LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA |
Thêm chú thích |
PHÁT THƯỞNG CHO CÁC ĐỘI HOA |
Thêm chú thích |
Thêm chú thích |
HOA MÙA HÈ CỦA SAPA |
THÔNG BÁO TUYỂN SINH
• Có ước muốn tìm hiểu đời sống tu trì
• Đã tốt nghiệp PTTH : tuổi từ 18-23;
Nếu đang theo tốt nghiệp đại học: tuổi không quá 30
Nếu đã trúng tuyển Đại Học, tuổi không quá
25.
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
• Thời gian : Từ nay cho đến ngày 30 tháng 07 năm 2015
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
• Thời gian : Từ nay cho đến ngày 30 tháng 07 năm 2015
• Địa điểm : Học Viện Thừa Sai VN Gò Mây, 791/2 Lê Trọng Tấn, P.Bình Hưng Hòa A
Quận Bình Tân, Tp. HCM
III. Liên hệ:
(2) Cha Giuse Phạm văn Quy – Tel: 0985218557
Quận Bình Tân, Tp. HCM
III. Liên hệ:
(2) Cha Giuse Phạm văn Quy – Tel: 0985218557
(3) Cha Giuse Đỗ Văn Thụy - Tel: 0918 874
938
(4) Email cha phụ trách ơn gọi : rakhoi999@gmail.com
IV. Hồ sơ gồm:
(4) Email cha phụ trách ơn gọi : rakhoi999@gmail.com
IV. Hồ sơ gồm:
1.
Đơn
xin tìm hiểu ơn gọi theo mẫu (có dán ảnh và cha xứ xác nhận)
2.
Bản sao
Bằng Tốt Nghiệp Phổ Thông Trung Học hoặc Tốt Nghiệp Đại Học
3.
Bản
sao học bạ cấp ba hoặc bảng điểm những năm Đại học
4.
Bản sao
CMND và sổ Hộ Khẩu, sổ Rửa Tội(photô)
Hồ sơ có thể nộp trực tiếp cho Ban Đặc Trách Ơn Gọi
hoặc gởi qua đường bưu điện theo địa chỉ :
Lm Antôn M. Lê văn Thi 17/24 Ấp Chiến Lược, P.Bình Hưng Hòa A
Quận Bình Tân, Tp. HCM
V. THỜI GIAN VÀ MÔN THI VÀO ỨNG SINH:
1.
Ngày 31/07/2015
tại: HỌC VIÊN HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
2.
Môn thi: gồm Anh Văn,
Việt Văn và Giáo Lý.
3.
Thời gian: 8h -
9h30 :
môn Việt Văn;
9h45 - 11h : môn Giáo Lý;
15h -16 h :
môn Anh Văn
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
KITÔ- B
Lời Chúa: Xh 24,3-8;
Dt 9,11-15; Mc 14,12-16.22-26
MỤC
LỤC
1.
Mình Máu Thánh Chúa
2.
Dâng tiến lễ vật
3.
Ta là Bánh – Lm. Ignatiô Trần Ngà
4.
Hy lễ thập giá – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
5.
"Này là Máu Ta" – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6.
Hiến lễ tình yêu – Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
7.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
8.
Mầu nhiệm tình yêu
9.
Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy
10.
Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
11.
Vì muôn người
12.
Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
13.
Cậu bé Marcellino
14.
Tình yêu và sự sống
15.
Thánh Thể
16.
Thánh Thể
17.
Bữa tiệc
18.
Dấu chỉ của tình yêu
19.
Tình Chúa
20.
Trao ban đến tận cùng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
21.
Giao ước mới
22.
Bánh Ban Sự Sống – Peter Feldmeier
23.
Chia sẻ
24.
Bữa tiệc linh thánh
25.
Hồng ân của Bí Tích Thánh Thể
26.
Chuẩn bị tiệc Vượt Qua và khai mạc Giao Ước
27.
Chú giải của Noel Quesson
1. Mình Máu Thánh Chúa
Dân
Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập và được đào luyện để
trở thành dân riêng của Chúa. Một thứ giao kèo đã được thực hiện giữa Thiên
Chúa và dân của Ngài. Thiên Chúa ban cho họ một lề luật quy định thái độ và
cách sống của họ đối với Chúa, và của mọi người đối với nhau. Người Do Thái đã
đồng thanh thề hứa xin thi hành mọi lời Chúa đã phán. Maisen lập bàn thờ và
toàn dân cử hành nghi lễ ký kết giao ước với Thiên Chúa. Người ta giết bê để
làm lễ tế. Máu bê một nửa được rưới trên bàn thờ, một nửa được rảy trên dân.
Ở
đây lễ ký kết giao ước đã được thực hiện bằng máu bê. Và trong lịch sử của dân
Chúa, giao ước này đã không được tuân giữ từ phía dân Ngài. Nhưng Thiên Chúa là
Đấng luôn trung tín trong lòng yêu thương của Ngài. Và Ngài đã thực hiện một
giao ước mới.
Nhưng
lần này, giao ước được thiết lập không phải trong một nghi lễ, mà là bằng một
cuộc sống. Lễ vật giao hoà không phải là chiên bò hay máu của chúng, mà là
chính Con Thiên Chúa làm người, đã sống giữa con người, để mạc khải tình thương
của Chúa đối với con người và cuối cùng đã đổ đến giọt máu cuối cùng không phải
trên bàn thờ mà trên thập giá.
Tin
Mừng của thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy: Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài
đang chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua, lễ kỷ niệm dân Chúa được giải thoát khỏi ách nô
lệ người Ai Cập. Nhưng chúng ta lại cũng có thể thấy được rằng cảnh tượng diễn
ra không còn ở trong một nghi lễ mà là ở trong chính cuộc sống. Hay nói cách
khác trong chính việc cử hành lễ Vượt Qua này, cái ý nghĩa thâm sâu nhất, cái
nội dung đích thực của mọi nghi lễ được cử hành đang trở thành hiện thực.
Chúa
Giêsu và các môn đệ đang sống biến cố Vượt Qua, đang sống cuộc giao ước giữa
Thiên Chúa và con người. Cử chỉ của Chúa Giêsu, hãy cầm lấy bánh, hãy cầm lấy
rượu, mang ý nghĩa là Mình Máu Ngài, nói lên cái chết của Ngài, một cái chết
cho nhiều người mà đại diện là 12 môn đệ, đồng bàn với Ngài, nhưng cũng là
những người sẽ chối Chúa, sẽ bỏ Chúa để thoát thân, những con người tội lỗi,
yếu đuối như bao con người tội lỗi và yếu đuối khác. Nhưng với bữa tiệc ly trở
thành tiệc Thánh Thể này, khi trao cho các môn đệ Mình Máu Ngài, Chúa Giêsu tự
báo cho các môn đệ ơn tha thứ, ơn cứu thoát. Khi lãnh nhận Mình Máu Chúa, các
môn đệ lãnh nhận cho mình cuộc hy sinh của Chúa Giêsu và ơn cứu rỗi được dành
cho con người.
Chính
vì vậy mà sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nghĩa là sau khi các môn đệ đã có những
cử chỉ bất trung, các ông vẫn có thể đồng bàn với Người. Sự đồng bàn ở đây có ý
nghĩa của một sự giao hoà. Giáo Hội trong suốt dòng lịch sử, đã không ngừng lặp
lại cử chỉ này như Chúa Giêsu đã truyền dạy để tưởng nhớ đến Ngài. Nhưng không
phải chỉ là một sự tưởng nhớ trong tưởng tượng, trong tình cảm, mà là trong
chính cuộc sống bằng cách sống trọn vẹn ý nghĩa, nội dụng của nghi lễ mình làm.
Việc
cộng đoàn Kitô hữu họp lại với nhau trong nhà thờ để cử hành thánh lễ phải là
điểm khởi đầu và kết thúc của một giai đoạn dấn thân. Nghĩa là thánh lễ được cử
hành trong nhà thờ cần phải được nối tiếp trong cuộc sống và cuộc sống cũng cần
phải được cử hành trong thánh lễ tại nhà thờ chứ không được tách thánh lễ ra
khỏi cuộc sống. Bởi đó chúng ta thực sự kéo dài thánh lễ trong cuộc sống bằng
cách thực thi bái ái yêu thương hay chưa. Đồng thời chúng ta có biết gom góp
những hy sinh của cuộc sống để dâng tiến trong thánh lễ hay chưa.
2. Dâng tiến lễ vật.
Có
một mẩu chuyện kể lại rằng: Trước khi từ giã mái nhà Nagiarét để lên đường rao
giảng Phúc Âm, Chúa Giêsu đã hỏi Đức Mẹ: Thưa Mẹ, Mẹ muốn con để lại gì cho Mẹ
sau những năm Mẹ đã giúp đỡ và an ủi con? Đức Mẹ đã trả lời: Mẹ chỉ mong được
đứng cạnh con dưới chân thánh giá vào ngày thứ sáu hầu kết hiệp với hy lễ của
con.
Đúng
thế, kết hiệp với hy lễ của Đức Kitô cũng chính là điểm cao đẹp nhất mà người
tín hữu chúng ta phải thực hiện. Để hiểu được điều đó, chúng ta hãy nhìn lên
bàn thờ và chúng ta sẽ thấy những gì? Trước hết vị linh mục thượng phẩm chính
là Chúa Giêsu. Sau khi thiết lập và cử hành thánh lễ đầu tiên vào chiều thứ năm
tuần thánh, Ngài còn tiếp tục hiện diện và cử hành trong mỗi thánh lễ. Bởi vì
nếu không có Chúa Giêsu thì cũng chẳng có thánh lễ. Và như sách giáo lý đã dạy,
qua bàn tay linh mục chính Chúa Giêsu cử hành thánh lễ và dâng lên Chúa Cha của
lễ tinh tuyền, bởi vì Đức Chúa Giêsu là linh mục đời đời theo dòng Melchisédech.
Bên
cạnh Chúa Giêsu là vị linh mục, đã lãnh nhận bí tích Truyền Chức Thánh. Nhờ
ngài mà bánh rượu sẽ trở nên Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Nhờ ngài mà thánh lễ
được cử hành ở khắp mọi nơi trên mặt đất này. Như chúng ta đã thấy trong bữa
tiệc ly, Chúa Giêsu đã truyền chức linh mục cho các môn đệ, rồi trong dòng thời
gian, các môn đệ lại truyền chức cho những người khác, như vậy quyền dâng tiến
hy lễ và truyền phép được chuyển thông cho đến tận cùng thời gian. Vị linh mục
rao giảng Lời Chúa, tha thứ tội lỗi và nhất là cử hành thánh lễ.
Thế
nhưng, trong thánh lễ chúng ta không chỉ dừng lại ở đó để rồi có một thái độ
thụ động, mơ mộng hay ngủ gục. Chúng ta không xem lễ như xem một vở kịch, một
cuốn phim, nhưng chúng ta thực sự tham dự bằng cách kết hiệp tâm tình với những
lời vị linh mục đọc và những việc vị linh mục làm. Và dưới một góc độ nào đó
thì trong thánh lễ chúng ta cũng là những người cử hành, những người dâng tiến.
Để
chuẩn bị cho con mình trong thánh lễ mở tay, có một bà mẹ đã cẩn thật trồng một
đám lúa mì. Sau khi đã thu hoạch, bà xay thành bột rồi làm thành những chiếc
bánh. Và trong ngày con bà cử hành thánh lễ đầu tiên, thì chính bà đã đem những
tấm bánh ấy đến nhà thờ để dâng tiến.
Hơn
thế nữa, trong ngày chịu phép rửa tội, chúng ta cũng đã được xức dầu để thánh
hiến cho Thiên Chúa và như thế chúng ta cũng được tham dự vào chức vụ linh mục
của Chúa Giêsu, và chúng ta gọi đó là chức linh mục cộng đồng của mọi người tín
hữu, khác với chức linh mục thừa tác của những người được tuyển chọn qua bí
tích Truyền Chức Thánh. Bởi đó trong thánh lễ chúng ta cũng thi hành chức vụ
linh mục, chúng ta cộng tác với Chúa Giêsu, chúng ta góp phần bằng của lễ cuộc
đời chúng ta, đó là những lao công vất vả và những hy sinh gian khổ chúng ta
gặp phải. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: cử hành thánh lễ là việc của Chúa
Giêsu và các linh mục chứ không phải là việc của tôi. Bởi đó tôi có thể nghĩ
đến những chuyện khác trong khi tham dự thánh lễ. Có ý thức vai trò của mình,
chúng ta mới tham dự thánh lễ một cách sống động và việc tham dự sống động này
mới thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta.
3. Ta là Bánh – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chúa
Giêsu dùng một ngôn ngữ vừa hình tượng vừa thân quen để diễn tả vai trò hết sức
quan trọng của Ngài đối với sự sống của chúng ta, đó là bánh. "Ta là
Bánh".
Nếu
Chúa Giêsu ở Việt Nam ,
thì Ngài sẽ nói: "Ta là cơm", vì ở đất nước chúng ta cơm là thực phẩm
hàng ngày của mọi người.
Thân
phận của bánh, của cơm là phải chịu nghiền, chịu nhai, chịu tiêu tan và phân
hủy đi để đem lại sự sống cho người khác.
Để
trở thành cơm thành bánh nuôi sống con người, thóc lúa bị phơi ra nắng, kế đó
phải bị xay, bị nghiền, bị sàng sảy, chịu trầy vi tróc vảy, rồi mới thành hạt
gạo trong ngần. Hạt gạo nầy lại phải chịu ngâm, chịu vò trong nước, chịu bỏ vào
nồi nấu sôi rồi mới thành cơm. Khi đã thành cơm lại còn bị hàm răng của con
người nhai nghiến, chịu co bóp và phân huỷ trong hệ tiêu hoá rồi mới thành chất
dinh dưỡng đem lại sức sống cho con người.
Nhưng
để được lớn lên thành người, ngoài các loại cơm bánh thông thường, chúng ta còn
cần những tấm bánh khác. Xét theo nghĩa rộng, cha mẹ cũng là cơm bánh cho con,
vì nhờ cha mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi, con cái mới có thể lớn lên
thành người.
Cha
mẹ cũng là cơm bánh
Nhà
thơ Kiên Giang có những diễn tả rất thiết tha về tình thương dạt dào của người
mẹ, người mẹ hiến mình làm cơm, làm bánh cho con lớn lên:
"Ngày
xửa ngày xưa thời trẻ dại
Con
đau rên siết mẹ sầu lo
Bán
đôi bông cưới mua thang thuốc
Mua
bánh tai heo giấy học trò.
Đêm
nao con khóc đòi ru ngủ
Mẹ
thức mỏi mòn: nhịp võng đưa
Thân
lạnh nằm khoanh lòng mẹ ấm
Mẹ
ơi! con lớn giữa niềm ru.
Nhớ
ngày mẹ ốm nằm trong xó
Chiếu
lạnh ủ không ấm vóc gầy
Đau
đớn không hề rên siết khẽ
Sợ
con nghe tiếng mà buồn lây"...
Mẹ
là cơm bánh cho con khi mẹ thức thâu đêm để cho con say nồng giấc ngủ.
Mẹ
là cơm bánh cho con khi mẹ đem bao nhiêu dinh dưỡng trong châu thân hoá thành
dòng sữa nuôi con.
Mẹ
là cơm bánh cho con khi mẹ phải hao mòn đi cho con được lớn lên từng ngày; mẹ
phải gầy guộc đi để cho con lớn mạnh; lưng mẹ ngày càng còng xuống cho con được
đứng thẳng hiên ngang.
Mẹ
đúng là tấm bánh rất cần thiết cho con. Mẹ chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi để
con thành người khôn lớn.
Chúa
là Tấm Bánh cho loài người
Chúa
Giêsu phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh nầy sẽ được
sống đời đời". Suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu hoá mình nên như cơm
bánh, chịu nghiền tán, chịu tiêu hao đi cho nhân loại được sống còn.
Chúa
Giêsu hoá mình nên cơm bánh cho nhân loại khi Ngài gieo mình xuống thế, sống
kiếp người lam lũ thấp hèn để đồng hành và khai hoá chúng ta.
Chúa
Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho nhân loại khi Ngài chịu đau thương mất mát, chịu
tiêu hao, chịu nghiền tán... cho chúng ta được hạnh phúc và vinh quang:
Ngài
hạ mình xuống làm người phàm để cho chúng ta được tôn lên làm con Thiên Chúa;
Ngài
cam chịu vô vàn sỉ nhục cho chúng ta được vinh quang;
Ngài
phải mang đầy thương tích cho chúng ta được chữa lành;
Ngài
phải chết đi trong đau thương cho chúng ta được sống lại trong vinh hiển;
Ngài
xuống tận âm phủ cho chúng ta được lên cõi trời cao;
Và
nhất là qua bí tích Thánh Thể, Ngài hiến ban thân mình như tấm bánh cho mỗi
người chúng ta được ăn Ngài thực sự, để cho chúng ta được trở nên đồng huyết
nhục với Ngài, để Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài, để Thiên Chúa
và con người không còn là hai mà chỉ là một xương một thịt: Một sự kết hợp
nhiềm mầu và đầy yêu thương...
Hôm
nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta hãy ăn Ngài.
Ăn
Chúa Giêsu là vâng nghe lời Ngài phán dạy, là học với Ngài, noi gương bắt chước
Ngài, là uốn nắn đời sống chúng ta nên giống Ngài... để lớn lên thành người có
phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, có văn hoá.
Và
một khi đã được nuôi dưỡng hằng ngày bằng bánh Giêsu -"các con hãy nhận
lấy mà ăn"- thì chúng ta cũng được mời gọi trở thành bánh cho người thân
trong gia đình cũng như cho các anh chị em đang sống quanh ta - "các con
hãy làm việc nầy (việc Thầy đang làm) để tưởng nhớ đến Thầy".
4. Hy lễ thập giá – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm
nay lễ suy tôn Thánh Thể. Nói đến Thánh thể người ta thường hay nói đến một bữa
ăn, một bữa ăn Agape, bữa ăn huynh đệ. Nhưng thực ra, "Bản chất của Bí
tích Thánh Thể không chỉ là bữa ăn chung, mà còn và trước tiên là hiện tại hóa
hy lễ thập giá. Thiếu giá trị hy tế, Mầu Nhiệm Thánh Thể không có ý nghĩa và
chỉ có giá trị như là một buổi gặp gỡ giao hảo và huynh đệ" (Bí tích cứu
độ).
Vì
thế hôm nay, chúng ta cùng nhau khơi gợi lại ý nghĩa và những giá trị thiêng
liêng của thánh lễ.
Một
họa sĩ người Ý, đã diễn tả giá trị thánh lễ qua bức tranh như sau: Khi linh mục
dâng lễ, trên đầu ngài có 4 thiên thần bay lượn, miệng ngậm loa, sẵn sàng báo
tin ngày chung thẩm của thế giới. Nhưng xem ra các Ngài còn chờ đợi cho tới khi
linh mục cuối cùng này cử hành xong thánh lễ giao hòa dâng lên Thiên Chúa, mới
gióng lên tiếng loa định mệnh này.
Thực
vậy, Mẹ Têrêsa thành Calcutta
thường hay nói với các chị em trong dòng rằng: "Không có thánh lễ Misa,
chúng ta sẽ ra sao, mọi sự dưới gầm trời này hẳn sẽ bị tiêu hủy, chỉ có thánh
lễ mới ngăn được tay Thiên Chúa. Không có thánh lễ, chắc chắn giáo hội sẽ không
còn tồn tại và thế giới ắt sẽ bị diệt vong".
Vì
cử hành thánh lễ là hiện tái hóa hy tế thập giá năm xưa của Chúa Kytô trên thập
giá. Máu Thánh Chúa được tiếp tục đổ ra cho nhiều người được tha tội, được ơn
cứư độ. Hy tế thập giá của Chúa Kytô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn tiếp tục
tái diễn để giao hòa thế gian với Thiên Chúa.
Nhìn
vào thế giới hôm nay, người ta thấy tội lỗi mỗi ngày một gia tăng, sự dữ ngày
càng ngập tràn. Tại sao Thiên Chúa không trút cơn thịnh nộ xuống trên địa cầu?
Thưa, bởi vì hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, Con Chiên Thiên Chúa tế lễ trên
bàn thờ, xoa dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha, "và tước khí giới nơi
bàn tay sẵn sàng sửa phạt của Ngài". Chúng ta không thể đếm được các tia
lửa từ các ông khói tàu thủy tung tóe ra. Thế mà, các tia lửa đó không gây hỏa
hoạn. Vì chúng rơi xuống biển và dập tắt ngay. Cũng không thể đếm được các tội
ác hằng ngày từ trái đất xông lên và đòi sự công thẳng của Thiên Chúa. Nhưng
nhờ sự giải hòa của Thánh lễ, chúng ta được đẩy vào đại dương của lòng từ bi
Thiên Chúa và hình phạt đã không trút xuống địa cầu.
Thánh
Laurensô Giustinianô nói: "lưỡi loài người không thể kể hết những ơn phúc
từ thánh lễ: nào là tội nhân được giao hòa với Thiên Chúa, người công chính nên
công chính hơn, tội lỗi được xóa sạch, nết xấu được giảm thiểu, nhân đức và
công nghiệp gia tăng, kế hoạch của ma quỷ bị bẻ gãy".
Cha
sở họ Ars: "Mọi việc lành họp lại cũng không thể so sánh với thánh lễ
Misa, vì mọi việc lành là của loài người, còn thánh lễ là của Thiên Chúa".
Thế
nhưng, hôm nay nhiều người vẫn xem nhẹ thánh lễ. Họ đi lễ nhưng thiếu tấm lòng
đón nhận ơn cứu độ, ơn tha thứ của Chúa. Đi lễ cho qua lần chiếu lượt. Đi lễ vì
luật buộc. Vì người khác đi mình cũng được. Có mấy ai ý thức giá trị của hiến
tế thập giá. Có mấy ai hiểu được hy tế thập giá cần phải được cử hành mỗi ngày
để xin ơn tha tội và để Con Thiên Chúa lại tiếp tục đổ máu mình ra để giao hòa
với Chúa Cha.
Bên
cạnh đó, khi tham dự thánh lễ là chúng ta thông hiệp vào Mình và Máu Thánh Chúa
Kytô. Chúng ta được kết hợp nên một trong Chúa Kytô. Chúa Kytô là Đầu Hội Thánh
đã dâng chính mình làm tế lễ, còn chúng ta là những chi thể trong nhiệm thể của
Người, chúng ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén thánh là chính Mình Máu
Thánh Chúa Kytô, chúng ta có cùng chịu hiến tế chính mình như Đức Kytô là Đầu
của Hội thánh hay không? Liệu rằng, chúng ta có thể đứng nhìn Chúa chịu sát tế,
còn mình không chịu làm gì cả, hay chỉ đứng đó như những khách bàng quang, đứng
bên vệ đường nhìn xem máu Chiên Con vô tội đang đổ ra vì loài người, mà lòng
mình không cảm thấy một chút hổ thẹn hay ái ngại lương tâm? Chúa Kytô vẫn đang
đổ máu vì tội lỗi loài người. Giáo hội vẫn đang hiệp thông với đau khổ của Con
Chiên Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ đóng góp phần vụ gì trong việc đền tội cho
thế giới và cứu độ trần gian?
Chúng
ta biết rằng, trên bàn thờ tế lễ Giáo hội buộc phải có tượng Chúa chịu nạn,
chính là để nhắc nhở chúng ta phải hy sinh, phải dâng hiến mình như Chúa Giêsu
đã hiến dâng. Phải đóng góp phần chúng ta như Mẹ Maria đã đóng góp chính nỗi
đau khổ xé nát lòng mình, hiệp thông với đau khổ của Chúa Giêsu để dâng lên
Chúa Cha.
Thiết
tưởng để thánh lễ thực sự mưu ích cho phần rỗi chúng ta và cho toàn thể nhân
loại. Mỗi người chúng ta cũng phải biết gom góp hy sinh mỗi ngày như những hạt
lúa bị nghiền nát, như trái nho ép thành chén rượu mới có của lễ để dâng trên
bàn thờ. Đó chẳng phải là mồ hôi nước mắt trong lao công con người làm nên hay
sao? Đó chẳng phải là những hy sinh, những chén đắng trong cuộc đời mà mỗi
người chúng ta đang chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa hay sao?
Lạy
Chúa, xin nhận lấy hạt lúa nghèo nàn này, nó thuộc về Chúa. Dưới cối xay của
bổn phận trong bậc sống của mình, của những thập giá Chúa gởi tới. Xin cho con
được nghiền nát cho Chúa, và xin cho ngọn lửa tình yêu mến làm con trở nên một
tấm bánh tinh tuyền dâng lên trước tôn nhan Chúa. Amen.
5. "Này là Máu Ta" – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Máu
cần thiết cho sự sống. Thiếu máu nhiều bệnh nhân sẽ khó sống. Hiến máu đã cứu
được nhiều người thoát chết. Hiến máu là tặng ban sự sống. Đó là hình ảnh cuộc
hiến mình của Đức Kitô trên thập giá. Trong bữa tiệc ly, Đức Kitô cho biết
Người sẽ đổ máu ra để cứu thế giới khi Người cầm chén rượu và nói: "Tất cả
các con hãy cầm lấy mà uống. Này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới, sẽ đổ ra
cho các con và mọi người được tha tội". Máu để cứu sống, máu để thiết lập
giao ước, máu để tha tội, tất cả những ý nghĩa này đã được tiên báo trong Cựu
ước.
Máu
để cứu sống được diễn tả bằng hình ảnh con Chiên Vượt Qua. Để cứu dân Do Thái
ra khỏi ách nô lệ Ai Cập, Chúa truyền cho người Do Thái giết một con chiên còn
trong sạch, lấy máu bôi lên cửa. Đêm hôm ấy, thiên thần Chúa đến trừng phạt
người Ai Cập, nhà nào có máu chiên bôi trên cửa sẽ được cứu thoát. Để tưởng
niệm việc được cứu sống và được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, từ đó, hằng
năm vào đúng ngày ấy, người Do Thái vẫn giữ tập tục giết chiên mừng lễ. Lễ đó
gọi là lễ Vượt Qua. Con chiên bị giết gọi là con chiên Vượt qua. Khi hiến mình
đúng vào dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu trở thành Chiên Vượt Qua mới. Máu Người đổ
ra cứu linh hồn ta khỏi nô lệ tội lỗi và khỏi chết. Các thánh Giáo phụ cắt
nghĩa rằng: Miệng ta là cửa linh hồn. Người rước Mình Máu Thánh Chúa vào miệng
cũng như bôi máu chiên lên cửa nhà, sẽ được cứu sống và được giải thoát khỏi nô
lệ tội lỗi.
Máu
giao ước được diễn tả qua nghi lễ ông Môsê cử hành dưới chân núi Sinai. Bài đọc
thứ nhất hôm nay thuật lại: "Ông Môsê sai các thanh niên trong dân Israel tiến
dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa. Ông lấy một
nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. Ông lấy
cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: Tất cả những gì Chúa đã phán,
chúng tôi sẽ thi hành và sẽ tuân theo. Bấy giờ, ông Môsê lấy máu rảy trên dân
và nói: Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em". Đó là giao ước cũ hay
là Cựu ước.
Tại
Việt Nam
cũng như tại các nước Á Đông có tục "uống máu ăn thề". Khi muốn giao
kết với nhau, mỗi người lấy một chút máu của mình hòa chung vào một chén rượu.
Sau đó mọi người chia nhau cạn chén. Việc uống máu ăn thề nói lên sự đồng tâm
nhất trí. Những người cùng uống chung chén rượu pha máu trở nên ruột thịt với
nhau, cùng sống cùng chết với nhau. Đức Giêsu đổ máu ra để lập một giao ước mới
giữa loài người với Thiên Chúa. Máu Đức Giêsu giao hòa con người với Thiên Chúa
và con người với nhau. Máu giao ước đó làm cho con người trở thành con cái ruột
thịt của Thiên Chúa và trở nên anh em ruột thịt với nhau. Đó là máu giao ước.
Máu
để tha tội được dùng nhiều trong Cựu ước. Khi dâng lễ đền tội, người ta cũng xả
thịt một con vật dâng cho Thiên Chúa. Thày cả lấy máu con vật vảy lên tội nhân
để ban ơn tha tội. Khi ta rước Mình Máu Thánh Chúa, ta cũng được tha tội vì Máu
Chúa không vảy lên thân xác, nhưng vảy vào linh hồn ta.
Những
ý nghĩa mà máu súc vật trong Cựu ước tượng trưng nay được hoàn thành viên mãn
trong Máu Đức Kitô.
Nhân
loại đang rên xiết trong ách nô lệ đã được Người giải thoát. Nhân loại đang xa
lìa Thiên Chúa và bất hòa với nhau đã được Người giao hòa thành một gia đình
thương yêu thuận hòa, sống chết có nhau. Nhân loại đang sống trong tội lỗi được
Máu Người tẩy sạch mọi vết nhơ.
Chúng
ta được ân phúc dường ấy là nhờ Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Dòng Máu
Người đổ ra đến đâu đem lại sự sống đến đấy. Dòng Máu Người lan tới đâu thì ban
ơn tha tội đến đấy.
Mừng
lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy cảm tạ tình yêu vô biên của Người đã hiến mình,
đổ máu để cứu chuộc ta.
Mừng
lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy đáp lại tình yêu của Người bằng cách siêng năng
đến lãnh nhận và siêng năng đến thờ lạy Đức Giêsu ngự trong phép Thánh Thể.
Mừng
lễ Mình Máu Thánh Chúa, ta hãy noi gương Người, biết quên mình, hiến thân phục
vụ đồng loại.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Bạn có tham dự Thánh lễ và chịu lễ sốt sắng không?
2)
Mỗi khi chịu lễ, bạn có cảm nghiệm được Đức Giêsu ngự trong bạn không?
3)
Yêu mến Chúa trong phép Thánh Thể, bạn có muốn nên giống Người, biết hiến thân
phục vụ đồng loại không?
4)
Trong Kinh Thánh, máu có những ý nghĩa nào?
6. Hiến lễ tình yêu – Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc
Đối
với tất cả những người Công giáo chúng ta thì Hiến tế trên Thập Giá là nơi Chúa
Giê su đã đổ máu ra để ban ơn cứu độ, là nơi Chúa tuyên bố: "Mọi sự đã
hoàn tất"(Ga 19,30), vì hiến lễ Misa chính là Hiến lễ Thập Giá kéo dài.
Thế nhưng, khi chúng ta cùng các tông đồ đi vào bàn tiệc dự bữa Tiệc Ly với
Chúa, chúng ta đã thấy Máu Chúa đổ ra ngay từ trong bữa Tiệc ly, vào lúc Chúa
Giêsu cầm lấy chén và trao cho các tông đồ: "Này là Máu Thầy, Máu giao ước
mới sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội"(Mc 14,24). Không
phải ở trên cây Thánh Giá, Máu Chúa mới đổ ra, mà ngay giờ phút này, Máu Chúa
đã đổ ra cho nhiều người được tha tội, và các tông đồ là những người đầu tiên
được ăn Thịt Chúa và uống Máu Chúa từ Nhà Tiệc Ly.
Hiến
lễ Misa là hiến lễ được kéo dài từ Hy tế Thập Giá nhưng cũng bao hàm cả giờ
phút xúc động Chúa lập phép Mình Thánh, Máu Thánh trong bữa Tiệc Ly. Có thể
thấy, Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta chương trình cứu độ, không phải bằng
mồ hôi – là những biểu hiện vất vả đời trần thế – hay bằng những con đường
chông gai vác Thập Giá, mà ở đỉnh cao nhất, đó là Hiến Tế Cuộc Đời, trao ban
Mình và Máu Ngài cho toàn dân.
Máu
là biểu hiện của sự sống. Vì thế, khi người ta thề hứa với nhau một điều gì
trọng đại thì người ta thường gọi là "Uống máu ăn thề" (Thành ngữ).
Người Do Thái ngày xưa, khi muốn hiến dâng cho Thiên Chúa một lễ vật tinh tuyền
và đẹp lòng Thiên Chúa thì người ta muốn dâng sự sống của mình, nhưng vì mạng
sống của con người cao quý nên được thay thế bằng mạng sống của chiên cừu dâng
tế lễ cho Thiên Chúa. Do đó, máu chiên được bôi lên thành cửa (tại đất nước Ai
Cập) được biểu hiện là sự sống. Sự sống không chỉ của thể xác, mà sự sống của
linh hồn. Sự sống thể xác là lễ Vượt qua của thời Cựu Ước, khi Thiên thần Chúa
đi qua, thấy máu chiên bôi trên thành cửa thì để cho nhà đó được bình an, nhưng
nhà nào không có máu bôi trên thành cửa thì Thiên thần Chúa lập tức giết chết
con đầu lòng của nhà đó (x. Xh 12, 1-14). Năm ấy, cả đất nước Ai Cập đều có đại
tang. Còn bên đất nước Israel
thì sự sống tràn đầy và bình an đã làm cho toàn dân Do Thái được sống hạnh
phúc. Sang thời Tân Ước, Máu của Chiên Thiên Chúa, từ nhà Tiệc Ly cũng như từ
trên Thập Giá đổ ra đã trao ban cho tất cả mọi người, cho sự sống linh hồn được
bảo đảm. Vì vậy, máu là biểu hiện của tình yêu, của giao ước. Và Chúa Giêsu gọi
giao ước này là giao ước mới, mặc dầu xét về bề ngoài, trước sau vẫn là máu,
nhưng giao ước mới được đổ ra từ Chiên Thiên Chúa. Giao ước ấy mới hoàn tất
được Chương trình Cứu độ và trao ban sự sống đời đời cho những kẻ tin.
Bí
tích Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi ngày là nhắc lại cho chúng ta một hiến
tế tình yêu, một hiến tế mà Chiên Thiên Chúa đã bị sát tế và lễ Vượt qua của
thời Tân Ước hôm nay không phải chỉ vượt qua Biển Đỏ, mà còn vượt qua cả sự
chết để được vào đất hứa là Thiên Đàng. Với một ý nghĩa quan trọng đó, Bí tích
Thánh Thể là nơi hội tụ của tình yêu, là nơi kết tinh của trời đất, là trung
tâm điểm của ơn cứu độ. Nơi đây, chúng ta đến không phải bằng lòng tin mà cả
bằng lòng kính mến, vì tình yêu phải đáp đền bằng tình yêu, mà bí tích Thánh
Thể là Bí tích Tình yêu đã được Đức Giê su thiết lập không phải là bằng một lời
phán, và cũng không phải chỉ là bằng những biểu tượng bên ngoài nhưng là chính
Thịt và Máu Ngài từ tay Ngài trao cho các tông đồ, Ngài nói: "Các con hãy
cầm lấy mà ăn, các con hãy cầm lấy mà uống. Này là Mình Ta, này là Máu
Ta". Một giao ước mới được ký kết trong chính Thân Mình và Máu Chúa Giêsu.
Giao ước ấy là Giao ước Tình yêu Hiến tế. Vì vậy, đức tin chưa đủ mà cần phải
có lòng mến tha thiết để đáp lại tình yêu vô cùng của Chúa đã trao ban cho
chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể yêu thương.
Điều
lạ lùng trong Bí tích Thánh Thể đó là dùng tình yêu để xóa đi hận thù; dùng
tình yêu để cảm hóa những oán ghét. Đức Giêsu đã dùng tình yêu của mình trên
Thập Giá để xóa tội trần gian, và tình yêu ấy đã làm cho những kẻ thù của Chúa
Giêsu phải thốt lên: "Người này đích thực là người công chính"(Lc
23,47). Tình yêu ấy đã làm cho bao nhiêu những người từ trong cõi chết sống
lại. Tình yêu đánh thức tất cả nhân loại và đánh thức tất cả những ai đang ở
trong cõi chết. Đến với Bí tích Thánh Thể không chỉ bằng lời nói mà bằng cả
việc làm, bằng lòng yêu mến, bằng những hy sinh có thể được và bằng sự kết hợp
tha thiết với Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu tha thiết thưa với Chúa Cha: "Lạy
Cha, Con muốn rằng con ở đâu thì những kẻ Cha ban cho Con cũng ở đó với
Con" (Ga 17,24). Bí tích Thánh Thể đã phát xuất từ lời cầu nguyện Hiến tế
của Chúa Giêsu để đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa
Ba Ngôi, và khởi đi từ Bí tích Thánh Thể với việc chúng ta ăn Thịt và uống Máu
Ngài, chúng ta được trở nên sự sống trong Đức Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa Hằng
Sống.
Chúng
ta là người Kitô hữu, chúng ta không chỉ mặc lấy danh hiệu Kitô hữu mà còn được
nên đồng hình đồng dạng với Ngài, vì được ăn Thịt và uống Máu Ngài, được ở
trong Ngài. Khi chúng ta ý thức như vậy thì Bí tích Thánh Thể làm cho người ta
được tẩy sạch tội lỗi. Như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan diễn tả:
"Tôi thấy một trăm bốn mươi bốn ngàn người thuộc đủ mọi thành phần, giai
cấp. Họ mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành thiên tuế". Và thánh Gioan tả
tiếp: "Tôi hỏi những người này từ đâu mà đến thì được trả lời 'họ từ đau
khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trong Máu của Con Chiên'"(Kh 7,
9,14). Chính Máu Đức Giêsu Kitô đã tẩy sạch trần gian, đã tha thứ tội lỗi và đã
đưa những người yêu Chúa vào sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tất
cả được khởi điểm từ Bí tích Thánh Thể. Cho nên, điều mà Chúa Giêsu tiên quyết:
"Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy
sống lại vào ngày sau hết"(Ga 6,54). Những lời tiên quyết của Chúa Giê su
đã khiến nhiều môn đệ của Người thốt lên: "Lời này chói tai quá, ai mà
nghe được. Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa"(Ga 6,
60, 66). Chỉ có tông đồ Phê rô đại diện tông đồ đoàn mười hai đã thưa với Chúa
Giê su rằng: "Chúng con bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có
những lời ban sự sống đời đời"(Ga 6, 68-69).
Hôm
nay, sự sống đời đời nơi Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta: Hãy cầm lấy mà ăn;
hãy cầm lấy mà uống. Một lần nữa, mỗi người chúng ta đến với Bí tích Thánh Thể
trong tất cả lòng tin yêu của người Kitô hữu.
Lạy
Chúa Giêsu Kitô Thánh Thể,
Chúa
đã cho chúng con được mặc lấy danh hiệu Kitô hữu.
Chúa
còn cho chúng con ăn Thịt và uống Máu Chúa,
để
chúng con được đồng hóa trong Chúa
và
được sống bằng sức sống của Chúa
là
sự sống của Tình yêu Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người.
Xin
cho chúng con thực hiện được lời Chúa đã cầu nguyện, đó là:
"Chúa
ở đâu, chúng con cũng ở đó với Chúa",
và
để chúng con được nên một
trong
tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi
là
Cha và Con, và Thánh Thần. Amen.
7. Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa
Nhật thứ hai sau lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Đây
là lễ rất quan trọng, vì nó diễn tả sự hiểu biết và niềm tin của Kitô hữu vào
Đức Giêsu Kitô.
I.
Bí tích Thánh Thể là một sáng kiến tuyệt vời
Khi
Thiên Chúa đưa dân Do Thái ra khỏi Aicập, dân đã phải đi trong hoang địa bốn
mươi năm trường. Giữa chốn hoang vu như vậy và không canh tác, làm sao dân có
lương thực để ăn? Thiên Chúa đã cho Manna từ trời rơi xuống để nuôi dân. Đây là
một điều rất lạ lùng trong lịch sử loài người. Dân Do Thái đã tưởng rằng Môsê
là người đã cho dân Manna, nhưng Đức Giêsu đã đính chính: "Thật, tôi bảo
thật các ông, không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính
là Cha tôi đã cho các ông ăn bánh bởi trời..." (Ga. 6, 32).
Trong
bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, cũng là bữa tiệc Đức Giêsu và các môn đệ làm
theo truyền thống Do Thái tưởng niêm lễ Vượt Qua, Đức Giêsu cầm lấy bánh và
nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị trao nộp vì anh
em;" cũng tương tự vậy, Ngài cầm lấy chén rượu, dâng lời tạ ơn và nói:
"Anh em hãy cầm lấy mà uống, này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao
ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra vì anh em" (Mc. 14, 23-24).
Bí
tích Thánh Thể là sáng kiến tuyệt vời của Đức Giêsu. Bí tích Thánh Thể là biểu
tượng tình yêu của Đức Giêsu cho con người, cho thấy Đức Giêsu đã tự nguyện
chấp nhận cái chết, điều mà hôm sau như thể Đức Giêsu không thể nào trốn thoát
được. Đức Giêsu như tấm bánh được bẻ ra nuôi sống nhiều người. Đức Giêsu là
lương thực, là sự sống cho con người. "Ai không ăn bánh này, sẽ không có
sự sống nơi mình" (Ga.6, 53).
II.
Bí tích Thánh Thể hàm chứa một mặc khải sâu xa
"Làm
sao một người lại có thể lấy máu thịt mình nuôi sống chúng ta?" (Ga. 6,52). Người ta dùng
cơm bánh để sống chứ không ai ăn thịt uống máu người khác để sống. Quả thực lời
nói của Đức Giêsu thật "khó nghe" đối với không chỉ con người đương
thời nhưng cả với con người của mọi thời đại. Đứng trước người phát biểu lời
này, người ta sẽ nghĩ, hoặc đây là một người điên, hoặc đây là một người rất
đặc biệt.
Đứng
trước lời nói "sống sượng" của Đức Giêsu, một số đông dân chúng đã bỏ
không đi theo Đức Giêsu nữa. Cả một số môn đệ xưa nay đi theo Ngài, cũng bỏ
Ngài: "Lời chi mà sống sượng thế, ai nghe cho nổi" (Ga. 6,60). Đức
Giêsu cũng nhận ra điều đó; Ngài hỏi nhóm mười hai: "còn các anh, các anh
có muốn bỏ đi không?" (Ga. 6,67); và Phêrô đã có một câu trả lời rất đặc
biệt: "bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, Thầy có lời ban sự sống đời
đời" (Ga. 6,68). Thật sự, không thể ngờ rằng Phêrô có câu trả lời rất đặc
biệt như vậy. Không có ơn từ trên, Phêrô không thể có câu trả lời như vậy.
Không có ơn từ trên, người ta không thể tin bí tích Thánh Thể được.
Làm
sao một người lại có thể là lương thực nuôi sống người khác? Nếu không phải là
người bị khùng điên, thì hẳn phải là một người rất đặc biệt. Người này phải có
một nguồn gốc thần linh. Những người chấp nhận lời nói này của Đức Giêsu, phải
là người được ơn như Phêrô và các môn đệ, nhận ra nguồn gốc siêu vượt của Đức
Giêsu. Nếu chỉ là phàm nhân, thì không thể lấy thịt máu mình nuôi sống người
khác. Đức Giêsu là người thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn. Đức Giêsu là người thật
và là Thiên Chúa thật. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể.
III.
Bí tích Thánh Thể quy tụ và phát triển Giáo Hội Chúa Kitô
Ngày
xưa người Do Thái đã có thói quen tụ họp nhau vào ngày sabbát để nghe đọc Lời
Chúa. Chính thánh Phaolô cũng dùng những dịp người Do Thái gặp nhau này để rao
giảng Đức Giêsu phục sinh cho người Do Thái. Với niềm tin vào Đức Giêsu phục
sinh, Kitô hữu tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa và cử hành nghi thức bẻ bánh:
"Ngài cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán..." (Mc.14,
22). Kitô hữu không chỉ tụ họp nhau để lắng nghe Lời Chúa, mà còn để ăn thịt và
uống máu Chúa, để có sự sống đời đời.
Ngày
xưa khi nghệ thuật in ấn chưa phổ biến, việc tụ họp nhau để nghe Lời Chúa và
được nghe giải thích Lời Chúa là chuyện cần thiết. Ngày nay, với phương tiện
hiện đại người ta có thể có sách Lời Chúa để đọc hằng ngày, được nghe diễn giải
Lời Chúa bất cứ lúc nào người đó muốn, nên nếu chỉ để nghe Lời Chúa, thì người
ta không cần đến với nhau nữa. Tuy nhiên, Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp nhau,
không chỉ để nghe Lời Chúa nhưng còn để tham dự nghi thức bẻ bánh, để tham dự
bí tích Thánh Thể.
Hiểu
như trên, người ta nhận ra nét đặc biệt của giáo huấn về bí tích tư tế thừa tác
nơi Hội Thánh Công Giáo. Bí tích Thánh Thể qua thừa tác viên tư tế mang tính
xây dựng Giáo Hội Chúa Kitô. Không phải tất cả mọi người đều có thể cử hành bí
tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể không chỉ là dấu chỉ mình máu thánh Đức Giêsu
Kitô, nhưng là biểu tượng, là dấu chỉ thực, vừa là dấu chỉ vừa là thực tại, là
chính mình máu Đức Kitô. Chức vụ tư tế phổ quát, tư tế vương giả của mọi Kitô
hữu, giúp Kitô hữu tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Niềm tin
vào bí tích Thánh Thể diễn tả sự hiểu biết sâu xa của Kitô hữu về chính Đức
Giêsu, đồng thời củng cố nuôi dưỡng Hội Thánh. Đức Giêsu không chỉ là con
người, nhưng còn là Thiên Chúa nhập thể. Chính Thiên Chúa xây dựng và củng cố
Hội Thánh của Ngài qua bí tích Thánh Thể. Đức Giêsu Kitô củng cố và nuôi dưỡng
Hội Thánh Chúa mỗi ngày.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ
1.
Bạn có bị khủng hoảng niềm tin vào bí tích Thánh Thể bao giờ chưa? Nếu được xin
chia sẻ.
2.
Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống đức tin Kitô hữu không?
3.
Đức Giêsu Kitô hiện diện nơi cung lòng bạn và hiện diện nơi bí tích Thánh Thể
khác nhau như thế nào? Xin giải thích theo sự hiểu biết của bạn.
8. Mầu nhiệm tình yêu.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
"Lúc
đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống". Đó
là lời của bà Suzanna sau khi được cứu trong trận động đất ở Armêni vào tháng
12/1987. Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp dưới đống gạch, có hai mẹ con bà
Suzanna may mắn còn sống sót. Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước. Tìm đâu ra
nước khi hai mẹ con không có lối ra? Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý nghĩa
táo bạo, đó là rạch ngón tay mình chảy máu để cho con mút. Đứa bé đã đỡ khát
nhờ máu người mẹ. Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con được cứu.
Câu
truyện trên giúp chúng ta hiểu phần nào bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đã chết
để chúng ta được sống. Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết thập giá và Ngài
lấy Thịt Máu Ngài làm lương thực nuôi sống chúng ta.
Chính
trong bối cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích
Thánh Thể, bí tích của Giao Ước mới: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc
tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, đó là cử chỉ thuộc nghi thức bữa tiệc Vượt
Qua (x.Xh 12,26-27). Nhưng lời mời gọi: "Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là
Mình Thầy", Chúa Giêsu đã biến đổi ý nghĩa của cử chỉ thuộc lễ Vượt Qua
cũ, và làm cho nó trở thành cử chỉ của riêng Ngài. Cả lời Chúa phán trên chén
rượu cũng vậy: "Này là chén Máu Thầy, Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều
người được tha tội". Lời này đã gợi lại Giao Ước Sinai, nhưng ở đây giao
ước không còn được niêm ấn bởi máu chiên bò, mà là máu của chính Con Một Thiên
Chúa, máu có hiệu lực thanh tẩy tội lỗi (Bđ. 2)
Hơn
nữa, nếu trong lễ Vượt Qua, người ta cùng ăn thịt con chiên chịu sát tế, thì cử
chỉ Chúa Giêsu bẻ bánh, trao cho, ám chỉ thân xác Chúa bị xâu xé, hiến cho
người khác, và lời nói: "Máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều
người..." lại càng làm nổi bật ý nghĩa hy tế của lễ Vượt Qua mới, tức là
Bàn Tiệc Thánh Thể. Nói cách khác, dưới hình thức bánh rượu, Chúa Giêsu đã thể
hiện trước, đã cảm nếm trước cuộc vượt qua của chính Ngài, tức là cuộc khổ nạn
và Phục Sinh sẽ xảy ra hôm sau. Ngài biến cái chết thành hy lễ cứu độ đem là sự
sống, thành quà tặng và lương thực siêu nhiên cho tất cả những ai tin vào Ngài.
Nhờ đó, các môn đệ Chúa Giêsu khi ăn bữa tiệc này, đã được dự phần vào Giao Ước
mới, được hiệp thông với Ngài trong biến cố chết và sống lại, được cùng với
Ngài đi từ cõi chết vào cõi sống muôn đời. Và cũng từ đó, qua muôn thế hệ, mỗi
lần cử hành Thánh Thể, một mặt Giáo Hội tái diễn và hiện tại hoá cuộc hiến tế
của Chúa Giêsu để nhớ đến Ngài; mặt khác, Giáo Hội lại hướng về tương lai,
hướng tới ngày Chúa đến trong vinh quang để đưa chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời,
bàn tiệc viên mãn đã được khơi mào từ Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay.
Theo
lời Chúa truyền dạy: "Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy" (1Cr 11,24b),
mỗi ngày và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật, Giáo Hội cử hành Thánh Thể để nhắc
con cái mình nhớ đến tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống vì nhân loại, Đấng ấy
vẫn đang hiện diện để trao ban cho nhân loại bánh sự sống là chính Mình Máu
Ngài. Vì thế, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không hiện diện như khán giả xem một vở
kịch, cũng không phải chỉ nhớ đến một kỷ niệm trong quá khứ không liên hệ gì
đến cuộc sống thực tế, nhưng là hiệp thông sự sống với Chúa Kitô, là chia sẻ hy
tế thập giá của Ngài và cùng với Ngài tôi hiến dâng thân mình làm lễ tế sống
động đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1). Do đó, khi tham dự Thánh Lễ, tôi không
lập đi lập lại những cử chỉ, những động tác theo thói quen, nhưng tôi hiến dâng
cho Chúa niềm vui nỗi buồn, những lo âu và hy vọng, những tâm tư thao thức của
tôi. Nói chung là tất cả những gì đan dệt nên cuộc sông đời thường đều có thể
trở thành hy lễ dâng lên Thiên Chúa, những hy lễ như dấu chỉ tình yêu của tôi
nhằm đáp trả Đấng đã yêu thương đến nỗi hiến ban chính Con Một yêu dấu cho tôi.
Mặt
khác, Thánh Thể không chỉ tạo mối tương quan ân tình giữa Chúa và cá nhân tôi,
nhưng còn mờ rộng, bao trùm mọi người. Thật vậy, bí tích Thánh Thể đã được Chúa
Giêsu thiết lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa
Giêsu đã cầm và phân chia cho các môn đệ chính là bánh của bữa ăn hằng ngày nơi
Ngài sống. Chén rượu cũng vậy, và bánh ấy, rượu ấy, đã được biến đổi thành Mình
Máu Ngài. Do đó mầu nhiệm Thánh Thể còn là mầu nhiệm chia sẻ, chia sẻ để mọi
người cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ, và chính việc chia sẻ này đã được
Chúa Giêsu dùng như dấu chỉ các môn đệ làm để nhớ đến Ngài: Hai môn đệ đi Emmau
đã nhân ra Đấng Phục Sinh và chính lúc Ngài "cầm lấy bánh chúc tụng, đoạn
bẻ ra trao cho hai ông..." (Lc 24,30-31).
Ý
thức chia sẻ đòi buộc mỗi người chúng ta không được đóng khung nhưng buổi cử
hành Thánh Thể bên trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu
nhiẹm yêu thương ngay trong cuộc đời mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành
Thánh Thể một cách trung thực, nếu chúng ta sống dững dưng ích kỷ, bưng tai bịt
mắt trước nhưng anh em đói khát khốn cùng, đòi khát cơm bánh vật chất, nhất là
đói khát công lý và tình thương.
Giờ
đây, chúng ta sắp cùng nhau chia sẻ Bàn Tiệc Thánh Thể, chia sẻ Mình Máu Chúa
Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa giúp chúng
ta, một khi đã hiệp thông với Ngài, thì cũng biết thông hiệp với anh em bằng
cuộc sống yêu thương phục vụ, Có như thế, Bàn Tiệc Thánh Thể sẽ trở nên điểm
hẹn diệu kỳ, nơi đây chúng ta được nối kết với Chúa Kitô, thông chia cùng một
sự sống với Ngài. Nơi đây, chúng ta nối kết với mọi người anh em, để cùng nhau
xây dựng một thế giới công bằng, yêu thương, đang lúc chờ đợi Bàn Tiệc hạnh
phúc vĩnh cửu trong vinh quang Nước Trời.
9. Đây là Mình Thầy, đây là Máu Thầy
(Suy
niệm của Noel Quesson)
Năm
1263, một linh mục người Đức cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ kính Thánh Christiana.
Lúc bẻ bánh, đột nhiên, linh mục thấy Mình Thánh không còn là hình bánh, mà đã
biến thành Thịt và Máu thực. Những giọt máu loang ra thấm ướt tấm khăn Thánh
trên bàn thờ. Linh mục vội gấp khăn lại, nhưng gấp tới đâu, máu thấm ra tới đó,
máu thấm qua 25 lần vải. Vị linh mục vừa cảm động vừa sợ hãi đến mức không tiếp
tục Thánh Lễ được.
Ngài
tới yết kiến Đức Giáo Hoàng Urbanô và kể lại sự kiện ấy. Đức Giáo Hoàng sai một
Giám Mục đến rước Mình Thánh cùng tấm khăn đẫm máu về Tòa Thánh đặt ở nhà thờ
chánh tòa cho giáo dân thờ kính. Năm sau, (1264) vào ngày mồng 8 tháng 9, Người
ra sắc dụ lập lễ kính Thánh Thể trong toàn Giáo Hội như chúng ta mừng kính hôm
nay.
Đã
có nhiều phép lạ về Thánh Thể. Chắc Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin của chúng
ta vào bí tích này, cho chúng ta hiểu rõ ý định của Người khi lập phép Thánh
Thể, đó thực là của nuôi linh hồn chúng ta, cần thiết cho linh hồn cũng như đồ
ăn cần cho thân xác. Đó thực là Thịt và Máu của Chúa, dù mắt thường không nhận
rõ thực tại này.
Trong
Thánh Lễ, linh mục làm những cử chỉ Chúa đã làm trong bữa Tiệc ly, cũng đọc
những lời Chúa đã đọc: "Các con làm việc này để nhớ đến Thầy". Làm
việc này là việc gì? Là cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và phân phát cho
mọi người.
Bí
tích Thánh Thể là trung tâm đời sống Kitô hữu. Trước hết vì ở đây cử hành mầu
nhiệm Cứu độ. Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc nhân loại. Người chết vì yêu
thương chúng ta. Ngoài việc chết một lần trong lịch sử, Chúa còn dùng Thịt và
Máu nuôi dưỡng ta, để biểu lộ Tình yêu của Chúa, để ta thông hiệp với sự sống
vô biên của Chúa, của một vị Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến muôn
đời. Những thực tại này được thể hiện trong bí tích Thánh Thể, trong Thánh Lễ.
Sống cuộc sống thế trần chúng ta cốt đem sự sống tới cho loài người và bí tích
Thánh Thể chính là suối nguồn sự sống. Chúng ta cần năng tiếp xúc với nguồn
sống đó, chúng ta mới có sự sống để có thể chuyển thông sự sống ấy cho người
khác.
Trong
Thánh Lễ, chúng ta được đón nhận Lời Chúa và tiếp nhận Mình Chúa vào tâm hồn.
Lời Chúa đã thành cụ thể đi vào tâm hồn ta khi ta tiếp nhận Mình Chúa. Chúa đã
hiến mạng sống cho mọi người và trao ban chính mình cho chúng ta như là bánh sự
sống, vì lẽ đó, tiệc Thánh Thể là nhiệm tích Mình và Máu Đức Kitô, nhiệm tích
của sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Chính Thánh Linh đã làm cho Đức Kitô
thực sự có mặt và hiến ban trong Bánh và Rượu (Conseil oecuménique năm 1974).
Tiệc
Thánh Thể còn là cuộc họp mặt của các tín hữu. Muốn được Ơn Chúa, chúng ta phải
hiệp nhất với nhau. Thánh Thể là dấu hiệu hiệp nhất rõ ràng và vững chắc: chỉ
có một tấm bánh, một chén rượu chia ra cho mọi người. Trong chúng ta đều lưu
hành một của ăn và một thức uống, đều có chung một nguồn sống. Từ Thánh Lễ đi
ra, chúng ta ý thức mình là một phần chi thể, là Thịt Máu Đức Kitô, chúng ta
mang Đức Kitô trong mình. Trong khi đó, người anh chị em bên cạnh ta cũng là
phần chi thể Máu Thịt Đức Kitô như ta. Còn gì gần gũi hơn và thân thiết hơn thế.
Lạy
Chúa, nhờ bí tích Thánh Thể, chúng con được hòa nhập vào sự sống Thánh thiện
của Chúa. Nhờ hiến lễ Tạ Ơn, chúng con cũng được tôn vinh Thiên Chúa; nhờ Tiệc
Thánh, chúng con được hiệp nhất với nhau trong Ngài. Chúng con xin cảm tạ Ngài.
10. Thánh Thể – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong
một số nhà thờ, nơi gian cung thánh hay trước bàn thờ có chạm trổ hình con chim
bồ nông mẹ đang truyền của ăn cho các chim con. Biểu tượng của chim bồ nông mẹ
nuôi con có gốc tích trong truyền thuyết cổ xuất hiện trước thời Kitô giáo.
Theo truyền thuyết, trong mùa đói khát, chim bồ nông mẹ đã lấy mỏ tự mổ vào
ngực để dùng máu mình mà dưỡng nuôi các con. Có một truyền thuyết khác nói rằng
chim bồ nông mẹ đã dùng máu mình để tái sinh các con đã chết, nhưng chính mẹ
lại bị chết. Chúng ta dễ hiểu tại sao các Kitô hữu thời sơ khai đã dùng hình
ảnh này để ám chỉ Chúa Giêsu. Chim bồ nông mẹ là biểu tượng Chúa Giêsu cứu độ
đã hy sinh mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Con người đã chết trong tội và được
vui hưởng sự sống mới qua giá Máu Châu Báu của Chúa Kitô.
Bí
tích Thánh Thể còn được gọi là Bí tích Tạ Ơn (Thanksgiving). Chúa Giêsu đã lập
Bí tích này trong Bữa Tiệc Ly như là Giao Ước mới. Ngày xưa, ông Môisen đã dâng
lễ toàn thiêu và hiến dâng Thiên Chúa của lễ đền tội. Dân Dothái đã giết những
con bò tơ làm hy lễ giao hoà. Ông Môisen hướng dẫn Dân theo nghi thức hoà giải.
Ông dâng của lễ và mời gọi dân chúng đồng lòng tuyên xưng niềm tin vào Thiên
Chúa: Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những
gì Thiên Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo" (Xh 24,7). Ông
lấy máu rảy trên dân để ký kết giao ước: "Đây là máu giao ước Thiên Chúa
đã lập với anh em, dựa trên những lời này" (Xh 24,8).
Tác
giả thư gửi tín hữu Do thái diễn tả về Chúa Giêsu: "Người đã vào cung
thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình,
Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng
ta" (Dt 9,12). Ngày xưa người ta dùng máu dê và tro bò rảy trên kẻ ô uế
còn thánh hoá được thân xác nên trong sạch, thì nay Chúa Kitô đã hiến tế chính
máu mình để tẩy sạch tội lỗi chúng sinh. Trước khi dâng mình hiến tế trên thánh
giá, Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly. Thánh Marcô đã ghi
lại: Cũng đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra,
trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy" (Mc
14,22). Bánh và rượu là của ăn, của uống nuôi sống chúng ta hằng ngày. Hình ảnh
tấm bánh được kết thành bởi muôn hạt miến và chén rượu được ép bởi muôn ngàn
trái nho chín. Chúa dùng cả bánh và rượu để biến đổi nên Mình và Máu Thánh
Chúa: Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả
đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ
ra vì muôn người" (Mc 14,23-24).
Qua
quyền năng của Chúa Thánh Thần và các linh mục lập lại lời truyền phép của Chúa
Giêsu Kitô, Linh Mục thượng phẩm, bánh và rượu đã trở nên Mình Máu Chúa. Sau
khi đọc lời truyền phép, linh mục chủ tế đã tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức
tin. Chúng ta tin thật Chúa Giêsu ngự trong Bí tích Thánh Thể. Sự biến đổi bản
thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Lúc chúng ta lên rước
lễ, trước khi trao Mình Thánh, linh mục nói: Mình Thánh Chúa Kitô, chúng ta
thưa: Amen. Khi trao Máu Thánh, linh mục hay thừa tác viên nâng cao chén thánh
và nói: Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta thưa: Amen. Bí tích Thánh Thể là trung
tâm điểm của đời sống người Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện thật trong Bí tích
Thánh Thể. Tín hữu trong Giáo hội Công giáo tin nhận Chúa Giêsu hiện diện thật
nơi Nhà Tạm và Mình Thánh là của ăn đàng cho những kẻ đau yếu bệnh hoạn hay
trong cơn hấp hối.
Chúa
Giêsu đã dưỡng nuôi chúng ta bằng Mình và Máu Thánh. Hình ảnh thứ hai rất thân
thương và gần gũi là người mẹ nuôi con cũng bằng chính dòng sữa của mình. Các
trẻ thơ đã được bú trực tiếp từ nguồn sống của người mẹ. Ở các nước chậm phát
triển, các bà mẹ thường cho con bú từ 6 tháng tuổi cho tới 2 năm. Chúng ta biết
nguồn sữa từ vú mẹ là loại sữa tốt nhất trong các loại sữa. Sữa được tiết ra từ
dòng máu của mẹ. Sữa mẹ là nguồn sống và là nguồn tình yêu. Sữa có đủ các chất
béo, ngọt, nước và chất dinh dưỡng cần thiết cho bé phát triển. Có một điều lợi
ích của việc cho con bú là trung bình 500 lượng calo, một ngày sẽ giúp người mẹ
giảm cân sau khi sanh.
Chúa
Giêsu đã nhiều lần hoá bánh ra nhiều để nuôi dân. Chúa cũng đã làm biến đổi sáu
chum nước ra thành rượu tại tiệc cước Cana .
Chúa biết những nhu cầu cần yếu của cuộc sống con người. Con người sống thì cần
phải ăn phải uống và phải hít phải thở. Ăn uống làm tăng thêm chất bổ dưỡng để
nuôi sống. Thật lạ lùng, khi chúng ta ăn bánh, uống rượu và bất cứ loại đồ ăn
thức uống nào, khi đã nuốt vào bao tử trong vòng 30 phút, các cơ quan trong
thân thể nhanh chóng biến đổi các thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi sống các cơ
quan. Thức ăn trở thành máu, thành thịt và giúp làm sống động các cơ năng tuần
hoàn trong thân thể. Đây là một chu kỳ nhiệm mầu mà Thượng Đế đã an bài.
Thức
ăn bổ dưỡng sẽ giúp cho thân xác khoẻ mạnh và tinh thần minh mẫn. Bí tích Thánh
Thể cũng đáp ứng những nhu cầu về linh hồn và thân xác. Chúng ta tin Chúa Giêsu
hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Có nhiều nơi, các tín hữu có thói quen thay
phiên nhau Chầu Mình Thánh Chúa suốt ngày đêm. Có những người quỳ lặng cầu
nguyện trước Nhà Tạm hàng giờ để kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu
Thánh Thể là nguồn suối ủi an và nơi nương tựa. Chính Chúa Giêsu đã phán:
"Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ
cho nghỉ ngơi bồi dưỡng" (Mt 11,28). Kết hợp với Chúa trong Bí tích Thánh
Thể sẽ mang lại nguồn tươi mát và dịu êm. Giáo Hội mời gọi chúng ta năng kính
viếng và lặng quỳ bên Thánh Thể Chúa. Chúng ta sẽ gặp gỡ một Chúa thật có trái
tim biết cảm thông và yêu thương.
Bí
tích Thánh Thể là Bí tích Tình Yêu mà Chúa Giêsu đã lập để tiếp tục lễ hy sinh
trên Thánh giá và để ban Mình Máu Người hiện diện trong hình bánh rượu, làm của
nuôi linh hồn. Bí tích Thánh Thể được cử hành trong thánh lễ. Thánh lễ dâng mỗi
ngày cũng là một lễ như xưa trên cây Thánh Giá, vì cũng là một Chúa Kitô làm
chủ tế và của lễ nhưng không còn đổ máu như xưa. Thánh lễ quý trọng vô giá.
Thánh lễ giao hoà con người với Thiên Chúa. Thánh lễ liên kết mọi người hợp
nhất với nhau. Thánh lễ là lời tạ ơn tuyệt vời. Thánh lễ mang lại ơn tha thứ và
cứu độ. Mỗi khi cử hành thánh lễ, chúng ta tuyên xưng việc Chúa Giêsu chịu đau
khổ, chịu chết và sống lại cùng mong đợi Chúa lại đến trong vinh quang.
Chúng
ta hãy năng tham dự thánh lễ. Tham dự một cách sốt sáng và hiệp thông. Chúng ta
không đi xem lễ hay dự lễ như khách bàng quan, nhưng hãy tham dự một cách tích
cực. Hiệp lễ bằng cách cùng thưa kinh, dâng lời ca tiếng hát, hoà điệu trong
mọi nghi thức cử hành và nhất là lắng nghe và áp dụng Lời Chúa trong cuộc sống.
Có đôi trường hợp, chúng ta đi tham dự thánh lễ như để chu toàn bổn phận giữ
ngày Chúa Nhật. Đi trễ về sớm. Không hiểu ngôn ngữ, nghe tai này ra tai kia. Để
nuôi dưỡng đời sống nội tâm, chúng ta cần dành chút thời giờ riêng tâm sự với
Chúa và sưởi ấm tâm hồn.
Lạy
Chúa, con nhìn thấy Nhà Tạm nơi Chúa ẩn ngự, nhưng con chẳng muốn đến gần. Con
tất bật lo lắng công việc và đi qua đi lại lo sửa soạn mọi thứ. Đèn chầu vẫn
cháy sáng, nhưng lòng con đã ngụm tắt từ bao giờ. Xin Chúa giúp chúng con khơi
lại ngọn lửa mến để sưởi ấm tâm hồn. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con thờ ơ
lãnh đạm và làm ngơ trước sự hiện diện của Chúa. Xin thương xót chúng con.
11. Vì muôn người.
Suy
Niệm
Đại
lễ Vượt qua gần đến. Chúa Giêsu ước ao ăn lễ Vượt qua lần cuối với các môn đệ
trước khi chịu khổ hình (Lc 22,15). Ngài đã tiên liệu nơi tổ chức bữa tiệc. Một
căn phòng rộng rãi trên lầu, đã chuẩn bị sẵn sàng. Các môn đệ chỉ phải lo những
gì cần cho bữa ăn: bánh không men, rượu, chiên và rau đắng. Thế nhưng chỉ mình
Chúa Giêsu biết Ngài sẽ làm gì trong bữa tiệc Vượt qua này.
Bữa
tiệc cuối là thánh lễ đầu tiên của Chúa. Vẫn bánh đó, vẫn rượu đó trên bàn
tiệc. Nhưng đối với các môn đệ, thật là bất ngờ. Khi Chúa Giêsu bẻ bánh, trao
cho họ và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy". Ngài còn mời
họ uống rượu và nói: "Đây là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra vì muôn người."
Như
thế bánh rượu đã được biến đổi tận căn để trở thành Mình Máu Chúa. Ăn bánh và
uống rượu trở nên hành vi thông hiệp vào cái chết sắp đến của Thầy.
Ngay
hôm sau, trên núi Sọ, máu Chúa đã đổ, và tấm thân Chúa bị nát tan. Hy lễ núi Sọ
chỉ diễn ra một lần, nhưng ảnh hưởng trên cả dòng lịch sử.
Bữa
tiệc ly chỉ diễn ra một lần, nhưng Chúa muốn nó được lặp lại cho đến tận thế:
"Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy" (Lc 22,19).
Mỗi
thánh lễ là một bữa tiệc ly, vị linh mục lặp lại cử chỉ và lời nói của Chúa.
Mỗi
thánh lễ là một tưởng nhớ hy tế thập giá. Cái chết cứu độ năm xưa, nay trở
thành hiện tại để đem đến sự sống cho tín hữu thuộc mọi thời.
Rước
lễ là gặp gỡ Đấng hy sinh chịu chết, là kết hợp với Đấng đã yêu đến cùng.
Ta
được mời gọi sống như Đấng ta lãnh nhận, nghĩa là bẻ ra, chia sẻ, phục vụ và
hiến trao.
Ta
không thể tiếp tục sống ích kỷ và khép kín, khi ngày ngày rước lấy Đấng đã chết
vì muôn người.
Rước
lễ không phải chỉ là nhận Chúa vào miệng, mà là để Chúa chiếm lấy mọi ngõ tối
của đời mình, nhờ đó đời ta được hoàn toàn biến đổi.
Nhiều
khi có một khoảng cách quá xa giữa thánh lễ và đời thường của người Kitô hữu.
Thực
sự gặp Chúa dưới hình bánh rượu sẽ đưa ta gặp Chúa nơi những người nghèo khổ,
vì họ cũng là sự hiện diện thật sự của Chúa (x. Mt 25, 35).
Mặt
khác, càng say mê phục vụ con người, ta càng cảm thấy nhu cầu rước lấy Đấng
phục vụ.
Khi
dự lễ, bạn hãy đem theo hy lễ đời mình để kết hiệp với Hy lễ của Chúa.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Nhiều
bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ vì sợ mắc tội. Họ chán xem lễ". Theo ý
bạn, những nguyên nhân nào đưa đến thái độ này? Có cách nào giải quyết không?
Rước
lễ có thể trở thành một thói quen nhàm chán, vô nghĩa, nặng phần hình thức.
Theo ý bạn, làm thế nào để việc rước Chúa thực sự đem lại lợi ích cho chúng ta?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con một tâm hồn theo hình ảnh Tấm Bánh Thánh:
Một
tâm hồn trong trắng, cố tránh cả những ô uế nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.
Một
tâm hồn khiêm hạ tìm chiếm chỗ nhỏ bé, nhưng luôn luôn muốn bày tỏ một tình yêu
lớn lao.
Một
tâm hồn đơn sơ, không biết đến những phức tạp của ích kỷ, và tìm hiến dâng mà
không đòi lại.
Một
tâm hồn lặng lẽ, hạnh phúc khi thấy sự quảng đại của mình không được người khác
biết đến.
Một
tâm hồn nghèo khó, chỉ làm giàu cho mình nhờ chiếm được chính Chúa.
Một
tâm hồn luôn hướng về tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu và ước muốn của họ.
Một
tâm hồn luôn kết hiệp với Chúa, và múc lấy nguồn sống từ nơi Chúa.
12. Tấm bánh tình yêu – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mỗi
khi chiêm ngắm Thánh Thể Chúa, tôi không ngừng ngỡ ngàng trước tình yêu của
Người. Tình yêu ấy vô cùng cao cả nhưng lại rất đỗi đơn sơ. Đơn sơ như hình ảnh
tấm bánh.
Tấm
bánh, tình yêu gần gũi.
Sao
Chúa không hoá thân làm viên kim cương quý giá mà lại làm một tấm bánh? Tấm
bánh bình thường, quen thuộc quá. Từ khi kinh tế phát triển, bánh càng ngày
càng xuống giá, bớt được quý trọng.
Tuy
bình thường, nhưng bánh vẫn là lương thực cần thiết cho con người. Cũng như khí
trời, như nước, bánh đi vào sinh hoạt hằng ngày của con người. Bình thường lắm
nhưng không có không được.
Chúa
trở thành tấm bánh để gần gũi với loài người, để đi vào sinh hoạt đời thường
của con người. Con người có thể đến với Chúa dễ dàng, không e ngại, sợ sệt. Chỉ
là một tấm bánh vừa tầm tay mọi người. Chỉ là một tấm bánh sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu của con người. Thật khiêm nhường mà đầy ý nhị. Thật đơn sơ nhưng cũng thật
sâu xa vì tấm bánh nói lên tình yêu tự hiến.
Tấm
bánh, tình yêu tự hiến.
Bánh
sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu chỉ để trưng bày cho người ta chiêm ngắm. Bánh chỉ có
ý nghĩa khi được sử dụng. Được sử dụng là bị bẻ ra, bị nghiền nát, bị tan biến,
bị tiêu hoá. Vì thế, trở thành tấm bánh là chấp nhận chịu đau đớn, chịu huỷ
hoại. Đây không phải là một chấp nhận bất đắc dĩ, vì tấm bánh bao giờ cũng mời
mọc tiêu thụ.
Khi
xưng mình là bánh bởi trời, Chúa Giêsu bày tỏ một tình yêu tha thiết, sẵn sàng
chịu nghiền nát, tan biến, chịu chết cho nhân loại. Chúa chịu chết cho ta được
sống. Chúa chịu huỷ hoại cho ta được lành lặn các thương tích. Chúa bé nhỏ đi
cho ta được lớn mạnh.
Tấm
bánh bị tiêu hoá để thực hiện một tình yêu hiệp thông.
Tấm
bánh, tình yêu hiệp thông.
Chúa
Giêsu tha thiết với sự hiệp thông. Người không ngừng mời gọi con người đến sống
thân mật với Người. Người tự nhận mình là cây nho và mời gọi mọi người hãy trở
thành cành nho gắn kết với cây nho.
Hôm
nay, Người còn chủ động trở thành tấm bánh để hoà vào từng giòng máu, từng thớ
thịt của con người trong một kết hiệp sâu xa. Người tự tiêu huỷ mình để trở
thành thịt máu của con người. Không còn sự kết hợp nào sâu xa khăng khít hơn
nữa.
Tấm
bánh gợi lên một bàn tiệc tại đó anh em quây quần trong tình thương, chia sẻ
lương thực và chia sẻ tâm tình. Không còn gì đẹp hơn. Chính Chúa Kitô tự hiến
mình để quy tụ chúng ta. Chính Chúa Kitô bị bẻ ra để cho tình huynh đệ nhân
loại được mặn mà thắm thiết.
Với
những gợi ý như thế, Chúa hướng dẫn tôi trong tình yêu mến, trong cử hành và
trong cách sống Bí tích Thánh Thể.
Yêu
mến Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là trở nên hiền lành khiêm nhường,
sống gần gũi với những người nhỏ bé nghèo hèn?
Cử
hành Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là chấp nhận hao mòn, quên mình,
thiệt thòi vì Chúa và vì anh em?
Sống
Bí tích Thánh Thể là gì nếu không phải là xây dựng tình đoàn kết, tình huynh đệ
với những người sống quanh ta, trong mọi môi trường cuộc sống?
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Con chúc tụng ngợi
khen Chúa muôn đời. Amen.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1)
Khi dâng lễ, tấm bánh có gợi lên cho bạn điều gì về tình yêu của Đức Giêsu
không?
2)
Khi bạn rước lễ, bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa không?
3)
Phép Thánh Thể thôi thúc bạn làm gì?
13. Cậu bé Marcellino.
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một
cuốn phim mang tựa đề: "Cậu bé Marcellino" kể lại câu chuyện sau đây:
Ở
cổng nhà dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một thầy dòng đã đem về nhà dòng nuôi.
Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm,
cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ
Marcellino đã leo lên kho trên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ
bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó,
Marcellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên
Thánh giá. Từ đó, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người
khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày nọ người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh giá, đến
bên cạnh cậu bé và hỏi:
-
"Con thích điều gì nhất".
Cậu
bé đáp:
-
"Con muốn được thấy mẹ con".
Người
khổng lồ liền nói:
-
"Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say".
Ngày
hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marcellino nữa, họ đi tìm khắp nơi và
cuối cùng thấy cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Anh
chị em thân mến, đối với Marcellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn
ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: "Con yêu mến Chúa", "Con
muốn được săn sóc Chúa, nuôi dưỡng Chúa". Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và
rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở
thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để
đón nhận.
Mở
rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái
tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời
xuống để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẻ sự sống thần linh nơi bàn tiệc
Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hằng ngày với tha nhân.
Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự
sống trường sinh và hạnh phúc đích thức tràn ngập tâm hồn.
Thưa
anh chị em, Bí tích Thánh Thể là Bí tích của Tình Yêu. Vì yêu thương chúng ta, Chúa
Giêsu đã có một sáng kiến lạ lùng là lấy chính Thịt Máu của Ngài làm của ăn của
uống để nuôi sống chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định: Chính Ngài là của
ăn và của uống Chúa Giêsu ban hoàn toàn khác với manna và mạch nước trong sa
mạc: "Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời". Chúa Giêsu không nhằm
thoả mãn cái đói cái khát thể xác. Thế nên, Ngài xác quyết: "Thịt Tôi thật
là của ăn, Máu Tôi thật là của uống". Vậy Bánh Ngài ban chính là Thịt Máu
Ngài. Cụm từ "Thịt Máu" ở đây không những bao gồm tất cả những gì
nuôi sống linh hồn con người để đưa đến sự sống vĩnh cửu, mà còn ám chỉ đến Mầu
nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa đã nhập thể mang lấy xác phàm
trong thân phận con người và đã đổ máu ra trên Thập giá để cứu chuộc nhân loại.
Ngài đã chấp nhận trở thành của ăn của uống là những cái thường tình nhất của
cuộc sống chúng ta để đưa chúng ta đến sự sống vĩnh hằng.
Vì
lý do đó, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến việc hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh
Thể là kết hiệp mật thiết với chính Chúa Kitô, nghĩa là đồng hoá với Ngài, nên
giống Ngài trong tư tưởng, ngôn ngữ và cuộc sống: "Ai ăn Thịt Tôi và uống
Máu tôi, người ấy sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy". Không bí tích
nào giúp chúng ta sống "với Chúa, nhờ Chúa và trong Chúa" bằng bí
tích Thánh Thể. Từ đó, Thánh Phaolô dám khẳng định: "Tôi sống, nhưng không
còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Từ
việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ đưa chúng ta đến việc hiệp nhất với
các anh chị em tín hữu. Vì liên kết với Chúa Kitô, nên chúng ta cũng liên kết
với nhau để làm thành một thân thể duy nhất trong Chúa Kitô, điều mà Thánh
Phaolô gọi là "Nhiệm thể Chúa Kitô". Ăn Thịt và uống Máu Chúa Kitô là
lãnh nhận một động lực mạnh mẽ nhất để dẹp bỏ và xua tan những mối bất đồng,
những mâu thuẫn sâu xa nhất để chỉ còn trở nên với Chúa Kitô một thân xác và
một linh hồn. Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô hữu trong Bí tích Thánh Thể có
sức mạnh thu phục những khách bàng quan, những người xa lạ đến với Giáo Hội,
như các tín hữu thời sơ khai đã từng chinh phục và đem lại ảnh hưởng lớn lao
cho thế giới ngoại giáo: Họ nói với nhau: "Kìa xem coi họ (các tín hữu
Kitô) yêu thương đoàn kết với nhau biết chừng nào!" (x.Cv 2,42-47).
Anh
chị em thân mến, "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa".
Tất cả chúng ta đều được mời đến dự tiệc Thánh Thể. Thế nhưng có khá đông người
tham dự Thánh lễ mà không tiếp rước Mình Máu Thánh Chúa. Phải chăng Thánh lễ
đối với họ chỉ còn là một nghi thức và bổn phận phải làm, chứ không còn là sự
sống được trao ban và lãnh nhận? Hoặc phải chăng vì thấy việc rước lễ xem ra
không có hiệu quả trong đời sống, nên họ thất vọng và không muốn rước lễ nữa?
"Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa". Chẳng lẽ được
mời đến dự tiệc mà chẳng ăn uống gì, chỉ ngồi đó "nhìn miệng" các
thực khách, rồi ra về mà lòng vẫn u sầu và bụng vẫn đói meo? Thiết tưởng không
phải vô ích khi khẳng định lại điều này: Chẳng bao giờ chúng ta đến với người
khác thực sự, nếu không kết hợp thâm sâu với Chúa Kitô.
Đức
Cha Helder Camera, Tổng Giám Mục Giáo phận Récite ở Braxil, đã chia sẻ kinh
nghiệm thống nhất đời sống hoạt động và chiêm niệm của ngài thế này: "Mỗi
sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày,
tôi gặp gỡ Đức Kitô nơi anh chị em tôi. Cũng một Chúa Giêsu ở trên bàn thờ và
ngoài đường phố". Có lẽ chúng ta dễ quên chân lý này: Hiệp nhất với Chúa
Kitô phải đưa đến sự hiệp nhất với anh em. Nói cách khác, hiệp nhất với Chúa
Kitô đang hiện diện ẩn dấu nơi anh chị em mình, nhất là nơi những người nghèo
đói và bất hạnh (x.Mt 25). Và chúng ta cũng hay quên rằng: Hiệp nhất sự sống
phải được thể hiện trong sự hiệp nhất lối sống. Lối sống của Chúa Giêsu Thánh
Thể là lối sống của tình yêu tự hiến để cho nhân loại được sống, là phục vụ đến
hy sinh mạng sống để làm giá cứu chuộc muôn người.
Được
nuôi dưỡng cùng một Bánh Thánh –là Thịt Máu Chúa Giêsu- chúng ta được mời gọi
chia sẻ chén cơm hằng ngày cho anh em và dấn thân hoạt động cho một trật tự
công bằng, huynh đệ, cho cuộc sống ấm no hạnh phúc của mọi người trên thế giới
hôm nay.
14. Tình yêu và sự sống.
Đã
bao thế kỷ trôi qua, Giáo Hội Công giáo không ngừng đào sâu niềm tin vào sự
hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Dẫu có gặp muôn vàn thử
thách, dẫu phải đương đầu với bao chỉ trích, người tín hữu vẫn kiên vững trong
niềm tin không lay chuyển, bởi chính họ biết rõ Thánh Thể đã đem lại cho họ
những gì trong cuộc hành trình thiêng liêng của cuộc đời.
Mỗi
thánh lễ là một lễ kính Mình Máu Thánh Chúa. Nhưng ngày lễ trọng được ấn định
hàng năm phải là một dịp đặc biệt để chúng ta suy niệm cách sâu sắc hơn về một
chân lý vốn được gọi là suối nguồn, là đỉnh cao của đời sống người Kitô hữu, đó
là Bí tích Thánh Thể.
Đã
hẳn, trong Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ở đó để thực hiện lời hứa: Thầy ở cùng
các con mọi ngày cho đến tận thế.
Nhưng
trước hết sự hiện diện ấy nhằm tái diễn hy tế thập giá của Ngài. Thực vậy, Bí
tích Thánh Thể không phải là một hy tế mới và độc lập, thay thế hay bổ túc cho
hy tế thập giá, nhưng là lặp lại hy tế chỉ diễn ra một lần trên thập giá. Cũng
một lễ vật, cũng một Đấng đã tự hiến đời mình thuở xưa trên thập giá, còn nay
hiến tế qua tác vụ của linh mục trong thánh lễ. Có khác chăng là khác trong
cách thức biểu lộ mà thôi.
Như
dân Do Thái hằng nhớ lại những kỳ công Thiên Chúa, đặc biệt là hai biến cố:
Thiên Chúa giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và không ngừng ban lương thực
của Ngài cho dân suốt dọc theo những nẻo đường sa mạc. Trong thánh lễ, Giáo Hội
cũng nhớ lại cuộc vượt qua của Đức Kitô và việc Ngài ban Thánh Thể cho dân mới
trên đường lữ hành trần thế.
Thực
vậy, tiếp nối Manna trong hoang địa, Thánh Thể trở nên lương thực, trở nên của
ăn đàng cho Israel mới là Giáo Hội. Nhưng Manna mới chỉ là hình ảnh tượng
trưng, chứ không thể nào sánh ví được với Bí tích Thánh Thể. Bởi vì cũng như
bao lương thực trần gian khác, Manna vẫn để con người lại đó với cơn đói và nỗi
khát khao vĩnh cửu. Manna chỉ cho người ta sống tạm để khỏi chết chứ không giúp
người ta khỏi chết đời đời. Chính thân thể vinh hiển của Đức Kitô mới thực là
bánh ban sự sống: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này thì sẽ
sống đời đời.
Chúa
Giêsu đã trở nên bánh khi hiến mình làm lễ tế dâng lên Chúa Cha. Chúa Cha đã
chấp nhận lễ hy tế ấy bằng cách tôn vinh Chúa Giêsu và đưa vào trong vinh quang
của Ngài. Ngài nhận lễ vật mà Chúa Giêsu thay cho loài người dâng tiến, để rồi
ban lại cho loài người như của ăn thánh. Từ của ăn thánh ấy, loài người kín múc
sự sống để thông hiệp với Thiên Chúa... Và trong bữa tiệc ấy, Thiên Chúa hòa
niềm vui của Ngài với tiếng cười của nhân loại. Những ai đón nhận của ăn thánh
ấy sẽ được lôi kéo vào trong quỹ đạo của tình yêu Thiên Chúa và lưu lại trong
Ngài: Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì sẽ ở lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Người ăn uống Mình Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa từ đời này và mai này thuộc về
Ngài mãi mãi.
Như
thế, Thánh Thể thực hiện trước bữa tiệc cánh chung trong nước trời, sẽ được cử
hành trong niềm vui rượu mới. Và như thế Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh
cửu đã khởi sự và là bảo chứng cho sự sống lại trong ngày sau hết.
15. Thánh Thể
Nói
đến chuyện ăn thịt người đã là một việc ghê tởm, phương chi còn nói đến chuyện
uống máu người. Nhất là đối với dân Do Thái, máu được coi như là chính sự sống
của con người và chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền trên máu huyết, không những
của con người mà còn của mọi loài động vật. Đó chính là lý do dân Do Thái không
ăn máu huyết, thậm chí còn kiêng cả thịt thú bị chết ngạt, và họ chỉ ăn những
thú thịt đã làm sạch không còn tí máu nào sót lại.
Vì
thế phản ứng của những người nghe Chúa Giêsu nói: Thật Tôi bảo thật các ông nếu
các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình,
là một phản ứng dễ hiểu. Đúng là những lời lẽ chối tai không ai nghe nổi. Nhưng
đó lại là những lời thực tế nhất, khoa học nhất bởi vì nếu Chúa Giêsu muốn trở
nên sự sống của nhân loại, Ngài phải để cho thiên hạ ăn thịt của Ngài. Chúng ta
không thể sống nếu không ăn. Và khi chúng ta ăn cái gì thì cái đó trở nên máu
thịt chúng ta, trở nên chính chúng ta.
Cũng
vậy, vì muốn cho chúng ta được sống và sống bởi chính Ngài, Chúa Giêsu đã trở
nên bánh cho chúng ta ăn. Hơn thế nữa, Bí tích Thánh Thể còn là bí tích của
hiệp thông, vì nhờ ăn thịt và uống máu Ngài, chúng ta trở nên Ngài và Ngài trở
nên chúng ta. Nghĩa là Ngài trở nên thịt máu chúng ta và chúng ta sống thực sự
bởi Ngài. Ngài có thể nói rằng thịt máu chúng ta, sự sống chúng ta là thịt máu,
là sự sống của Ngài.
Thế
nhưng sự hiệp thông ấy không chỉ dừng lại ở mối tương quan giữa chúng ta với
Chúa Giêsu mà thôi. Thực vậy, vì không phải chỉ có một mình tôi ăn thịt và uống
máu Ngài, mà cả cộng đoàn dân Chúa đều tham dự vào bàn tiệc của Đức Kitô: bởi
vì chỉ có tấm bánh và tất cả chúng ta cùng chia sẻ nên tuy nhiều người, chúng
ta cũng chỉ là một thân thể.
Như
thế, Bí tích Thánh Thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa mà còn
kết hiệp chúng ta với nhau. Tuy nhiên, không thiếu gì những kẻ rước lễ trong
tình trạng chiến tranh lạnh với người khác, đôi khi với cả gia đình, với cả
cộng đoàn. Có những cặp vợ chồng ly thân, thậm chí ly dị nhau mà vẫn lên rước
lễ. Họ đâu có hiểu rằng làm như vậy là họ đóng đinh Chúa Giêsu, là xé nát thân
thể của Ngài? Họ đâu có hiểu rằng làm như thế có nghĩa là kéo Chúa về phe mình,
là cấm vận không cho Ngài đến được với đối thủ của họ? Bởi vì làm thế nào Đức
Kitô có thể hiệp nhất với chúng ta khi chính chúng ta lại chia rẽ và không chấp
nhận nhau.
Nhìn
vào tình trạng Giáo Hội cũng vậy, ngay trong nội bộ cộng đoàn này, sự hiệp nhất
đôi khi cũng chỉ có tính cách chung chung, hình thức hay lý thuyết mà thôi. Như
thế bàn tiệc Thánh Thể có ý nghĩa gì? Người ta nói Thánh Thể làm ra Giáo Hội và
Giáo Hội làm ra Thánh Thể, nghĩa là cử hành Thánh Thể. Nhưng một Giáo Hội thiếu
hợp nhất thì có thể làm ra Thánh Thể được hay không? Và Thánh Thể có làm ra
Giáo Hội được hay không khi mà các tín hữu không đồng tâm nhất trí với nhau.
Khi mỗi người trong một gia đình không thể ngồi quanh một bàn ăn, hay khi tấm
bánh nồi cơm bị phân tán, quẳng đi mỗi chỗ một mẩu một hạt, thì liệu còn có thể
gọi đó là một bữa cơm gia đình hay không?
Hãy
nhớ rằng Thánh thể không phải chỉ kết hiệp chúng ta lại với Chúa, mà còn kết
hiệp chúng ta lại với nhau, để làm thành một đoàn chiên duy nhất.
16. Thánh Thể.
Chúa
Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bối cảnh của lễ Vượt Qua của người Do
Thái, một đại lễ lớn nhất của dân tộc. Đại lễ này tưởng niệm lại hành động can
thiệp đầy quyền năng của Thiên Chúa, trong việc dẫn dắt dân Người thoát khỏi
ách nô lệ ở Ai Cập. Bữa ăn Vượt Qua là một nghi lễ long trọng. Bữa ăn tưởng
niệm lại một việc trong quá khứ, và đang khi cử hành việc tưởng niệm đó thì quyền
năng của Thiên Chúa lại được tái hiện.
Chúa
Giêsu nói: "Các con hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy". Mỗi khi
chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể thì quyền năng và tình yêu của Chúa Giêsu
lại được tái hiện. Nhưng không chỉ như thế, chính Chúa Giêsu lại hiện diện thật
sự ở giữa chúng ta.
Trong
khi đó, nhiều người Công giáo lại không ý thức đủ. Họ đi tham dự thánh lễ mà
lại đến trễ, về sớm. Vài người lại nói chuyện với nhau hay chỉ nhìn ngắm kẻ
khác. Nhiều người vào trong nhà thờ mà không tỏ sự tôn kính Chúa Giêsu Thánh
Thể đang hiện diện trong Nhà Tạm. Nhiều người không rước lễ và hầu như không
còn để ý đến việc đó nữa. Nhiều người ăn vận trang phục bất xứng, thứ trang
phục mà họ không dám mặc khi đến thăm một người bạn. Trong khi xếp hàng lên
rước Mình Thánh Chúa Giêsu, một số người thay vì tập trung vào việc chuẩn bị
đón Chúa ngự vào tâm hồn mình thì lại đưa mắt nhìn quanh khắp cả nhà thờ.
Tại
sao lại xảy ra tình trạng đáng buồn như vậy? Thật là tốt đẹp khi Giáo hội
khuyến khích các tín hữu thường xuyên rước lễ và tạo điều kiện dễ dàng cho việc
này. Nhưng cũng vì thế mà xảy ra tình trạng người giáo dân ơ hờ, trễ nải đối
với Chúa Giêsu Thánh Thể. Cũng có một số tín hữu chịu ảnh hưởng của Tin lành
cho rằng Bánh Thánh chỉ là biểu tượng của Chúa Giêsu mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu
không nói: "Đây là biểu tượng của Mình Thầy". Chúa nói cách rõ ràng:
"Đây là Mình Thầy".
Ước
gì đại lễ kính Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô hôm nay giúp mọi tín hữu Công giáo ý
thức hơn về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể.
Ước gì ngày lễ hôm nay canh tân tâm tình biết ơn của chúng ta đối với quà tặng
vô giá, mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta là chính Thịt Máu Chúa. Càng ý thức hơn
về sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta càng
có thêm sức mạnh để tiến bước trên hành trình đức tin của mình.
Lạy
Chúa, con cảm tạ Chúa vì quà tặng vĩ đại Chúa đã ban cho con là Bí tích Thánh
Thể. Xin Chúa giúp con luôn xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí
tích này và hết lòng tôn sùng mến yêu.
17. Bữa tiệc.
Để
cổ động cho việc cầu nguyện chung trong gia đình, linh mục Pê-tanh đã nói:
"Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau thì sẽ sống hiệp nhất với
nhau". Việc cầu nguyện chung trong gia đình sẽ củng cố mối dây hiệp nhất
mọi thành phần với nhau mỗi ngày một thêm bền chặt. Dù không muốn nói ngược lại
linh mục Pê-tanh và không muốn làm giảm giá trị của việc cầu nguyện chung trong
gia đình, nhưng cha Gioan Tô-mát, dòng Tên đã nhấn mạnh một khía cạnh khác,
cũng quan trọng không kém, đó là việc dùng cơm chung với nhau thì sẽ sống hiệp
nhất với nhau.
Bữa
ăn chung trong gia đình có một tầm quan trọng và ý nghĩa đặc biệt của nó mà
ngày nay nhiều người đã bỏ quên hoặc không quan tâm cho đủ. Không phải bất cứ
người xa lạ nào cũng có thể ngồi vào bàn ăn dùng bữa chung trong gia đình. Một
người nào được mời dùng bữa với gia đình là dấu chỉ được chấp nhận vào tình
thân với gia đình đó, người được mời đến dùng bữa với gia đình là người được
gia đình đó quý mến. Bữa ăn tạo dựng sự hiệp thông và yêu thương thân thiết
ngày càng bền chặt hơn.
Bữa
ăn chung trong gia đình làm cho mọi thành phần vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh
chị em được hiệp nhất với nhau, được dịp chia sẻ những niềm vui, những quan tâm
lo lắng của nhau. Nếu quan sát thêm chúng ta sẽ thấy vai trò của mỗi người được
biểu lộ cách rõ ràng trong bữa ăn chung. "Một gia đình dùng bữa chung với
nhau sẽ sống hiệp nhất với nhau", lý tưởng là như thế, nhưng không phải
tất cả mọi người, mọi gia đình ngày nay đều có thể thực hiện được lý tưởng cao
đẹp này. Nhiều gia đình đã bỏ mất dịp tốt này, mọi người vội vàng lo cho mình
có chút gì vào bụng rồi mau chóng đi lo công việc riêng, mọi người không còn
xếp đặt công việc để có thể tham dự bữa cơm chung trong gia đình nữa, nhưng mỗi
người xếp đặt đời sống theo một sở thích riêng hay một nhu cầu riêng. Cha mẹ lo
làm việc xếp đặt đời sống chạy theo công việc nên không còn quan tâm đến việc
ăn cơm chung với con cái; phần con cái bận việc với bạn bè hay công việc riêng
của mình nên cũng chẳng màng chi đến bữa cơm chung. Mỗi người trong gia đình
đều có lý do riêng để không ăn cơm chung với nhau, nhiều gia đình ngày nay tan
vỡ có lẽ vì hai lý do: không cầu nguyện chung với nhau và không ăn cơm chung
với nhau. Chúng ta hãy nhìn lại gia đình mình và kiểm điểm theo hai nguyên tắc
căn bản trên: cầu nguyện chung và dùng cơm chung.
Chúa
Giêsu cũng dùng một bữa ăn, bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ để thiết lập Bí
tích Thánh Thể. Chúa đã làm cho bữa ăn cuối cùng này không phải là bữa ăn chứng
tỏ tình bạn như trước đây, cũng không phải là bữa ăn để Ngài tự tỏ mình ra như
một Môsê mới bằng cách ban phát Manna mới cho họ qua việc hóa bánh ra nhiều,
nhưng là bữa ăn liên kết tình bạn và tình yêu.
Chính
vì thế thánh Gioan đã viết: "Ngài đã yêu thương các môn đệ của Ngài và đã
yêu thương họ đến cùng". Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu thương đến
tột bực. Tột bực tình yêu của Ngài ở đây là việc lập Thánh Thể. Thực vậy, Chúa
Giêsu đã ghi dấu đặc biệt của Ngài nơi bữa tiệc này, để từ nay Ngài trở thành
nơi gặp gỡ tình yêu giữa chúng ta với Ngài và giữa chúng ta với nhau.
Vì
thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Chúa Giêsu vừa báo trước
cho các môn đệ là Ngài sẽ giã từ thế gian để về cùng Cha. Ngài sẽ phải xa cách
họ luôn sao? Không, trong tình yêu thương, Ngài đã tìm ra một phương thế để ở
lại với các môn đệ và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào
Ngài. Phương thế tuyệt diệu đó là Bí tích Thánh Thể, nhờ đó Ngài hiện diện thực
sự và trải dài sự hiện diện đó đến tận cùng thời gian qua mọi người để ban cho
họ những điều tốt lành.
Đây
là một mầu nhiệm đức tin, bởi vì lý trí chúng ta không hiểu được, giác quan
chúng ta không cảm nhận được, chỉ có đức tin dạy cho chúng ta biết: Chúa hiện
diện thật sự trong Bí tích Thánh Thể, nên khi rước lễ là chúng ta ăn Mình Chúa
và uống Máu Chúa, là lương thực vừa giúp chúng ta sống khỏe, sống mạnh, sống
tốt đẹp ở đời này vừa bảo đảm cho sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu, như Chúa
đã quả quyết: "Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì Tôi sống trong người ấy,
và Tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết và được sống đời đời".
Như vậy, người ăn Mình Chúa và uống Máu Chúa sẽ thuộc về Chúa ngay từ đời này
và mai ngày thuộc về Ngài mãi mãi. Thánh Thể là dấu chỉ cho đời sống vĩnh cửu
đã khởi sự, và là bảo chứng cho sự sống lại ngày sau hết. Vì vậy, chúng ta hãy
siêng năng rước lễ để chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, và sự kết hiệp đó
đưa chúng ta đến sự hiệp thông với nhau, tức là yêu thương nhau. Đúng ra phải
như vậy, nhưng thực tế có được như vậy không? Có lẽ nhiều người Kitô hữu quên
mất điều này: hiệp thông với Chúa Kitô phải đưa đến sự hiệp thông với nhau.
Tóm
lại, khi dâng thánh lễ là chúng ta cùng tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chia sẻ
Mình Máu Chúa Kitô, Đấng đã hiến cả cuộc đời mình nên của lễ tình yêu. Xin Chúa
cho chúng ta một khi đã được hiệp thông với Chúa, thì cũng biết hiệp thông với
nhau bằng cuộc sống yêu thương phục vụ để cùng nhau xây dựng một thế giới tốt
đẹp hơn.
18. Dấu chỉ của tình yêu.
Hôm
nay, mừng kính Mình và Máu thánh Đức Kitô, chúng ta cùng nhau dừng lại để chia
sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về bí tích Thánh thể.
Trước
hết, bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa.
Thực
vậy, khi yêu thương ai, chúng ta muốn được ở gần người đó để hàn huyên tâm sự,
như ca dao đã bảo:
-
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất
bát sông cũng lội,
Tứ
cửu tam thập lục đèo cũng qua.
-
Yêu nhau chẳng quản xa gần,
Mấy
sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Hiểu
theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu
không bờ không bến, vì Ngài không phải chỉ đi qua vài ba ngọn đồi, lội qua dăm
bảy con suối để đến với chúng ta. Trái lại, Ngài đã đi con đường dài nhất, con
đường từ vô biên đến hữu hạn, con đường từ trời xuống đất, con đường từ một
Thiên Chúa toàn năng đến một kẻ nghèo hèn, để trở thành một Emmnuel, nghĩa là
một Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Ở
cùng chúng ta hơn ba chục năm mà thôi chưa đủ, Ngài lại còn muốn ở cùng chúng
ta mãi mại, cho đến tận cùng thời gian qua bí tích Thánh thể.
Tuy
nhiên, Ngài không phải chỉ ở bên cạnh chúng ta, đi bên lề cuộc sống chúng ta
như một kẻ xa lạ. Trái lại, Ngài còn muốn thấm nhập và trở nên một với chúng ta.
Bởi
đó, mỗi khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp và gắn bó mật thiết với
Chúa. Sự kết hiệp và gắn bó này còn mật thiết hơn cả tình bè bạn, tình cha mẹ,
tình vợ chồng, bởi vì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Giọt
nước hòa tan trong rượu thế nào, chúng ta cũng sẽ được hòa tan trong Chúa như
vậy. Thanh sắt nung trong lửa, sẽ nóng và đỏ như lửa thế nào, chúng ta cũng sẽ
được trở nên giống Chúa như vậy.
Ngoài
ra, khi yêu thương ai, ngoài việc muốn được ở gần người đó, chúng ta còn cố
gắng làm cho người đó được hạnh phúc: nào là thư từ, nào là quà cáp, nào là
thăm hỏi...
Nếu
hiểu theo chiều hướng này, thì Chúa Giêsu cũng đã yêu thương chúng ta bằng một
tình yêu không bờ không bến bởi vì Ngài đã xuống thế để làm gì nếu không phải
là để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và án phạt đời đời.
Rồi
suốt cả cuộc đời, Ngài đã thực hiện biết bao nhiêu hành động yêu thương. Ngài
đã cúi xuống xoa dịu những đớn đau, chữa lành mọi bệnh tật, xua trừ ma quỉ. Hơn
thế nữa, Ngài còn chết trên thập già để cứu độ chúng ta như lời Ngài đả phán:
-
Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bằng
đó mà thôi cũng chưa đủ, Ngài còn theít lập bí tích Thánh thể để trở nên của ăn
nuôi sống linh hồn và đảm bảo cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu:
-
Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì sẽ được sống đời đời.
Một
người Cha trước khi chết thường trối lại cho con cháu bản chúc thư. Những người
yêu nhau trước khi đi xa, thường trao tặng cho nhau những kỷ vật. Cũng vậy, là
một người cha, Đức Kitô trước khi chịu chết, đã trối lại cho các môn đệ cũng
như cho mỗi người chúng ta một bản chúc thư, đó là giới luật yêu thương. Là một
người tình, Đức Kitô trước khi ra đi, đã trao tặng cho chúng ta một kỷ vật, đó
là thịt máu Ngài.
Và
như thế, bí tích Thánh thể chính là dẩu chỉ tình yêu bao la mà Chúa Giêsu đã
dành cho chúng ta.
Tiếp
đến, bí tích Thánh thể còn là dấu chỉ của tình người.
Thực
vậy, nhìn vào một bữa ăn, một bàn tiệc, chúng ta tìm thấy ngay được dấu chỉ của
sự yêu thương và hiệp nhất.
Tiên
vàn, những người ngồi cùng bàn đều có một mẫu số chung nào đó. Có thể là chia
sẻ một niềm vui như đi tự tiệc cưới. Có thể là chia sẻ một nỗi buồn như đi ăn
đám giỗ. Có thể là chia sẻ một băn khoan lo lắng như bữa tiệc trước khi tính
toán và bắt đầu một công việc quan trọng.
Ngoài
ra, khi quây quần chung quanh một bàn ăn, chúng ta còn chia sẻ với nhau một
nguồn sống, là những thức ăn do lao công vất vả của nhiều người làm nên. Chính
những thức ăn này sẽ được tiêu hóa và trở nên thịt máu, trở nên một phần cơ thể
chúng ta. Bởi đó, chúng ta thường phải tránh đi những bất hòa, xích mích trong
bữa ăn: trời đánh còn tránh bữa ăn.
Chúa
Giêsu cũng đã thiết lập bí tích Thánh thể dưới hình thức một bữa ăn, một bàn
tiệc. Chính vì thế, ý nghĩa của sự yêu thương và hiệp nhất cần phải được nổi
bật, bởi vì chúng ta cùng ăn một của ăn thiêng liêng muôi sống linh hồn, như
thánh Phaolô đã viết:
-
Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm bánh và làm nên một thân
thể Đức Kitô.
Hơn
thế nữa, nơi bàn tiệc Thánh thể, mọi người đều bình đẳng vì tất cả đều là con
cái Chúa, không còn phân biệt già hay trẻ, sang hay hèn...Các tín hữu sơ khai
đã ý thức được chân lý căn bản này, họ đã biến nghi thức bẻ bánh, hay bàn tiệc
Thánh thể trở nên nơi qui tụ cho tình thương. Họ mang rượu bánh đến góp chung
để dâng lễ, để nuôi sống linh mục và tu sĩ, cũng như để giúp đỡ những người
nghèo.
Tình
bác ái huynh đệ này không phải chỉ đóng khung trong khi tham dự nghi thức bẻ
bánh, mà còn được nối tiếp trong cuộc sống, vì trong cuộc sống, họ đã góp chung
tiền bạc, tài sản để cho các tông đồ phân phối theo nhu cầu.
Từ
những xác quyết trên, chúng ta đi tới hai kết luận. Kết luận thứ nhất, vì bí
tích Thánh thể là dấu chỉ của tình Chúa, nên chúng ta hãy siêng năng tham dự
thánh lễ và nhất là rước lễ mỗi khi có thể, để đáp trả những yêu thương Ngài đã
dành cho chúng ta.
Kết
luận thứ hai, vì bí tích Thánh thể là dấu chỉ của tình người, nên chúng ta hãy
cố gắng sống bác ái. Không phải chúng ta chỉ hòa giải và yêu thương trong thánh
lễ, trong nhà thờ, mà còn phải hòa giải và yêu thương trong cuộc sống, bởi vì
cuộc sống ngập tràn tình bác ái chính là một thánh lễ nối dài, và những hy sinh
chúng ta vui lòng chịu vì người khác sẽ là những lễ vật xuất phát từ lòng cuộc
đời, chúng ta dâng tiến Chúa.
19. Tình Chúa.
Vào
tháng 12 năm 1987 một cơn động đất lớn đã xảy ra ở xứ Armênia thuộc Liên Xô cũ
giết chết hằng ngàn người. Trong số những người bị chôn dưới đống gạch vụn có 2
mẹ con bà Suzanna. Mẹ con may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ. Tất
cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt nhỏ. Nhưng chẳng bao lâu hũ mứt cũng hết
sạch. Lúc đó đứa con 4 tuổi kêu lên: "Mẹ ơi con khát quá". Bà Suzanna
không biết tìm đâu ra nước cho con. Nhưng tình máu mủ đã gợi cho bà một sáng
kiến táo bạo: bà dùng một miếng kính vỡ cắt đầu ngón tay mình cho máu chảy ra
và đưa vào miệng đứa con cho nó mút. Một lúc sau nó lại kêu khát, bà lại cắt
một đầu ngón tay nữa. Cứ như thế cho đến khi người ta cứu 2 mẹ con ra. Sau khi
ra ngoài, bà mẹ cho biết rằng: "Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng chết.
Nhưng tôi muốn con tôi sống"
Câu
chuyện trên thật cảm động. Nhưng vẫn không cảm động bằng việc Đức Giêsu tự hiến
dâng thịt máu mình cho chúng ta. Bà Suzanna đã lấy máu của mình nuôi con khi bà
biết rằng chắc chắn bà sẽ chết. Thay vì chết cách vô ích. Bà đã hy sinh dòng
máu của mình để cho đứa con được sống. Đó là sự hy sinh trong một tình thế bó
buộc. Còn Đức Giêsu thì không có gì bắt buộc cả: Ngài đến trần gian để chết cho
loài người. Càng ngày Ngài càng tiến gần đến cái chết. Tuy nhiên bất cứ lúc nào
Ngài cũng có thể thoát khỏi cái chết ấy. Dù vậy Ngài vẫn cương quyết đi đến cái
chết và cương quyết lấy thịt máu mình làm lương thực nuôi sống loài người chúng
ta. Thật đúng là: "Không có tình yêu nào cao trọng cho bằng tình của người
dám chết cho người mình yêu thương". Điểm thứ hai khác biệt giữa bà
Suzanna với Đức Giêsu là: việc bà Suzanna hy sinh máu mình cho đứa con chỉ xảy
ra một lần; còn việc Đức Giêsu ban thịt máu Ngài cho chúng ta xảy ra hằng ngày,
như lời Ngài đã truyền dạy "Chúng con hãy làm việc này để nhớ đến
Ta". Mỗi lần Giáo hội dâng Thánh lễ là mỗi lần việc hy sinh của Đức Giêsu
được lập lại, lập lại không chỉ như một tưởng niệm mà lập lại với tất cả hiệu
quả có nó. Hiệu quả ấy là như lời Đức Giêsu đã nói: "Ai ăn Thịt Ta và uống
máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
Một
điều đáng buồn là lòng chúng ta đã thành chai đá trước tấm lòng của Chúa mà lẽ
ra phải khiến chúng ta hết sức cảm động. Ngày nay ở phương Tây, số giáo dân
Pháp, chỉ còn có 10% giáo dân dự lễ Chúa Nhật. Còn bên Việt Nam chúng ta, số
người bỏ lễ Chúa Nhật cũng càng ngày càng nhiều. Trong số những kẻ còn đi lễ
thì nhiều người đứng ngoài Nhà thờ, vừa dự lễ vừa trò chuyện và hút thuốc. Hình
như rất nhiều người đi lễ chỉ vì sợ phạm tội trọng.
Khi
Nữ Tu Têrêxa Calcutta sang Liên Xô xin mở trụ sở bác ái, Bà đã gặp các vị lãnh
đạo chính quyền và đã được đồng ý nhanh chóng. Tuy nhiên khi bà xin cho có Linh
mục tại những trụ sở đó thì các vị ấy đã ngần ngại. Lúc Mẹ Têrêxa giải thích:
Nguồn sức mạnh của các Nữ Tu chúng tôi là do Mình Thánh Chúa. Nhờ mỗi ngày được
rước Mình Thánh Chúa nên các Nữ Tu chúng tôi có sức hy sinh quên mình để phục
vụ những người nghèo khổ. Do đó cần phải có Linh mục để mỗi ngày dâng Thánh Lễ
và cho chúng tôi rước lễ. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Bà là những người đã cảm
nghiệm được Lời Chúa phán khi lập phép Mình Thánh Chúa "Ai ăn thịt Ta và
uống máu Ta thì sẽ được sống muôn đời".
Hôm
nay lễ Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu. Chúng ta ôn lại tình yêu bao la của Đức
Giêsu khiến Ngài chịu chết vì chúng ta và trước khi chết đã ban Mình và Máu
Ngài làm thương thực nuôi linh hồn chúng ta.
Nhưng
chúng ta cũng nhận thấy sự giảm sút lòng sốt săng của chúng ta đối với việc dự
lễ và rước lễ. Chúng ta thờ ơ với một thứ lương thực quý giá mà Chúa đã ban.
Chúng ta bỏ mất biết bao ơn ích do việc rước lễ mà nhiều người đạo đức rất quý
chuộng.
Giờ
đây chắc chúng ta biết mình phải làm gì:
-
Trước hết, là những người làm cha mẹ, làm ông bà, chúng ta hãy nhắc nhở và
khuyến khích con cháu mình thường xuyên tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng.
-
Phần chúng ta, mỗi khi dự lễ và Rước Lễ, chúng ta hãy cố gắng sốt sắng. Đừng
làm một cách máy móc theo thói quen, nhưng hãy đặt hết tâm tình vào đó.
Để
kết thúc, xin trích đọc sau đây tâm tình của một người đã biết cách dự lễ và
rước lễ sốt sắng: "Mỗi Thánh Lễ, tôi lại cảm thấy có điều gì đó cần thống
hối cách đặc biệt. Mỗi Thánh Lễ, tôi lại thấy mình muốn đặt lên đĩa Thánh một
chút cố gắng riêng tư, đau khổ, mơ ước, thao thức... Tôi không đi dự Thánh Lễ
với hai bàn tay trắng, nhưng với lễ vật là chính cuộc đời tôi. Trong mỗi Thánh
Lễ, Lời Chúa lại tác động đến tôi, những lời nói đã nghe nhiều lần tôi nhớ rằng
Ngài đã trở nên tấm bánh bẻ ra cho tôi, và tôi cũng phải trở nên tấm bánh bẻ ra
cho anh chị em tôi".
20. Trao ban đến tận cùng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tình
thương là động cơ chính thúc đẩy người ta ban tặng cho nhau.
Vì
tình yêu thương có nhiều cấp độ hơn kém khác nhau nên việc trao ban cũng có
nhiều mức độ nhiều ít khác nhau.
1.
Trao ban những thứ dư thừa
Khi
gặp một người ăn xin xa lạ trên đường phố chìa tay tìm sự giúp đỡ, khách bộ
hành dừng lại, tần ngần mở ví, tìm đồng tiền nhỏ nhất trao cho người ấy.
Khi
gặp người lỡ bước không chỗ tạm trú qua đêm, người chủ của căn nhà sang trọng
chỉ nhường cho người đó một xó nhỏ ngoài hành lang nhà mình.
Khi
có nạn nhân những vùng bị lũ quét cuốn trôi hết gia tài sản nghiệp, người dư ăn
dư mặc chỉ chia sẻ cho họ những bộ áo quần cũ kỹ, mặc không vừa ý...
Vì
tình thương đối với những người hoạn nạn ấy rất nhỏ nhoi nên người ta chỉ trao
tặng họ những của dư thừa.
2.
Trao ban những điều cần thiết
Khi
tình yêu dành cho người khác lớn hơn, người ta sẽ ban tặng cho họ những thứ cần
thiết hơn. Hai người bạn tù thương mến nhau đang sống trong cảnh tù đày thiếu
đói, người nầy sẵn sàng bẻ đôi miếng bánh đang ăn để chia sớt cho người kia
cùng chịu cảnh tù tội đói khát với mình.
3.
Trao ban cả bản thân
Cao
cả hơn hết là trao ban chính bản thân mình.
Đó
là khi người có đôi mắt tinh tường sẵn sàng hiến một con mắt của mình cho người
bị nạn hỏng cả hai mắt; người có hai quả thận hoạt động tốt, hiến cho người bị
hư thận hoàn toàn một quả; người có hai lá phổi lành lặn, hiến cho người bị ung
thư hai buồng phổi một lá; người có hai cánh tay khoẻ mạnh tình nguyện hiến
nguyên cả một cánh tay của mình cho người bị tai nạn nghề nghiệp đứt lìa hai
chi trên.
Chỉ
khi nào người ta yêu mến nạn nhân hết lòng hết sức, yêu nạn nhân còn hơn cả bản
thân mình, người ta mới hiến tặng những chi thể trong thân mình cho họ. Vì thế,
những nghĩa cử cao đẹp đó rất hiếm hoi trên cõi đời ô trọc nầy.
Chỉ
có Chúa Giêsu mới trao ban cả thân xác và mạng sống của Người cho chúng ta.
Người
đời nghèo thiếu tình yêu nên cũng rất bủn xỉn trong việc trao ban. Chúa Giêsu
yêu thương chúng ta hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự nên Người trao ban cho
chúng ta tất cả không tiếc nuối điều gì, thậm chí còn ban cả bản thân và mạng
sống của Người cho chúng ta.
Khi
nhân loại ngụp lặn trong đại dương chết chóc mong ước có một "Tấm
Phao" thần diệu cứu họ khỏi đắm chìm trong biển chết hãi hùng, Chúa Giêsu
từ trời gieo mình xuống và trở nên "Phao Cứu Sinh" cho họ.
Khi
nhân loại khao khát thứ bánh thần thiêng mang lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu
hiến ban Thân Mình Người làm bánh trường sinh mang lại sự sống vĩnh cửu cho thế
nhân.
Khi
loài người cần máu của Con Thiên Chúa đổ ra tẩy rửa tội lỗi ngút ngàn của họ,
Chúa Giêsu sẵn sàng trút máu mình ra không tiếc nuối.
Khi
con người cần sinh mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa để đổi mạng cho mình, Chúa
Giêsu vui lòng dâng hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân...
Chúa
Giêsu luôn đáp ứng tất cả những nhu cầu sâu xa nhất, bức thiết nhất của chúng
ta cho dù Người phải thiệt mất mạng sống.
Chúa
Giêsu trao ban hết tất cả những gì Người có và ban chính bản thân Người vì yêu
thương chúng ta.
"Không
có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu
mình" (Ga 15,13).
Lạy
Chúa Giêsu,
Không
ai trên cõi đời nầy yêu thương chúng con bằng Chúa.
Dù
chúng con có phản bội, có thờ ơ hờ hững với Chúa thì Chúa vẫn trọn đời yêu quý
chúng con.
Vậy
mà tiếc thay, nhiều người trong chúng con không nhận ra tình yêu cao vời ấy.
Xin
đừng để chúng con trở nên người bội bạc vong ân vì không cảm nhận được tình yêu
của Chúa và không biết đáp đền tình yêu trời bể Chúa dành cho chúng con.
21. Giao ước mới.
Sau
câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, câu chuyện về giao ước của Thiên Chúa
với Abraham chính là thời điểm chủ chốt trong Cựu ước. Câu chuyện cứu độ của
chúng ta bắt đầu từ đây. Thời điểm này trong Kinh Thánh đã trở thành câu chuyện
về mối tương quan của Thiên Chúa với dân Người. Câu chuyện này được tóm tắt
trong một công thức đã được lập đi lập lại nhiều lần trong Cựu ước "Các
ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi".
Giao
ước này không giống như mối quan hệ tồn tại giữa các bên đối tác trong thương
mại – đó là một cách sắp xếp kinh doanh một cách chặt chẽ. Giao ước này giống
như giao ước tồn tại giữa đôi vợ chồng nhiều hơn. Trên thực tế, đây đúng là
cách thức mà một số ngôn sứ đã mô tả về giao ước này: họ so sánh giao ước giữa
Thiên Chúa và dân Người với mối quan hệ trong hôn nhân. Về phần mình, Thiên
Chúa luôn luôn trung thành; tình yêu của Người không hề thay đổi. Nhưng thật
đáng buồn, không phải lúc nào dân của Người cũng trung thành với Người.
Để
yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta sự tự do để chọn lựa. Giao
ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì quan trọng hơn, so với việc Thiên
Chúa toàn năng ban bố lề luật, Thiên Chúa cần có sự vâng phục của chúng ta, chứ
không cần đến tình yêu của chúng ta. Nhưng giao ước này phải là một hợp đồng
được thực hiện một cách tự do, giữa hai bên hoàn toàn tự do.
Trong
bài đọc 1 của ngày hôm nay, chúng ta nhận thấy cách thức Môsê phê chuẩn giao
ước, trước khi dân chúng tiến vào đất hứa. Nhưng dân chúng đã không giữ giao
ước. Họ rơi vào cảnh sùng bái ngẫu tượng. Mặc dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ
rơi họ. Rất nhiều lần, Người đề nghị với họ một giao ước, và thông qua các ngôn
sứ, Người dạy họ biết hy vọng vào ơn cứu độ.
Và
khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã gửi Chúa Con đến làm Đấng cứu độ chúng ta.
Thông qua Người, Thiên Chúa thiết lập với chúng ta một giao ước mới và kéo dài
đến muôn đời. Đức Giêsu đánh dấu giao ước này bằng máu của Người. Đức Giêsu
chính là người đứng đầu dân tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người dẫn đưa
chúng ta tới không phải là mảnh đất trần gian này, mà là vùng đất của cuộc sống
muôn đời. Thông qua Người, chúng ta có một ràng buộc gần gũi hơn bao giờ hết
đối với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những người
con trai và con gái là gia đình của Thiên Chúa.
Trong
Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta đang có một giao ước với Thiên Chúa, Đấng
luôn luôn trung thành. Chúng ta được mời gọi sống theo cách thức nhất quán với
mối tương quan này. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta phải thành công, Người
chỉ cần sự trung tín mà thôi.
22. Bánh Ban Sự Sống – Peter Feldmeier
(Lm.
Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
"Bởi
vậy, Người là trung gian của một giao ước mới (Dt 9,15).
Khi
tôi đem Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân và những cụ già tại một nhà dưỡng
lão, lần đầu tiên tôi gặp ông Smith. Ông ta mắc bệnh rối loạn tâm thần. Khi tôi
gõ cửa phòng ông và đang chuẩn bị bước vào, tôi tự giới thiệu và cho ông biết
giáo xứ đã cử tôi đến đây. Ông ta tỏ vẻ bực bội và khó chịu nói vọng ra
"Xin lỗi, mời ông bước ra". Khi tôi vừa quay lưng để định thoái lui,
ông gọi giật tôi lại và hỏi "Ông đến đây làm gì"? Tôi trả lời:
"Tôi đến đem mình Thánh Chúa cho ông". Bấy giờ ông lên tiếng "Ồ,
chuyện đó lại khác, mời ông vào". Thái độ của ông bỗng chốc trở nên cung
kính và sốt sắng cách lạ thường. Chúng tôi cùng cầu nguyện với nhau và đọc kinh
Lạy Cha, rồi tôi trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ông đón nhận với thái độ rất
kính cẩn và chậm rãi cầu nguyện cám ơn Chúa sau khi đã rước lễ. Tôi thấy rất
cảm động. Sau đó tôi chào ông và nói "Xin lỗi, chào ông nhé, bây giờ thì
tôi bước ra đây".
Kinh
nghiệm ngày hôm đó đã gợi hứng rất nhiều cho tôi để suy gẫm về Bí tích Thánh
Thể. Hiển nhiên tôi thấy rất rõ, ông Smith đã đón nhận Thánh Thể một cách thật
cung kính, chứ không phải như một thói quen máy móc. Ông đã biểu tỏ lòng tôn
kính và sự thánh thiện khi rước lễ một cách thật ý thức. Có thể nói đó là phút
giây đẹp nhất trong một ngày sống của ông. Mặc dù ông ta đang mắc bệnh về não,
khiến ông khó có thể kiểm soát được đầu óc mình, nhưng việc rước Thánh Thể đã
khơi dậy lòng sốt mến trong tâm hồn ông, và ông cảm nhận một cách rõ ràng sự
hiện diện của Chúa Giêsu nơi bánh Thánh. Ông đã biểu tỏ rõ nét sự quý trọng
thánh thiêng khi đón nhận mình Thánh Chúa Giêsu.
Bài
đọc hai trong phụng vụ hôm nay trích từ thư gửi tín hữu Do Thái, trong đó tác
giả liệt kê một loạt những biểu tượng khá phức tạp để diễn bày sự thánh thiện
của Thiên Chúa. Gợi nhắc lại các nghi thức phụng tự xưa cũ nơi cung thánh của
đền thờ, tác giả quy chiếu về Đức Giêsu. Ngài chính là Thượng Tế của giao ước
mới, một giao ước đã trở nên trọn hảo. Tác giả đã viết như sau "Đức Kitô
đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh,
Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn. Người vào chỉ một lần, và
đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta". Sau đó tác giả thơ Do Thái
dẫn giải tiếp và cho biết cung thánh mới được nói tới chính là quê trời.
Ở
đây, chúng ta không cần tưởng tượng ra trời cao hay thiên đàng như một cung
thánh thiêng liêng. Nhưng tác giả muốn chúng ta nhìn vào hoàn vũ này như một
đền thờ của Thiên Chúa và trời cao nơi Thiên Chúa ngự chính là Cung thánh, nơi
cực thánh. Trong đền thờ này có hòm bia giao ước. Cung thánh trong đền thờ năm
xưa là nơi đặt hòm bia chứng ước, và cũng là nơi chốn linh thiêng nhất. Vị
Thượng Tế phải đi qua một cái lều lớn để tiến đến cái lều nhỏ tận sâu phía
trong, là nội cung cực thánh. Ông chỉ vào nơi đây một ngày duy nhất trong năm,
đó là ngày lễ xá tội (Yom Kippur). Thượng tế được cột bằng một dải vải dài từ
chiếc áo choàng, để khi đi vào cung thánh gặp Thiên Chúa mà lỡ có phải chết,
các tư tế khác sẽ dùng miếng vải đó lôi ông ra ngoài vì không ai được vào tận
trong cung thánh. Người Do Thái tin rằng đây là nơi cực thánh không ai được vào
trừ Thượng tế, và nếu ai liều lĩnh đi vào, người đó sẽ chết. Vị Thượng tế tiến
vào cung thánh mỗi năm một lần để gặp Thiên Chúa trực tiếp thay cho dân. Nhưng
đây chỉ là hình bóng về một cung thánh khác trên trời cao, nơi chúng ta sẽ được
tiếp cận Thiên Chúa một cách trực tiếp. Bằng máu hiến tế đổ ra, Đức Kitô đã đi
qua một chiếc lều tạm là chính thân xác Ngài, để tiến về chiếc lều nhỏ, là
chính cung thánh trên trời. Vì thế, Ngài trở thành Thượng tế đích thật, là
"Trung gian của giao ước mới".
Theo
tôi nghĩ, thế giới tạo thành này hiện hữu với hai cấp độ: cấp độ vật chất hữu
hình và cấp độ thiêng liêng vô hình. Cả hai cấp độ này hòa quyện và đan xen với
nhau. Cách thái hiện hữu này giúp cắt nghĩa lý do tại sao các phép lạ vẫn xảy
ra mà không hủy phá trật tự của tự nhiên, cho dù nó được thực hiện bằng những
sức mạnh thần thiêng mà luật tự nhiên không thể cắt nghĩa nổi. Chúng ta hãy
tưởng tượng vũ trụ này như một đền thờ, và trời cao như là cánh cửa dẫn vào nội
cung cực thánh bên trong đền thờ đó. Ý tưởng này sẽ giúp chúng ta nhìn vào hoàn
vũ bao la này và khám phá ra sự linh thánh của nó. Khi tôi thực hiện một quyết
định gì về thế giới tạo thành quanh đây, tôi luôn phải ghi nhớ sự linh thánh ẩn
chứa bên trong. Nếu chúng ta ý thức rằng tất cả mọi người đang sống trên trái
đất đều được phủ che bằng một tấm màn thánh thiêng như thế, chúng ta sẽ đối xử
với nhau một cách khác hẳn.
Nhưng
trên hết, hình ảnh này sẽ giúp chúng ta hiểu được Đức Kitô đã liên kết trời và
đất như thế nào. Đương nhiên trời không phải là đất, và trái đất chúng ta đang
ở không phải là quê trời. Nhưng trong Đức Kitô, cả hai thực tại đều liên hệ chặt
chẽ với nhau. Trời và đất đều là thành phần của cùng một đền thờ. Trong Đức
Kitô, không có cái gì chỉ thuần phàm tục, và cũng không có cái gì tuyệt đối
hoàn hảo. Không có cái gì chỉ là tạm bợ và cũng không có gì trong vũ trụ này là
vĩnh cửu mãi mãi.
Tôi
nghĩ rằng ông Smith đã có một trực giác để thấu hiểu điều này. Từ đáy sâu thẳm
của cuộc sống làm người với những giới hạn mong manh, ông đã cảm thức về một
thế giới vô hạn. Khi đón nhận Thánh Thể, ông đã thực sự tiến vào Cung Thánh,
vào nơi cực thánh cùng với Đức Kitô. Ông đã đón nhận của ăn đàng chỉ một ngày
trước khi ông chết. Các thiên thần sẽ đưa ông về quê trời. Ông đã về với Chúa
cùng với Bánh ban sự sống đem theo, là lương thực độ đường trong cuộc lữ hành
tiến về cung thánh thật, và cũng là quê hương thật của ông. Nơi thánh cung này,
cùng với Đức Kitô, ông sẽ đạt tới sự vinh quang tròn đầy.
23. Chia sẻ.
Trong
ý nghĩa yêu thương, trước giờ biệt ly, Chúa Giêsu muốn để lại cho loài người
một vật kỷ niệm. Người đời trước khi đi xa, thường lưu lại cho người thân thích
một món đồ nào đó để ghi nhớ: một cuốn sách, một khăn tay, một tấm hình, một
cái áo, một chiếc nhẫn v.v... Đối với Chúa Giêsu, những vật đó hay bất cứ vật
nào cũng đều tầm thường quá, hời hợt quá, không đủ nói lên tấm lòng yêu thương
nồng nhiệt của Chúa đối với nhân loại. Kỷ vật Chúa muốn lưu lại cho loài người
phải hết sức đặc biệt, đó là chính bản thân Chúa.
Nhưng
bản thân bằng xương bằng thịt của Chúa lại sắp sửa bị bắt và bị giết chết. Do
đó, Chúa đã thực hiện ý muốn trên bằng một thể thức vô cùng linh diệu, là lưu
lại bản thân dưới hình thức nhiệm mầu. Chúa lấy bánh và rượu biến đổi thành
Mình và Máu Ngài: "Này là Mình Thầy", "Này là chén Máu
Thầy". Với những lời ấy, Chúa Giêsu đã lập Phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn
truyền cho các môn đệ: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy",
tức là Chúa ban quyền cho các môn đệ được làm việc cao quý này để tưởng niệm
đến Ngài.
Như
thế, trong bữa tiệc ly và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa
đã thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ. Từ
đó trở đi, cho tới ngày nay, và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục
trịnh trọng lặp lại những lời của Chúa Giêsu: "Này là Mình Thầy",
"Này là chén Máu Thầy", tức thì bánh không còn là bánh, rượu không
còn là rượu nữa, nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu
vượt quá sự hiểu biết của trí khôn loài người. Bởi vì trước và sau khi linh mục
đọc lời truyền phép, chúng ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu
chưa truyền phép và đã truyền phép, chúng ta chẳng thấy có gì khác nhau. Nhưng
theo đức tin thì lại khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh
Chúa Kitô, một đàng là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế,
chúng ta gọi đây là một bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Như
vậy, trong tình yêu và vì tình yêu, Chúa Giêsu đã tìm ra một phương thế để ở
lại với các môn đệ; và qua mọi thời gian, ở lại với tất cả những ai tin vào
Ngài. Vì thế, Thánh Thể được gọi là bí tích của sự hiện diện. Dưới hình bánh và
hình rượu, Chúa Giêsu hiện diện luôn mãi với loài người nơi trần gian. Thánh
thể còn là bí tích của sự hiệp nhất. Trước hết, Thánh Thể làm cho chúng ta kết
hiệp mật thiết với Chúa Kitô, bởi vì Ngài đến với chúng ta dưới hình bánh hình
rượu, làm cho chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài. Đồng thời, khi kết
hiệp chúng ta với Chúa Kitô, thì thánh thể cũng kết hiệp chúng ta với nhau:
được qui tụ chung quanh một bàn ăn, chúng ta cùng uống một chén, chia sẻ cùng
một của ăn, chúng ta sống bằng chính mầu nhiệm của tình thương, chúng ta càng
hiệp nhất với nhau còn hơn là con cái của một gia đình.
Thánh
Thể còn là bí tích của sự chia sẻ: Bí tích Thánh Thể đã được Chúa Giêsu thiết
lập trong bầu khí thân tình của một bữa ăn từ giã. Tấm bánh Chúa Giêsu đã cầm
và phân chia cho các môn đệ cũng như chén rượu Ngài đã trao cho các môn đệ là
để họ cùng ăn cùng uống trong tình huynh đệ; và chính việc chia sẻ này đã được
Chúa dùng như dấu chỉ cho các môn đệ làm để nhớ đến Ngài. Cũng vậy, ý thức chia
sẻ đòi buộc mỗi người không được đóng khung những buổi cử hành Thánh Thể bên
trong nhà thờ, nhưng phải sống mầu nhiệm Thánh thể, mầu nhiệm yêu thương ngay
trong cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta cũng không thể cử hành Thánh Thể một cách
trung thực nếu chúng ta sống dửng dưng, ích kỷ, không quan tâm đến những anh
chị em chung quanh. Nếu chúng ta nghèo của cải vật chất, chúng ta hãy chia sẻ,
hãy cho tình thương, sự thông cảm, vị tha, bác ái dưới mọi hình thức với hết
mọi người.
Tóm
lại, về Phép Thánh Thể, chúng ta hãy nhớ: Thánh Thể là một bí tích. Trong Thánh
Thể, có Chúa Giêsu thật sự. Vì thế, sau khi truyền phép, không còn bánh và rượu
trên bàn thờ nữa. Chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ. Mỗi lần dâng thánh
lễ là chúng ta cử hành việc Chúa lập Phép Thánh Thể. Đàng khác, chúng ta hãy cố
gắng rước lễ mỗi khi tham dự thánh lễ, bởi vì rước lễ làm cho chúng ta kết hiệp
với Chúa Kitô và hiệp nhất với nhau; tăng thêm sức mạnh cũng như nghị lực cho
chúng ta trên đường lữ thứ trần gian; và bảo đảm sự sống đời đời của chúng ta.
Như thế, bàn tiệc Thánh Thể trở nên điểm hẹn diệu kỳ, nơi đó, chúng ta được nối
kết với Chúa Kitô và nối kết với nhau, để cùng nhau xây dựng một thế giới công
bằng và tốt đẹp hơn.
24. Bữa tiệc linh thánh.
Trong
cuộc bắt đạo năm 1980, những người Công Giáo tại Guatemala vẫn tiếp tục tụ tập
tại nhà thờ mỗi Chúa Nhật cho dù là không có linh mục để cử hành Thánh Lễ, cho
dù toàn quốc không có một linh mục nào cả.
Diễn
tả lại những lúc tụ tập lại mà không có linh mục, Fernando Bermudez viết trong
cuốn "Death and Resurrection in Gautemala, Cái Chết và Sự Phục Sinh của
Gautemala" như sau: "Tất cả mọi người, quì trước mặt nhau, đều xưng
tội lỗi mình ra, và cùng nhau hát bài xin Thiên Chúa tha thứ. Và một người làm
đầu trong nhóm đứng lên đọc một đoạn Phúc Âm rồi giảng giải với hết khả năng
theo sự hiểu biết của anh. Sau đó, anh mời mọi người trong nhóm chia sẻ ý nghĩ
của họ về bài Phúc Âm đó.
Mỗi
tháng một lần, các giáo xứ gởi đi một đại diện đến một chỗ mà các linh mục vẫn
còn được hoạt động. Người đại diện đó phải đi bộ mất 18 tiếng đồng hồ để tham
dự Thánh Lễ nhân danh giáo xứ của họ.
Diễn
tả về Thánh Lễ này, Bermudez viết: "Bàn thờ được chẩn bị những rổ bánh.
Sau Thánh Lễ, các đại diện đến nhận lại cái rổ bánh của mình, bây giờ là Mình
Thánh Chúa, đem về giáo xứ của mình để chia sẻ với những anh chị em khác."
Đó
là lòng yêu mến Thánh Thể mà Thánh Lễ hôm nay, kính Mình Máu Thánh Chúa, chúng
ta đang kính nhớ.
Thánh
Lễ đặc biệt này cử hành để kỷ niệm món quà rất quý giá mà Chúa Giêsu đã để lại
cho các môn đệ trong Bữa Tiệc ly. Thánh Luca đã tả lại như sau:
"Người
cấm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: "Này là mình
Ta sẽ bị nộp vì các con; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức
ấy, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu mà nói: "Này là máu Ta, máu Giao
ước mới, đổ ra vì các ngươi" (Lc 22:19-20).
Lời
của Chúa Giêsu thật quan trọng. Ngài phán: "Đây là mình Ta, sẽ bị nộp vì
các con" và "Đây là Máu Ta, sẽ đổ ra vì các con."
Những
lời này, "sẽ bị nộp vì các con" và "sẽ đổ ra vì các con"
nói lên tinh thần hy sinh cao cả. Những lời này nói lên hy tế Thân xác và Máu
của của Chúa Giêsu trên thánh giá.
Diễn
tả về hy tế cực thánh trong Thánh Thể, Thánh Phaolô đã viết: "Chén chúc
tụng ta (cầm lên mà) đội ơn, lại không phải là thông phần Máu Đức Kitô sao?
Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân mình Đức Kitô sao?" (1 Cor
10:16).
Thánh
Phaolô nêu ra cho chúng ta một điểm quan trọng. Mỗi lần khi chúng ta cùng nhau
cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta tham dự vào hiến tế của Chúa Kitô lên Thiên
Chúa Cha.
Nói
một cách khác, bữa tiệc Thánh Thể mà chúng ta cử hành mỗi Chúa Nhật là một hy
tế giống như hy tế mà Chúa Giêsu đã bắt đầu trong Bữa Tiệc ly và hoàn tất trên
đồi Golgôtha. Khi chúng ta hiểu được điều đó thì Thánh Thể sẽ mang một ý nghĩa
mới.
Đó
là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tụ họp nơi đây để cùng nhau cử hành cách
đặc biệt trong Thánh Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô.
Trong
một vài phút nữa, khi vị chủ tế cầm Mình Thánh và nói: "Mình Thánh Chúa
Kitô", xin các bạn hãy nỗ lực nhận thức cách đặc biệt cái gì bạn đang đón
nhận.
25. Hồng ân của Bí Tích Thánh Thể
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Từ
ngày tổ tông loài người sa ngã phạm tội, ông bà nguyên tổ và con cháu cắt đứt
mọi tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa, phải xa lìa Thiên Chúa vĩnh viễn và cuối
cùng phải trầm luân đời đời trong cõi chết.
Không
nỡ để cho loài người phải chìm ngập trong đau khổ và sự chết do tội lỗi gây ra,
Thiên Chúa tìm mọi cách cứu vớt loài người để họ được sống hạnh phúc với Người
luôn mãi.
Thế
là Thiên Chúa lên kế hoạch cứu độ loài người. Kế hoạch đó nhắm đến ba mục tiêu
tối quan trọng sau đây:
-
Xóa bỏ tội lỗi con người.
-
Kết hợp nên một với con người và ở với họ mọi ngày cho đến tận thế.
-
Thông ban sự sống cao cấp và viên mãn của Thiên Chúa cho loài người.
Ba
mục tiêu cao cả nầy được đạt tới trọn vẹn nhờ việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích
Thánh Thể.
Vậy
thì Bí Tích Thánh Thể là gì mà có thể mang lại hiệu quả tuyệt vời đến thế?
Có
thể trả lời vắn gọn: Bí Tích Thánh Thể, còn gọi là Thánh Lễ, chính là hy tế
thập giá của Chúa Giêsu đã khởi đầu cách đây hơn 2.000 năm trên đồi Can-vê và
còn tiếp tục diễn tiến qua các thời đại cho đến ngày tận thế. (Giáo lý Công
Giáo 1323,1366)
Trăm
nghe không bằng một thấy. Muốn hiểu điều cốt yếu của Bí Tích Thánh Thể hay
Thánh Lễ là gì thì cứ việc nhìn vào tượng chuộc tội, hoặc muốn thấy rõ hơn thì
nhìn vào mười bốn bức tranh đường thánh giá mà các tín hữu vẫn chiêm ngắm vào
mỗi ngày thứ sáu hằng tuần. Tượng chuộc tội đó, mười bốn bức họa đường thánh
giá đó, minh họa cho thấy hy tế thập giá của Chúa Giêsu diễn ra thế nào. Thánh
Lễ ta tham dự hôm nay chính là phần nối tiếp của hy tế thập giá đó và cũng là
một với hy tế đó.
1.
Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu dâng mình đền tội cho ta.
Luật
Chúa đã truyền: "Tội lỗi tất phải đưa đến sự chết" (xem Ê-dê-ki-ên
18,20. Rm 5,12. Rm 6,23. Giacôbê 1,15) mà luật Chúa thì không thể xóa bỏ được.
Chiếu theo luật nầy, loài người đã phạm tội nên loài người không thể thoát
chết, trừ phi có ai chết thay cho họ. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa tình nguyện
làm Đấng chết thay.
Khi
dâng mình làm lễ tế trên đồi Can-vê hôm xưa, cũng là khi dâng mình trong Thánh
Lễ hôm nay, Chúa Giêsu chịu đền tội và chịu chết thay cho người tội lỗi để họ
được ơn tha thứ và thoát khỏi án chết đời đời. (xem glcg 1365, 1366)
2.
Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu cho ta được kết hợp nên một với Người và Người ở lại
với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Làm
thế nào để cho con người được nên một với Chúa Giêsu?
Chúa
Giêsu có một sáng kiến tuyệt vời: Người hiện diện dưới hình tấm bánh, dưới hình
rượu để cho chúng ta được ăn Người, được uống Người. Và một khi đã ăn Chúa
Giêsu, chúng ta được nên cùng máu thịt, cùng một thân mình với Chúa như lời
Người phán: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại
trong người ấy." (Ga 6, 56)
Thiên
Chúa như đại dương bao la. Còn chúng ta như vũng nước nhỏ bên bờ đại dương. Khi
ta rước Chúa vào lòng, ngăn cách giữa ta với Chúa không còn nữa: Ta được tan
hòa vào Chúa như ao nước nhỏ tan hòa vào đại dương, nên một với đại dương, được
nước đại dương làm cho trong lành.
3.
Nhờ Thánh Lễ, Chúa Giêsu ban sự sống của Người cho ta.
Muốn
cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được
tháp nối nên một với cây nho vườn.
Muốn
cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay
đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy
muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ
nên một với Chúa Giêsu.
Khi
rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta được hòa tan trong Chúa, Chúa với ta
không còn là hai mà chỉ là một. Nhờ đó, Sự Sống đời đời của Thiên Chúa nơi Chúa
Giêsu sẽ được thông ban cho ta như sự sống của thân thể chuyển thông cho từng
chi thể. Nhờ đó, chúng ta mới được sống đời đời như lời Chúa Giêsu xác nhận:
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (Ga 6,54)
Như
thế, Thánh Lễ, hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu là một phương
thế tuyệt vời Thiên Chúa dùng để cùng một lúc ban cho chúng ta đến ba hồng ân
vô giá, đó là tha thứ tội lỗi cho chúng ta, cho ta được thông hiệp nên một với
Chúa và nhất là thông ban sự sống vô cùng cao quý của chính Người cho chúng ta.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa phải trả giá rất đắt, trả giá bằng cả cuộc đời và sinh mạng
của Chúa để đem lại cho chúng con những ân huệ quá đỗi tuyệt vời. Lẽ nào chúng
con lại ngoảnh mặt quay lưng hay tỏ ra thờ ơ hững hờ với những hồng ân cao vời
như thế?
Xin
cho chúng con sớm nhận ra hồng ân vô giá nầy để ngày ngày siêng năng tham dự
Thánh Lễ và tận hưởng thiên ân.
26. Chuẩn bị tiệc Vượt Qua và khai mạc Giao Ước
(Chú
giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Phụng
vụ hôm nay đưa chúng ta đến bữa ăn cuối cùng Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ.
Đây là một trong nhiều sự cố đã xảy ra kể từ khi Đức Giêsu đến Giêrusalem (x.
11,1). Tuy nhiên, bữa ăn này có một giá trị đặc biệt, vì đây là một bữa tiệc
Vượt Qua, trong đó Đức Giêsu sẽ ký kết giao ước mới trước khi đi vào cuộc
Thương Khó.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (14,12-16);
2)
Khai mạc giao ước (14,22-26).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua (12):
Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được cử hành vào chiều ngày
14 Nisan ("Nisan" là tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15
Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy ngày, lại bắt đầu
vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc lễ Bánh
Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu với
đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là "lễ Bánh Không
Men". Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả
hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới[1].
Truyền
thống kinh sư quy định việc sát tế chiên bắt đầu sau khi đã dâng hy lễ chiều
ngày vọng, nghĩa là vào khoảng 14g30, tức trước khi ngày thứ nhất bắt đầu vào
lúc mặt trời lặn. Nếu lễ Vượt Qua rơi vào ngày thứ bảy, thì bắt đầu sát tế chiên
sớm hơn 1 giờ. Nhưng tác giả Mc quan tâm đến độc giả gốc ngoại giáo, ông cho
bắt đầu ngày bằng ban sáng (14,17: "chiều đến", các ngài dùng bữa),
"ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men", tức là đúng ngay ngày 15
Nisan.
Nhận
định tổng hợp là: Bản văn Mc xác định Bữa Tiệc cuối cùng chính là bữa tiệc Vượt
Qua, tức đúng ngày 15 Nisan; các tác giả Nhất Lãm khác cũng theo thời gian biểu
của Mc. Còn Ga 19,14 lại đặt cái chết của Đức Giêsu vào chiều ngày 14 Nisan và
như thế làm cho bữa ăn tối cuối cùng trở thành một bữa ăn tiền-Vượt Qua. Thời
gian biểu của Gioan có lẽ đúng hơn, bởi vì khó mà cho rằng các thượng tế và các
kinh sư lại hành động như ta đã biết vào ngày thứ nhất của lễ Vượt Qua. Khi
biến bữa Ăn tối cuối cùng thành một bữa tiệc Vượt Qua, tác giả Mc nhắm kéo cái
chết của Đức Giêsu vào gần hơn nữa với các đề tài lớn của lễ Vượt Qua là hiến
tế và giải phóng.
-
dọn cho Thầy ăn lễ (12): Có nhiều việc phải làm: tìm một nơi thích hợp, giết
chiên, chuẩn bị bánh không men, sắm các đồ dùng vào bữa tiệc. Các dân cư
Giêrusalem rất sẵn sàng giúp cho các khách hành hương có chỗ mà ăn lễ. Nhưng ở
đây, tác giả Mc không muốn nói tới điểm này, ngài muốn nêu ra một chuyện lạ
lùng.
-
một người mang vò nước (13): Các môn đệ được cho một dấu chỉ để có thể chu toàn
nhiệm vụ, nhưng đây lại là một dấu chỉ của đời thường: một người mang vò nước
thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Tuy nhiên dấu chỉ này cho
hiểu rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng
chi tiết.
-
một phòng rộng rãi trên lầu (15): Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười
người họp lại với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một không gian
10x10 "khuỷu tay" (tức khoảng 23m2). Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để
diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và đã được tự do; ngay cả
người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế này.
-
dâng lời chúc tụng (22): Với cách hành động này, ta có thể nói đây là bữa tiệc
Vượt Qua hay bữa tiệc bằng hữu cũng được. Trong bữa tiệc Vượt Qua, phải có
trước tiên lời chúc tụng về ngày lễ, rồi chén rượu đầu tiên, các món khai vị là
rau đắng và trái cây, suy niệm về lễ Vượt Qua, rồi chén rượu thứ hai. Phần
chính của bữa ăn bắt đầu với lời chúc tụng trên bánh không men. "Cầm lấy,
dâng lời chúc tụng, bẻ ra" là những từ ngữ chuyên môn của lời kinh người
Do Thái đọc trước khi ăn. Rất có thể người Do Thái nghĩ rằng miếng bánh được trao
cho họ, do ông chủ bẻ ra từ tấm bánh lớn, đưa lại phúc lành cho mình.
-
đây là mình Thầy... Đây là máu Thầy (22.24): Vì từ ngữ "mình" (sôma)
là một từ nói quanh để chỉ bản thân con người, câu này có thể diễn lại là:
"Đây là chính Thầy". Những ai ăn tiệc thì được hiệp thông cách mới mẻ
với Đức Giêsu. Dựa vào c. 24 nói về chén rượu, ta hiểu là đây là sự hiệp thông
với Đấng đang đi tới cái chết. Từ ngữ sôma, vì ở trong thế song đối với
"máu đổ ra", có nghĩa là thân thể dâng làm hy lễ.
-
Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn (23): Trong tiệc Vượt Qua, giữa lời chúc
tụng trên bánh và lời chúc tụng trên rượu, có việc ăn thịt chiên. Theo sách
nghi thức, đây là chén rượu thứ ba. Ta lưu ý là tác giả Mc đã chuyển đi từ
"dâng lời chúc tụng (eulogein)" sang "dâng lời tạ ơn (eucharistein)",
trong khi trong bữa tiệc Do Thái, cả hai lần đều là "lời chúc tụng".
Có thể công thức này đã được chọn vì người ta đã nghĩ tới kết thúc bữa ăn.
Nhưng rất có thể tác giả muốn gợi tới bữa tiệc Thánh Thể (eucharistia).
-
tất cả đều uống (23): Chi tiết này đến quá sớm, vì sau đó Đức Giêsu còn giải
thích ý nghĩa của rượu. Trong một ngữ cảnh rộng hơn, từ "tất cả" đây
nhìn tới trước tình cảnh "tất cả" sẽ vấp ngã (14,27.50). Việc tham dự
vào bữa tiệc không giữ cho người ta khỏi vấp ngã vào giờ quyết định.
-
máu giao ước, đổ ra vì muôn người (24): "Máu giao ước" nhắc đến Xh
24,8. Trong đoạn văn này, sau khi dân đã cam kết giữ luật và sau hy lễ, Môsê
rảy máu các tế vật lên dân và nói: "Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập
với anh em, dựa trên những lời này". Ngay sau đó ông dùng một bữa tiệc
huynh đệ với các vị kỳ mục của dân (Xh 24,11). Nhờ cái chết của Đức Giêsu, một
giao ước mới được thiết lập, thay thế giao ước thứ nhất. Máu Đức Giêsu đi vào
thế đối lập tiên trưng với máu giao ước cũ. Theo Dcr 9,11, các tù nhân được
phóng thích "nhờ máu của giao ước này". Việc khai trương giao ước đưa
lại sự cứu chuộc và cứu độ. "Máu đổ ra" đồng nghĩa với "bị
giết", bởi vì theo một quan niệm của Kinh Thánh, máu được coi là mang sự
sống và sức sống. Từ đó ta hiểu rằng chén được dâng đảm bảo có sự hiệp thông
với Chúa, Đấng hiến mình trong cái chết. "Đổ ra", ekchêô, được dùng
thường xuyên để nói về máu con vật được đổ ra (Lv 4,7.18.25.30.34...) và việc
rưới rượu (Is 57,6).
Câu
"đổ ra vì muôn người" (dịch sát là "đổ ra vì nhiều người")
nhắc đến Is 53,12 và đưa lại cho hành vi một chiều kích hy tế. Hai đoạn văn Cựu
Ước này được dùng để diễn tả cái chết của Đức Giêsu như là một hy lễ vì những
người khác. Cụm từ hyper pollôn, "vì nhiều người", dựa trên kiểu nói Sê-mít
đặc biệt của Is 53,12 (rab), có nghĩa là "tất cả" / đoàn người đông
đảo", chứ không chỉ là "một số người"; đây là toàn thể thế giới
ngoại giáo (x. Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng cho các dân" [x.
Is 42,6; 49,7t]). Như vậy, "nhiều" đây không đối lập với "tất cả",
nhưng có nghĩa là "tất cả là nhiều"[2].
-
chẳng bao giờ Thầy còn uống ... trong Nước Thiên Chúa (25): Câu kết thúc này
đặt Bữa Tiệc Ly trong khung cảnh là bữa tiệc thiên sai (x. 6,35-44; 8,1-10).
Thay vì coi bữa tiệc cuối cùng này (và Tiệc Thánh Thể) là một biến cố cô lập,
cần phải liên kết nó với các bữa ăn Đức Giêsu đã chia sẻ trước đây với những
người thu thuế và tội lỗi (x. 2,16) và với bữa tiệc cánh chung tương lai.
-
Hát thánh vịnh xong (26): Đây là khối Tv 113–118, thường được gọi là Tập Hallel
nhỏ. Tập Hallel này này có một vị trí đặc biệt trong ba đại lễ Vượt Qua, Ngũ
Tuần và Lều.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Chuẩn bị tiệc Vượt Qua (12-16)
Bữa
tiệc có một tầm quan trọng lớn lao trong Tin Mừng. Tác giả Mc thường xuyên cho
thấy Đức Giêsu ngồi vào bàn ăn với các môn đệ, với những người tội lỗi và với
dân chúng. Biến cố cuối cùng trước Thương Khó cũng vẫn là một bữa tiệc: Đức
Giêsu cùng với Nhóm Mười Hai cử hành tiệc Vượt Qua. Trong sự hiệp thông đức tin
và đạo giáo Israel ,
các ngài cử hành lễ trọng nhất của dân tộc mình. Bằng bữa tiệc Vượt Qua, dân Israel nhắc lại
cách Thiên Chúa đối xử với các tổ phụ và được canh tân trong niềm tin đầy tri
ân, vui tươi và vững vàng đặt nơi Thiên Chúa.
Các
môn đệ được phái đi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ cuối cùng của Đức Giêsu với các
môn đệ trên bối cảnh là bữa tiệc và nội dung của đại lễ Vượt Qua như thế.
Các
môn đệ đã đi vào thành và gặp một người mang vò nước đón mình. Các ông đã
chuyển giao sứ điệp: "Thầy nhắn: «Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua
với các môn đệ của tôi ở đâu?»". Đây là lần duy nhất danh xưng
"Thầy" (didaskalos) được Đức Giêsu dùng để nói về mình, vừa với nghĩa
là "vị thầy truyền đạt kiến thức", vừa theo nghĩa là "bậc đáng
kính"; điều này còn được khẳng định bởi cụm từ "các môn đệ của
tôi" chỉ được dùng duy nhất ở đây. Tuy nhiên, chi tiết "người mang vò
nước" lại chứng tỏ rằng hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó đã
được tiên liệu trong từng chi tiết: Người biết và Người vâng phục (x. 11,1t).
Như thế, bên cạnh sự cao cả của Người, là sự hạ mình khiêm nhường của Người.
Ông chủ nhà sẽ dành cho các môn đệ một phòng lớn trên lầu trên (thường đây là
phòng rộng nhất của căn nhà). Các môn đệ thấy mọi sự đúng y như Đức Giêsu đã
nói trước.
*
Khai mạc giao ước (22-26)
Tại
bữa tiệc, trong bánh và rượu, Đức Giêsu ban cho các môn đệ thân mình và máu của
Người. Đây là bữa tiệc từ biệt. Đức Giêsu sẽ bị giao nộp và bị giết, Người sẽ
không đi đi lại lại trong xứ cùng với các ông, cũng không ăn tiệc với các ông
như lâu nay nữa. Tuy nhiên, Người sẽ ở giữa các ông trong bánh và rượu; trong
tương lai, đây sẽ là cách thức hiện diện của Người. Đức Giêsu từ biệt, tuy vậy,
Người vẫn ở lại đó.
Máu
mà Đức Giêsu hiến dâng trong chén rượu là máu của giao ước, được đổ ra vì muôn
người. Tiếp nối vào cuộc giải phóng khỏi đất Ai Cập, được nhắc lại trong tiệc
Vượt Qua, là việc ký giao ước tại núi Sinai. Đây không phải là một giao ước
giữa các partner ngang nhau. Trước tiên giao ước này có đặc điểm là Thiên Chúa
tự ràng buộc và tự cam kết là Thiên Chúa nhân ái của dân (x. Xh 20,1); và giao
ước này hàm chứa cam kết của dân là tuân giữ các điều răn (x. Xh 20,3-17). Giao
ước được đóng ấn, khi Môsê rảy máu tế vật lên bàn thờ và dân chúng (Xh 24,6-8).
Với máu của Đức Giêsu, giao ước mới và vĩnh viễn được đóng ấn. Trong máu Người,
trong hành vi hiến tặng mạng sống của Người, tình yêu của Thiên Chúa đối với
thế gian được tỏ bày (x. Ga 3,16); nhờ máu Người đổ ra, "một đoàn lũ đông
đảo" được giải thoát khỏi tội lỗi. Đức Giêsu không chỉ ở lại với các môn
đệ, mà còn đặt nền tảng và đóng ấn cho sự hiệp thông của họ với Thiên Chúa.
Đức
Giêsu tạng ban cho họ mình và máu Người. Mình và máu là toàn thể bản thân một
người. Việc Người tặng ban mình và máu phải mãi mãi nhắc nhớ đến việc Người
hiến tặng mạng sống, cái chết của Người trên thập giá. Đàng khác, bánh là lương
thực hằng ngày nuôi sống con người, còn rượu chính là tiệc mừng trong niềm vui.
Để sống được, loài người chúng ta cần lương thực. Khi ban tặng chính mình trong
bánh và rượu, Đức Giêsu cho ta thấy rằng nhờ sự hiện diện của Người giữa chúng ta
và nhờ sự hiệp thông của chúng ta với Người, chúng ta có sự sống ở mức viên mãn
và trong niềm vui.
Trong
những lời kết thúc (c. 25), Đức Giêsu lại nhấn mạnh rằng sự hiệp thông mà Người
đã sống cho đến lúc này với các môn đệ đã đến lúc kết thúc: Người sẽ không uống
thứ rượu trong tiệc mừng với họ như lâu nay Người vẫn làm nữa. Đồng thời, Đức
Giêsu nói đến sự hoàn tất của sự hiệp thông này trong Nuớc Thiên Chúa, khi
Thiên Chúa sẽ thiết lập và tỏ bày vĩnh viễn quyền chúa tể của Ngài ra.
+
Kết luận
Khi
tường thuật truyện Đức Giêsu mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, tác giả Mc đã cho
thấy Đức Giêsu đã trung thành đi theo ý muốn của Thiên Chúa trong từng chi
tiết. Do đó, bài tường thuật không chỉ để ghi nhận các sự kiện, nhưng mang tính
tín lý. Tác giả đã liên kết Thương Khó với tiệc cuối cùng; với bữa tiệc này,
cuộc Thương Khó đã bắt đầu vào lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu được ghi
dấu ấn là cuộc Thương Khó của Người. Rất có thể từ ngữ pascha khiến tác giả Mc
nghĩ đến ý nghĩa của từ Hy Lạp paschô ("đau khổ"); dĩ nhiên về từ
nguyên thì không đúng, nhưng về thực tại thì có lý.
Đức
Giêsu cũng bày tỏ sự trung thành với các môn đệ cho đến cùng, qua việc hiến
tặng mình và máu Người trong bánh và rượu. Sự trung thành của Đức Giêsu, được
tỏ hiện trong tất cả mọi hình thức hiện diện của Người, là điểm vững chắc duy
nhất trong tương quan hỗ tương giữa Người với các môn đệ. Đức Giêsu luôn ở cùng
chúng ta và cho chúng ta được hiệp thông của Người như cho một quà tặng.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Đến cuối thời gian hoạt động, Đức Giêsu lại chia sẻ bữa tiệc Vượt Qua này với
các môn đệ: bữa tiệc này nhắc lại lịch sử của quan hệ của Thiên Chúa với Israel và đưa
tới chỗ hoàn tất. Đức Giêsu lại ăn tiệc với các môn đệ, như cách hiệp thông
riêng tư với các ông. Tại đây mọi sự được quay hướng về các hình thái khác của
sự hiện diện của Người giữa các môn đệ, về sự hiệp thông không cùng của họ với
Người. Tuy nhiên, các môn đệ không thể tự ru ngủ mình trong sự an toàn; chính
họ đã thấy định mệnh của Đức Giêsu là một chướng kỳ; chính họ đã không đủ sức
liên kết với Người.
2.
Trên thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu ra; bằng cái chết của Người, Người đã thiết
lập giao ước mới, tạo điều kiện cho có sự hiệp thông vĩnh viễn của Thiên Chúa
với loài người. Đức Giêsu sẽ mãi mãi ở với họ và sẽ là Đấng Chịu đóng đinh đã
hiến tặng mạng sống cho họ. Cho đến nay, Người đã ở giữa họ theo cách thấy được
rõ ràng bằng mắt thường, kể từ nay, Người sẽ ở giữa họ trong bánh và rượu,
trong tư cách Đấng Chịu đóng đinh, trong tư cách dấu chỉ tình yêu của Thiên
Chúa và sự sống. Tất cả những điều này sẽ tới mức viên mãn khi Nước Thiên Chúa được
tỏ hiện.
3.
Hôm nay chúng ta đã quen coi truyền thống về bữa tiệc ly như là một thành phần
thuộc cuộc Thương Khó. Điều này chính tác giả Mc đã nhắm: bữa tiệc này được quy
hướng về thập giá và Phục Sinh. Bữa tiệc này kết thúc các bữa tiệc Đức Giêsu
dùng với các người tội lỗi (2,15tt) và với dân chúng (6,35tt; 8,1tt) và đưa các
môn đệ vào cuộc Thương Khó. Người Kitô hữu khi tham dự vào bữa tiệc Thánh Thể
thì cũng đã được đặt trên cùng một nẻo đường.
4.
Việc lãnh nhận Mình và Máu của Chúa mang lại cho chúng ta sự thông dự vào sự
sống của Người, cái chết cũng như sự phục sinh ngõ hầu chúng ta cũng có thể sẵn
lòng sống phục vụ và yêu thương tha nhân như Người đã làm. Khi chúng ta đón
nhận Bánh Sự Sống và Chén Cứu Độ, chúng ta được nhắc nhớ rằng chết không phải
là hết. Với mỗi cái chết là một lời hứa và mở ra sự sống mới (Siciliano).
27. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm
ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt
qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con đi dọn
cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?".
Đức
Giêsu đã bị "hành quyết" vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi
hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt qua trong
khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).
Nhưng
người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng bữa ăn cuối cùng của
Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một đặc tính "vượt
qua".
Lễ
Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng cuộc "giải
phóng". Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia đình,
người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được giải
thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là một
dân tộc "nguyên là nô lệ" nhưng bấy giờ được "tự do! Chúa đã can
thiệp, ủng hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai
Cập, để vào miền đất hứa.
Mỗi
năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức Maria, đã cử hành bữa
tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo nghi thức trong bữa
ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện, thánh vịnh. Nhưng
tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung mới! Hôm nay chính
người là đấng giải phóng!
Đó
là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một bữa ăn giải thoát
dân khỏi ách nô lệ .
Chúng
ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có nguy cơ bị nhạt nhẽo và
nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần bi thảm! Điều quan
trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng "cử hành những buổi lễ" và "tôn
trọng các nghi thức"! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần phải
được "giải phóng" và "cứu rỗi không". Thưa quý ông bà, vâng
quý ông bà vẫn còn là những "nô lệ". Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời
của mình và hãy tỏ ra sáng suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý
vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ xin Đức Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con
dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy, bữa ăn giải phóng ở đâu?". Vâng xin Chúa
giải phóng chúng con thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
Người
liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: "Các anh đi vào thành, rồi sẽ gặp một
người mang vò nước, cứ đi theo người đó."
Bầu
khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị săn đuổi. Những lãnh
tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu làm như ra tín hiệu
cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách vụng trộm. Người đã
chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo người mang vò nước –
cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này, phải chăng đối với
chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải thoát. Đó là
"Lễ vượt qua của Chúa": người sẽ được giải thoát.
Người
đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: "Thầy hỏi ông dành cho
Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?". Ông ấy sẽ chỉ cho các
anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn tiệc
cho chúng ta ở đó.
Đức
Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng. Chính Người là chủ
mời. Dó là "bữa ăn của Người". Lát nữa, chính Người sẽ là chủ toạ.
Những môn đệ là "khách được mời".
Người
dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự quan trọng của chi
tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng phải được chuẩn bị.
Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay trong khu xóm, những bữa
ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn. Chúng ta rất muốn buổi lễ
được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực nhọc.
Còn
những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử tế không? Biết bao
Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử hành cho mau xong.
Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của chúng ta thành buổi
lễ thực sự, cần dành thời giờ để "chuẩn bị", và trước hết phải đến
đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử hành Thánh
Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị tất cả để
cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.
Hai
môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người đã nói, và các ông
dọn tiệc vượt qua.
Thánh
Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và vẻ nghiêm trọng của
Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định tất cả. Người là
"Chúa", không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là buổi hội
họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm trọng rồi:
Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã xảy ra? Chúng
ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ thay đổi lịch
sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu là sự
giải phóng thế gian tội lỗi.
Khi
tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi chuẩn bị tâm hồn ra
sao? Đó có phải là một "biến cố" trong tuần sống của tôi không? Tất
cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian nhỏ bị
"đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác của
tôi? Một thứ "dấu ngoặc"?
Đang
bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các
môn đệ
Chúng
ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca, Thánh Matthêu và
Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như nhau về điểm cốt
yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau trước những
"lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi lễ, và cả Giáo
Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện hiển nhiên này để
giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, "duy vật" về các bí tích, cứ
như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực ra người ta
không biết rõ "từng chữ" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như thế nào - Bốn
trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn phụng vụ khác
nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người ta có thể
đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn trọng ý
định và cả những công thức của Đức Giêsu.
Trước
tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của Đức Giêsu. Người
"cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy chiếc bánh trên
bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men, "một thứ bánh của
người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta đã không có thì giờ để
cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là lời tạ ơn. Về chén rượu
Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa là "đang khi tạ
ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu cầu nguyện, nói lời
"tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi ngắm nhìn dung nhan Đức
Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có thể quên được Thánh lễ là
một lễ Tạ ơn sao?
Người
"bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ. Người cha trong gia đình
cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người, nhưng cử chỉ tượng trưng
này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều này nhấn mạnh việc
"đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.
Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh hướng vị kỷ của
chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu đã phá đổ, thì
chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn Đức Giêsu bẻ
bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người "trao" bánh
này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức Giêsu đưa miếng bánh
cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa huyền bí. Lạy Chúa, đây
là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!
Và
Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy".
Sau
nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã được giải thích theo
nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội Đồng Đại Kết các Giáo
Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây: "Bữa ăn bánh miến và
rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả quyết sự hiện diện của
chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất cả loài người và đã tự
hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc Thánh Thể là Bí tích Mình
và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện thực sự của Người. Chính
Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đức Kitô thực sự và hiến thân trong bánh và
rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn đứng trước một mầu nhiệm.
Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích Thánh Thể ở thời Trung cổ
đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không có nghĩa là giới hạn Đức
Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự biến đổi vật lý hóa học nào
của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn không thay đổi (Tổng luận
thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).
Con
người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này. Thánh lễ về
"Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino soạn ở Orvieto
vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khởi, Thánh Thomas "đã
tin" nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người
đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu
Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).
Vâng,
lạy Chúa, chúng con xin tin!
Người
lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và tất cả đều uống.
Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ ra vì muôn
người".
Đó
là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức Giêsu biết người sắp
chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt qua (mà người ta không
nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món này là chính trong nghi
lễ Israel ).
Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng
sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11). Đó là một "Giao ước". Thiên
Chúa trở nên một thực tại duy nhất với nhân loại, một người trong "đồng
minh". Và điều này đã được định nghĩa với những gì là mật thiết và sống
động nhất trong chúng ta; "Máu".
Thầy
bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa cho đến
ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát Thánh Vịnh xong,
Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.
LỄ TRỌNG
KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH
CHÚA KITÔ
KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH
CHÚA KITÔ
Xh 24,3-8; Dt 9,11-15;
Mc 14,12-16.22-26
Mc 14,12-16.22-26
GIAO ƯỚC MỚI
TRONG MÁU CHÚA KITÔ
TRONG MÁU CHÚA KITÔ
“Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng
ta
khỏi những việc đưa tới sự chết”
(Dt 9,14)
khỏi những việc đưa tới sự chết”
(Dt 9,14)
1. Bài đọc 1: Xh 24,3-8
Sách Xuất Hành là quyển thứ hai trong bộ Ngũ Thư, tức 5 quyển sách đầu
tiên của Kinh Thánh (Sáng Thế - Xuất Hành - Lê-vi - Dân Số và Đệ Nhị Luật). Về
nội dung, sách Xuất Hành ghi lại hai cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ:
Cuộc Xuất Hành của dân Israel
khỏi Ai-cập (chương 1-18), và việc Thiên Chúa thiết lập Giao Ước với họ tại Núi
Sinai (chương 19-40). Đây là hai sự kiện nền tảng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về
chương trình của Thiên Chúa đối với toàn thể nhân loại. Có thể nói được, phần
lớn các sách còn lại của Kinh Thánh phản ánh sự tương tác, giải thích, ứng
dụng, hay kiện toàn chương trình cứu độ của Thiên Chúa như đã được Người mặc
khải trong sách Xuất Hành.
Xh 24,3-8 như thế thuộc về phần II của sách Xuất Hành, vốn tập trung vào
việc trình bày Giao Ước Thiên Chúa ký kết với Dân Người tại Núi Sinai. Thật
vậy, sách Xuất Hành cho chúng ta biết: Dân Israel đến Núi Sinai vào tháng thứ
ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 19,1-2). Đa số các học giả Thánh Kinh
đồng ý với nhau rằng Núi Sinai còn có tên gọi khác là Núi Horeb, là “Núi của
Đức Chúa”, nơi Thiên Chúa đã hiện ra với ông Môisen và trao cho ông sứ mạng dẫn
dắt Dân Người ra khỏi Ai-cập (x. Xh 3-4). Khi trao sứ mạng cho ông Môisen,
Thiên Chúa cho ông một bảo chứng: “Đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai
ngươi: ‘Khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa
trên núi này’” (Xh 3,12). Việc dân Israel đến được Núi Sinai là dấu
chỉ cho thấy bảo chứng này đã thành hiện thực.
Tại Núi Sinai, Thiên Chúa đã ban Mười
Điều Răn cho dân
Israel (x. Xh 20,1-22), diễn tả những bổn phận chính yếu của họ với Thiên Chúa
(x. Xh 20,1-11) và giữa họ với nhau (x. Xh 20,12-17). Thiên Chúa cũng ban cho
dân Israel Bộ
Luật Giao Ước, vốn bàn đến nhiều vấn đề về tôn giáo, hình sự, xã
hội và kinh tế (x. Xh 20,22 – 23,19). Đặt ngay sau Mười Điều Răn, Bộ Luật Giao
Ước đóng chức năng cụ thể hóa cách thức dân Israel tuân giữ Mười Điều Răn trong
đời sống thường nhật của họ.
Khi Mười Điều Răn và Bộ Luật Giao Ước đã được ban cho dân Israel, sách
Xuất Hành ghi lại nghi thức Ký Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân Người. Qua trung
gian là ông Môisen, dân Israel
nghe biết Luật Chúa, họ đã mau mắn thề hứa: “Mọi lời Đức Chúa đã phán, chúng
tôi sẽ thi hành” (Xh 24,3); còn nữa “Tất cả những gì Đức Chúa đã phán, chúng
tôi sẽ thi hành và tuân theo” (Xh 23,7). Tuy nhiên, câu chuyện về việc dân Israel thờ con
bê vàng cho thấy mọi chuyện không dễ dàng như dân đã tưởng. Họ đã không tuân
giữ những gì Chúa đã truyền, đặt tương quan Giao Ước giữa Thiên Chúa với họ vào
tình trạng có nguy cơ đổ vỡ hoàn toàn (x. Xh 32,1-35).
Trong nghi thức Ký Giao Ước giữa Thiên Chúa và Dân Người có một chi tiết
đáng lưu ý: Nửa số máu được ông Môisen rảy trên bàn thờ trước khi ông đọc Sách
Luật Giao Ước cho họ nghe (x. Xh 24,6-7); nửa số máu còn lại được ông Môisen
rảy trên dân và nói: “Đây là máu giao ước Đức Chúa đã thiết lập với anh em dựa
trên những lời này” (Xh 24,8). Vốn là biểu tượng của sự sống, máu của vật được
sát tế hàm ý: nếu dân Israel
tuân giữ Giao Ước mà họ ký kết với Thiên Chúa thì họ sẽ được sống; ngược lại,
nếu họ bất tuân Luật Chúa, họ sẽ phải chết.
2. Bài đọc 2: Dt 9,11-15
Thư gửi tín hữu Do-thái có nét đặc trưng là trình bày dung mạo tuyệt vời
của Đức Giêsu Kitô ngang qua những hình ảnh của Cựu Ước. Qua đó, tác giả lá thư
muốn nêu bật sự trổi vượt của Đức Giêsu Kitô so với các vị ngôn sứ, các thiên
thần, ông Môisen, các thượng tế, v.v.
Thư gửi tín hữu Do-thái nêu bật điểm này: Chúa Giêsu Kitô là Vị Thượng Tế
Mới. Với của lễ hiến tế là chính Máu Người đổ ra, Đức Giêsu Kitô đã thiết lập
Giao Ước Mới vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Khi đọc Dt 9,11-15, chúng ta được mời gọi dừng lại, suy nghĩ và cầu
nguyện với ở những điểm thiết yếu sau đây:
1. Đức Kitô đã “vào cung thánh không phải với máu
các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần
thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (c12).
2. “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Người đã tự
hiến tế như lễ vật toàn vẹn dâng lên Thiên Chúa”
(c14).
3. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự
chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (c14).
Ba điểm trên đây nhấn mạnh đến hai điều: sự siêu việt của Chúa Giêsu
Kitô, vị Thượng Tế Mới so với các vị thượng tế thời Cựu Ước và sự trổi vượt của
hi lễ Chúa Giêsu Kitô so với hi lễ của [các] vị thượng tế thời Cựu Ước. Chúa
Giêsu Kitô siêu vượt vì “Người chỉ vào [cung thánh] một lần thôi” so với [các]
vị thượng tế thời Cựu Ước vào nơi cực thánh mỗi năm một lần. Vị thượng tế thời
Cựu Ước “đem theo máu [chiên, bò] để dâng làm của lễ đền tội cho chính mình và
cho dân”, còn Chúa Giêsu Kitô dùng chính Máu Mình làm hi lễ. Hiệu quả của việc
hiến tế trong thời Cựu Ước là làm của lễ đền tội cho chính vị thượng tế và cho
dân; còn việc Chúa Giêsu Kitô tự hiến mình mang lại sự sống mới cho nhân loại,
và làm cho chúng ta biết cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp.
3. Bài Tin Mừng: Mc 14,12-16.22-26
Sách Tin Mừng theo thánh Marcô có nét đặc trưng riêng là không trình bày
cho chúng ta biết về thời thơ ấu của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta bắt gặp một Đức
Giêsu “đã trưởng thành” ngay từ đầu sách Tin Mừng này. Về mặt nội dung, 10 chương
đầu của Sách Tin Mừng này ghi lại một cách cô đọng 3 năm Chúa Giêsu thi hành sứ
vụ công khai của mình, trong khi 7 chương còn lại (chương 11-16) chính yếu ghi
lại những tuần cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Người.
Mc 14,12-16.22-26 thuộc về phần II của Sách, ghi lại
việc chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người (cc12-16),
cũng như việc Người thiết lập bí tích Thánh Thể (cc22-26). Bữa tiệc Vượt Qua
gợi nhớ đến chương 12 sách Xuất Hành. Tại đó, Thiên Chúa đã truyền cho dân Israel
cử hành Đại Lễ này hằng năm cho đến muôn đời (x. Xh 12,14), để mừng kính Đức
Chúa, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Israel tại Ai-cập khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các
nhà của dân Israel thoát nạn (x. Xh 12,27).
Một số nét chính được nêu lên khi cử hành lễ Vượt Qua tại Ai-cập ở Xh 12:
1. Mồng mười tháng thứ nhất, mỗi nhà phải chuẩn bị một con chiên (x. c3).
Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi (x. c5).
2. Con chiên được nhốt cho đến ngày mười bốn tháng đó, rồi được sát tế
vào lúc xế chiều (x. c6).
3. Máu chiên được bôi lên khung cửa những nhà có ăn
thịt chiên. Còn thịt sẽ ăn ngay trong đêm ấy, nướng lên, ăn
với bánh không men và
rau đắng (x. cc7-8).
4. Khi ăn: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Phải ăn vội vã (x.
c11).
5. Đêm ấy, khi thấy máu [bôi trên khung cửa], Đức Chúa sẽ vượt qua, nhà
ấy không bị tai ương tiêu diệt khi Người giáng họa trên đất Ai-cập (x. cc12-14).
Khi dùng bữa Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ trước
khi Người bước vào Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích
Thánh Thể. Người đã biến bánh thành Mình Người và rượu thành Máu Người, “Máu
Giao Ước, đổ ra vì nhiều người” (x. Mc 14,22.24). Liên hệ đến Mình Thánh Chúa
Kitô, thánh Luca có thêm chi tiết [in nghiêng]: “Đây là Mình Thầy, hiến
tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc
22,19). 1Cr 11,24 cũng trình bày sự kiện tương tự như Lc. Liên hệ đến Máu Thánh
Chúa Kitô, thánh Mátthêu có thêm chi tiết [in nghiêng]: “Máu Giao Ước, đổ ra
cho nhiều người được tha tội” (x. Mt 26,28). 1Cr 11, 25
có thêm chi tiết: “mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ
đến Thầy”. Những chi tiết xuất hiện thêm ở các bản văn của Mt, Lc, đặc biệt của
1Cr, đóng một vai trò quan trọng, vì chúng giúp liên kết việc cử hành bí tích
Thánh Thể nơi người Kitô với việc cử hành lễ Vượt Qua nơi người Do-thái. Đối
với người Kitô hữu tại trần thế này, việc cử hành bí tích Thánh Thể diễn ra
không phải hằng năm, mà là hằng ngày, để tưởng nhớ đến Đức Giêsu Kitô, cho đến
khi Người lại đến.
II. GỢI Ý SUY TƯ PHẢN
TỈNH
1. Theo bạn, mừng kính lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô chính yếu là mừng kính
điều gì? Tại sao Chúa Giêsu Kitô lại thiết lập bí tích Thánh Thể cho chúng ta? Bạn
cảm nghiệm được điều gì mỗi khi tham dự Thánh Lễ và được rước Mình và Máu Thánh
Chúa?
2. Chúa Giêsu Kitô đã truyền cho các môn đệ: “anh em hãy làm việc này mà
tưởng nhớ đến Thầy”, lệnh truyền này đã được thực hiện như thế nào nơi cộng
đoàn đức tin của bạn (giáo xứ, chủng viện, dòng tu, bệnh viện, trường học,
v.v.)? Bạn nghĩ mình phải làm gì để cổ võ việc tham dự thánh lễ nơi các tín hữu
Công giáo tại những nơi cụ thể nêu trên và tại không gian khác nữa?
3. Nhiều tín hữu có lòng khao khát được rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa,
nhưng họ còn gặp phải nhiều ngăn trở có thể về không gian, sức khỏe, tình trạng
hôn nhân gia đình, v.v. Theo bạn, giáo xứ, cộng đoàn đức tin, hay chính bạn,
cần làm gì cho họ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để nuôi
dưỡng linh hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Ngài, và ở lại với nhân loại cho
đến tận thế. Chúng ta đồng thanh cảm tạ Chúa và khẩn khoản cầu xin.
1. Chúa Giêsu là vị Thượng Tế cao cả đã hiến tế chính mình chỉ một lần là đủ
đem lại ơn cứu độ muôn đời. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị mục tử trong Hội
Thánh biết noi gương Thầy Chí Thánh, hết mình hy sinh phục vụ đoàn chiên mà
Chúa trao phó.
2. Chúa Giêsu là tấm bánh bẻ ra cho một
thế giới mới. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người ở mọi quốc gia biết vượt qua
những rào cản ngăn cách về sắc tộc, văn hóa và tín ngưỡng để chân thành hợp tác
với nhau vì một thế giới hòa bình và hạnh phúc.
3. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột
đỉnh đời sống Kitô giáo. Chúng ta cùng cầu xin cho các Kitô hữu được thêm lòng
mến yêu sùng kính bí tích cao trọng này, siêng năng tham dự bàn tiệc Thánh Thể
hầu tìm thấy sức mạnh và lẽ sống cho cuộc đời.
4. Thánh Thể là bí tích của hiệp nhất và
bình an. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta khi cùng
chia sẻ một bánh và một chén cũng được hiệp nhất với nhau, làm nên một thân thể
để cùng nhau dấn thân xây dựng nước trời trong đức ái.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã lập Bí tích Thánh Thể để ở cùng chúng con luôn
mãi. Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con khi đón nhận thần
lương Chúa ban, biết hăng hái phụng sự Chúa và phục vụ mọi người. Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Sưu
tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét