tiếng kêu trong sa mạc" là tên gọi của
Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: "Hãy
dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lung, phải lấp cho
đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi
lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu
độ".
Thưa anh
chị em,
Ngày nay,
khi nói "Tiếng kêu trong sa mạc", người ta thường hiểu là tiếng kêu
vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan
đã kêu lên trong sa mạc không phải là "tiếng kêu trong sa mạc" theo
nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người khắp xứ
Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa
mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến nỗi một phái đoàn chính
thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.
Tiếng kêu
của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm,
tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa
kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và
trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù
vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng
kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp
hơn.
Mỗi Mùa
Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta, đặt
chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã
hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày
thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy
nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là
"tiếng kêu trong sa mạc", không được họ lắng nghe và hưởng ứng bởi vì
trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm..., tâm hồn họ
thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ không nghe được tiếng kêu của
Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang
nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như
"hạt giống rơi vào bụi gai" mà Chúa đã giải thích là "những hạng
người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên
đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được" (Mt 13,18-23).
Vì vậy,
muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên
sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ
tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết:
"Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó,
lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó" (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay,
người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa
Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải
qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe Chúa gọi giữa sa mạc, giữa
cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc, các tu
sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con
người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng
Chúa Cứu Thế.
Anh chị
em thân mến,
Chúng ta
không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng
chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng,
yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn
ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng
kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn
chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay
thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi
thế khác... Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng.
Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt
xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người chan hòa đến với hết mọi người.
Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng
cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn cứu độ từ chính Đấng Cứu Độ như Gioan
loan báo: "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
17.
Sứ giả của Chúa Kitô.
Gioan là
vị tiên tri được linh hứng đầu tiên đến đập tan sự yên lặng của bao thế kỷ trôi
qua từ đời tiên tri Malaki. Sự quan trọng của chức vụ của ông được Luca nêu ra
bằng cách liệt kê những chi tiết xác thực định vị thời kỳ của ông. Khi nói đến
tên những nhà cầm quyền chính trị và tôn giáo, ông đã cho biết trong thời ấy có
sáu cuộc bổ nhiệm, để đưa dần tới tính cách phổ thông của Tin Mừng. Với thiên
tài của một sử gia, Luca đã liên kết câu chuyện ông kể với các biến cố của thế
giới. Trước hết, ông phải nêu tên vị hoàng đế đang trị vì đế quốc La mã là Xêda
Tibêriô, rồi ông kể đến Philatô, tổng đốc xứ Giuđê, người đã mang một vết nhơ
muôn đời là kẻ lên án tử cho Chúa Giêsu, Hêrôđê Antipa, con người quyến dụ và
sát nhân, con của Hêrôđê đại vương, được bổ nhiệm cai trị xứ Galilê, Philipphê
và Lyxania làm tổng đốc các xứ lân cận.
Về phương
diện giáo quyền, ông nhắc tới Anna và Caipha. Chưa bao giờ có hai thượng tế
cùng một lúc. Vậy Luca có ý gì khi nêu ra hai tên? Thượng tế là người đứng đầu
Do thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính trị. Ngày xưa chức thượng tế được
cha truyền con nối và mãn đại, nhưng khi người La mã đến, chức vị đó làm đầu
mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng năm 37TC-26SC đã có đến hai mươi
tám thầy thượng tế khác nhau. Anna hành chức thực thụ từ năm 7TC-14SC. Cho nên
khi ấy ông đã mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn người con trai và Caipha là con
rể ông. Do đó, tuy Caipha là thượng phẩm đương chức, nhưng thực quyền vẫn ở
trong tay Anna. Vì thế, sau khi Chúa Giêsu bị bắt đã phải điệu đến chỗ ông
trước tiên, dẫu lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca đem ghép tên ông vào với
Caipha để muốn nói lên tình trạng "bất thường" về tôn giáo thời ấy.
Một bản
danh sách của những lãnh tụ như thế cho ta thấy sự thoái hoá tột bậc về đạo đức
lẫn tôn giáo lúc bấy giờ và sự cần thiết phải có một người kêu gọi Israel trở
lại thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa.
Vị sứ giả
ấy đã đến trong con người của Gioan, con Giacaria. Sau một thời gian dài tôi
luyện bằng kỷ luật khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả
quyết từ Thiên Chúa, lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để
nghe giảng đạo và tiếp nhận phép rửa như một dấu hiệu và ấn chứng cho lòng ăn
năn. Bản chất của chức vụ ông làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia
"Tiếng kêu trong hoang địa", người được Thiên Chúa sai đến để dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến. Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương: khi một
vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan
đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao
phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa
cho êm. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của Vua, nhưng sự sửa soạn của ông
nhấn mạnh là sự sửa soạn tâm hồn và đời sống. Như vậy, muốn cho người ta sẵn
sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám
hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng: "Và
mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa", để phù hợp với tính cách phổ
thông của Tin Mừng.
Vicka là
một trong sáu thị nhân tại Mễ du, được chính Đức Mẹ dạy dỗ, khi có người hỏi:
"Theo cô biết, ăn năn trở lại là thế nào?".
- Ăn năn
hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như
ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng
như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy
nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy
hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên
Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa.
Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên
Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta. Tất cả những gì ta có thể làm là nài
xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta
rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.
- Và khi
được hỏi về mức độ khẩn trương phải ăn năn, Vicka đáp: "Đức Mẹ phải khóc
vì những đứa con của mình không biết Thiên Chúa, hoặc quay lưng với Thiên Chúa,
hoặc bất tuân các giới răn của Người.
- Rồi sau
khi được Đức Mẹ dắt đi tham quan thiên đàng, luyện ngục và hoả ngục, cùng với
Jakov, trong một cuộc phỏng vấn, có người hỏi: "Từ khi thấy hoả ngục lời
cầu nguyện của cô có khác gì không?" Vicka đáp ngay: "Ồ! Dĩ nhiên là
có. Bây giờ tôi cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn hối cải. Tôi biết cái gì đang
chờ đợi họ, nếu họ từ chối quay trở về.
- Vậy
điều gì xảy ra đối với kẻ phạm tội?
- Hết
thảy chúng ta đều phạm tội. Đó là lý do Đức Mẹ kêu gọi ta làm hoà lại với Thiên
Chúa và với anh em ta, chị em ta, ngay từ bây giờ. Ta càng cứng đầu chống
nghịch đường lối của Thiên Chúa, thì ta càng rời xa Nước Thiên Chúa. Và khi
được hỏi: "Làm sao để chúng ta quay trở lại?". Vicka cho biết:
"Đức Mẹ bảo rằng bao lâu còn sống trên trần, ta còn có thể trở lại với
Thiên Chúa mọi giờ mọi phút, bằng cách ăn năn sám hối. Và cũng vì thế, ăn năn
hối cải không phải là một việc nhất thời, làm một lần là xong. Đó là con đường
xuyên suốt đời người, và lúc đầu, người ta có thể gặp nhiều khó khăn, vì satan
rất mạnh, nó tìm mọi cách để cản trở việc ăn năn hối cải của ta. Càng gặp khó
khăn ta càng phải cầu nguyện. Ăn năn hối cải không thể là chuyện trên đầu môi
chót lưỡi, song bằng hành động, bằng tình yêu, một công việc kiên trì mỗi
ngày".
- Còn
Jakov, khi được hỏi ăn năn hối cải có ý nghĩa thế nào đối với cậu? Cậu trả lời:
"Khi em còn nhỏ, em chỉ biết sơ sơ về Thiên Chúa. Cũng có đi dự lễ, đi nhà
thờ, nhưng không bao giờ thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa. Đi là chỉ do sự
thúc đẩy. Cần nhất là Thiên Chúa phải sống trong ta. Em không cảm nghiệm được
điều ấy cho đến khi các cuộc hiện ra xảy ra. Em có thể nói ăn năn trở lại là
Thiên Chúa sống trong em và em nhận biết sự ấy".
- Rồi khi
được hỏi: "Làm thế nào để cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong đời
sống? Jakov được Đức Mẹ dạy, trả lời: nhờ cầu nguyện. Và như vậy, phương thế để
ăn năn trở lại đó là: dành thời giờ để cầu nguyện.
Bạn đã
sám hối như thế nào? Và quyết định mỗi ngày dành ra bao nhiêu thời giờ để cầu
nguyện?
18.
Sám hối và cải thiện đời sống – JKN.
Câu hỏi
gợi ý:
1. Thiên
Chúa nói với Gioan, mời gọi ông cộng tác với Ngài vào kế hoạch cứu độ của Ngài.
Thế còn chúng ta? Ngài có mời gọi ta làm gì không? Ta có nghe thấy Ngài mời gọi
ta làm gì không? Nếu không thì tại ta hay tại Ngài?
2. Gioan
mời gọi mọi người sám hối. Sám hối là gì? Sám hối chỉ hoàn toàn mang tính cá
nhân hay còn mang tính tập thể nữa?
Suy tư
gợi ý:
1. Gioan
Tẩy Giả được Thiên Chúa kêu gọi
Gioan Tẩy
Giả được Thiên Chúa kêu gọi một cách rất đặc biệt. Trước khi ông sinh ra, đã có
những biến cố kỳ lạ liên quan đến ông. Cha ông đã gặp thiên sứ hiện ra trong
Đền Thờ báo tin việc ra đời của ông, rồi cha ông bị câm vì cứng tin; mẹ ông
mang thai ông trong tuổi già; và cha ông chỉ hết câm khi đặt tên cho ông (x. Lc
1,5-25.57-80). Khi ông đến tuổi trưởng thành, Kinh Thánh viết về ông: «Có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa». Và ông đã
đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa ra đi, rao giảng về Nước Trời, chuẩn bị hay
dọn đường cho Đức Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại, đến trần gian. Ông đã chu
toàn ơn gọi một cách hết sức nhiệt thành, đến nỗi đã chết một cách rất anh hùng
vì ơn gọi của mình (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-29).
2. Thiên
Chúa cũng kêu gọi chúng ta
Ơn gọi
của Gioan thì như thế. Còn ơn gọi của chúng ta thì sao? Để cứu rỗi nhân loại và
làm cho con người được hạnh phúc, để thiết lập Nước Trời, Thiên Chúa cần rất
nhiều người cộng tác. Ai cộng tác thì Ngài cũng đều kêu gọi và thánh hóa. Nhưng
Ngài không kêu gọi một cách minh nhiên, rõ rệt bằng lời nói theo kiểu một người
cao cấp ngoài đời mời gọi một ai đó cộng tác với mình. Người được Ngài mời gọi,
ban đầu, thường cảm thấy một cách mơ hồ có một khuynh hướng hướng về Ngài, về
công việc của Ngài. Khuynh hướng ấy ngày càng trở nên mạnh mẽ và rõ nét cho đến
một hôm nó trở thành một lời mời gọi rõ rệt từ bên trong. Khuynh hướng này có
trở nên mạnh mẽ và rõ rệt hay không, điều ấy còn tùy thuộc vào lòng nhiệt thành
và quảng đại của ta trong những lần Chúa mời gọi ta thực hiện những công việc
nho nhỏ trong những tình huống xảy ra thường ngày. Người không làm theo tiếng
lương tâm, không đáp lại tiếng Ngài trong những trường hợp cụ thể của đời sống,
sẽ không cảm thấy Ngài gọi mình trong những công việc lớn hơn.
Rất nhiều
người không được mời gọi cộng tác với Ngài trong công việc của Ngài chỉ vì họ
không nghe được tiếng Ngài. Sở dĩ ta không nghe được tiếng Ngài chính vì ta
chẳng mấy khi chịu im lặng để lắng nghe tiếng Ngài vang vọng trong thâm tâm ta.
Thực ra Ngài vẫn nói, vẫn kêu gọi mọi người, nhưng nhiều người chẳng thèm nghe
vì còn bận quan tâm đến những chuyện của trần gian. Nhiều lần như thế, tiếng
Ngài ở trong ta ngày càng yếu ớt và đến một lúc nào đó tiếng Ngài như tắt hẳn.
Như vậy, không phải Ngài không nói mà vì lỗ tai tâm linh của ta đã bị điếc,
không còn khả năng nghe thấy tiếng Ngài nữa. Và ta bị điếc cũng là tại ta không
muốn nghe, hay không muốn đáp lại lời mời gọi của Ngài.
3. Gioan
Tẩy Giả kêu gọi sám hối
Trước khi
Đức Giêsu đến với trần gian, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả dọn đường cho
Ngài, bằng cách mời gọi mọi người sám hối, và biểu lộ lòng sám hối bằng một
nghi thức bên ngoài là rửa tội. Sám hối là nhận ra những tội lỗi, khuyết tật
của mình để quyết tâm sửa đổi hầu trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Nếu sám hối
không dẫn đến tình trạng tốt đẹp hơn, thì sám hối đó chỉ là sám hối hời hợt,
ngoài miệng... Nếu thực hiện nghi thức sám hối ở bên ngoài (như rửa tội, xưng
tội...) mà trong lòng không thật tâm sám hối thì đó chỉ là việc làm lấy lệ hay
giả dối.
Sám hối
để đón Chúa đến không chỉ mang tính cá nhân mà còn phải mang tính xã hội nữa.
Nghĩa là người thật sự sám hối không chỉ làm cho bản thân mình, tâm hồn mình
nên tốt đẹp hơn, mà còn phải tìm cách làm cho tập thể, cộng đoàn hay xã hội của
mình nên tốt đẹp nữa.
Việc sám
hối ấy căn bản là ở trong nội tâm. Và nếu đó là sám hối thật sự thì nó phải
hướng đến hành động, hay tất yếu dẫn đến hành động thật sự. Ngôn sứ Isaia mô tả
sự sám hối ấy bằng những hình tượng khác nhau: «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức
Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi
đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải
san cho phẳng».
4. Sám
hối một cách cụ thể là gì?
Điều quan
trọng để đón Chúa đến là phải có tinh thần sám hối. Nhưng tinh thần sám hối
đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến
sự chừa cải, tu sửa, cải thiện... Nói khác đi, có gì sai thì phải sửa cho đúng,
xấu thì sửa cho tốt, cho đẹp, cong thì thành thẳng, gồ ghề thành phẳng, cao thì
bạt xuống, thấp phải đôn lên... Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không
chỉ nơi cá nhân mà còn trong giáo hội và xã hội.
- nơi cá
nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, sự vị kỷ, tính kiêu
căng, tham lam, đố kỵ, ghen ghét, lười biếng, hèn nhát, v.v...
- trong
giáo hội và xã hội: giáo hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế
phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ
tục, những tệ nạn... tất cả đều làm cho con người trong tập thể đau khổ, trì
trệ, không phát triển, v.v...
Hiện nay,
trong đời sống tâm linh và tu đức, rất nhiều kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên
thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích giáo hội và xã hội của
ơn cứu rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có
thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh... Nghĩa là họ có
thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và giáo hội, bất
chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của giáo hội và xã
hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến
những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.
Thiết
tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến
mọi người không phân biệt bạn thù, giàu nghèo, giai cấp, v.v... Tiêu chuẩn cuối
cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho
tha nhân (x. Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người kitô hữu
để đón Chúa đến phải chủ yếu nhắm đến tình yêu, đến sự quan tâm của mình đối
với tha nhân, đối với giáo hội, xã hội, quê hương, đất nước và toàn nhân loại.
Trong
chiều hướng đó, câu «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để
Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp,
khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng» cần phải
được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả giáo hội và
xã hội nữa.
5. Ý thức
sám hối mang tính giáo hội và xã hội
Tất cả
mọi kitô hữu đều có trách nhiệm biến cải giáo hội và xã hội nên tốt hơn, nghĩa
là phải sửa sai, phải thay đổi những gì chưa đúng, hoặc có hại trong giáo hội
và xã hội. Trong dân gian có câu: «Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh», hay «quốc
gia hưng vong, thất phu hữu trách» (kẻ kém cỏi nhất trong đất nước cũng có
trách nhiệm về sự thịnh suy của đất nước). Cũng thế, mọi kitô hữu dù là giáo
dân hay linh mục tu sĩ, là người thất học hay trí thức đều có trách nhiệm đối
với sự phát triển hay suy thoái của giáo hội và xã hội. Những kitô hữu tỏ ra vô
tâm, vô tình, vô trách nhiệm đối với tha nhân, với xã hội, đất nước, thế giới,
với giáo hội địa phương, cũng như với giáo hội hoàn vũ, cần phải suy xét lại
thái độ vô tình ấy của mình. Rất có thể ta chưa phải là kitô hữu đích thực,
chưa có đủ tình yêu đối với tha nhân, một phẩm tính căn bản của người kitô hữu.
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha,
xin Cha giúp con thực hiện lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả, cụ thể là mở
rộng tấm lòng hẹp hòi của con ra. Xin cho con biết ôm cả thế giới, cả giáo hội,
cả quê hương vào lòng, để con biết quan tâm đến những vấn đề rộng lớn, biết ý
thức chia sẻ trách nhiệm chung với mọi người trước lịch sử của đất nước, của
giáo hội và thế giới. Xin đừng để con quá hững hờ, làm ngơ hay dửng dưng vô
trách nhiệm trước những biến cố đau thương hay sự hưng thịnh của đất nước, của
giáo hội và thế giới.
19.
Chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nếu bây
giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy những gian hàng thật lộng lẫy,
những cây thông, những ông già Noel và những ánh đèn màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại
sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả lời:
- Lễ
Giáng sinh đã gần tới.
Lễ Giáng
sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để tặng quà và để ăn nhậu. Họ
tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là những sự chuẩn bị bên ngoài và
mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì khác. Lễ Giáng sinh là ngày
chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch sử: biến cố con Thiên Chúa
xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh ra trong yếu đuối như một
hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem.
Là một
biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên chúng ta không thể không
chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng nhất chính là việc chuẩn
bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh tẩy con tim. Thế nhưng,
nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan trọng ấy.
Chúng ta
chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh thiêng. Sự tục hóa này mỗi
ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại chạy theo thời trang, về
phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng ta hô hào trở về nguồn,
nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn Tin mừng hôm nay trình
bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông vào sa mạc để sống cảnh
nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng. Trong chốn hoang vu ấy,
ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời ông nói thật thẳng thắn
và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao:
- Hỡi nòi
rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ sắp tới. Hãy đâm bông kết trái
theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái
tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Dân chúng
ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:
- Vậy
chúng tôi phải làm gì?
Và Gioan
đã không ngần ngại trả lời:
- Ai có
hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như thế.
Với bọn
biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự thành thật và công bằng. Ông lặp
lại lời tiên tri Isaia:
- Hãy dọn
đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy
và nơi cao phải bạt xuống.
Để ngày
Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tâm
hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến nơi tòa cáo giải và xưng thú mọi
tội lỗi để được ơn tha thứ.
Nếu chúng
ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được tình thương
Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng sinh, để rồi chúng ta cũng sẽ quì
gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem như mẹ Maria và thánh Giuse, như
các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu đầu óc chúng ta còn chất chứa
nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin Chúa giúp chúng ta biết yêu
thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu chúng ta còn nóng nảy, tức
tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền dịu và khiên nhường,
như chính Chúa đã xác quyết:
- Các con
hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Rồi trong
những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, bằng
cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố thí và giúp đỡ họ, bởi vì Đức
Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán:
- Sự gì
các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho chính Ta vậy.
Có chuẩn
bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho chúng ta niềm an bình và
hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần đã hát vang trên cánh
đồng Bêlem:
- Vinh danh
Thiên Chúa trên trời,
Bình an
dưới thế cho người thiện tâm
20.
Hãy dọn đường.
Năm cùng
tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng như mọi năm, tôi có cảm tưởng
là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi vội vào cuối trang sử cũ một
vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng như để bày tỏ niềm hy vọng về
cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây dựng trên nền tảng của công
lý và hòa bình.
Một trong
các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị giam cầm, như việc trả lại tự
do cho các con tin Tây phương bên Trung đông chẳng hạn. Quả tim của con người
không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn ảnh truyền hình những gương mặt
hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự do. Hay những nụ cười hòa lẫn
nước mắt của họ và của những người thân thương của mình trong những giây phút
hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin ấy cũng như đối với những ai bị
giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì sự phóng thích
mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về sự tự do. Khung cảnh sống bị
giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam bây giờ là cả một bầu trời
rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp nghẹt, giờ đây có thể được
phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ. Tương lai dường như bị chặn
đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.
Chúa nhật
thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể gọi được là "Chúa nhật giải
phóng". Với những hình ảnh tràn đầy hân hoan trong bài đọc 1 nơi ngôn sứ
Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng và đưa dân Chúa từ một cuộc sống
đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ trong vui mừng và trong vinh dự.
Rồi trong
bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao truyền Tin mừng giải phóng và lập
lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: "Hãy sửa đường cong queo cho ngay
thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi làm cản trở công việc hồi
hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu Thế đến ở giữa dân người để
giải phóng và cứu rỗi họ". Nhưng làm sao mọi người cảm thấy Thiên Chúa
thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ không những hoàn cảnh lúc
họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm nghiệm rằng thánh Gioan
tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn thống hối để chuẩn bị cho
ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa nhật hôm nay cũng đang
hướng về ơn cứu độ.
Câu trả
lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa vọng, bởi lẽ mùa vọng không
phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ xưa, mùa vọng càng không
phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như mừng sinh nhật của Đức Giêsu
diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng phải là mùa chuẩn bị tích cực để
Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu rỗi mọi người trong hoàn cảnh cụ
thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh sử Luca ghi thật rõ ràng niên
lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị của một biến cố Ngôi hai giáng
trần.
Hoàng đế
Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị lực lượng ngoại xâm chiếm
đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn thủ Phongxiô Philatô, còn
các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế Rôma giám quản. Cả tình
trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã cố gắng dung hòa giữa
tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của mình. Trong bối cảnh
chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã bắt đầu hành động, qua
đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải phóng và cứu rỗi của
Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự được diễn tiến trên mặt
đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật, Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc
giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời kêu gọi và rao giảng của
thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để dọn đường cho Chúa đến và
chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.
Để chu
toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy giả đã đi vào sa mạc hoang
vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của ngài và lôi kéo chúng ta ra
khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những lo lắng hằng ngày, ra khỏi
những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con người cũ để đi vào sa mạc
vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Và cuộc gặp gỡ Thiên Chúa
đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết sống thật của mỗi cá nhân.
Cuộc gặp
gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối,
có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào
hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình,
thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua
dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một
quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên
lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế,
công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời
nói: "Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội
nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm...", nhưng phải kèm theo những
hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm
nay: "Hãy dọn đường Chúa đến". Hãy sửa đường cong queo của tinh thần
vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con
đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự
thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự
khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của
nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần
khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của
đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng,
của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn
tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc
sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong
ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng
trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm
nay.
Vậy! Bạn
và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung tay đẩy mạnh tiến trình giải
phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình, trong làng xóm, trong giáo xứ
và trong xã hội chúng ta đang sống?
21.
Chú giải mục vụ của R. Gutzwiller.
SỰ XUẤT
HIỆN CỦA VỊ TIỀN HÔ.
Sau những
biến cố quá ư là đặc biệt đi kèm với việc truyền tin và sinh ra của Gioan và
của Chúa Giêsu, tất cả đã trở lại yên tĩnh. Suốt trong ba mươi năm, người ta
không nghe nói gì nữa. Cảnh cậu bé mười hai tuổi trong đền thờ không được ai
nhắc tới. Những tiếng đồn thổi trong nhân gian về các điềm lạ quanh việc truyền
tin đã bị quên đi từ lâu. Vì thế, khi vị tẩy giả xuất hiện và Chúa Giêsu bắt
đầu giảng dạy đã gây ngạc nhiên không ít. Vị Tiền Hô vào cuộc trước, rồi sau đó
mới tới Thày Chí Thánh.
1. Thời
kỳ
Tin mừng
đã đánh dấu thời kỳ này cách uy nghiêm và trang trọng. Những thời biểu lịch sử
được nhắc đến ở đây che dấu một thảm kịch sâu xa:
'Năm thứ
mười lăm thời hoàng đế Tibêriô-Xêda'. Hoàng đế Augustô mà vì chiếu chỉ của ông,
Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem thay vì Nagiarét, đã băng hà ngay vào lúc đó. Tất cả
mộng ước mà vị hoàng đế Rôma xây dựng đã theo Ngài xuống mồ. Ngài đã không trở
thành 'vị cứu tinh nhân loại' như người ta hy vọng ở ông. Các con trai ông cũng
vậy, đều đã qua đời. Và như vậy, triều chính phải trao cho người ông nhận làm
con nuôi, Tibêriô, con người bẳn gắt và đa nghi, nên ít người còn trông đợi ông
sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Vinh quang của Rôma bắt đầu lạt dần, và trong cái
khung nhà của hoàng đế đã có những tiếng gẫy răng rắc.
'Phongxiô
Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa'. Dưới những tiếng này, như muốn che đậy những
biến cố đáng lưu ý. Trong thời gian trên, Hêrôđê, vị đại sư của người Do thái
cũng đã chết. Sự thống nhất của vương quốc bị đổ vỡ.... chia làm bốn quận vương
nhỏ. Dù cho các vị cầm quyền vẫn còn mang tước hiệu 'vương', nhưng đó chỉ là
tia sáng mờ nhạt và phần đất quan trọng nhất, miền Giuđêa và Giêrusalem, đã bị
mất cho dù tới lúc này bên ngoài vẫn mang bộ mặt tự trị. Vì thực ra người kế vị
Hêrôđê, Archelaus đã do người Rôma đặt lên. Miền Giuđêa đã trực thiếp bị khuất
phục quyền Rôma và được cai trị bằng một vị toàn quyền Rôma.
Trong
pháo đài Antônia đã có những toán quân Rôma. Binh lính Rôma đi tuần trên đường
phố và coi sóc miền này. Dân Chúa đã tùng phục dân ngoại và phải đóng thuế. Vẻ
hào hùng và sự tự do đã mất.
Ngoài ra,
Philatô còn là một cao uỷ cứng rắn và không biết kiêng nể. Để biết những chuyện
xảy ra, ông đã cho một toán quân mặc thường phục, trang bị gậy ngắn, lẫn lộn
vào dân chúng, rồi còn để quân sĩ của ông can thiệp thẳng thừng nếu cần... ông
không hề nể vì gì tập tục Tôn giáo của người Do Thái. Ông bãi bỏ tuỳ ý và chỉ
muốn làm giàu.
'Hêrôđê
làm quận vương xứ Galilêa, còn em ông là Philiphê làm quận vương vùng Iturêa và
Tracônitiđê; Lisania làm quận vương xứ Abilêna'. Hêrôđê Antipas là người phóng
đãng. Ông muốn làm thân với người Rôma và vì muốn tâng bốc, ông đã đặt tên cho
công thự mà ông xây trên bờ hồ Giênêsarét là Tibêriađê, để tỏ lòng tôn kính
hoàng đế Tibêrio, nhưng ông vẫn còn nể nang người Do Thái, còn dự các buổi lễ ở
Giêrusalem hầu chứng tỏ mình đạo đức. Hơn nữa, ông còn có những đội quân bí mật
dùng để chống lại sức mạnh này khác nếu thấy cần. Miền Galilêa nơi mà Chúa
Giêsu hoạt động lại thuộc quyền nhân vật đáng buồn này.
Quận
vương thứ ba là một người thân Hy lạp, hoà hoãn nhưng lại quá bình thường. Còn
quận vương thứ bốn là một nhân vật không được biết đến. Như vậy, xứ sở thì bị
phân chia, dân chúng thì bị trao vào cho các quan quyền chuyên chế chỉ nghĩ tới
thân họ và cuộc sống xa hoa, tiện nghi của riêng họ. Chẳng còn gì vẻ lớn lao
của một đất nước cựu trào. Vương miện đã rớt khỏi trán Israel.
'Dưới
thời thượng tế Anna và Cai pha'. Israel là một dân tộc tư tế. Đền thờ là nơi
cần thiết nhất. Tư tế và vua chúa đều được Giavê xức dầu, đặt tên và trao phó
việc phục vụ. Nhưng sự thánh thiện của chức Tư tế tinh tuyền đã mất đi. Vị
thượng tế được gọi phục vụ trong cả cuộc đời, là nhân vật được thánh hiến trong
dân chúng. Thế mà người Rôma lại không để ý gì đến tập tục này, họ tự gọi và
đặt lên tuỳ ý họ. Sứ vụ thánh được trao phó cho dân ngoại và người ta còn có
thể mua chức đó nữa. Hai vị thượng tế đã được đặt lên như thế đó: Anna và rể
ông là Caipha. Anna đã lãnh trách vụ, rồi lần lần tới năm người con và bây giờ
thì tới con rể ông.
Như vậy
quyền thế tạm thời và thiêng liêng không còn nữa, và tất cả hình ảnh lịch sử
được gợi lên bằng những hàng chữ này chỉ nói lên một kỷ niệm buồn của một dĩ
vãng vàng son đồng thời với ảo ảnh hiện tại thất vọng hoàn toàn.
'Lời Chúa
được phán ra'. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ bắt đầu ở điểm mà khôn ngoan
của con người sắp kết thúc. Khi sức mạnh của con người ngừng lại, sức mạnh của
Thiên Chúa mới tỏ hiện. Ân sủng giả thiết phải có bản tính và liên kết với bản
tính, nhưng không thể bị đầy đoạ ở đó. Lời của Thiên Chúa có thể được phán ở
nơi và vào lúc mà người ta ít chờ đợi nhất.
Thiên
Chúa có thể dùng Xêda và hoàng đế Rôma để thống nhất nhân loại, dùng con đường
Rôma để dễ giảng truyền Tin mừng và để trao sứ điệp cho thế giới. Ngài cũng có
thể dùng các binh lính và thương gia. Rồi Ngài có thể từ khước sự sửa soạn tự
nhiên đó và can thiệp bằng một cách hết sức bất ngờ dựa vào chính sức mạnh của
lời Ngài. Ngài hoàn toàn tự do, toàn quyền quyết định khi nào, ở đâu, trao cho
ai, trong mục đích nào Ngài sẽ phán.
Đó là lý
do khiến con người không bao giờ phải thất vọng vì cái có thể ấy là Thiên Chúa
phán bảo và hoạt động, lời Ngài vẫn luôn sẵn sàng. Lại là lúc Israel được nâng
cao nhất. Khi mà yếu kém cả về chính trị lẫn Tôn giáo, thì Đấng Mạnh Mẽ, Quyền
Năng lại đến.
Một dòng
dõi suy tàn đã nảy sinh trong Đấng Messia, vị tạo Thành thế giới mới.
2. Nơi
chốn
'Lời
Thiên Chúa được phán với Gioan con Giacaria, trong hoang địa. Và ông đi khắp
vùng xung quanh sông Giođan'.
Hai địa
danh được nhắc đến:
Hoang
địa: Môisen đã được Chúa gọi, và sai đi trong hoang địa. Dân chúng đã được dẫn
dắt vào đây và giáo dục ở đây. Êlia đã đến đây. Chúa Giêsu đã chuẩn bị ở nơi
này. Thánh Phaolô cũng tới đây sau khi trở lại. Có hàng triệu và hàng chục
triệu người nối gót theo gương này. Trong im lặng, người ta thấm Lời Chúa rõ
hơn, và cuộc sống khắc khổ làm cho người ta thấy tỏ tình thương Chúa hơn.
Sông
Giođan: Dòng sông không phải chỉ làmột lãnh giới để dân địa phương và người từ
hoang địa về gặp gỡ nhau. Nhưng Giođan là dòng sông mà những người Do Thái đã
vượt qua để chiếm Đất Hứa: bây giờ, họ phải từ bỏ một hoang địa thiêng liêng và
phải bước vào nước Thiên Chúa.
Ở Giođan,
nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, tường thành Giêricô đã bị sập xuống; thì bây giờ
tới lượt tường luỹ thiêng liêng của Satan đã ngăn lối vào nước Chúa cũng sẽ bị
đổ như vậy.
Do đó,
hoang địa và sông Giođan đều có ý nghĩa. Đấy là những nơi mà Lời của Chúa được
vang vọng đặc biệt, được đón nhận tốt, là những miền của ân phúc nơi mà dân
chúng hành hương tới, là những nơi thuận tiện cho hoạt động của Thiên Chúa, nơi
có đền thờ vì Thiên Chúa là Đấng Thánh đã tới gần.
3. Hoạt
động
Ba sự
việc đáng được để ý đặc biệt.
Thánh
Gioan rao giảng: đã qua nhiều thế kỷ, từ ngày Thiên Chúa phán với Israel, nay
mới lại thấy xuất hiện, lần đầu, một trong các đại nhân của Thiên Chúa mà ngày
xưa thật dễ gặp thấy trong dân được Chọn. Từ nay không còn là lời của Thiên
thần mà là Lời của Thiên Chúa, không qua trung gian nào cả, phán bảo với Gioan
và Ngài sẽ truyền đi.
Trong bài
giảng, người ta đâu được công bố sự hiểu biết riêng hay kết quả của nghiên cứu
thần học hoặc truyền bá kinh nghiệm nội tâm, mà là giảng Lời Chúa. Vị giảng
thuyết chỉ là dụng cụ, là trung gian. Cá nhân Ngài hoàn toàn giữ vai trò thứ
yếu. Ngài chỉ biết lắng nghe và truyền lại. Như vậy, cùng một lúc phải mở lòng
ra với Thiên Chúa (từ trên xuống) và với dân chúng (từ dưới lên), Ngài không
được giữ gì cho mình, nhất là không được thay đổi gì, giảm bớt hay làm sai lạc
đi.
Loan báo
Lời Chúa, người ta không thể tìm thấy nơi mình sự bất trắc hoà lẫn với sự hoài
nghi, sự phức tạp và một tình trạng thua sút của một người yếu kém, vì tất cả
đều không đảm bảo cho công việc của mình. Nhưng họ cũng không được cậy vào một
thế lực, phát sinh từ một khoa học kiêu hãnh và thấm nhuần tư tưởng này, vì lời
giảng với sức mạnh và theo Thần Trí đã đủ xứng với Lời Chúa rồi.
Gioan tẩy
giả: cử điệu thêm vào với tiếng nói, nghi lễ đi với lời giảng. Con người không
phải là một hữu thể tinh thần thôi. Vì thế, họ phải nhờ vào những dấu thấy được
để suy niệm cái chẳng thấy.
Chúa
Giêsu đã lập các bí tích đi theo lời giảng dạy. Nơi thánh Gioan cũng vậy, bên
cạnh những từ ngữ mang tính cách nhất thời là những dấu hiệu, những điềm báo về
các bí tích. Rửa tội là một cuộc thanh tẩy vì từ nay tội lỗi sẽ được xoá sạch.
Một dân tộc nhơ nhuốc sẽ được rửa sạch. Thanh tẩy là trầm mình xuống nước rồi
lên lại, vì tạo vật phải trầm mình với Đức Kitô để chết cho cái chết của con
người tội lỗi cũ và được nâng lên nhờ Đức Kitô Phục sinh để sống cuộc sống mới
trong ân sủng. Thanh tẩy, nước trôi chảy... Vì từ đây nước Thần Linh sẽ đổ tràn
và vọt lên ngập đồng.
Thanh tẩy
của Gioan, như vậy cũng có giá trị lớn lao. Gioan kêu gọi thống hối. Nếu con
người không khước từ những khuynh hướng tội lỗi, không làm một cuộc đổi thay
hoàn toàn đưa tới việc trở lại. Họ không thể tiếp nhận Lời Chúa. Sự thánh hoá
giả thiết và đòi buộc phải có sự thống hối như bước đầu, khước từ tội phạm, ra
khỏi mình, và hướng về Thiên Chúa. Sự thay đổi trong những định hướng của tư
tưởng và sự sẵn sàng thâm sâu, đã thấy được khi Chúa giáng sinh và lúc thiếu
nhi mười hai tuổi giảng dạy trong đền thờ, bây giờ rõ ràng là một đòi hỏi đối
với với chúng ta. Sự thống hối là cốt cán của ơn cứu độ. Đó là một đòi hỏi mà
con người không bao giờ tự ý muốn nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho
họ.
4. Hoàn
tất.
Tin mừng
thêm vào ở đây như để làm trọn lời tiên tri Isaia:
'Có tiếng
kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy
lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho bằng.
Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa'.
Bản văn
ngôn sứ bàn về cuộc tái trở về từ nơi lưu đầy của dân Do thái. Giavê trở lại
dẫn đầu dân Ngài qua hoang địa vào Đất Hứa. Để đám rước khải hoàn đi qua thì
đường xá phải bằng phẳng và có sửa soạn đàng hoàng. Lời tiên tri đã được nên
trọn lúc này với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói
về xứ sở hay về đường xá trần tục. Rời bỏ cuộc lưu đầy và tôi đòi thiêng liêng
con người lên đường về nước Chúa với một thái độ cương quyết. Và chính Thiên
Chúa sẽ là đầu đoàn rước: nhưng xác đáng hơn phải nói là Đức Giêsu Kitô Thiên
Chúa nhập thể, Đấng Messia.
Vì thế,
những con đường thiêng liêng hẳn sẽ phải phẳng lì do việc sửa soạn tinh thần và
tâm hồn. Gioan là tiếng kêu, là người tiền hô đến kêu gọi dọn đường vì sắp có
vị Đại Vương tới.
Không có
gì ngạc nhiên cả khi thấy sau lời kêu gọi đó, dân chúng bị lay chuyển và lũ
lượt kéo về Giođan để nghe lời giảng và theo sát các biến cố này.
Hoạt động
cứu độ đã bắt đầu nhập cuộc.
22.
Chú giải của Noel Quesson.
Năm thứ
mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn
loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức
Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của
Thiên Chúa không "ở bên ngoài" thế gian, trên mây gió, nhưng hành
động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một
"lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca
chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành động" trong
những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn
hóa ngày nay không?
Luca kỹ
lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da
Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như
một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28
hay 29.
Đức
Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với
Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc
của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15
quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì
Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin Mừng", phát xuất
từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc "Công vụ Tông Đồ"
(29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình
Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời
Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với
Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin
Kính của chúng ta: "Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu
khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma
tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người "cứng rắn và không xót
thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị
Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các
sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở
của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn
và hành quyết.
Ngày nay,
chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức
Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút
nương tay thế đó!
Hêrôđê
làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và
Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là
những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người "hợp tác". Uy quyền
thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ
biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là "con cái Israel"
(Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại giáo" (Iturê - Trakhonít
và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn "thần
học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó!
Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy
tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và
Caipha làm thượng tế
Sau những
lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái
giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối
cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia
thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong
một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi,
giữa hí trường hình tròn.
Có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không
phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một "phát
ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng,
nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ "bên trong" những
thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động
lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người
đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. "Chúa lật đổ những
người quyền thế xuống khỏi ngai vàng" (Lc 1,52). Một "lời", từ
nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch
sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong
hoang địa
Đôi khi
ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này
không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào
náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? "Hãy nghe đây! nghe đây!
ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người
đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình
trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền
đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa,
phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động,
cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã
rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa,
để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ
người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối
nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía
đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất
có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ
khác không?
Rao
giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào
nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: "Ông kêu gọi người ta
dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người
phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là
một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp
"Kérygme" có nghĩa là "tiếng la", lời "tuyên bố".
Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể
có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa "như thế", nghĩa là
không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải "lao mình"
vào Ngài! Chữ "batisma" phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa
theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành
mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải
thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông.
Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não,
nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi
người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: "Tôi muốn thay đổi cuộc
sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự
trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm
để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa
là một tự nguyện dìm chết "con người cũ" để cho "con người
mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của
Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử
hành lễ Giáng sinh.
Và hoán
cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với
Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc
sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi
lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta "quay trở
lại với Chúa" cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích
kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp
sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa
tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha
thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ
hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao
giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của
Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên" thi hành bí tích, nói
"nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona Christi). Hành vi tự do của
con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân
hay tập thể.
Mỗi cử
hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi
Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong hành vi cứu chuộc nhờ thái
độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn
toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có
lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy
dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng,
phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho
ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to
lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức
tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng tội riêng", không đau đớn
gì?
Rồi hết
mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là
mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô.
Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là "Cứu chuộc".
Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc
không lối thoát. Cho dù chúng ta "hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng
sẽ gặt trong ca mừng".
23.
Chú giải của Fiches Dominicales.
HÃY DỌN
ĐƯỜNG CỦA ĐỨC CHÚA VÀ MỌI NGƯỜI SẼ ĐƯỢC THẤY ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM
CHÚ GIẢI
Lời hoạt
động trong lịch sử con người
Chúa nhật
trước, chúng ta mượn ở Tin Mừng Luca một trích đoạn bài diễn từ mang tính cánh
chung, diễn từ về "tiến trình dài dẫn đến giải phóng" (H. Cousin).
Hôm nay, với lời kêu gọi và rao giảng của Gioan Tẩy Giả, chúng ta đang ở vào
giai đoạn đầu của tiến trình ấy.
Bản văn
hướng ta về một thời kỳ dài có nhiều báo trước một kỷ nguyên mới của lịch sử.
- Tiên
vàn hoạt động khởi sự được ghi vào lịch sử Israel một cách thật trang trọng,
bằng cách nhắc đến tên tuổi của sáu nhân vật:
+ Năm vị
đầu là những vị đại diện cho quyền lực chính trị hiện hành tại Palestin và
trong một vài tỉnh lân cận.
+ Vị thứ
sáu đứng đầu giới tư tế mà sau này cùng với Philatô và Hêrôđê sẽ là những người
đóng vai trò tích cực trong cuộc Khổ nạn của Chúa theo Tin Mừng Luca 22 và 23.
Công việc
mở đầu này, như tác giả xác định rõ, xảy ra vào "năm thứ mười lăm dưới
triều hoàng đế Tibêriô", tức là năm 28.
Vai chính
của trang sử này, mặc dầu không ai nhìn thấy, cuối cùng cũng được chỉ định là
chủ thể của suốt thời kỳ dài lâu này. Đó chính là "lời của Thiên
Chúa".
Chủ thể
ấy được giới thiệu ở cuối câu, khi nói về người được kêu gọi làm trung gian của
lời này: "Gioan con ông Dacaria".
"Việc
sử dụng nhiều chi tiết trang trọng như thế để xác định về mặt lịch sử buổi khai
mào sứ mệnh của ông Gioan, theo Roland Meynet nhận xét, là điều không cần
thiết. Vả chăng, không phải dể xác định rõ ràng về mặt đia lý một địa danh bé
nhỏ của Đế quốc, mà tác giả Luca đã muốn kể ra những địa danh khác nhau là tên
tuổi những vị tổng trấn và tiểu vương nắm quyền cai trị trên những miền đất ấy.
Cuộc "diễu hành" của những nhân vật tai to mặt lớn kia là hoàng đế
Rôma là người dẫn đầu, thực ra có một cái gì long trọng và gây ấn tượng khác
thường đế nói lên tầm quan trọng lớn lao của sự việc đang xảy ra. Và những con
người đang sát cánh với nhau khi ấy, là Do Thái hay Rôma đang cai trị Israel
hay những miền dân ngoại, đều phải mắt thấy tai nghe về một sự việc có liên can
tới họ hết thấy. Việc gì xảy ra với Giêsu, thì có liên can tới tất cả mọi người
trên toàn thế giới ("Tin Mừng theo thánh Luca". Phân tích tu
từ", Cerf, trg 44).
Gioan,
người trung gian cho Lời:
Hai câu
đầu đã chỉ cho ta thấy gốc gác con người của Gioan: ông là "con ông
Dacaria" và sứ mệnh của ông có gốc gác của Thiên Chúa: Ông đã được
"lời Thiên Chúa" kêu gọi. Giờ đây bóng dáng của vị ngôn sứ được rõ
nét.
Nơi Gioan
thi hành sứ vụ là "vùng ven sông Giođan".
Chính ở
đó, ông rao giảng một "phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội".
Giống như
các thánh sử khác, Luca định nghĩa cho sứ mệnh của Gioan từ sách Isaia đoạn 40:
"Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: "Có tiếng người hô to
trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đườn g của Đức Chúa".
Nhưng chỉ
có mình Gioan là người theo đuổi cho đến cùng lời trưng dẫn sau đây: "Rồi
hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Tin Mừng mà Gioan
loan báo chính là Thiên Chúa cứu độ, và ơn cứu độ của Người dành cho hết mọi
người. Điểm phổ quát này, chính Luca, người ngoại giáo trở lại đón nhận đức tin
đã làm vang dội lên trong 2,30-31 rồi khi đặt vào miệng ông già Simêon lời ca:
"Vì chính mắt con dược thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân".
Điểm son
ấy, Luca sẽ không ngừng làm vang lên trong tác phẩm của mình, mà Phaolô sẽ là
người đưa ra phần kết khi tới Rôma, kinh đô của đế quốc "Vậy xin anh em
biết cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gởi đến cho các dân ngoại,
họ thì họ sẽ nghe" (Cv 26,26).
BÀI ĐỌC
THÊM
1. Chính
hôm nay, ta phải dọn sẵn con đường cho Chúa.
Đây là
giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầng sâu của nội tâm
sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải
phóng: Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con
người đã được tôi luyện và can trường.
Vậy để
cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang
của tâm hồn rộng mở và chan hòa yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách
ngăn kỳ-thị và phân biệt chủng tộc. hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ
nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang
la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hoành, hãy thức
dậy và đứng thẳng người lên".
2.
"Chính hôm nay, ta phải khai mở những con đường".
(J.
Debruync, trong "Jesus, son Evangile", Descléc, trg 14- 16).
Tin Mừng
thánh Luca cho rằng Ngôn sứ Isaia đã nhìn thấy tiếng nói ấy đến từ xa: một
tiếng nói phát ra như tiếng hô to vang lên giữa nơi hoang đia, rằng:
Hãy khai
mở con dường của Chúa. Hãy dọn sạch khắp mọi nẻo đường! Con đường thẳng tắp
giữa chốn hoang vu, mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải san
thấp xuống, lối quanh co, phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải san cho phẳng,
rồi hết mọi người phàm sẽ được thấy ơn Cứu độ của Thiên Chúa chúng ta".
Nếu đường
đi cần được mở, là để ta đi tới nơi kia. Vậy là hiện có một nơi. Và đường dẫn
tới cho người khát khao.
Đường kia
phải mở làm sao, để không còn những hàng rào chặn ngang. Đường đi rộng rãi
thênh thang, để ta vui bước mà lòng thảnh thơi.
Vẫn luôn
có một con đường giải thoát, để con người không còn phải sống cảnh tù đày, để
hy vọng luôn chiếu sáng con tim, và để tầm nhìn không còn bị mây mù che lấp.
Nếu phải
mở những con đường, chính là để ta phải cất bước ra đi, là để ta phải mau mắn
lên đường, để cho Lời cùng ta vui bước.
Nếu phải
mở những con đường, thì cần phải có những bước chân khai sáng. Những kẻ vạch
đường. Những kẻ tìm ra bao người không ai biết đến. Những người thích đi chinh
phục những thế giới mới. Những bàn tay dám đục đá vá trời. Những ai biết vượt
khó vượt nguy. Những ai biết khai phá, mở lối cho tương lai. Những ai biết
khoan đường hầm để lần ra ánh sáng.
Nếu phải
mở những con đường, là vì tha nhân mà tôi vẫn hững hờ, thì nay phải trở nên
người khẩn thiết. Tha nhân ở đàng kia kìa. Tôi phải vội vã lên đường, tôi phải
đi để gặp cho được.
Thật bất
ngờ. Không còn phải là lề luật mới là con đường tốt. Chính là con đường trở
thành luật; Không còn phải là quy tắc cho thấy rõ con đường phải đi, mà chính
là đường đi định ra quy tắc.
Vậy đây
còn phải là Đền Thờ làm ra lề luật. Đền Thờ đích thực, từ nay chính là con
đường.
Vậy Thiên
Chúa không còn ở trong bốn bức tường nữa, Người đang đi trên đường".
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét