CÁC NGƯƠI HÃY TRỞ NÊN THÁNH
THIỆN , VÌ TA LÀ ĐẤNG THÁNH
SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A 55), (Mt 5, 1-14), ( 01.11.2011)
LỄ CÁC THÁNH
NAM NỮ
Bài
Phúc Âm Tám Mối Phước Thật hôm nay chúng ta đọc trong tinh thần ngày đại lễ
mừng Các Thánh, Anh Chị Em của chúng ta
trong niềm tin Chúa Ki Tô, đã thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của cuộc sống và đang
hạnh phúc hưởng dung nhan Chúa.
Sự thánh thiện, theo ý nghĩa của Thánh Kinh, không phải là một cái gì chúng
ta có thể tự do tùy hỷ thêm vào cuộc sống của chúng ta, mà là chính những gì
đòi buộc phải có một cuộc sống trọn hảo:
- " Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" ( Lev
19, 2).
Sứ điệp của Tám Mối Phước Thật một đàng đưa ra một đường lối sống phải có,
dấn thân thực hiện và bảo vệ nhũng giá trị của Nước Trời,
- "
có tâm hồn khó
nghèo,
ai không dùng bạo lực,
ai đau khổ,
ai khao khát sự công chính, ai thương
xót người,
ai có tâm hồn trong sạch,
ai xây dựng hòa bình, ai bị bách hại vì
công chính,
bị sỉ vả, bách hại vì danh Thầy",
đàng khác cũng loan báo cho chúng ta rằng thực hiện những sứ điệp vừa kể là
tìm được ý nghĩa của cuộc sống thánh thiện, đạt đến hạnh phúc hoàn hảo của con
người:
- "
vì Nước Trời là của họ,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa"
( Mt 5, 1.8.9.10)
Hay nói như Thánh Phêrô:
- "
đó là anh em được dự
phần vào bản tính Thiên Chúa" ( 2 Pet 1,4),
tức là chúng ta được Chúa cho sống bằng sự sống mà chính Thiên Chúa đang
sống.
Bài Phúc Âm của Tám Mối Phước Thật hôm nay luôn luôn được khởi đầu bằng
điệp ngữ:
- " Phúc cho nhũng
ai
".
Và qua những điều chúng ta vừa trích dẫn, " Phúc cho những ai
",
mà Đức Giêsu khuyên dạy chúng ta là cách thức sống và hành động của Thiên Chúa,
trước khi là khuôn mẫu mà Ngài muốn cho chúng ta phải noi theo.
Nói cách khác, sự thánh thiện và hạnh phúc của con người là hội nhập vào
cách sống và hành động của Thiên Chúa, sống, suy tư và hành động theo khuôn mẩu
của Thiên Chúa
- "
vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời" ( Mt
6,10)
Hay nói như người La Tinh thường nói :
- " Talis pater, qualis
filius" ( Cha nào, con nấy).
Cha sống sao, thì con cũng có cuộc sống như vậy, sống và hành xử theo gương
sống của cha.
Như vậy sự thánh thiện mà con người hướng đến, hạnh phúc mà con người mơ
ước để đạt được, " phúc cho những ai
" nói như lời Đức Giêsu
trong Tám Mối Phước Thật, chính là Thiên Chúa, chính vì chúng ta được gần gũi
Ngài.
Sự thánh thiện hay hạnh phúc của con người không phải vì con người trở nên
"
khó nghèo", "
không dùng bạo lực","
đau
khổ","
khao khát sự công chính","
thương xót
người","
có tâm hồn trong sạch","
xây dựng hoà
bình","
bị bách hại vì công chính","
bị bách hại, sỉ vả và
vu khống", mà vì trong những nghịch cảnh và trong những trường hợp nổ
lực, dấn thân để thực hiện vừa kể, họ có Thiên Chúa ở bên cạnh. Chính Ngài là
nền tảng của thánh thiện và hạnh phúc.
Trước nghịch cảnh , bất hạnh cũng
như trong những nổ lực đem lại hòa bình,
- tạo ra một xã hội xứng đáng
với nhân phẩm con người ( Gaudium et
Spes, 57),
chúng ta cần có Chúa nâng đỡ. Và vì đó chính Chúa Giêsu xác nhận:
- " Vì Ta đến không để kêu
gọi người công chính, mà kêu gọi ngưòi tội lỗi" ( Mt 9, 13).
Và
- " Phúc cho ai xây dựng hòa
bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" ( Mt 5,9).
Tám Mối Phước Thật nói lên cho chúng ta những giá trị của Thiên Chúa Giáo, và nói cho chúng ta biết
Thiên Chúa cảm thông và liên đới với nhân loại.
Sự thông cảm và liên đới đó, chính Đức Giêsu là gương mẫu cho chúng ta noi
theo qua suốt cuộc đời của Ngài. Ngài đứng về phía những người nghèo, người
thất học, người tội lỗi, nguời bệnh tật yếu thế để nâng đỡ họ:
-" Lạy Cha là Chúa Tể Trời
Đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông
thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn" (Mt 11,25)
Và cả cuộc đời Ngài là cuộc đời can thiệp đê nâng đở những khốn cùng của
con người:
- " người mù xem thấy, kẻ
què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng" ( Mt 11,5).
Cách hành xử đó của Đức Giêsu đã được Phúc Âm ghi lại cho chúng ta, để soi
sáng lối đi của nhũng ai muốn tiến đến sự thánh thiện và hạnh phúc mà Chúa
Giêsu đã tiên báo "phúc cho những
ai
".
Như vậy, Phúc Âm của Chúa Giêsu không phải chỉ là quyển sách chứa đựng
những sứ mệnh để đem đến cho con người Tin Mừng cứu rổi khỏi ách nô lệ của tội
lổi,
- " hầu ngày sau được
hưởng phước đời đời "
và loan báo cho chúng ta địa vị cao cả của con người, con Thiên Chúa, mà
còn chúa đựng sứ mạng giải thoát toàn vẹn con người, ngay cả ở cuộc sống trần
gian, giải thoát khỏi áp lực và nô lệ bất cứ từ đâu đến.
Tại sao?
Vì con người là con Thiên Chúa.
Đó là ý nghĩa của Huấn Dụ của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin:
- " Phúc Âm của Chúa Giêsu là
Thông Điệp của tự do và sức mạnh để giải thoát. Trước tiên và chính yếu Phúc Âm
là Thông Điệp và sức mạnh giải thoát khỏi nô lệ căn cội của tội lỗi. Và từ đó
là sự giải thoát toàn vẹn con người. Điều đó có nghĩa là Phúc Âm giải phóng con
người khỏi ách nô lệ của văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị. Tất cả những
căn cội nô lệ đó, chung quy điều phát xuất từ tội lỗi ( từ ý thúc hệ băng hoại
về con người), tạo nên muôn vàn nghịch cảnh, ngăn cản con người có được một cuộc
sống xứng đáng với địa vị của mình" ( S. Congregazione per la Dottrina
della Fede, Instructio Libertatis Nuntius, 06.08.1984, n.866).
Và như vậy, sống thánh thiện và sống trong niềm ao ước của Tám Mối Phước
Thật, là tin và đem ra thực hiện lời mời gọi của Đức Giêsu trong Phúc Âm của
Ngài, lấy cách hành xữ của Thiên Chúa làm cách sống của mình và hành động như
lời huấn dụ của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin vừa trích dẫn.
Lời mời gọi đó không phải chỉ dành cho những hành động anh hùng phi thường,
dám liều mạng tranh đấu để bảo vệ đức tin, " TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ
CHẾT", mà là lời kêu gọi đối với bất cứ ai, trong cuộc sống thường nhật,
nếu họ muốn chiếm hữu được Thiên Chúa:
- "
vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa" ( Mt 5, 9).
Hay nói như sách Khải Huyền được trích dẫn trong bài đọc thứ nhất hôm nay:
-
" Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử
thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy áo trắng mình trong máu Con Chiên " ( Ap 7, 14).
-
Mừng Các Thánh Nam
Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Phụng vụ lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ
của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc, thánh ca lôi
cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên cõi trời cao để
chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc. Thánh Phêrô nói với
chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những vị thánh :"
Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là Thánh " (1Pr 1,
16). Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là một loạt các từ
"phúc", chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên Chúa muốn chúng ta
là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá ảo tưởng, vì vào
lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi là "những
người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô ngỏ lời với
những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã được (Thiên
Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh thiện, cùng với
tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Quả thực, người
kitô đã là "thánh" rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp họ với Chúa Giêsu
và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người kitô còn phải trở
nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ rằng sự thánh
thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn. Nhưng thật ra,
việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể nói là của mọi
người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã chúc lành cho
chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở nên thánh
thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4). Như
thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta, dù
yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân, và
được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các
ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở nên giống Chúa, và
ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên Chúa đã dựng nên
chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1, 26-27). Tự bản chất,
chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính tội lỗi làm cho tâm
hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa nữa. Tội lỗi làm cho
chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản chất tốt lành của mình
nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng ta lại không ước
mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên tốt lành là trở
về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ. Có điều là chúng
ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều vui sướng nhất
thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại việc sống như
là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống" Thiên Chúa,
như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta phấn khởi trong
ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều người trong nhân
loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi còn sống, họ đã
trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng đã được thanh
tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền, sạch đẹp
và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam Nữ thúc giục
chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể cố lên. Có
rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn người thật đông
đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn ngữ (x. Kh 7,
9).
Còn chúng ta đang ở dưới thế, nơi có
quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên, hoàn cảnh của chúng
ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta nản chí buồn lòng,
không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng lúc nào cũng nhìn đời
với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời hơn, dù cuộc đời có đủ
thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô khuyên chúng ta "cả
anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã
dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch sử. Hãy nghe lời thánh
Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến
chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1). Chính sự tin tưởng vào
Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn. Mỗi lần cố gắng trở nên
tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn. Chúa Giêsu đã vạch ra con
đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo hầu trở nên giống Người. Đó
là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống thân phận lữ thứ trần gian như
chúng ta: " Phúc cho những ai..." (x. Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, ngự
giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng khiêm nhu nhưng cao
trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào trong tay của Mẹ để
Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy mình được khích lệ tiến
bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện. Hãy phó thác cho Mẹ cố
gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người thân yêu của chúng ta đã
qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả chúng ta sẽ gặp lại
nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng
kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội
lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia
đình Giáo hội. Mừng kính Các Thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự
sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa
cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ?
Thưa : Thiên đàng là nơi đầy dẫy những
sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời
liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy
khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh
phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau,
là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là
anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt.
Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới
hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự
kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự
công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát,
nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố
: "Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả" (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của
ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là "những người
giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Như thế, sự thánh
thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là
"tách biệt" khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ "thánh" có nghĩa
chung là "kitô hữu", hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức
Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy
sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được
Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên
đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong
Bài đọc I: "Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo
trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính
lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên". Ca đoàn
các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên
trời, " Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa..." (Lc 1, 46). Chính trong
sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , "Thần trí tôi
hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi" (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh
phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo
mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của
Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ
công bình đạo lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức
Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : "Số
người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel "
(Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành,
nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên
Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót
thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ
là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những
người bị bắt bớ, "họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7,
14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn
tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi
thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được
vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn
là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống
đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai
ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn
vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn
mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: "Đoàn
người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân
tộc và mọi thứ tiếng" (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng
lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để
mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ
tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị
rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong
kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị
thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người.
Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới
hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng
trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta
đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ
các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết
noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa
Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng
và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh
bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh
thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong
sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất
vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng
sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể "vui
mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các
Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời" (Mt 5,
12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa,
xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn
3,1-9; Lc 23, 33.39-43;
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10; 1Tx.
2, 7b-9.13; Mt. 23, 1-12
MỤC LỤC
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA
ĐỜI
1. Cái chết
2. Bốn bà vợ
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh
Hồn
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
5. Thân xác và linh hồn – John W.
Martens
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền
Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
9. Tưởng nhớ người đã ra đi
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ
tiên
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn
Văn Bản
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình
Thái
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
23. Các tín hữu đã qua đời
24. Các linh hồn
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
2. Khiêm nhường
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
4. Hãy sống trong sự thật
5. Là anh em với nhau
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
7. Đầy tớ
8. Đóng kịch
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm.
Trần Ngà
10. Biệt phái giả hình
11. Sống chân tình
12. Nói và làm
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA
ĐỜI
1. Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ
này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là
những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như
ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy
cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách
cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác.
Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ
phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân
yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất
cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho
chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta
phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì
cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi
mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích
thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta
sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến
Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh
phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết
những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được
chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ
lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình
mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban
Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải
chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan.
Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc
đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng
bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống
thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ
cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với
những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những
kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay
không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta
đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên
Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân
thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa,
thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn
nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại
chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong
cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để
rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của
Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi
khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà
đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho
bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà
như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh,
ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với
bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay
nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn
là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu
thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông,
thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết
cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ
chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can
đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng
mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh
ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn
sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ
trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh
yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia
thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em.
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước
ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ
thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh
phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về
bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống
huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới
người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao
giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng
gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim
chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn
bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người
luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em
luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu
theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và
em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn
anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh
thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang
lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới.
Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm
dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng
đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo
chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc
đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân
nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2
tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân
xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao
lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng
cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ
cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba,
sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo
mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ
tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen
chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên
thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa
Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà
Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ
thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh
Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình
Lưu)
"Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng
thánh lễ". Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền
nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: "Những đứa con hiếu
thảo". Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi
thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với
nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước
vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối
trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những
ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng
cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo
với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho
anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của
người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình
mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc
đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp
phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng
mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc
nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải
làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần
của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được
hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít
người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà
Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu
thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần
sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc
nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy,
chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu
thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe,
cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn
biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay,
chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại
chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự
thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những
héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình
ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
"Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo
nuôi chồng..."
hay:
"Cha mẹ thương con như biển hồ lai
láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính
ngày".
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn
của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào
niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái
gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở
trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau
thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân,
chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm
giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với
Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào
chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng
ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy
sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn
nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn,
là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái
hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các
đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là
đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta
biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh
hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải
từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang
diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam
mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ
trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao
xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã
chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn
đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là
Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành
với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của
Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ
lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha
thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng
phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi
hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng,
anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành
trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua
câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha
mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng
linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ
lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời,
bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng
2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha
muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu
Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ,
tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói
tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể
ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác
Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách
quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông
đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm
niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người
thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con
cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của
bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không
có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh
và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia.
Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm
gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì
sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm
ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết
của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con,
cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp
cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ,
báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của
17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm
Thống Đốc Missouri
sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát
chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con
người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ,
dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành
công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề
siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc
làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan
trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý.
Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu
mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ
cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại
khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai
nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng
cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống
thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên
của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để
biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với
con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa
trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm
bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời
mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
5. Thân xác và linh hồn – John W.
Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
"Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày
sau hết" (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra?
Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi
người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được
phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra.
Khi chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây
ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi
vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được
sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền
năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô
giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống
trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được
giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi
người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều
rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc,
và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi
chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt
trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với
những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường
thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có
đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người
chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng
tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi
về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về
kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ
trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn
đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy
không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác
lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về
cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách
Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công
nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến "linh hồn
những người công chính" đã chết. Tác giả viết "Linh hồn những người
công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si
coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ
đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào
đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình
thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp
mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa
trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và
xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc
tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người,
kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi
thân xác họ. "Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người
đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã
sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến
thắng tội lỗi và sự chết " Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai
thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi
dậy trong ngày sau hết".
Tất cả những ai còn sống trong thân xác
trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương
quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành
của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời.
Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh
Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: "Để được chỗi dậy với Đức
Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để
được cư ngụ với Chúa". Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi
thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác
trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra
đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó
tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền
Lâm
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên
xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành
phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh
Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân
hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì
hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các
đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng
ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ
niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng
định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi
người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống
sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời,
để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh
hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những
người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn
thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời
Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn
để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày
sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết
nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp
thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý
Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin
vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và
được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được
cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay
minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với
người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng
lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa
tội "bằng lửa"). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin
hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên
ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội "bằng máu"). Lại nữa, Ơn Cứu Độ
của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà
trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: "Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng
sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng
Người" (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa
là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: "Chúa Giêsu đã chết để cứu
chúng ta là tội nhân..." (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa,
chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa
Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng
lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca
23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này,
tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy
(bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà
con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: "...Thiên Chúa sẽ lau khô mọi
dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa
tiệc... Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông..." (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh
Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp
cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian,
bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc
khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích
lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần
một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn
sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như
người "trộm lành" kia, theo Chúa trong "giờ thứ 11", nghĩa
là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng
"trộm lành" có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của
các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế,
chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của
mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà
thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin
nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm
của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin
Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình
bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong
sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà
phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu
đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn
của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ
giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng,
là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống
niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây
giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào
Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào
Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan
11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc
đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi
được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên
xưng của cô Martha.
- "Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây
thì em con đã không chết"
Phải, "được Chúa thì được tất
thảy, mất Chúa thì mất sạch tay". Lời nói của Martha như là một lời than
trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách
diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng
Chúa Giêsu.
- "Bất cứ điều gì Thầy xin thì
Thiên Chúa cũng ban cho Thầy"
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng
bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh
hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón
rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng
với muôn vàn ơn phúc.
- "Con biết em con sẽ sống lại khi
kẻ chết sống lại trong ngày sau hết"
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong
kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Đức tin
Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh
hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục
sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà
trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ
đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự
hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các
linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự
sống.
- "Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống"
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh
hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết
yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính
Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào
Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- "Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi
thì vẫn sẽ được sống"
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa
trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này.
Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều
vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ
dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự
sống vĩnh cửu.
- "Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết"
Lời này hướng đến chúng ta là những
người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên
sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống
vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
"Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên
Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên
Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người". (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất
sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt
sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một
túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn
về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời
khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về
thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất
đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt
vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị
đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến
để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những
người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống
trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó
cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt
vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn
trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình
đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc
khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin "xin cứu giúp
họ". Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã
khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện
nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu
mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima
chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
"Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy
một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình
người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt,
hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực
lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình
họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp
nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh
và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi.
Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con
thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài
trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người
Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa
soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng
không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ
tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ
của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người
đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không
còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được
xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội
cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa
được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu
thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng
phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được
chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số
1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các
linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả
nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức
mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho
những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi".
Mỗi người chúng ta đều có những người
rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh
lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta "Xin đừng quên
tôi". Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp
nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu
nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
"Bố ơi, trong cuộc đời của một cây
chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?"
"Chỉ một buồng duy nhất." –
Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của
bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho
vài buồng quả.
"Khi buồng chuối chín cũng là lúc
cây chuối mẹ chết đi." – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây
chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ,
và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối
nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn,
cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây
chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong
gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những
trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn
chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây
chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ
đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát
triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà
còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là
mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới
biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh
đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã
một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái
chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta
không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể
hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển
cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già,
không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song
thân".
"Biết thờ song thân", thờ
trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ
hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao.
Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời
con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho
chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì
tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh
vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài
cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài
còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính
Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con
còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một
lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ
mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn
canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách
chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ
cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy
tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng
tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta "ăn quả
nhớ kẻ trồng cây". Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo
với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết
kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh
tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn
Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã
khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh
Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng
ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu
cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu
nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho
người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu
Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc
biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay
sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp
nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày
lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được
một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có
thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công
Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của
người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ
này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất
hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và
họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách
tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay
đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay
không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá
trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên,
đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa
với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu,
dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội
là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian
ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà
Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa,
vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu
Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh
hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng
với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp
đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard
Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi
đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau
đớn
vì phải chia tay với những người thân
yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn
cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập
giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục
tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi
sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ
của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh,
ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua
thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn
tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ
hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của
chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ
biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc
Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm
tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần
gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người.
Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời
sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung
lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ
áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống
trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc
về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ
cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện
diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm
tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải
qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng
nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc
này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng
tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau
buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và
sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả
những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh
cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết
người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng
ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha
mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi
dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi
dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã
hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó,
nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời
ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn
thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu
ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái,
cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua
những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những
giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần
đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này
luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn
thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục,
những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần
đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh
làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao
giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục
là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm
thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với
trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ
vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống
xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong
lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua
trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa
dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ
đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy
Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã
được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã
nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng
dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của
nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và
âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho
tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các
thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen
thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn,
những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng
ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời
sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua
đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những
người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin
dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ
có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên
đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho
linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên
trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho
chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm
qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch
xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã
cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với
Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn
và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa
lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa
Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua
đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát
triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình
hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên
Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ
về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho
chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại
sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng
đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng
Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.
Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ
cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống
lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ
xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của
tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm
ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích
lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi,
bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm
chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta
không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với
một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn
đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không
phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện
hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì
số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả
thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ.
Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết,
nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời
Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách
riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào
đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết
không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc
và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn
đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính
khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết
của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện
trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng,
yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng,
trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được
Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những
con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần
linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với
một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không
phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì
thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của
ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ
chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên
nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn
nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm
được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh
quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao,
vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một
thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu
và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có
những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước
mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập
giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước
Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì
làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng
ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích,
tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh.
Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những
người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng.
Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người
rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống
theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của
Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm
"lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài
"Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì
về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?
Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần
thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối
Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để
thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc,
chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu
chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào
Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi
công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa
Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự
Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc
lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ
đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này,
sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở
nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng
ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý
nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức
Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm
tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục
là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được
hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội,
nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ
chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ
vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất
niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không
làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ
không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời
gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta
còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân
thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng
cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các
linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải
chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi.
Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên
đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có
thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ
còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây
chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách
đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm
an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt
hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương.
Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức
yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng
được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh
hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người
nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa
mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan)
của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu
thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài
cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia
trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều
biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không
phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi
chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh
hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên
đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những
con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ
lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta
phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh
phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời
chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin
rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi
lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho
chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ
tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của
những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội
vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải
chạy theo dòng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện
diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà.
Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm để nhắc
cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu thì cũng
phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người.
Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho
các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đã ra đi trước chúng ta
và đã đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo
hiếu với những bậc sinh thành những người đang còn sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự
thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế
nào và sau cánh cửa sư chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh
phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết
sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người
có sinh thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến
trình tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn mang một ý
nghĩa khác, nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì thế, cái chết nó trở
nên kinh khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách tránh né nó,
không dám đương đầu đối diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm cách lẩn
trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc
và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và
sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng điều
quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau
cái chết? Cứ nhìn vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể
thấy, nhiều người khi sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang
dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì,
điều quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn
như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân,
chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa
và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn
tay trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không
thể đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng
ta có thể mang theo đó là tình yêu đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối
với anh em, và chỉ có một thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc
bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc
cho chúng ta về cái chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải
sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng
bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà
còn có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ
phàng với người đã khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều
tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người
đối xử với nhau càng ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt
cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao
nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta.
Có nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một
đứa ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập nhục mạ
những đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra bạc
triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi
thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc
làm đó không phài là báo hiếu, không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả
hình, là phô trương che mắt thiên hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc
sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của
Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết
lòng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ
cha mẹ chồng của mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì
chính cha mẹ là những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi
cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi
nước mắt. Cha mẹ chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta
khôn lớn và dạy chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư
sống và món nợ của tình yêu thương. Hãy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi
khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy
chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đã từng phải chịu
đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ
bằng việc giúp các ngài được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho
tuổi già của các ngài, hãy làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài
còn sống, vì khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống,
mà còn phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu
nguyện, bằng việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở
cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng
việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang
tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên
bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát triển
tài sản tinh thần mà cha ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái
nên người, qua việc giữ gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của
tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần
tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà
cha mẹ, bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà,
vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả
ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không
có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng
thời cũng đòi buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận
giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm
người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến
việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái,
và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí
đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái trong
việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến và hăng say
làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các em
có thói quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các em sẽ trở thành người tín
hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa
qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng
làm cho bữa cơm gia đình thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự
chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ
trong đời sống của gia đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy
dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm
cúng, hãy cùng nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia
đình mình trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần
mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng lời và
chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi ngườui tân có
mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ. Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn
Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn
cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ
để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói
cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi
người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài.
Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn
hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài.
Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của
cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi
dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ
gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự
đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận
Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các
môn đệ: "Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình
an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã
thắng thế gian" (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha
tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để
Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân
thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời
cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ
nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ
đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian
làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là
Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho
chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện
sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự
chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu
liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự
hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở
thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự
vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở
đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc
vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với
Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ
và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ
không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt.
Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ
những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa
Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các
môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn
đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các
ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn
luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới
thiệu Ngài là "Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống
đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống".
Ngài còn nhấn mạnh: "Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và
Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết".
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho
sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống
làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi "làm thế nào có được sự
sống đời đời", là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người
hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin
vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự
chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết
với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc "ăn thịt
và uống máu Người"
"Ăn thịt và uống máu Người"
nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành
nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của
Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do
cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái
chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời
đời; "Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ
phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin
vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha,
Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong
thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình.
Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng
chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của
chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự
hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót,
biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước
vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài
đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu
nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống
lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh
hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã
khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã
qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08,
nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những
ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống
kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị
em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình
Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6,
37- 40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng
dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo
Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội
muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như
vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất;
trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta
nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã
"vắng bóng"được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng".
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng
ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.
Giảng lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống
lại và sự sống vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta
mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố:
"Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm
nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không
phải là người xa lạ" (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng
hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu
ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được
tạc vào đá cho đến muôn đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ
vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người
nói: "Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không
để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 39).
"Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời" (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là thế nào?
Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng "ngay khi chúng ta còn
là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu,
khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình". Không để mất một
ai là "bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng
ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu
chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công
chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với
Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5, 6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để
củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống
trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những
người đã chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu
Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong
nhân.
Cầu nguyện cho những người đã khuất là
một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để
mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần
hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào
Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm
Giáo Hội cùng thông công như sau: "Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ
tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này
nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng
Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong
đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn
sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ
hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết".
Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn
nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt
tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng
hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: "Tất
cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không
được vào thành..." (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới
vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439) mới định
tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa
là tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài
xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc
biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong
ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những
người đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các
linh hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội
còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh
hồn, vì: "Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống" (Tục
ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến, có
cầu...thì người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người
"chết". Nếu chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi
gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.
Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi
nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại
Việt Nam ,
tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để
suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được
ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án:
"Đau khổ của tình yêu".
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất
sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa
trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung
nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn
nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ
muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu
nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc
mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng
nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những
tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết
là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan
trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết
đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá
bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng
rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn
Phúc Âm: "Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình,
nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy
rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ
Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu
lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại:
suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn
những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn
khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên
này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng
không được" (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những
chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau
khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này
được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa,
chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ
vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái
lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh
đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người
dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó
đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã
được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa
trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong
nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một
ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng
kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào
đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán
xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: "Người khoẻ mạnh không
cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha
muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào
lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng,
nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được
yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng
tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự
tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động,
đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm
được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm
hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta
khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha
thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám
phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám
phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn
ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người
khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu
đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa
trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là
tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi:
"Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con" (Ga 15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy
sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau
khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của
một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách
tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu
nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô
đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó
khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của
người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống.
Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm
kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng
dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết.
Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không
gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một
đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái
cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi
được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ
ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi
ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ
con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc
bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ
cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên
trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể
sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay
này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều
đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu
con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta
một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà
cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song
thân".
"Biết thờ song thân", thờ
trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha
mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và
thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc
đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công
trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành
cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng
Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu
không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ
che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công
Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không
thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của
cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao
la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu
tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình
thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con
thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha
tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì
tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải
là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời.
Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi
các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của
chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để
lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu
con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống
cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta
được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình
thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn
phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của
lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng
dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành
cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu
mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận
dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy
làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách
trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân
thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ
tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là
có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà
thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào
ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn
định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu
những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy
Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của
biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng
cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được
thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng
phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây,
luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa
thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những
cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh
ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và
chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm
thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng
với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách
nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy
không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện
và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật
công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết:
Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của
Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với
nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi
phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện,
những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta
thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình
phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều,
đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt
đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết
Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh
luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là
lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn
không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi
của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng
và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục,
nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là
thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải
tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn
ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một
sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng
tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong
cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng
thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho
các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để
họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị
cứu rỗi.
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc
dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân
lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay
trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới
mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng.
Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia
sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm
được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ
thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết,
hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải
là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì
linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương,
khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người
sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ,
những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm.
Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông
xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy
bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng
đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản
ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc
phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về
trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói
riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm
đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ
trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc
đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con
Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và
ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những
chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ
thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát
triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát
triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã
phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của
mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ
hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với
hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho
ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không
được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ
tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như
tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế,
thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi
chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực
và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt
chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi,
là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống
theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại
tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như
người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như
người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm
này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải
tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người
truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên
đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi
có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong
tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như
người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời
Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu,
tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng ta đã
từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu
thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.
Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì
chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu
ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động
lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh
em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó,
chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an
lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu
thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu
mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:
ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên,
tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ
có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng.
Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết
tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần
chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi
mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ
còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao
một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản
thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi
chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và
hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta
bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng
tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang
tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách
kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ
an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình,
tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi
thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về
nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào
luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới
quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người
đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như
vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một
người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố:
Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên
trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì
ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một
căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh,
luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch,
xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn
đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục
thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu
hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ
trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên
đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì
chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm
rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến
chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội
lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối.
Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay
lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của
Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ
xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn
mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là
tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng
nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh
nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói
buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các
ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi.
Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn
dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông,
chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh
lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến,
đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài
một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một
hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5
nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang
Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường
chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong
lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn
tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để
được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã
lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con
trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị
vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương.
Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập
với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được
tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một
đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã
cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp
chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một
cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn
người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh,
ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung
vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả
đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc
phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người
bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã
gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người
đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những
trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ
cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một
lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang
cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ
hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống
đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo
lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng
quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm
kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những
khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời
đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc
và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải
lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có
thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong
sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai
tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả
cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi
trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi
hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con
người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi
vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung,
nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống
trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục.
Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc
bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng,
như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau:
"Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và
nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất
vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến
gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì
của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin
sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không
thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con
người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi
người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình
tôi" trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em
không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước
xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương
mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến
mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi
lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái
thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không
một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời
gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời
mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những
trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A
đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng
nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử
quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa
sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài,
ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói:
"Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây
giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở:
"Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy
thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5).
Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi
thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng
không biết mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua
với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già.
Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm
nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi
thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời
mình, Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu
mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà
không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân
xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp
từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những
lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi
đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu
trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo:
"Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao
chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?"
(Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết
những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng
lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi
tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh
và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi
thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để
buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười
nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có
thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo
cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi
đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách
sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói:
'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng
lúc nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự
sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn
tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói:
"Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng
ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một
thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về
sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi
kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy
mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có
khuynh-hướng chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua
Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi
đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên
phán cho mọi người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi."
(Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn
"Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng
than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời
nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một
tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao
lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống
sung-sướng trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút
chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu
thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi
thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong
cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì
đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó,
các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng
Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác mình con
cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng
cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được
trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác
nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con
dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến
Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong
tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con.
Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em
lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em
trai: "Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã
sống cuộc đời rất tốt lành?" Không do dự, chú bé đáp: "Hãy lên trời
sống với Ta". Rồi linh mục hõi một em bé gái: "Còn những người sống
cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?". Cô bé đáp:
"Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác". Linh mục
nói tiếp: "Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để
lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?" Một em bé nhanh
nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: "Thiên Chúa
sẽ nói: "Ta sẽ nhìn các con".
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong
nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và
trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong
luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời
và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua
đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác
được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó
không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên
họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ "luyện
ngục" trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính
Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài
nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi
linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến
khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở
thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử
luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục.
Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết:
"Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ
được tha thứ tội lỗi" (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập
công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng
có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa
và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau
khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những
người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng
việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: "Xin Chúa nhớ
đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày
sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa".
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã
nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy
nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng
đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người
thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều
người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được
thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là
một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện
cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng
manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh
cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông
hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô
đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần
đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các
thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai
đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông
trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã
viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những
người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc
lành thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như
sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với
Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa
Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận
thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh
thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ,
hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong
chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính
cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và
một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với
chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn
là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu
liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con
người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những
người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất
diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người
nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ,
bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân
cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh,
là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta
trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin
Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho
chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không muốn con người đau
khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới
được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản
chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn
trọng lề luật? hay sự gì khác?
3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài
Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt
yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ
luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về
luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người
Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng
ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo.
Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn
toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là
"Thanh Luyện"» (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm
cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một
chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn
hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn
thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là
«nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không
phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh
hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc,
không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa
Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa,
ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó
phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa,
mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn
hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có
thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những
tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích
kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù
chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau
khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô
nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một
cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước
vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh
luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối
gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn
con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách
thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp
cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân
gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã
yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ
chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi.
Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi
mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ
không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ
tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người
vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người
khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu
họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau
khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích
kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết
đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau
khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại
hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau
khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc.
Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và
không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa
sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật –
hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và
thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc
đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình
chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm
nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà
anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của
Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng,
vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế,
anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát
tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với
hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn
vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí
quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm
tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài
đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều
người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn
quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình
thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho
mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ
thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài
tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại
đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ
ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực
nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang
phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội.
Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi
muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ,
hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức
tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy
dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên
mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi
đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống
gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ,
mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc,
thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh
phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người
tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu
thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả
hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho
tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong
bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực
nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một
gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh
phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không
phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ
phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại
hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi
trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã
hội... và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật
này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu
không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi
gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga
4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ,
mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ
đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả
năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh
phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm
nghiệm trước ở ngay trần gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã
qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được
nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta
phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng
thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết
luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải
thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn
cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên
Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận
chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha
thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may
mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh
lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và
mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một
tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin
với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi
nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy
sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi
suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự
tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người
mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh.
Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp
tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ
kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang
chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong
sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người
bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng
ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ
điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những
hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì
các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa
thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn
cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử
tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới
hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ
giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu
cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa
là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây
ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn
nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng
và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là
hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
24. Các linh hồn
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một
hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân "Liên minh thiên đàng".
Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người
thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một
tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển
lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. "Liên minh thiên
đàng". Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người
nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển
giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam
kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa "Liên minh thiên đàng"
tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không
có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên
đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày
càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp
nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những
người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ
quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không
có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi.
Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa
người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải
tin và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín
điều của người công giáo và hãng bưu điện "Liên minh thiên đàng" của
Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật
chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong
muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào
quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc
hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân
quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ
ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay
không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau
là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn
sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa,
khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt
hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu
cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu
toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn
sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống
thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù
nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa
với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình
ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan
trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ
thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm
nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người
hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra
sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã
biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn.
Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà
thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia
thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu
giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là
hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ
ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để
giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay
hãm mình, xin lễ cầu nguyện... Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các
Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc
chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của
chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc
vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn
và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ
đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ
suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng
đáng lám con cái của Chúa.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những
môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d'Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên
thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc
ngai sáng chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là
chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc
về Phanxicô d'Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ,
thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ
là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể
như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã
ban cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy
dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và
ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời
nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta
tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn
như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên
mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không
bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại,
chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc
khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng
ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không
phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người
đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm
lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được
quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ
biết điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn.
Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn
quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc
thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu
ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì
phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở
nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng
của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm
nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà
chính là Chúa nâng lên.
2. Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường
là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là
gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không
chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của
Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không
muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể
gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác
vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng
thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy
dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống
thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính
Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ
phục vụ cho mọi người...Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong
Nước Trời...
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang
địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng
năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng
những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã
không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã
kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức
quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để
dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài
đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận
thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt
chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong
lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn
mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người
tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung
tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ
lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ
không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác
được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết
từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định
đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích
cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt
đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những
vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu
vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan
trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên
Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công
việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên
dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự
hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ
tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó,
thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta
nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta
bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã
hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên
hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý:
Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan
hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người
bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được
kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người
đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải
kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với
nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung
quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã
hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc
chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên
Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người
lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự
mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì
lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào
một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia
đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực
nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng
cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng
quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và
trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu
toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của
mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho
những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong
bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc
Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy,
cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: "Thầy là Chúa, là
Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã
làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?" (Ga
13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không
còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ.
Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến
thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi
con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không
trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm
bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi
nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để
người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết
đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính
phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con
cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập
một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực
hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên
một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền
văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu
nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm
Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy
trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện
diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan
hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi
gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong
Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy
điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích
Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
4. Hãy sống trong sự thật
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ,
một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng
chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa
đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi
mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy
tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền
triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân
không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong
suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng
có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã
đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ
thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành
bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng:
Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ
như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự
tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, "Chiếc áo
không làm nên thầy tu". Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành
trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một
cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh
lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm
nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành
địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào
cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự
tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi
công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn
mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và
kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn
đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là
phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. "Anh
em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha
trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau". Vì thế, "trong
anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em".
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm
nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến
giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và
Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn,
nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại
phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục
(triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân
đai, cờ quạt, kiệu rước... đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật,
một "Giáo Hội nghèo của người nghèo". Công Đồng Vatican II đã bỏ đi
nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của
Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám
Mục giáo phận Spokane , Wa . Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận:
"Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như
Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta
là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!" Từ cái bối rối này, Đức Cha
Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực
thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và
gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một
căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng
rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: "Vua thì phải
sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho
Giám mục". Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: "Không phải
là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân:
phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm
niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ".
"Trong anh em, ai lớn hơn cả phải
là người tôi tớ phục vụ". Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ
khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù
thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: "Cán
bộ là đầy tớ của nhân dân", ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là
"Tôi tớ của các tôi tớ" (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong
gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh
cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận
lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục
cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế,
Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: "Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống".
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra
thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người.
Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người
Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo
vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống
đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một
lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh
chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa
và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
5. Là anh em với nhau
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể
làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là
thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là
cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều
vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện
phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen
lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo
nghĩa đen. Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là
con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr
12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu
muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm
trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội
Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được
chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội
Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em
với nhau, con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của
các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ
phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà
lãnh đạo. Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự
giả hình của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy
người khác, là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa
thành thờ mình, làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu
giả hình, tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ
không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta
nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều
cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi
nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều
đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư
hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang
những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy
tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường
mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên
trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và
ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong
gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt
nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa
Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân
thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về
tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh
ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải
thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa
Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần
cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng
đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên
cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế
quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc
cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử
Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà
vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được
Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì
mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã
hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai
mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện
Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung
phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn
người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính.
Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha
niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu
dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về
lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn
nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối
khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những
người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt
kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai
mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ
cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con
chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không
giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của
con...
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở
đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con
chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về,
không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt
Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình
lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
7. Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với
nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói:
"Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn
những bản dịch cũ. "Người thứ hai thêm ý kiến: "Tôi lại thích bản
dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý
nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh". Người thứ ba trả lời: "Tôi biết
một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh
vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao
giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những
nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi
Ngài sống trên trái đất". Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như
vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ
ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và
quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã
ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi
những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con
cái Thiên Chúa, không trừ một ai: "Con Người đến không phải để được người
ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm
nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích
thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ
trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: "Anh em cũng đừng để ai gọi mình
là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người
làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em".
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của
tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh
đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả
trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị...
Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm
trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số
vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm
của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh
thần của mình: "Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền
dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta,
Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc
lành của các ngươi thành tai hoạ".
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa
Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên
những người Biệt phái và các Kinh sư "ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy...
họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ
thấy... ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc... ưa được chào hỏi ở những nơi công
cộng và được thiên hạ gọi là rabbi".
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu
tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng.
Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng
thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công
chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng
thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời
mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe
có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần
đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói
nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói
và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập
với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói
hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là
càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và
đáng bị Chúa mắng cho là "Họ nói mà không làm"!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều
Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ
tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát
biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên
ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có
lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy
rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây
giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của
người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải
khoanh tay cúi đầu: "Con xin phép lạy cha ạ!" Lạy mà còn phải xin
phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách
nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để
trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải
thích:
"Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có
các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong
Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả
thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em
mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu
độ".
8. Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và
dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa
Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình,
giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân
chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin
Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt
quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người
Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức
trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân
danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói
đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những
việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường
thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa
lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính
cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ
là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ,
từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì
lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn
nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ
khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi
luật", nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và
thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy
tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có
hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với
chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền
phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái
độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể
chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối
sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay
gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách
sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống
thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những
người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi
chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả
hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn
hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà
lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại
thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy
giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ
trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ
trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang
nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên
ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì
những người: "Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người
không gươm". Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình,
ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy
có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử
tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra
đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của
chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có
thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có
thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra
mặt chuột". Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai
biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn
là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng
Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là
điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những
việc đạo đức.
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm.
Trần Ngà
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình
lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người
đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt
vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn
lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức
Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao
cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một
khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người
nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy
bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa
Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài
cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên
trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong
đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở
những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn
nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông,
ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai
đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là
Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai
vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và
Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ
cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng
muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách
khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại
giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào
của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu
tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua
áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu
trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ
gọi là thầy" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người
không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào
ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm
tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội
minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (=
bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản
chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của
ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những
người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao
đẹp và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người
khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các
môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực
để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ:
"Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc
10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được
mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng
điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910
tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ,
từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục
vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ
được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập
Dòng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta
để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người
phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa
Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ
là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại
Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi
thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu
của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo
Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất
trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ,
hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh
Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa
Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm
vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi,
nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương
Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương
và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
10. Biệt phái giả hình
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio
Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần
tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục
đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục
ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say
chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào
ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ
sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ
cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân
đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề
chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ
nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay
cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay
không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những
điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả
hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê
bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính
mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật
nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm
nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ
không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng
tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được
sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông
minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn
nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta
xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích
trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3
của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn
ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm
là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá
nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của
cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi
cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô
tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa
cho bản thân chúng ta và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng
là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần
gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh
chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với
anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần.
Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa
thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan
hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng
một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để
thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước
vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh
đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình,
chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều
này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai:
với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như
tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở
mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống
mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng con canh tân đời sống và
được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
11. Sống chân tình
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba
gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông
tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho
bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống
những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có
hương, có bóng hình mà không có sự sống. Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng
được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho
mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần
những con người giả hình ấy. Người nói: "Họ bó những gánh nặng mà chất lên
vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào". Người
giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính
khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi
công cộng, và muốn người ta gọi mình là thầy. Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả
khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong
đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng
thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi
cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải
phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh
của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói
và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói "Con người
ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống
điều họ nói".
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án
một ai, vì khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật
xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi
sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng
muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay,
Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn
trong mỗi chúng ta: "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người
phục vụ anh em". Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy người
là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất
là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn
theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục
vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: "Người được chấp nhận không
phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao". Hãy soi đời
mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
12. Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo
trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng
được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là
những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và
luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những
đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt
phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một
cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà
không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy
với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật
chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều
mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một
nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với
chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời
chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ
không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi
cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức
Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú
tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện
được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng
lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn
tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người
khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một
cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy
trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất
hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác
phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với
người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối
của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo
danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích
nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều
qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả
những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt
giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo
đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến
người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa
Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ.
Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
·
Chính
vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản
thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn
lời nói thì lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc
làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha
lê.
Lễ Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo hội mừng
kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội
lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái trong đại gia
đình Giáo hội. Mừng kính Các Thánh, nghĩa là mừng kính những người đang sống sự
sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao
sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là gì ?
Thưa : Thiên đàng là nơi đầy dẫy những
sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời
liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy
khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh
phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau,
là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là
anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt.
Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh là những người đã đạt tới
hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự
kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự
công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát,
nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố
: "Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả" (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của
ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là "những người
giặt áo và tảy áo trắng trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Như thế, sự thánh
thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là
"tách biệt" khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ "thánh" có nghĩa
chung là "kitô hữu", hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức
Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy
sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được
Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên
đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong
Bài đọc I: "Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo
trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính
lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên". Ca đoàn
các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên
trời, " Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa..." (Lc 1, 46). Chính trong
sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , "Thần trí tôi
hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi" (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh
phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo
mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của
Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ
công bình đạo lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức
Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : "Số
người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc
Israel" (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai
hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi
Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót
thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ
là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những
người bị bắt bớ, "họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7,
14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn
tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi
thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được
vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn
là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống
đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai
ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn
vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn
mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: "Đoàn người
đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và
mọi thứ tiếng" (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong
xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính
chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ
hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị
rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong
kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị
thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người.
Vì mọi người đều được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới
hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng
trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta
đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ
các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết
noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa
Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng
và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh
bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh
thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong
sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất
vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng
sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể "vui
mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các
Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời" (Mt 5,
12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa,
xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn
3,1-9; Lc 23, 33.39-43;
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10; 1Tx.
2, 7b-9.13; Mt. 23, 1-12
MỤC LỤC
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA
ĐỜI
1. Cái chết
2. Bốn bà vợ
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh
Hồn
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
5. Thân xác và linh hồn – John W.
Martens
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền
Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
9. Tưởng nhớ người đã ra đi
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ
tiên
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn
Văn Bản
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình
Thái
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
23. Các tín hữu đã qua đời
24. Các linh hồn
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
2. Khiêm nhường
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
4. Hãy sống trong sự thật
5. Là anh em với nhau
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
7. Đầy tớ
8. Đóng kịch
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm.
Trần Ngà
10. Biệt phái giả hình
11. Sống chân tình
12. Nói và làm
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA
ĐỜI
1. Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ
này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là
những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như
ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy
cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách
cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác.
Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải
để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu
đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả
những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho
chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta
phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì
cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi
mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật
thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích
thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta
sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến
Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh
phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết
những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được
chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ
lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình
mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban
Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải
chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan.
Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc
đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng
bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống
thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ
cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với
những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những
kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay
không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta
đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên
Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân
thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa,
thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn
nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại
chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong
cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để
rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của
Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi
khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà
đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho
bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà
như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh,
ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với
bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay
nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn
là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu
thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông,
thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết
cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ
chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can
đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng
mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh
ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn
sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ
trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh
yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia
thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em.
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước
ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ
thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh
phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về
bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống
huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới
người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao
giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng
gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay
nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người
luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em
luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu
theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và
em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn
anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh
thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang
lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới.
Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm
dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng
đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo
chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc
đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân
nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2
tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân
xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao
lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng
cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ
cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba,
sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo
mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ
tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen
chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên
thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa
Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà
Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ
thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh
Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình
Lưu)
"Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng
thánh lễ". Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền
nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh
tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: "Những đứa con hiếu
thảo". Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi
thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với
nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước
vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối
trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những
ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng
cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo
với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy
cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương
của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng
tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại
cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp
phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng
mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất
của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải
làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần
của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng
những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn
nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã
dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những
người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần
sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc
nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy,
chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu
thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe,
cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn
biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay,
chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại
chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự
thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những
héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình
ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
"Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo
nuôi chồng..."
hay:
"Cha mẹ thương con như biển hồ lai
láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính
ngày".
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn
của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào
niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái
gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở
trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau
thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân,
chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm
giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với
Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào
chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng
ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy
sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn
nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn,
là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái
hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các
đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là
đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta
biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh
hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải
từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang
diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam
mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ
trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao
xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã
chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn
đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là
Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành
với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của
Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ
lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha
thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng
phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi
hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng,
anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành
trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua
câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha
mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng
linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ
lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời,
bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng
2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha
muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu
Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ,
tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình
thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan
đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của
một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất
khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu.
Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương
làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không
người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các
con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm
của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như
không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần
hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang
gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không
làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng,
vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một
tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết
của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con,
cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp
cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ,
báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của
17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm
Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng
xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con
người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ,
dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành
công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề
siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc
làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan
trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý.
Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu
mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái
bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại
khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai
nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng
cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống
thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên
của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để
biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với
con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa
trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm
bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời
mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
5. Thân xác và linh hồn – John W.
Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
"Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày
sau hết" (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra?
Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi
người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được
phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra.
Khi chúng ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây
ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi
vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được
sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền
năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô
giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống
trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được
giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi
người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều
rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc,
và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi
chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt
trọng tâm vào thế giới mai sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với
những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường
thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có
đầy tràn hoa màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người
chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng
tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi
về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về
kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ
trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn
đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy
không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác
lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về
cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách
Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công
nguyên tại Alexandria, thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến "linh hồn
những người công chính" đã chết. Tác giả viết "Linh hồn những người
công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si
coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc.
Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ
đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào
đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình
thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp
mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa
trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và
xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc
tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người,
kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi
thân xác họ. "Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người
đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã
sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến
thắng tội lỗi và sự chết " Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai
thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi
dậy trong ngày sau hết".
Tất cả những ai còn sống trong thân xác
trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương
quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành
của Vương quốc nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời.
Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh
Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: "Để được chỗi dậy với Đức Kitô,
chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được
cư ngụ với Chúa". Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân
xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong
ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công chính đã ra đi
trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất
cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền
Lâm
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên
xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành
phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh
Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân
hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì
hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các
đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng
ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ
niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng
định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết
mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống
sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời,
để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh
hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những
người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn
thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời
Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn
để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày
sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết
nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp
thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý
Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin
vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và
được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được
cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay
minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với
người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng
lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa
tội "bằng lửa"). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin
hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên
ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội "bằng máu"). Lại nữa, Ơn Cứu Độ
của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế
mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: "Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng
sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng
Người" (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa
là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: "Chúa Giêsu đã chết để cứu
chúng ta là tội nhân..." (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa,
chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa
Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng
lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca
23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này,
tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy
(bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà
con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: "...Thiên Chúa sẽ lau khô mọi
dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa
tiệc... Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông..." (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh
Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp
cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian,
bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc
khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích
lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần
một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn
sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như
người "trộm lành" kia, theo Chúa trong "giờ thứ 11", nghĩa
là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng
"trộm lành" có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của
các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế,
chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của
mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà
thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin
nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm
của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin
Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình
bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong
sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà
phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu
đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn
của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ
giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng,
là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống
niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây
giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào
Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào
Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan
11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc
đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi
được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên
xưng của cô Martha.
- "Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây
thì em con đã không chết"
Phải, "được Chúa thì được tất
thảy, mất Chúa thì mất sạch tay". Lời nói của Martha như là một lời than
trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách
diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng
Chúa Giêsu.
- "Bất cứ điều gì Thầy xin thì
Thiên Chúa cũng ban cho Thầy"
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng
bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh
hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón
rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng
với muôn vàn ơn phúc.
- "Con biết em con sẽ sống lại khi
kẻ chết sống lại trong ngày sau hết"
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong
kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Đức tin
Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh
hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục
sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà
trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ
đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự
hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các
linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự
sống.
- "Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống"
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh
hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết
yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính
Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào
Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- "Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi
thì vẫn sẽ được sống"
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa
trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này.
Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều
vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ
dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự
sống vĩnh cửu.
- "Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết"
Lời này hướng đến chúng ta là những
người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên
sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống
vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
"Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên
Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên
Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người". (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất
sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt
sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một
túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn
về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời
khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về
thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất
đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt
vọng: "Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị
đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến
để cứu anh. "Làm sao các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những
người cứu mình. Họ trả lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống
trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó
cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt
vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn
trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình
đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc
khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin "xin cứu giúp
họ". Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã
khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện
nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu
mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy:
Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
"Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy
một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình
người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt,
hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực
lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình
họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp
nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh
và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi.
Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con
thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài
trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người
Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa
soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng
không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ
tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ
của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người
đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không
còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được
xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội
cũng khẳng định: "Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa
được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu
thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng
phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được
chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số
1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các
linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả
nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức
mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho
những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi".
Mỗi người chúng ta đều có những người
rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh
lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta "Xin đừng quên
tôi". Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp
nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu
nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
"Bố ơi, trong cuộc đời của một cây
chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?"
"Chỉ một buồng duy nhất." –
Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của
bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho
vài buồng quả.
"Khi buồng chuối chín cũng là lúc
cây chuối mẹ chết đi." – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây
chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ,
và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối
nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn,
cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây
chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong
gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những
trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn
chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây
chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ
đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát
triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà
còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là
mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới
biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh
đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã
một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái
chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta
không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể
hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển
cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già,
không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song
thân".
"Biết thờ song thân", thờ
trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ
hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao.
Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời
con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho
chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì
tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh
vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài
cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài
còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính
Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con
còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một
lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ
mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn
canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách
chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ
cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy
tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng
tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta "ăn quả
nhớ kẻ trồng cây". Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo
với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết
kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh
tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn
Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã
khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh
Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng
ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu
cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu
nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho
người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu
Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc
biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay
sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp
nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày
lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được
một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có
thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công
Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của
người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ
này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất
hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và
họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách
tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay
đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay
không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá
trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên,
đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa
với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân
yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên
Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội
là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian
ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà
Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa,
vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu
Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh
hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng
với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp
đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard
Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi
đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau
đớn
vì phải chia tay với những người thân
yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn
cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập
giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục
tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi
sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ
của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh,
ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua
thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn
tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ
hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của
chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ
biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc
Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm
tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần
gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người.
Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời
sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung
lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ
áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống
trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc
về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ
cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện
diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm
tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải
qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng
nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này.
Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ
đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa
vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và
sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả
những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh
cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết
người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng
ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha
mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi
dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi
dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã
hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó,
nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời
ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn
thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu
ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái,
cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua
những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những
giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần
đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này
luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn
thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục,
những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần
đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh
làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao
giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục
là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm
thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với
trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ
vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống
xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong
lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua
trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa
dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ
đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy
Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã
được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã
nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng
dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của
nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và
âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho
tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các
thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen
thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những
kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng
ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời
sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời
vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người
mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin
dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ
có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên
đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho
linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên
trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho
chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm
qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch
xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã
cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với
Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn
và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa
lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa
Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua
đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát
triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình
hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên
Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ
về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho
chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại
sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng
đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng
Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.
Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ
cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống
lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ
xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của
tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm
ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích
lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi,
bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm
chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta
không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với
một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn
đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không
phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện
hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì
số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả
thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ.
Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết,
nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời
Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách
riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào
đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết
không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc
và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn
đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính
khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết
của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện
trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng,
yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng,
trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được
Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con
người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần
linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với
một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không
phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì
thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của
ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ
chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên
nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn
nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm
được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh
quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao,
vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một
thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu
và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có
những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước
mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập
giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước
Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì
làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng
ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích,
tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh.
Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những
người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng.
Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những
người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng
sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của
Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm
"lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài
"Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì
về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc?
Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần
thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối
Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để
thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc,
chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu
chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào
Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi
công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa
Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự
Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc
lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ
đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này,
sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở
nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng,
chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có
ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức
Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm
tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục
là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được
hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội,
nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ
chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ
vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất
niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây
không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không
phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là
thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa.
Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào
lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp
tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ
giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải
chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi.
Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên
đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có
thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ
còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây
chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách
đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm
an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt
hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương.
Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức
yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng
được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh
hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người
nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa
mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan)
của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu
thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài
cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia
trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều
biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không
phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi
chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh
hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên
đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những
con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ
lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta
phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh
phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển
cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng
ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta
cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ
tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của
những ngày cuối năm dường như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội
vàng và tranh thủ thời gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải
chạy theo dòng thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện
diện của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà.
Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm để nhắc
cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu thì cũng
phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người.
Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho
các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân, những người đã ra đi trước chúng ta
và đã đang an nghỉ trên mảnh đất này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo
hiếu với những bậc sinh thành những người đang còn sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự
thật không thể thay đổi, thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế
nào và sau cánh cửa sư chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh
phúc, hay đau khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết
sống hôm nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người
có sinh thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến
trình tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn mang một ý
nghĩa khác, nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì thế, cái chết nó trở
nên kinh khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách tránh né nó,
không dám đương đầu đối diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm cách lẩn
trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc
và quay cuồng với tiền bạc của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và
sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng điều
quan trọng là mỗi người sẽ chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau
cái chết? Cứ nhìn vào những nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể
thấy, nhiều người khi sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang
dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì,
điều quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn như
thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta
chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn
Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay
trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không thể
đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta
có thể mang theo đó là tình yêu đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối
với anh em, và chỉ có một thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc
bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc
cho chúng ta về cái chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải
sống thế nào cho trọn đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng
bên nấm mồ của người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà
còn có những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ
phàng với người đã khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều
tăng giá, chỉ có đạo đức làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người
đối xử với nhau càng ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt
cũng bị coi như hàng hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao
nhiêu cảnh đối xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta.
Có nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một
đứa ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập nhục mạ
những đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra bạc
triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi
thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc
làm đó không phài là báo hiếu, không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả
hình, là phô trương che mắt thiên hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc
sinh thành không chỉ là bổn phận của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của
Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết
lòng yêu mên, kính trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ
cha mẹ chồng của mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì
chính cha mẹ là những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi
cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước
mắt. Cha mẹ chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn
lớn và dạy chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống
và món nợ của tình yêu thương. Hãy kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các
ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy chịu
đựng và chăm sóc các ngài, như ngày xưa các ngài cũng đã từng phải chịu đựng và
chăm sóc cho chúng ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc
giúp các ngài được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của
các ngài, hãy làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài còn sống, vì
khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống,
mà còn phải biết ơn cha mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu
nguyện, bằng việc hy sinh hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở
cho con cháu biết ơn các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng
việc chu toàn việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang
tiếng, những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên
bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát triển
tài sản tinh thần mà cha ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái
nên người, qua việc giữ gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của
tổ tiên, đừng để cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần
tiện nhỏ nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha
mẹ, bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, vì
sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả ấy,
chúng ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không có
bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng
thời cũng đòi buộc bổn phận của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận
giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm
người làm con Chúa, sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến
việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái,
và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí
đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái trong
việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến và hăng say
làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các em
có thói quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các em sẽ trở thành người tín
hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa
qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng
làm cho bữa cơm gia đình thật sư là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự
chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ
trong đời sống của gia đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy
dùng đời sống đạo đức và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm
cúng, hãy cùng nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia
đình mình trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần
mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng lời và
chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi ngườui tân có
mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ. Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn
Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn
cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ
để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói
cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người
đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài
chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa
ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa
Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho
gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh
nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với
cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với
Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và
bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ:
"Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình
an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã
thắng thế gian" (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời
và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha
tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để
Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân
thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời
cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ
nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ
đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian
làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là
Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho
chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện
sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự
chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu
liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự
hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở
thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự
vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở
đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc
vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với
Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ
và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ
không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt.
Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ
những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa
Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các
môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn
đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các
ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn
luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới
thiệu Ngài là "Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống
đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống".
Ngài còn nhấn mạnh: "Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và
Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết".
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho
sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống
làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi "làm thế nào có được sự
sống đời đời", là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người
hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin
vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự
chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết
với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc "ăn thịt
và uống máu Người"
"Ăn thịt và uống máu Người"
nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành
nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của
Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do
cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái
chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục
nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời
đời; "Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ
phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin
vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha,
Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong
thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình.
Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng
chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của
chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự
hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót,
biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước
vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài
đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu
nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống
lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh
hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã
khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã
qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08,
nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những
ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống
kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị
em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình
Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6,
37- 40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng
dành riêng cầu nguyện cho các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo
Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội
muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như
vậy, hôm nay quả là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất;
trong đó có ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta
nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã
"vắng bóng"được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên
đàng".
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng
ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.
Giảng lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống
lại và sự sống vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta
mới hùng hồn tuyên tín như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố:
"Sau khi da tôi đây bị tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm
nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không
phải là người xa lạ" (G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng
hằng bênh vực ông vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu
ông. Niềm tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được
tạc vào đá cho đến muôn đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ
vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người
nói: "Ý của Đấng sai tôi là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không
để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 39).
"Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời" (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là thế nào?
Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng "ngay khi chúng ta còn
là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu,
khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình". Không để mất một
ai là "bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng
ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu
chúng ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công
chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với
Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5, 6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để
củng cố thêm niềm tin của chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống
trường sinh hạnh phúc với Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những
người đã chết được, nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu
Cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong
nhân.
Cầu nguyện cho những người đã khuất là
một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để
mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần
hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào
Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm
Giáo Hội cùng thông công như sau: "Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ
tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này
nhưng đang được tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng
Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong
đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn
sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ
hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết".
Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn
nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt
tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng
hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: "Tất
cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không
được vào thành..." (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới
vào được Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng
Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa
là tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài
xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc
biệt hôm nay ngày 2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong
ngày). Giáo Hội kêu gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người
đã khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn
nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội còn
khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn,
vì: "Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống" (Tục
ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến, có
cầu...thì người chết mới mát mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người
"chết". Nếu chết là chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi
gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.
Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi
nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại
Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để
suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được
ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án:
"Đau khổ của tình yêu".
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất
sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa
trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung
nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn
nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ
muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu
nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc
mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước
mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những
tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết
là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan
trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết
đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá
bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng
rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn
Phúc Âm: "Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình,
nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy
rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ
Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu
lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại:
suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn
những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn
khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên
này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng
không được" (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những
chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau
khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này
được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa,
chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ
vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái
lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh
đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người
dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó
đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã
được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa
trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong
nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một
ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng
kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào
đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán
xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: "Người khoẻ mạnh không
cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha
muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi" (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào
lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay
mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được
yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng
tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự
tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động,
đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm
được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm
hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta
khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha
thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám
phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám
phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn
ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người
khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu
đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa
trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là
tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi:
"Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con" (Ga 15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy
sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau
khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của
một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách
tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu
nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô
đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó
khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của
người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống.
Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm
kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng
dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết.
Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không
gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một
đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái
cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi
được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ
ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi
ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ
con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc
bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ
cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên
trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể
sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay
này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều
đã khóc. "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu
con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta
một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà
cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song
thân".
"Biết thờ song thân", thờ
trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng
đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi
con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha
mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và
thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc
đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công
trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành
cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng
Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu
không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ
che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công
Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không
thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của
cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao
la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu
tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình
thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con
thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường
đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha
tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì
tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải
là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời.
Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi
các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của
chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để
lại một thông điệp cho con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu
con"... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống
cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta
được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình
thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn
phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của
lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng
dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành
cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu
mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận
dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy
làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách
trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân
thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ
tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là
có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà
thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào
ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn
định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu
những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy
Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của
biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng
cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được
thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng
phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây,
luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa
thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những
cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh
ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và
chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm
thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng
với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách
nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy
không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh
thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật
công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết:
Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của
Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với
nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi
phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện,
những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta
thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình
phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều,
đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt
đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết
Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh
luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là
lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn
không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi
của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng
và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục,
nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là
thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải
tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn
ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một
sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng
tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong
cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng
thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho
các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để
họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị
cứu rỗi.
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi
Tuần
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc
dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân
lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay
trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới
mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng.
Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia
sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm
được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ
thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết,
hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải
là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì
linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương,
khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người
sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ,
những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm.
Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông
xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy
bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng
đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản
ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc
phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về
trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói
riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm
đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ
trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc
đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con
Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và
ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những
chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ
thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát
triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát
triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã
phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của
mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ
hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với
hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho
ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không
được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ
tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như
tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế,
thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi
chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực
và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt
chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên
Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống
ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn
thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần
phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên
phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như
người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như
người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm
này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải
tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người
truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên
đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi
có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong
tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như
người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời
Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu,
tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng ta đã
từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu
thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.
Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ
vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì
chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu
ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động
lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh
em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó,
chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an
lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu
thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu
mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:
ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên,
tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ
có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng.
Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết
tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần
chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi
mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ
còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao
một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản
thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi
chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và
hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta
bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng
tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang
tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách
kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ
an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình,
tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi
thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về
nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào
luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới
quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người
đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như
vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một
người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố:
Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên
trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì
ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một
căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh,
luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch,
xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn
đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục
thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu
hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ
trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên
đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì
chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm
rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến
chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội
lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối.
Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay
lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của
Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ
xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn
mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là
tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng
nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh
nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói
buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các
ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi.
Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn
dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông,
chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh
lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến,
đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài
một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một
hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5
nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang
Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường
chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong
lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn
tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để
được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã
lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con
trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị
vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương.
Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập
với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được
tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa
khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp
giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc
trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh
của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn
người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh,
ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung
vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả
đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc
phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người
bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã
gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người
đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những
trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ
cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một
lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang
cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ
hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống
đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo
lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng
quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm
kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những
khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời
đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc
và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải
lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có
thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong
sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai
tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả
cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi
trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi
hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con
người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi
vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung,
nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống
trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục.
Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc
bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng,
như lời Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau:
"Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và
nộp thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất
vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến
gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì
của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin
sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không
thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con
người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi
người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình
tôi" trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em
không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước
xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương
mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến
mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi
lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái
thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không
một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời
gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời
mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những
trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A
đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng
nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử
quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa
sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài,
ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói:
"Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây
giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở:
"Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy
thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5).
Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi
thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng
không biết mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua
với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già.
Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm
nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi
thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời
mình, Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu
mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà
không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân
xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp
từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những
lời gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi
đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu
trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo:
"Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao
chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?"
(Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết
những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng
lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi
tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh
và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi
thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để
buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười
nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có
thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo
cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi
đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách
sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói:
'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng
lúc nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự
sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn
tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói:
"Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng
ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một
thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về
sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi
kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy
mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có
khuynh-hướng chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua
Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi
đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên
phán cho mọi người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi."
(Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn
"Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng
than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời
nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một
tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao
lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống
sung-sướng trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút
chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu
thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi
thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong
cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì
đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó,
các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng
Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác mình con
cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng
cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được
trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác
nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con
dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con
mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con
trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con.
Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em
lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em
trai: "Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã
sống cuộc đời rất tốt lành?" Không do dự, chú bé đáp: "Hãy lên trời
sống với Ta". Rồi linh mục hõi một em bé gái: "Còn những người sống
cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?". Cô bé đáp:
"Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác". Linh mục
nói tiếp: "Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để
lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?" Một em bé nhanh
nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: "Thiên Chúa
sẽ nói: "Ta sẽ nhìn các con".
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong
nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và
trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong
luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời
và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua
đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác
được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó
không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên
họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ "luyện
ngục" trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính
Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài
nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi
linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến
khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở
thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử
luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục.
Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết:
"Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ
được tha thứ tội lỗi" (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập
công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng
có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa
và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau
khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những
người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng
việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: "Xin Chúa nhớ
đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày
sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa".
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã
nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy
nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng
đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người
thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều
người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được
thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là
một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện
cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng
manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh
cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông
hiệp "các thánh thông công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô
đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần
đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các
thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai
đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông
trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã
viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những
người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc
lành thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như
sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người
và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa
Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận
thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh
thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ,
hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong
chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính
cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và
một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với
chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn
là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu
liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con
người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những
người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất
diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người
nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ,
bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân
cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh,
là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta
trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin
Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho
chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không muốn con người đau
khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới
được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo,
Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự
tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài
Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt
yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ
luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về
luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người
Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng
ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo.
Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn
toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là
"Thanh Luyện"» (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm
cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một
chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn
hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn
thánh thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là
«nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không
phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh
hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc,
không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa
Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa,
ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó
phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa,
mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn
hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có
thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những
tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích
kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ
một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ
cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm
cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái
gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào
phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh
luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối
gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn
con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách
thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp
cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân
gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã
yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ
chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi.
Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi
mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ
không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ
tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con
người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho
người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc
cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây
đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích
kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết
đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau
khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại
hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau
khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc.
Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và
không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa
sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật –
hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và
thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc
đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình
chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm
nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà
anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của
Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng,
vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế,
anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát
tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với
hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn
vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí
quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm
tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài
đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều
người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn
quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình
thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho
mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ
thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài
tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại
đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ
ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực
nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang
phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội.
Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi
muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ,
hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức
tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy
dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên
mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi
đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống
gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ,
mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc,
thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh
phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người
tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu
thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả
hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho
tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong
bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực
nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một
gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh
phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không
phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ
phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại
hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi
trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã
hội... và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật
này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu
không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi
gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga
4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ,
mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ
đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng
làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do
tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm
trước ở ngay trần gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua
đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được
nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta
phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng
thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết
luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải
thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn
cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên
Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận
chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha
thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may
mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh
lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và
mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một
tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin
với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi
nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy
sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi
suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự
tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người
mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh.
Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp
tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu
cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang
chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục
vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong
sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người
bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng
ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ
điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những
hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi
luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì
các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa
thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn
cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne
là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất
ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng
của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ
giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha
bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là
sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây
ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn
nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng
và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là
hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
24. Các linh hồn
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một
hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân "Liên minh thiên đàng".
Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người
thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một
tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển
lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. "Liên minh thiên
đàng". Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người
nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển
giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam
kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa "Liên minh thiên đàng"
tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không
có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên
đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày
càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp
nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những
người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ
quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không
có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi.
Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa
người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin
và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín
điều của người công giáo và hãng bưu điện "Liên minh thiên đàng" của
Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật
chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong
muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào
quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc
hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân
quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ
ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay
không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau
là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn
sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa,
khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt
hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu
cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu
toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn
sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống
thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù
nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa
với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình
ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan
trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ
thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm
nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người
hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra
sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã
biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn.
Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà
thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia
thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu
giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là
hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ
ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để
giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn
chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện... Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc
chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc
chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ
chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của
chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc
vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn
và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ
đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ
suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng
đáng lám con cái của Chúa.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những
môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d'Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên
thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc
ngai sáng chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là
chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc
về Phanxicô d'Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ,
thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi
chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có
thể như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như
đã ban cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy
dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và
ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời
nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta
tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn
như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên
mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không
bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại,
chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc
khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng
ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không
phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người
đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm
lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được
quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ
biết điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn.
Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn
quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc
thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu
ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì
phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở
nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng
của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm
nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà
chính là Chúa nâng lên.
2. Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường
là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là
gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không
chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của
Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không
muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể
gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác
vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng
thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy
dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống
thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính
Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ
phục vụ cho mọi người...Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất
trong Nước Trời...
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang
địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng
năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng
những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã
không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã
kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức
quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để
dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài
đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận
thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt
chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong
lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn
mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một
người tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung
tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ
lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ
không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác
được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết
từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định
đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích
cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt
đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những
vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu
vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan
trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên
Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công
việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên
dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự
hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ
tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó,
thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta
nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta
bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã
hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên
hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý:
Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan
hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người
bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được
kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người
đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải
kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với
nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung
quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã
hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc
chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên
Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người
lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự
mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì
lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào
một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia
đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực
nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng
cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng
quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và
trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình
yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho
những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong
bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc
Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy,
cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: "Thầy là Chúa, là
Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã
làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?" (Ga
13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không
còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ.
Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến
thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi
con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không
trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm
bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi
nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để
người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết
đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính
phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con
cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập
một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực
hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên
một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền
văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu
nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm
Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy
trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện
diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan
hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi
gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong
Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy
điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích
Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
4. Hãy sống trong sự thật
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ,
một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng
chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa
đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi
mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy
tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền
triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân
không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong
suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng
có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã
đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ
thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành
bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng:
Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ
như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự
tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, "Chiếc áo
không làm nên thầy tu". Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành
trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một
cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh
lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm
nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành
địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào
cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự
tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi
công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn
mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và
kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn
đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là
phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. "Anh
em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha
trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau". Vì thế, "trong
anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em".
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm
nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ
đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và
Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn,
nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại
phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục
(triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân
đai, cờ quạt, kiệu rước... đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một
"Giáo Hội nghèo của người nghèo". Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều
những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa
Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám
Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: "Trong
thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của
người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội
của người nghèo chút nào cả!" Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực
thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng:
Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc
thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ
cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá
nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: "Vua thì phải sống cho ra Vua,
Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục".
Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: "Không phải là kết toán làm
thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài
xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống
xứng đáng cho họ".
"Trong anh em, ai lớn hơn cả phải
là người tôi tớ phục vụ". Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ
khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù
thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: "Cán
bộ là đầy tớ của nhân dân", ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là
"Tôi tớ của các tôi tớ" (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong
gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh
cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận
lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục
cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế,
Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: "Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống".
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra
thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người.
Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người
Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo
vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống
đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một
lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh
chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa
và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
5. Là anh em với nhau
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể
làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là
thầy, vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là
cha, vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều
vị trong Hội Thánh là cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện
phụ... Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen
lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo
nghĩa đen. Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là
con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr
12,28), và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu
muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm
trật và quyền hành. Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội
Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được
chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội
Thánh, tôi cũng không được quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em
với nhau, con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của
các môn đệ, như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ
phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà
lãnh đạo. Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự
giả hình của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy
người khác, là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa
thành thờ mình, làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu
giả hình, tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ
không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta
nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều
cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi
nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều
đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng.
Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang
những mặt nạ. Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy
tín cho bộ mặt dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường
mang mặt nạ. Có những hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên
trong. Có những lời kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và
ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong
gương, tự ru ngủ và đánh lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt
nạ, đã ăn sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa
Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân
thành, để chúng con được lớn lên trong bình an.
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về
tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh
ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải
thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa
Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần
cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng
đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên
cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế
quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một
gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng
sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp
lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được
Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì
mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã
hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai
mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện
Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung
phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn
người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính.
Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha
niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu
dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về
lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn
nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối
khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những
người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt
kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai
mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ
cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con
chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không
giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của
con...
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở
đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con
chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về,
không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt
Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình
lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
7. Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với
nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói:
"Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn
những bản dịch cũ. "Người thứ hai thêm ý kiến: "Tôi lại thích bản
dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý
nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh". Người thứ ba trả lời: "Tôi biết
một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh
vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao
giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những
nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi
Ngài sống trên trái đất". Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như
vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ
ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và
quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã
ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi
những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con
cái Thiên Chúa, không trừ một ai: "Con Người đến không phải để được người
ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn
người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm
nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích
thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ
trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: "Anh em cũng đừng để ai gọi mình
là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người
làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em".
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của
tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh
đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả
trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị...
Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm
trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số
vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm
của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh
thần của mình: "Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền
dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta,
Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc
lành của các ngươi thành tai hoạ".
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa
Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên
những người Biệt phái và các Kinh sư "ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy...
họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng
chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ
thấy... ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc... ưa được chào hỏi ở những nơi công
cộng và được thiên hạ gọi là rabbi".
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu
tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng.
Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng
thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công
chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng
thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời
mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe
có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần
đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói
nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói
và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập
với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói
hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là
càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và
đáng bị Chúa mắng cho là "Họ nói mà không làm"!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều
Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ
tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát
biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên
ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có
lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy
rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây
giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của
người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải
khoanh tay cúi đầu: "Con xin phép lạy cha ạ!" Lạy mà còn phải xin
phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách
nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để
trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải
thích:
"Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có
các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong
Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả
thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em
mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu
độ".
8. Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và
dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa
Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình,
giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân
chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin
Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt
quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người
Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức
trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân
danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói
đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những
việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường
thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa
lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính
cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ
là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ,
từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì
lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn
nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ
khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi
luật", nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và
thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy
tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có
hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính
mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức:
cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái
độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể
chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối
sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay
gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách
sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống
thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những
người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi
chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả
hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn
hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà
lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại
thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy
giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ
trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ
trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang
nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên
ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì
những người: "Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người
không gươm". Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình,
ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy
có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử
tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra
đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng
ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể
sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể
sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt
chuột". Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết
chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là
không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng
Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là
điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những
việc đạo đức.
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm.
Trần Ngà
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình
lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người
đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt
vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn
lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức
Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao
cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn
thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một
khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người
nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy
bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa
Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài
cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên
trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong
đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở
những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn
nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông,
ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai
đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là
Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai
vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và
Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ
cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng
muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách
khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại
giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào
của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu
tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua
áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu
trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ
gọi là thầy" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người
không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc
vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm
tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội
minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (=
bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản
chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của
ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người
không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp
và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác
mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các
môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực
để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ:
"Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc
10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được
mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng
điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910
tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ,
từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục
vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ
được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập
Dòng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta
để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người
phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa
Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ
là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại
Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi
thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu
của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo
Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất
trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ,
hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh
Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa
Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm
vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi,
nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương
Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương
và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
10. Biệt phái giả hình
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio
Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần
tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục
đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục
ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say
chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào
ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ
sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ
cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân
đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề
chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ
nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay
cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay
không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những
điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả
hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê
bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính
mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật
nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm
nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ
không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng
tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được
sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông
minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn
nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời
gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích
trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3
của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn
ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm
là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá
nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của
cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi
cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô
tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa
cho bản thân chúng ta và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng
là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần
gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với
anh chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải
với anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi
trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng
sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan
hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng
một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để
thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước
vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh
đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình,
chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều
này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai:
với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như
tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở
mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống
mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng con canh tân đời sống và
được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
11. Sống chân tình
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba
gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông
tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho
bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống
những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có
hương, có bóng hình mà không có sự sống. Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng
được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho
mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần
những con người giả hình ấy. Người nói: "Họ bó những gánh nặng mà chất lên
vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào". Người
giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính
khoe khang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi
công cộng, và muốn người ta gọi mình là thầy. Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả
khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong
đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng
thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi
cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải
phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh
của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói
và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói "Con người
ngày nay không cần những thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống
điều họ nói".
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án
một ai, vì khi chỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật
xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi
sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng
muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay,
Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn
trong mỗi chúng ta: "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người
phục vụ anh em". Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy người
là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất
là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn
theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục
vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolô viết: "Người được chấp nhận không
phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao". Hãy soi đời
mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
12. Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo
trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng
được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là
những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và
luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những
đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt
phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một
cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà
không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy
với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật
chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều
mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một
nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với
chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời
chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ
không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi
cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức
Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú
tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện
được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng
lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn
tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người
khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một
cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy
trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất
hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác
phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với
người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối
của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo
danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích
nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều
qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả
những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt
giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo
đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến
người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa
Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ.
Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để
mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với
Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với
việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không
quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.