IS BÁN PHỤ NỮ |
LM ĐAMINH CHÊT KHI TẮM BIỂN |
SOEỦ NHÍ |
VIẾNG CÁCVLINH HỒN |
HỘI NGHỊ BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP ĐÀ LẠT |
Hội nghị Thường niên 2014
Liên hiệp
Bề trên Thượng cấp Việt Nam
K'Long
– Đà Lạt
04-05-06/11/2014
Hội nghị thường niên Liên hiệp Bề Trên
Thượng cấp Việt Nam (LHBTTCVN) năm 2014 được tổ chức tại Trung tâm Don Bosco
K'Long, thuộc giáo phận Đà Lạt từ ngày 04 đến ngày 06 tháng 11 năm 2014, với
chủ đề: "Được Thánh hiến để thi hành Sứ vụ".
1. Có 147 đại biểu tham dự là các Bề
trên và đại diện Bề trên thuộc các đơn vị Dòng tu, Tu hội, Tu đoàn Tông đồ
trong toàn quốc.
2. Hội nghị thường niên LHBTTCVN năm
2014 vui mừng chào đón Đức cha Antôn Vũ Huy Chương giám mục giáo phận Đà Lạt
đến chủ sự Thánh lễ Khai mạc và các thuyết trình viên là Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Đệ, Giám mục giáo phận Thái Bình, Chủ tịch Uỷ ban Tu sĩ / HĐGMVN; Đức cha
Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục phụ tá giáo phận Xuân Lộc, Chủ tịch Uỷ ban Giáo
dục Công giáo / HĐGMVN; Linh mục Vinh Sơn Phạm Xuân Hưng, OP; Linh mục Vinh Sơn
Phạm Đình Khoan, SJ; Linh mục Giuse Nguyễn Thịnh Phước, SBD và Sr. Thecla Trần
Thị Giồng, Dòng Đức Bà.
3. Trong suốt thời gian diễn ra Hội
nghị, các Bề trên đã lắng nghe những đề tài chia sẻ và thuyết trình về một số
vấn đề liên quan đến đời sống và sứ vụ của đời sống thánh hiến:
– Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chia sẻ
với Hội nghị về "Hiện trạng đời sống Tu trì tại Việt Nam", giải đáp
thắc mắc về cách thức tổ chức "Năm Đời sống Thánh hiến", gợi ý các
sinh hoạt trong Năm Đời sống Thánh hiến và trình bày về nội quy của Uỷ ban Tu
sĩ đã được HĐGMVN phê chuẩn.
– Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo đã trình
bày đề tài: "Giáo huấn của Giáo hội về thánh hiến và sứ vụ"
– Linh mục Vinh sơn Phạm Xuân Hưng, OP
đã trình bày đề tài: "Nhận định về thánh hiến và sứ vụ của tu sĩ"
– Linh mục Vinh sơn Phạm Đình Khoan, SJ
đã trình bày đề tài: "Cộng đoàn tu sĩ thi hành sứ vụ"
– Linh mục Giuse Nguyễn Thịnh Phước,
SDB đã trình bày đề tài: " Đào tạo người tu sĩ để thi hành sứ vụ"
– Linh mục Giuse Giuse Trần Hòa Hưng,
Giám tỉnh Dòng Don Bosco, Chủ tịch LHBTTCVN chia sẻ về đề tài: "Quyền bính
và sứ mạng"
– Nữ tu Thecla Trần Thị Giồng, Dòng Đức
Bà đã trình bày đề tài: "Hướng dẫn cộng đoàn để thi hành sứ vụ"
4. Hội nghị cũng đã nghe Ban Điều Hành
LHBTTCVN báo cáo Tổng kết hoạt động và về Quỹ tài chánh của Liên hiệp trong năm
2014.
5. Hội nghị đã dành nhiều thời gian để
các Bề trên thảo luận với các đề tài được gợi ý từ các bài chia sẻ và thuyết
trình của quý Đức cha, quý cha và quý soeur.
6. Sau khi thảo luận và trao đổi chung
tại Hội trường với sự chủ sự và hướng dẫn của cha Chủ tịch LHBTTCVN, Hội nghị
đã đúc kết một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Liên hiệp trong thời gian
tới; những vấn đề đào tạo và huấn luyện giới tu sĩ, đặc biệt là đối với các tu
sĩ trẻ; đồng thời đề ra các sinh hoạt cụ thể trong Năm Đời sống Thánh hiến,
cũng như thảo luận về việc chuẩn bị tổ chức Đại hội LHBTTCVN nhiệm kỳ V vào năm
2015 và giao trách nhiệm cho Ban Điều hành đưa ra chương trình và kế hoạch thực
hiện.
Hội nghị thường niên LHBTTCVN năm 2014
đã khép lại, nhưng những thành quả và bầu khí hiệp thông huynh đệ đầy tình thân
ái của Hội nghị chắc chắn sẽ đem lại cho các thành viên của Liên hiệp một niềm
vui và một sự hứng khởi mới trong sứ vụ phục vụ Thiên Chúa, phục vụ Giáo hội và
phục vụ tha nhân, đồng thời sẽ góp phần thúc đẩy những người sống đời thánh
hiến tại Việt Nam, càng ngày càng trở nên những chứng nhân loan báo Tin Mừng
giữa thời đại hôm nay.
CHÚA NHẬT 33
THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Cn 31,
10-13.19-20.30-31; 1Tx 5, 1-6; Mt 25, 14-30
LỄ CÁC THÁNH TỬ
ĐẠO VIỆT NAM
Lời Chúa: Kn 3,
1-9; 2Cr 4, 7-15; Mt 10, 17-22
MỤC LỤC
I. CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
1. Việc nhỏ
2. Hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi
3. Sự tham lam của cải tỏ lộ ra
4. Tôi tớ trung thành
5. Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?
6. Bạn có sợ Thiên Chúa không?
7. Nén bạc và những cố gắng
8. Thiên Chúa chúng ta chịu trách
nhiệm.
9. Hãy làm những gì Chúa muốn
10. Nén bạc
11. Nén bạc
12. Hãy dùng thời gian để yêu thương
13. Nhận nhiều thì bị đòi hỏi nhiều –
JKN
14. Nhu cầu
15. Dụ ngôn các nén bạc – Lm. PX. Vũ
Phan Long
II. LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Bách hại
2. Thập giá
3. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
4. Bách hại vì sống công chính
5. Sống chứng nhân
6. Truyền đạo
7. Con đường hạt lúa – ĐTGM. Jos. Ngô
Quang Kiệt
8. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
9. Chứng nhân
10. Tử Đạo - Người làm chứng (Mt
10,17-22)
11. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn
Thiên
12. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn
Năng
13. Bài giảng của ĐGM Vinhsơn Nguyễn
Văn Long
14. Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
15. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới
16. Những vị anh hùng âm thầm – Lc
9,22-26
17. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga
12,24-26
18. Can đảm nói không với tội lỗi.
19. "Thà chết vinh còn hơn sống
nhục"
20. Sống chứng nhân
21. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
22. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
23. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn
Năng
24. Bài giảng của ĐGM. Giuse Võ Đức
Minh
25. Không thuộc về thế gian
26. Anh em làm chứng cho Thầy
27. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
28. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt
10,17-22
29. Tử Đạo
30. Làm Chứng
31. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh
Liêm
32. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
33. Can đảm nói không với tội lỗi – Lm.
Trần Ngà
34. Chứng nhân tình yêu – ĐTGM. Ngô
quang Kiệt
35. Sống vì đạo - ĐTGM. Ngô quang Kiệt
36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
37. Để làm chứng cho vua quan
38. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
I. CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
1. Việc nhỏ
Booker Washington là một người Mỹ da đen vĩ đại nhất.
Ông là một nhà giáo dục, một nhân vật cải cách và một văn sĩ nổi tiếng. Năm 16
tuổi, ông đã phải đi bộ gần 800 cây số để xin học. Thế nhưng, vì các lớp đã
đông đủ nên ông bị từ chối. Ông nhận chân quét phòng tại trường. Ông đã làm
những việc hèn hạ này một cách hết sức chu đáo, thành thử ông dành được cảm
tình của ban giám đốc nhà trường. Người ta dành cho ông một căn phòng nhỏ của
sinh viên. Chính tại căn phòng nhỏ này, ông đã chăm chỉ làm việc cho đến khi
trở thành một giáo sư nổi tiếng, và sau này trở thành người sáng lập học viện Tuskegee . Từ một kẻ nô
lệ, ông đã trở nên người lãnh đạo chủng tộc da đen. Ông qua đời vào năm 1915.
Phải chăng cuộc đời ông là sự thực hiện
trọn vẹn lời Chúa phán với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Ai trung
tín trong việc nhỏ, thì sẽ được trao phó cho những công việc lớn. Nói cách
khác, chúng ta hãy làm những công việc nhỏ một cách cẩn thận và chu đáo, rồi
thì những dịp thuận lợi hơn, to tát hơn sẽ đến với chúng ta. Kinh nghiệm trên,
sự thật trên quả là điều quan trọng trong đời sống thường ngày cũng như trong
đời sống thiêng liêng.
Trước hết là trong đời sống thường
ngày: Xiết chặt một chiếc đinh ốc nơi bánh xe có thể cứu được nhiều người trên
chuyến xe tốc hành. Thu lượm rác là điều cần thiết cho sức khoẻ của một cộng
đoàn. Rửa sạch chén đĩa sẽ giết được nhiều vi trùng. Hãy làm những công việc
này và hàng trăm công việc nhỏ bé khác nữa của cuộc sống thường ngày một cách
tốt đẹp và chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao hơn, khi thời cơ mỉm cười
với chúng ta.
Tiếp đến, trong lãnh vực thiêng liêng
cũng vậy. Chúng ta hãy làm tất cả những gì mình có thể để giúp đỡ gia đình Chúa
là Giáo Hội nơi trần gian. Chẳng hạn như là những người thợ, chúng ta có thể
dành dụm tiền bạc hay công sức để giúp ích cho giáo xứ trong những công việc
chung. Chúng ta có thể trồng những luống bông nhỏ để chưng trên bàn thờ. Chúng
ta có thể dâng hiến tài năng và thời giờ, góp phần vào việc giáo dục đạo đức
cho các em nhỏ. Chúng ta có thể thăm viếng những người đau yếu bệnh tật để an
ủi họ. Chúng ta có thểm tham dự những sinh hoạt của ca đoàn để dâng tiếng hát
ca tụng Thiên Chúa, cũng như làm cho bầu khí phụng vụ thêm phần sống động.
Trong tất cả những công việc nhỏ bé và
tầm thường ấy, nếu chúng ta thi hành một cách cần cù và trọn vẹn, thì chúng ta
cũng sẽ được Chúa ân thưởng như lời Ngài phán: Hỡi đầy tớ tốt lành và trung
tín, bởi vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, thì Ta sẽ trao phó cho ngươi
những công việc lớn. Hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chu toàn
vì lòng yêu mến Chúa, thì những công việc nhỏ bé và tầm thường ấy sẽ trở thành
những sợi chỉ vàng, dệt nên cuộc đời chúng ta và làm cho cuộc đời chúng ta có
một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
2. Hãy vào trong hoan lạc của chủ ngươi
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Dụ ngôn được trình bày dưới hình thức
một chuyện kể. Về văn mạch của đoạn 25,14-30 xem bài chú giải phúc âm Chúa nhật
XXXII Thường Niên A. Dụ ngôn có thể phân chia thành ba màn: 1/ Ông chủ trao tài
sản cho các tôi tớ (25,14-15); 2/ Các tôi tớ hành động với những nén bạc được
giao (25,16-18); 3/ Ông chủ tính sổ sách (25,19-30).
1/ Dẫn nhập. Ông chủ trao tài sản cho
các tôi tớ (25,14-15)
Dụ ngôn nói đến một người giàu có trước
khi đi xa, giao cho các tôi tớ những nén bạc để sinh lợi. Với liên từ đầu câu 1
"cũng thế", hôsper, và gar liên kết dụ ngôn nầy với dụ ngôn trước, và
có chung chủ đề là một trách nhiệm được giao phó và phải hoàn thành. Dụ ngôn
nói đến sự vắng mặt của người chủ. Một người sắp sửa ra đi, apodçmôv, (c. 14)
và ông đã ra đi, apedçmçsen (c. 15). Trước khi ra đi ông giao cho các tôi tớ
ông các nén bạc để sinh lợi trong thời gian ông vắng mặt. Talanton, theo nguyên
ngữ là một đơn vị đo lường. Ở đây là một số lượng tiền bạc đo bằng một talent
(x. 18,24). Một talent có thể bằng 6.000 đồng bạc, và một đồng bạc là lương một
ngày công. Chủ đề người chủ giao cho người quản lý trông coi tài sản của mình
tìm thấy trong một số dụ ngôn. Tuy nhiên trong dụ ngôn nầy, nhấn mạnh đến việc
sinh lời tài sản ấy. Tài sản giao cho các tôi tớ nầy không phải là nhỏ. Khi
trao, paradidômi (c. 14), cho họ, không thấy nêu lên lý do của việc nầy. Sang
phần hai, mới biết mục đích của việc trao tài sản là để sinh lợi. Động từ
"sinh lợi", kerdainô, được dùng đến 4 lần khi nói đến hành động của
hai người tôi tớ đầu tiên (cc. 16.17.20.22). Kerdainô, "kiếm được" do
đầu từ công sức (x. 16,26; 18,15). Số tiền đã được giao tùy theo khả năng riêng
của từng người. Người chủ biết rõ khả năng của các tôi tớ mình.
2/ Các tôi tớ hành động với những nén
bạc được giao (25,16-18)
Nén bạc được giao cho 3 người tôi tớ:
người năm nén, người hai nén và người một nén. Trong đoạn nầy các động từ đều ở
thì bất định (aorist), diễn tả sự nhanh chóng của các hành động. Dụ ngôn không
nói họ làm gì với các nén mạc, mà chỉ nói cả hai người tôi tớ đầu tiên
çpagasato en autois, "làm việc với những nén bạc ấy", và kiếm được
những nén bạc gấp đôi. Người nhận 5 nén sinh lợi thêm 5 nén. Người nhận 2 nén
sinh lợi thêm hai nén.
Người thứ ba có hành động nghịch lại
(c.18). Liên từ "nhưng", de, chỉ hành vi tiếp sau sẽ trái ngược. Việc
đào đất và chôn dấu nén bạc trong đó chỉ sự cất giấu an toàn (x. 21,33; 13,44).
Người nầy không muốn nén bạc của ông chủ không sinh lợi, mà chỉ lo giữ khỏi mất
đi.
3/ Ông chủ tính sổ sách (25,19-30)
Sau một thời gian dài chủ trở lại.
"Một người" ở câu dẫn nhập, bây giờ được xác định là
"kurios", ông chủ/Chúa (c. 19). Tương tự như trong dụ ngôn 10 trinh
nữ (25,11[2x]), từ kurios thường được dùng trong phần hai của dụ ngôn, lúc có
tính cách quyết định. Synairô logos, "tính sổ" cụm từ lấy từ ngôn ngữ
thương mại, rất giống với việc vua tính sổ (x. 18,23.24), và chỉ sự phán xét
cánh chung.
Lời lẽ của hai người đầu tiên rất giống
nhau (cc. 20-23), chỉ khác chữ số nén bạc. Cả hai người tôi tớ đều được gọi là
"ngay thẳng" và "trung tín" (cc. 21.23) vì họ đã hoàn thành
bổn phận được đòi hỏi. Lời khen ngợi nầy tương tự với câu 24,46. "Phúc cho
tôi tớ nầy đang làm như vậy khi chủ trở về". "Hãy vào hưởng vui mừng
của chủ ngươi" (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng nói đến việc "vào Nước
Trời" (5,20; 7,21; 18,3) vào sự sống (18,8-9; 19,16). Và ở đây nói đến
niềm vui. "Niềm vui" liên quan rất mật thiết với những điều thuộc về
Thiên Chúa: thấy ánh sao dẫn đường (2,10), tìm được kho tàng Nước Trời (13,44),
thấy Chúa sống lại (28,8). Nói tóm, "vào trong hoan lạc với chủ
ngươi" là vào hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Khác với hai người tôi tớ trước, người
tôi tớ thứ ba bắt đầu bằng lời phê phán ông chủ để biện minh cho việc mình đã
làm (25,24-30). Sklçros, "cứng", "cứng lòng (19,8), nghĩa bóng
là "khắt khe", "ác nghiệt", "không thương xót"
(x. 1 Sam 25,3). Gặt nơi không gieo. Thu nơi không vãi. Hai câu song song và
đồng nghĩa (gặt = thu; gieo = vãi). Như thế theo lời người tôi tớ nầy, ông chủ
là người kiếm lợi nhuận cách bất chính. Và người tôi tớ nầy sợ không thể sinh
lợi được như đòi hỏi của ông chủ, nên đã chôn giấu nén bạc nơi an toàn. Người
nầy đã đưa lại nguyên vẹn cho chủ một nén bạc, không thêm không bớt. Hành động
như thế, người nầy đã làm như người đã thắp đèn và để dưới đáy thùng (5,15).
Lời của ông chủ tiếp theo rất dài
(25,26-30). Đáp lại ông chủ lập lại lời không phản đối lời người tôi tớ nói về
ông, và ông không phải đối điều nầy. Ông còn chỉ cho người tôi tớ cách làm lợi
nén bạc mà không phải nhọc công (c. 27). Ông gọi người tôi tớ nầy là "bất
hảo" và "lười biếng" (c. 26). Từ "bất hảo" áp dụng cho
con người (7,11; 12,34). Người tôi tớ nầy bị gọi là "bất hảo",
ponçros, theo nghĩa là người nầy đã không suy nghĩ như người chủ (x. 20,15) và
không hành động như chủ muốn (x. 18,32). Oknçros, thông thường được dịch là
"lười biếng", nhưng ở đây có thể có nghĩa là "ngần ngại",
"sợ hãi". Do sợ sinh lợi không thành, mà người nầy đã không dám kinh
doanh với nén bạc của mình.
Vì người tôi tớ tỏ ra "vô
dụng" với nén bạc được trao, chủ đã lấy lại nén bạc ấy, và trao cho người
thứ nhất (c. 28). Các động từ trong câu 29 ở thể thụ động có Thiên Chúa là tác
nhân. Người đã có lại được thêm và người không sinh lợi được nén bạc được trao,
mất luôn cả điều họ đang có. Và người nầy chịu hình phạt nặng nề, vì đã không
làm theo ý chủ (ném vào nơi tối tăm 8,12; 22,13; khóc lóc và nghiến răng 8,12;
13,42.50; 22,13; 24,51; x. Lc 12,47).
Người tôi tớ không độc lập với chủ của
mình, nhưng ở trong tương quan phục vụ với chủ. Người tôi tớ không làm theo ý
riêng, mà ý muốn của chủ. Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa vì do
Người tạo dựng. Mỗi người tùy theo khả năng được ban cho mà phụng sự Thiên Chúa
hết tâm hồn.
3. Sự tham lam của cải tỏ lộ ra
(Suy niệm của Nữ tu Barbara E. Reid OP.
- Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Khá lắm, anh đúng là tôi tớ tài giỏi và
trung thành" (Mt 25, 21).
Khi con người sống trong một định chế
xã hội với hệ thống kinh tế đầy những bất công, chúng ta có thể làm được những
gì? Có một thời, người ta đã xuống đường ở Mỹ, chiếm phố Wall, như một động
thái phản kháng, và gióng lên hồi chuông báo động về những bất công nơi hệ
thống tài chánh tại đất nước tư bản này. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay
cũng phác vẽ hình ảnh về một cơ chế xã hội khi con người phải hứng chịu những
bất công trước một thực tế phũ phàng, đó là người giàu càng ngày lại càng thêm
giàu, và những người nghèo khổ càng ngày càng trở nên cơ cực hơn.
Bài Tin Mừng thuật lại câu truyện, một
nhà phú hộ trước khi đi xa, đã trao phó tài sản mình cho những đầy tớ để họ
sinh lợi. Người nhận năm nén, người nhận được hai, và người đầy tớ sau cùng chỉ
nhận một nén bạc. Từ ngữ "nén bạc" dịch từ hạn từ talenton trong tiếp
Hy Lạp, là một đơn vị tiền tệ để giao thương hoặc để định lượng tài sản lúc bấy
giờ. Trình thuật hôm nay phần nào khác với câu truyện dụ ngôn được Thánh Luca
kể lại. Trong Tin mừng Luca, ông chủ chỉ thị một cách rõ ràng cho các đầy tớ
phải đầu tư kiếm lợi, còn nơi Matthêu, ông chủ không ra lệnh trực tiếp, nhưng
trong thâm tâm ông cũng muốn các đầy tớ quản lý tài sản của mình cách khôn khéo
lúc ông vắng nhà. Trong lúc người phú hộ đi xa, hai người đầy tớ đầu tiên đã
sinh lợi gấp đôi với số bạc được trao phó. Vì thế cả hai đều được ông chủ khen
ngợi và trao cho những trách vụ to lớn hơn. Còn người đầy tớ thứ ba lại đem nén
bạc đi chôn giấu. Anh ta không làm cho nén bạc sinh lợi, nhưng cất giấu đi như
một phương cách bảo đảm an toàn theo thói quen thời xưa (xem Mt 73,44): Dụ ngôn
kho tàng được chôn giấu trong ruộng). Tên đầy tớ này đã bị ông chủ khiển trách
nặng nề và phải lãnh nhận hình phạt.
Chìa khóa quan trọng để ta có thể hiểu
dụ ngôn, đó là chúng ta phải đặt mình vào trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Đức Giêsu đã không sống trong một xã hội theo hệ thống tư bản, và vào thời đó,
người ta chưa quen đầu tư để sinh lợi như hiện nay. Thay vào đó, người ta nghĩ
rằng mọi người đều được xã hội phân định tài sản. Tài sản của ai tăng lên do
sinh lợi đương nhiên là rút tỉa từ người khác. Một nông dân bình thường chỉ cần
đủ những chi tiêu để nuôi sống bản thân và gia đình. Những người có nhiều của
cải và chỉ lo tích trữ cho mình vẫn bị coi là những hạng người keo kiệt và gian
ác. Vì vậy, trong dụ ngôn, người đầy tớ thứ ba dẫu sao, cũng là một con người
đáng trân trọng, chỉ vì anh ta đã chối từ cộng tác vào hệ thống tài chính chỉ
để làm tăng thêm lợi nhuận cho ông chủ, trong khi những người khác lại bị thiệt
thòi.
Dụ ngôn có thể là một lời cảnh báo
trước lối sống an nhàn trưởng giả nơi những con người bị lôi kéo vào một hệ
thống kinh tế đầy bất công như hiện nay. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng khích lệ các
học trò của mình phải can đảm phản kháng lại những tham lam một cách vô lối như
một dạng bất chính, và đó cũng là một hình thái rõ ràng của tội ác. Câu cuối
trong dụ ngôn mời gọi chúng ta phải cảnh tỉnh khi đối mặt với những ai khuyến
khích làm giàu và biến mình trở nên những con người đầy quyền lực với tiền bạc
dư giả. Dụ ngôn cũng khuyến mời chúng ta phải tìm cách cùng nhau chống lại
những hệ thống kinh tế bất công, một hệ thống không cổ xúy tình tương thân
tương ái, mà nạn nhân điển hình là người đầy tớ thứ ba trong câu truyện Tin
mừng hôm nay.
Đọc dụ ngôn theo nhãn quan này, chúng
ta thấy rằng ông chủ đi phương xa, không phải là một hình tượng ám thị về Thiên
Chúa. Dụ ngôn cũng không khuyến khích chúng ta phải biết sử dụng của cải vật
chất Chúa ban để phát huy đến độ sung mãn. Điều này là một việc quan trọng mà
các Kitô hữu phải thực thi, khác với cách hiểu của đám đông khi nghe Chúa Giêsu
giảng lúc bấy giờ. Nén bạc, theo hạn từ Hy Lạp, không hề mang một ý nghĩa ẩn dụ
hay biểu trưng. Nếu hiểu sai, chúng ta sẽ làm mất đi chiều kích cánh chung nơi
trình thuật.
Theo mạch văn trong Tin Mừng Matthêu,
đây là dụ ngôn cuối trong ba dụ ngôn nhấn mạnh về sự trung tín của các môn đệ
Đức Giêsu trong thời gian mong chờ Ngài lại đến. Những người đầy tớ đang rên
xiết trong nỗi khiếp sợ mỗi lúc một tăng cao, khi họ sống dưới quyền một ông
chủ keo kiệt, một ông chủ dã tâm đã trừng phạt cách ác độc những ai không chịu
đi vào hệ thống làm giàu cho riêng cá nhân của mình. Trái lại, các môn đệ Đức
Giêsu, khi tín thác vào Thiên Chúa, vào đấng không phải là một ông chủ ác độc,
nhưng là một Người Cha tốt lành luôn yêu thương chúng ta bằng cõi lòng nhân ái
và khoan hậu của Ngài, chúng ta sẽ làm việc cho sự công chính và những giá trị
của Vương quốc Nước Trời, ngày hôm nay, và ngay bây giờ để chờ đợi sự viên
thành cánh chung mai sau.
4. Tôi tớ trung thành
Tất cả chúng ta đều là những người tôi
tớ của Thiên Chúa, cùng với những nén bạc Ngài đã trao gửi. Những nén bạc ấy
chính là thân xác và linh hồn, thời gian và tài năng. Nói tóm lại, là tất cả
những gì chúng ta đang có và đang quản lý.
Đúng thế, tất cả không phải là của
riêng chúng ta, nhưng là của Thiên Chúa. Ngài trao gửi và cho chúng ta vay mượn
trong một thời gian nào đó, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Những sự anh em
có, há chẳng phải là đã nhận lãnh hay sao? Và nếu đã nhận lãnh, thì tại sao anh
em lại tự phụ, như không cần nhận lãnh.
Chính vì thế, chúng ta không được toàn
quyền sử dụng đã đành, mà còn phải chịu trách nhiệm vễ những nén bạc ấy. Chẳng
hạn với thân xác, chúng ta không được ăn uống quá độ, chè chén say sưa có hại
cho sức khỏe, cũng như không được hủy hoại thân xác mình, hay tự ý đi tìm cái
chết.
Với linh hồn, chúng ta phải cương quyết
chiến đấu, đừng để cho sự sống ơn sủng mỗi ngày một tàn lụi. Chúng ta phải dứt
khoát khử trừ tội lỗi và làm cho linh hồn mình được hoàn thiện, nhờ Lời Chúa,
nhờ các bí tích và nhờ những tâm tình cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa.
Tuy nhiên, điều quan trọng, đó là một
ngày kia chúng ta sẽ phải tính sổ cuộc đời trước tôn nhan Chúa. Chúng ta không
biết sự việc này sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể vào ngày chúng ta không ngờ, vào
giờ chúng ta không biết. Chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ kết thúc cuộc đời, để rồi
chúng ta sẽ phải đối diện với lương tâm và với chính Thiên Chúa.
Thế nhưng, đó lại là một sự kện chắc
chắn, như một câu danh ngôn đã diễn tả: Sự chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết
lại bấp bênh vô định. Hay như chúng ta cũng thường nói: Đã là người thì ai cũng
phải chết.
Đó là qui luật chung của muôn đời. Và
sau cái chết sẽ là cuộc phán xét. Đây là một cuộc phán xét thật công bằng và
chính xác. Cuốn sổ cuộc đời chúng ta được mở rộng, trong đó mọi sự đều được ghi
chép. Khi vị thẩm phán ngự tòa, thì mọi bí ẩn sẽ bị lộ ra, không tài nào che
dấu nổi.
Chính vì thế, chúng ta phải quyết tâm
làm phát triển và sinh lời cho những nén bạc Chúa đã trao gửi, bằng cách thực
hiện những hành động bác ái yêu thương, bởi vì đó chính là những vị trạng sư âm
thầm và không tên, nhưng sẽ bào chữa cho chúng ta trước tòa án tối cao của
Thiên Chúa.
Đồng thời, bằng cách trung thành với
những công việc bổn phận của mình, tùy theo vai trò, tùy theo đấng bậc, tùy
theo chức vụ mình nắm giữ trong cuộc sống.
Và sau cùng, bằng cách sử dụng thời giờ
một cách đúng đắn, vì thời giờ của chúng ta đã được cân đo đong đếm. Hãy sử
dụng thế nào để đem lại lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nếu chúng ta
quản lý tốt, chắc chắn chúng ta sẽ không phải run sợ vào giây phút tính sổ cuộc
đời. Trong giây phút trọng đại này, giây phút có tính cách ấn định số phận đời
đời của chúng ta, mọi bạn hữu, dù thân tình đến đâu chăng nữa, cũng sẽ lìa bỏ
chúng ta, chỉ những việc lành phúc đứ mới đi theo chúng ta mà thôi.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể lại rằng:
Người kia phải ra trước tòa Thiên Chúa trong ngày sau hết. Anh bạn thứ nhất thấy
vậy vội vã bỏ chia tay với người ấy. Anh bạn thứ hai bước theo người ấy, nhưng
đã khựng lại khi đứng trước khung cửa hẹp của cái chết. Trong khi đó anh bạn
thứ đã cùng đi với người ấy đến trước tôn nhan Chúa, trình bày những lý chứng
và cứu thoát người ấy khỏi án phạt đời đời.
Người bạn thứ nhất là tiền bạc vật
chất. Người bạn thứ hai là cha mẹ và họ hàng thân thích. Còn người bạn thứ ba,
luôn trung thành và bào chữa cho chúng ta, đó chính là những hành động bác ái
yêu thương.
Hãy làm cho những nén bạc Chúa đã trao
gửi được sinh lời, nhờ đó giây phút chúng ta tính sổ cuộc đời với Chúa sẽ không
phải là giây phút bẽ bàng và cay đắng, nhưng sẽ là giây phút mừng vui và hạnh
phúc.
5. Gặp gỡ Ông Chủ hà khắc hay từ nhân?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Rõ ràng chủ đề của cả ba dụ ngôn
Mát-thêu kể trong chương 25 đều liên quan tới thời cánh chung khi mỗi người
chúng ta phải giáp mặt với 'Con Người đến trong vinh quang của Người' (Mt
25,31). Thế nhưng nếu Con Người đó vẫn luôn mãi là Thiên Chúa của tình yêu và
cứu độ, kể cả (hay đúng hơn nhất là) khi Người đến trong vinh quang của Người,
và nếu thời cánh chung là cao điểm của Tin Mừng đầy vui mừng và hy vọng chứ
không phải là cao điểm của sợ hãi âu lo, thì việc tôi phải khám phá ra ý nghĩa
đích thực của ba câu chuyện dụ ngôn này, nhất là dụ ngôn những yến bạc, là điều
cần thiết; nhất là khi Hội Thánh, trong các tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ,
đang muốn gởi tới tôi một thông điệp có tầm quan trọng lớn lao cho toàn thể đời
sống Tin Mừng của tôi.
Câu chuyện những yến bạc gợi ta nhớ tới
đoạn Tin Mừng Luca Người phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến nhiều
(xem Lc 7,36-50), trong đó Đức Giêsu khảng định với một người Pha-ri-sêu có tên
là Si-mon mời ngài dùng bữa tại nhà ông: "Vì thế tôi nói cho ông hay: tội
của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều... Còn ai
được tha ít thì yêu mến ít".
Trước hết số yến bạc có là năm, hai,
hay một (NB: dụ ngôn này trong Luca có chi tiết hơi khác, đó là mỗi đầy tớ nhận
được một nén bạc như nhau, nhưng sau đó đã làm sinh lời khác nhau, xem Lc
19,11-27) mà các đầy tớ nhận được đều là của cải ông chủ giao phó cho cả. Vậy
thì, của cải đích thực Thiên Chúa tình yêu và cứu độ giao phó cho tôi là gì?
Đấng Tạo Hóa đương nhiên là giao cho tôi sự sống, trí tuệ, năng khiếu... và
nhiều điều khác nữa; thế nhưng Kitô hữu chúng ta còn biết: Thiên Chúa cứu độ
trao ban cho chúng ta một thứ còn quí báu và vĩ đại hơn nhiều đó là tình yêu
tha thứ, và nén bạc này thì mọi người ai cũng nhận được hết. Chính Đức Giêsu Kitô
đã dùng cả cuộc đời Người để minh chứng điều này: kho báu quý giá nhất mà Kitô
hữu tìm thấy chính là 'ơn cứu độ' Chúa ban. Mỗi Kitô hữu chúng ta đều tự biết
mình đã nhận được số yến bạc tha thứ của Ông Chủ là bao nhiêu; từ ngày rửa tội
và trong suốt năm tháng cuộc đời, kẻ năm, người hai... tùy theo nhận định
riêng. Tuy nhiên vẫn có những kẻ cho rằng mình chỉ nhận được có một ít ỏi.
Trong câu chuyện dụ ngôn, hai người trước biết mình nhận được một số yến bạc
nào đó, đã làm sinh lợi ra nhiều yến bạc khác; "Thưa ông chủ, ông đã giao
cho tôi năm (hai) yến, tôi đã gây lời được năm (hai) yến khác đây", còn
người thứ ba, vì cho rằng mình nhận được quá ít nên đào lỗ chôn giấu. Đúng là
"người được tha nhiều thì yêu nhiều hơn, còn ai được tha ít (đúng hơn cho
là mình được tha ít) thì yêu mến ít" (Lc 7,43.47). Thái độ và lời hỗn xược
của người thứ ba này càng làm ta phải suy nghĩ: "Thưa ông chủ, tôi biết
ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi... Vì thế tôi đâm
sợ..." Đúng là nếu có kẻ nhận ra mình được Thiên Chúa thương xót cứu độ
thứ tha, thì cũng có không ít người suy nghĩ ngược lại, họ cho rằng Thiên Chúa
quá đòi hỏi và nghiêm khắc. Rất có thể người tội lỗi hơn lại dễ nhận ra mình
được tha nhiều và do đó yêu nhiều, trong khi lắm kẻ đạo đức thánh thiện hơn lại
cho rằng mình được tha ít (hay đúng hơn ít cần được tha) nên yêu mến ít hơn, và
đôi khi còn sống trong sợ hãi. Đức Giêsu đã lặp đi lặp lại ý kiến này nhiều lần
tới độ một số kinh sư và các Biệt Phái cảm thấy bực tức khó chịu, phải chăng chỉ
vì họ cảm thấy mình đã quá tốt qua việc trung thành giữ đạo để mà không cần gì
tới lòng nhân lành tha thứ của Thiên Chúa (xem Ga 9).
Như thế tới ngày chung thẩm, khi ra
trước Con Người của tình yêu và cứu độ, điều quan trọng hơn cả sẽ là: tôi nhận
ra mình đã được Ông Chủ tha thứ bao nhiêu, để rồi tôi yêu lại bấy nhiêu. Lúc đó
lời phán quyết của Ông Chủ sẽ là "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung
thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy
vào mà hưởng niềm vui của chủ anh". Sẽ không có khác biệt giữa năm hay
hai, quan trọng là đã nhận ra mình được tha nhiều để đáng vào hưởng tình yêu vô
biên của Thiên Chúa. Cũng vậy, vào ngày đó điều bất hạnh lớn nhất chính là cảm
thấy mình được tha quá ít; và vì nhận thức hẹp hòi này mà tôi vẫn coi Con Người
quang lâm chỉ là một ông chủ đòi hỏi và keo kiệt, một thẩm phán công thẳng và
xét nét. Thái độ của đầy tớ ra trước mặt Ông Chủ sẽ chỉ vỏn vẹn là mình đã giữ
luật sòng phẳng, đã trong sạch và không phạm tội... "đem chôn giấu yến bạc
của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!" để rồi phải nghe phán quyết
nghiêm thẳng của Con Người quang lâm: hãy rút lại lòng thương xót đã trao, và
sử với nó theo đúng luật công bằng: "hãy lấy yến bạc khỏi tay nó... quang
ra chỗ tối tăm bên ngoài", đời đời sẽ "khóc lóc nghiến răng', vì sẽ
không còn tha thứ và cứu độ nữa đối với hạng người như thế.
Kitô hữu sẽ là những người ngày cánh
chung "đứng thẳng và ngẩng đầu lên!" (Lc 21,28), không phải vì họ đã
thánh thiện và đạo đức hơn nhiều người khác, hoặc vì thấy chẳng có chi phải sợ
Ông Chủ vì mình đâu có phạm tội lỗi gì quá đáng, nhưng chỉ vì "anh em sắp
được cứu chuộc". Họ vui mừng và hy vọng vì đã từng nghiệm thấy trong suốt
đời Kitô hữu của mình lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa. Tội lỗi đã từng
phạm không hề làm họ sợ hãi, vì hơn lúc nào hết, họ biết mình đã được tha nhiều
nên yêu nhiều, và họ yên lòng 'ngẩng đầu' tiến đến trước mặt 'Ngài Quan Án' từ
nhân, giầu lòng thương xót, và hay thứ tha.
Lạy Thiên Chúa của lòng nhân ái, con đã
từng hãi sợ cái chết và sự phán xét chỉ vì cứ tối mặt nhìn vào tội lỗi con đã
phạm. Con biết thái độ đó đối với Tin Mừng là cả một sai lầm lớn lắm! Xin cho
con biết luôn 'đứng thẳng và ngẩng đầu lên' với niềm xác tín: con đã từng được
tha thứ rất nhiều trong đời, và vì thế không có gì phải sợ hãi giáp mặt Đấng
con sẽ yêu nhiều hơn. Trong những ngày cuối năm phung vụ này, xin cho niềm hy
vọng và mừng vui tràn ngập tâm hồn con cũng như mọi anh chị em tín hữu, vì
chúng con đã nếm cảm được tình Chúa xót thương. Amen.
6. Bạn có sợ Thiên Chúa không?
Phải sợ Thiên Chúa nếu không phải là
Thiên Chúa. Nhưng có sự sợ hãi tốt và có sự sợ hãi không tốt. Dụ ngôn ngày hôm
nay là một bài học nói về hai nỗi sự hãi này. Điều cốt yếu nằm ở trong cuộc đối
thoại giữa người chủ với người đầy tớ thứ ba, tức người tỏ ra sợ hãi.
- Thưa ông chủ, tôi biết ông chủ và tôi
sợ ông. Tôi đã đem đi giấu dưới đất cái mà ông đã giao cho tôi.
- A! Ngươi biết ta sao?
Điều bi đát chính là việc người đầy tớ
biết sai về ông chủ của mình. Cho nên một số tín hữu nghĩ rằng Thiên Chúa là vị
quan toà tỉ mỉ và khó tính mà nhất thiết người ta đừng gây sự với Ngài. Người
đầy tớ xấu nghĩ tốt hơn cả là sinh sự với Ngài càng ít càng tốt và làm hết cách
để tránh những phiền toái.
Đó là sự sợ hãi xấu. Nó vô hiệu hoá, nó
làm cho mình sống một cách tiêu cực: nếu tôi nói điều này, nếu tôi nói điều
kia, điều gì sẽ xẩy đến cho tôi? Chúng ta ẩn mình trong những điều chắc chắn:
điều gì có tính cách bó buộc?
Nhưng chúng ta đã chẳng nhận lãnh đức
tin để sống tối đa hay sao? Sống hết sức tích cực. Chúng ta chẳng có Tin Mừng
để thấm nhiễm Tin Mừng vào trong các tư tưởng, các hành vi của chúng ta và biết
điều gì làm Thiên Chúa vui lòng hay sao? Chúng ta chẳng có các bí tích để mạnh
mẽ đương đầu với cuộc sống hay sao? Tất cả những điều đó đôi khi im lìm như một
kho tàng bị che giấu. Chúng ta không dám mạo hiểm, sự thực hiện các sáng kiến,
những dấn thân có đôi chút tàn bạo. Nếu tôi mất đức tin vào đó thì sao? Nếu tôi
để cho nhà của tôi bị xâm nhập thì sao? Nếu tôi không còn tìm ra thì giờ để cầu
nguyện thì sao? Nếu tôi không có trong tay đủ tiền bạc thì sao? Và nếu ông chủ
xét đoán tôi thì sao?
Còn biết bao nhiêu chữ nếu nữa... Cẩn
trọng là tốt, nhưng không thoải mái. Càng đưa ra những giả thiết như thế, điều
mà chúng ta gọi là cẩn trọng chỉ còn là sự sợ hãi mà thôi. Như thế thì cuộc
sống Kitô hữu không nói gì về Chúa Kitô cả! Những người Kitô hữu ở trong một
toà nhà, đi làm việc, đức tin của họ không lan truyền, không gây ngạc nhiên,
không thu hút, thì đức tin đó đóng kén trong sự chờ đợi đầy sợ hãi và tầm
thường. Văn hào Soljenitsyne nói "Tất cả chúng ta bị mê hoặc chờ đợi điều
gì đó đến riêng rẽ; không, không có gì đén riêng rẽ cả".
Các thánh không chờ đợi, các ngài nhận
biết Thiên Chúa, cá ngài biết yêu thương nhau, và cái nhìn vào Chúa biến các ngài
thành những nhà hoạt động và táo bạo. Các thánh cũng sợ, nhưng đó là sự sợ hãi
đáng ca ngợi! Sợ được yêu thương đến độ đó và không yêu thương cho đủ. Nỗi sợ
của thánh Vincentê Phaolô: "Ngài có thể làm gì hơn nữa? Người ta hỏi Ngài.
–Nhiều hơn thế nữa".
Nhiều hơn thế nữa. Đó là điều mà ông
chủ chờ đợi nơi người đầy tớ sợ hãi, chứ không phải là điều tối thiểu! Chúng ta
được trao ban một cuộc sống chứ không phải hai để sống Tin Mừng thực sự, để
chứng tỏ rằng Thiên Chúa hiện hữu, rằng Ngài muốn chúng ta tin tưởng, hoạt
động.
Ông chủ nói: "Khi trở về, tôi muốn
thu lại tiền của tôi cùng với số tiền lời". Vào cuối cuộc đời chúng ta,
Thiên Chúa sẽ nhìn xem điều gì đã phát sinh từ sự sáng tạo và tình yêu trong
cuộc sống mà Ngài đã giao phó cho chúng ta. Nỗi sợ duy nhất của người Kitô hữu
chính là không làm cho vốn liếng năm tháng của chúng ta sinh hoa kết quả cho
đủ.
7. Nén bạc và những cố gắng
Hẳn rằng chúng ta đã hiểu được ý nghĩa
dụ ngôn về những nén bạc: Ông chủ là Thiên Chúa, nén bạc là những tài năng Ngài
đã trao ban. Lúc ông chủ trở về và tính sổ là lúc Thiên Chúa phán xét và chúng
ta phải trả lẽ về những khả năng đã sử dụng. Trước tôn nhan Chúa, thì giàu sang
hay nghèo hèn, già cả hay trẻ thơ, tất cả đều không mấy quan trọng. Điều cần
thiết đó chính là sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa, chính là sự cố gắng của
chúng ta để sử dụng và sinh lời từ những nén bạc Chúa đã trao gửi. Vậy sự cố
gắng sẽ đem lại những hậu quả nào cho chúng ta?
Trước hết, sự cố gắng sẽ đem lại những
thành công về phương diện vật chất. Thực vậy, như chúng ta thường nói:
- Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
- Năng nhặt thì chặt bị.
- Nước chảy đá mòn.
- Có công mài sắt có ngày nên kim.
Những thành công trên đường đời chỉ
dành cho những người biết cố gắng mà thôi. Một con chuột nhắt cứ cắn mãi cắn
hòai cũng có ngày làm đứt sợi dây thừng. Từng nhát búa bổ dần cũng có ngày đốn
gẫy cây cổ thụ. Từng giọt nước nhỏ dần cũng có ngày chọc thủng phiến đá. Chính
vì thế, tương lai được hứa hẹn không phải cho những kẻ thông minh tài trí,
nhưng cho những người biết hành động hơn, biết chăm chỉ hơn, biết cố gắng hơn,
như tục ngữ đã nói:
- Có làm thì mới có ăn,
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
Tiếp đến, sự cố gắng sẽ đem lại những
thành công về phương diện tinh thần. Thực vậy, kinh nghiệm cho thấy muốn trở nên
một người tài giỏi thì phải chăm chỉ học hành. Khi tìm hiểu về những thiên tài
trong lịch sử, người ta đã ghi nhận chỉ có 5% là do khả năng trời ban cho, còn
lại 95% là do sức cố gắng. Chính vì thế, người Trung Hoa đã nói: Ngọc bất trác
bất thành khí, nhân bất học bất tri lý. Viên ngọc mà không dũa không mài thì
không thể trở thành đồ trang sức quí giá. Con người cũng vậy, nếu không chịu
khó học hành thì không thể nào biết được lý lẽ mà cư xử. Thực vậy:
- Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,
Cũng thành vô dũng, cũng hoài ngọc đi.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: thay đổi
được một thói hư, xóa bỏ được một tật xấu là điều rất khó và đòi hỏi nhiều cố
gắng.
Một ông bố quyết định từ bỏ rượu chè
bằng cách mỗi lần ngồi vào bàn cơm, ông ta đều nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống
rượu. Cứ thế, cứ thế cho tới khi chiếc ly đầy nến và ông ta chừa bỏ được tật
nghiện rượu của mình.
Đời sống là một cuộc giao tranh khiến
chúng ta phải cố gắng và chiến đấu không ngừng. Sống trong cuộc đời, chúng ta
như người bơi ngược dòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn
trôi. Đứng trước những thói hư tật xấu, nếu chúng ta không cố gắng chống trả,
thì rồi chúng ta sẽ bị nhận chìm trong tội lỗi lúc nào cũng chẳng hay.
Sau cùng, trong phạm vi thiêng liêng,
mặc dù Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, nhưng không phải là đã xong xuôi, trái
lại chúng ta còn phải tiếp tục cộng tác với Ngài và ra sức chiến đấu không
ngừng. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta. Tuy nhiên, để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta
ưng thuận và cộng tác với Ngài, bởi vì chính Ngài cũng không thể cứu chuộc
chúng ta, nếu như chúng ta không muốn.
Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Lời nói này có nghĩa là trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải
cố gắng và cố gắng không ngừng. Trong ngày sau hết, Thiên Chúa không hỏi chúng
ta đã làm được những gì, trái lại Ngài muốn biết chúng ta đã chiến đấu như thế
nào, có sinh lời cho Chúa từ những nén bạc Ngài đã trao gửi hay không?
8. Thiên Chúa chúng ta chịu trách
nhiệm.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật' – Achille Degeest)
Câu chuyện do Chúa Giêsu đặt ra về việc
sử dụng các nén bạc là một dụ ngôn tiêu biểu chứ không phải là một ẩn dụ. Dụ
ngôn là một so sánh toàn thể, cụ thể và đầy hình ảnh, cố ý giúp người ta hiểu
một điều giảng dạy. Không nên xét quá kỹ về mỗi chi tiết, nhưng phải tìm bài
học toát ra từ toàn thể, ẩn dụ là một số hình ảnh (sắp đặt thành một câu chuyện
hy có khi không sắp đặt) nối tiếp nhau, mỗi một yếu tố đều tương ứng với các chi
tiết của ý tưởng muốn diễn tả. Dụ ngôn các nén bạc đòi hỏi một cách hiểu toàn
thể để rút ra một bài học lớn. Không nên cắt nghĩa chi tiết để rút ra các kết
luận nhỏ; bài học lớn mà Chúa Giêsu muốn trình bày như sau: người môn đệ phải
bày tỏ lòng trung thành tích cực phục vụ Thiên Chúa, ngược với sự thụ động lười
biếng đồng nghĩa với bất trung, Người Kitô hữu chân chính sống cả đời trong sự
trông đợi tích cực và có trách nhiệm. Việc so sánh ông chủ hà khắc đối với
người làm có thể làm cho cảm xúc Kitô giáo của chúng ta thấy khó chịu. Chỉ cần
nhớ lại Chúa Giêsu dùng các điều thấy trong lối sống thời Ngài mà so sánh; Ngài
không nói nó xấu hay tốt, Ngài chỉ dùng như những sự kiện thấy được để rút ra
những bài học. Trong trường hợp này, Ngài đặt ra một câu chuyện có thể tin được
theo lối sống và tập tục thời ấy và qua đó Ngài rút ra một giáo huấn. Chúa nhấn
mạnh ở điểm nào?
1) Ở sự nhanh nhẹn của các tôi tớ tốt.
Họ ra đi ngay làm lợi số vốn được trao phó. Không những số tiền trao cho họ
khiến nảy sinh ý thức trách nhiệm, nhưng tức thì gây nên ý muốn hành động. Hơn
nữa họ không sợ phiền hà. Người tôi tớ thứ nhất và thứ hai ra đi và làm số vốn
lợi gấp đôi. Việc phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi người ta không được an thân trong
sự bảo đảm của cái đã có. Không có gì là thực sự nắm chắc. Người ta chỉ duy trì
được cái đang có bằng cách gia tăng nó lên. Cuộc sống siêu nhiên ở tron thế
động. Không ngơi nghỉ, không khép mình ở một mức tưởng đã đạt tới. Vì là một
cuộc sống, nó đòi hỏi phải tăng trưởng mà không mất đi những gì nuôi dưỡng nó.
Nhanh nhẹn là ở chỗ không mất thì giờ trong những điều khởi sự và không thối
chí cố gắng liên tục.
2) Chúa nhấn mạnh về nguy hiểm của sự
lười biếng tinh thần. Nó bị kết án thực sự: Người tôi tớ lười biếng không làm
mất nén bạc được trao phó, anh ta trả lại cho ông chủ nhưng anh ta phạm lỗi
lười biếng không chịu hoạt động. Có một thái độ lười biếng tinh thần cứ nghĩ
Thiên Chúa không khó tính và chúng ta ra sao Người sẽ chấp nhận như vậy, miễn
là chúng ta làm cho Người một vài điều tối thiểu. Như thế là xét sai vấn đề.
Thiên Chúa để cho chúng ta chịu trách nhiệm về những gì cuộc sống chúng ta đã
làm hay không làm được. Không tiến bộ trong đức tin- đức mến, trong hoạt động
(nếu ơn gọi chúng ta hoạt động) bị xét xử như một tội bất trung. Điều chính không
phải làm ra được nhiều. Thiên Chúa ban cho mỗi người tùy theo khả năng khác
nhau, Ngài cũng chờ đợi những thành quả khác nhau. Người đã nhận nhiều, sẽ phải
trả nhiều hơn kẻ nhận ít. Nhưng cả hai phải tích cực phát triển những ân huệ
Chúa đã giao phó.
Một câu hỏi cuối. Tại sao Thiên Chúa là
Đấng có tình thương cứu độ vô biên và nhưng không lại đòi hỏi con người đáp ứng
tích cực? Vì Ngài không muốn cứu con người mà không có phần đóng góp của con
người. Ngài đã tạo con người có tự do, Ngài muốn con người có trách nhiệm. Đó
chẳng phải là yêu sách tiên quyết của một tương quan yêu thương sao?
9. Hãy làm những gì Chúa muốn
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' –
Charles E. Miller)
Chỉ còn vài giây trong một trận bóng
đá, trọng tài đã chạy theo banh vào giữa vùng sân nơi có đội banh cuối cùng sẽ
bị loại, họ đã đá một trận ra trò để tới gôn bên kia. Người tiền vệ đã thay đổi
lối chơi đá một quả vào vùng cuối sân nhưng bóng bị chận lại, họ đã mất một cơ
hội để chiến thắng. Một vị giáo sư trong lớp lịch sử đã buộc học sinh phải làm
một bài với một trang giấy không quá năm ngàn từ. Một sinh viên đã quyết định
viết một ngàn từ thế là mất điểm và anh ta bị điểm kém.
Điều tốt hơn là làm những gì đúng hơn
là làm những gì chúng ta muốn. Từ bài Phúc âm ngày hôm nay chúng ta có thể học
được rằng, sẽ muốn làm những gì là công chính trong mắt của Thiên Chúa. Điều đó
có nghĩa là chúng ta sẽ không muốn làm những điều lớn lao vì Thiên Chúa, nhưng
chúng ta sẽ muốn làm bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm. Nếu Thiên
Chúa muốn chúng ta sẽ trở thành một người lớn lao trong Giáo hội, được phong
thánh trong một thời gian ngắn, sau khi chúng ta chết, được tôn kính bởi toàn
thể những người công giáo trên khắp thế giới, đó là giống như người mà Phúc Âm
nói đến, người đã được trao cho năm nén bạc.
Mặt khác, có lẽ đời sống chúng ta không
có gì đặc biệt. Đó là những dáng vẻ xuất hiện bên ngoài, chúng ta cũng nhỏ bé
chẳng khác gì dân chúng sống chung quanh chúng ta, chúng ta làm việc với những
người khác, chúng ta cũng xếp hàng tại các siêu thị. Điều quan trọng là chúng
ta đã cố gắng sống theo ý muốn của Thiên Chúa, để tôn kính và hoàn tất ơn gọi
của chúng ta trong từng chi tiết của đời sống, muốn trung thành sốt sắng trong
tôn giáo của mình. Chúng ta giống như những người trong Phúc âm đã được trao
cho không phải là năm nén, nhưng chỉ là hai nén.
Một người phụ nữ mà đời sống của bà
không có gì đặc biệt, bà giống như nhân vật trong bài đọc I của ngày hôm nay,
một người vợ giá trị sẽ không bao giờ được xuất hiện trên TV trong sô diễn
"60 phút". Người đàn ông có thể là một người chồng trung thành, tin
tưởng trao phó trái tim của anh cho vợ mình, nhưng sẽ không bao giờ xuất hiện
trong tạp chí "Dân chúng". Có phải điều đó sẽ không thành vấn đề, bao
lâu những người này biết họ được Thiên Chúa yêu mến và thân mật với họ? Theo
Phúc âm, Thiên Chúa hài lòng với người tôi tớ có hai nén, vì anh ta đã là lợi
được hai nén khác giống như người có năm nén đã làm lợi năm nén khác.
Điểm sai lạc là sống giống như một
người trong Phúc âm, người nhận được một nén và đã chôn nó vào đất. Anh ta biện
minh rằng anh ta sợ chủ của mình. Sợ hãi đã ngăn chặn anh ta làm bất cứ điều
gì, hoặc không làm bất cứ điều gì, mặc dù anh ta là một người khó khăn. Chúng
ta có thể phỏng đoán ông chủ là một người khoan dung cho những người thất bại,
nhưng ông không thể nào kiên nhẫn với sự kiện là người tôi tớ không nỗ lực làm
việc.
Người chủ hiển nhiên là không cần những
nén bạc. Cuối cùng ông cũng cho họ, những người làm lợi năm nén hay người làm
lợi hai nén. Sự thật là Thiên Chúa không cần chúng ta. Ngài có thể thực hiện ý
muốn của Ngài trong tích tắc, nếu Ngài muốn điều ấy. Vì Thiên Chúa chọn và muốn
cho chúng ta ân sủng của Ngài. Chúng ta phải hiểu rằng mọi thứ là ân sủng đến
từ Thiên Chúa: đời sống của chúng ta, gia đình, đức tin, tài năng, ngay cả
những khao khát và yêu mến phục vụ Thiên Chúa của chúng ta nữa. Mọi sự là đặc
ân, nhưng chúng là một đặc ân được nhìn theo ý muốn của Thiên Chúa, vì vinh
quang của Ngài, vì sự lợi ích cho dân của Người.
Thật sự trong một ý nghĩa chúng ta được
gọi để làm một điều lớn lao cho Thiên Chúa bởi vì bất cứ khi nào chúng ta làm
bất cứ điều gì theo ý muốn của Thiên Chúa thì không có vấn đề nào là nhỏ hoặc
là tầm thường, nếu nó xuất hiện trước mặt con người là như thế, nhưng thật ra
đó là một điều rất lớn lao.
10. Nén bạc
Ngày xưa, triết gia Platô (427–347 BC,
trước công nguyên) người Hy Lạp đã đưa ra một thí dụ điển hình giúp chúng ta
kiến tạo những điều ưu tiên trong cuộc đời. Hãy tưởng tượng cuộc đời như một
hình tam giác lớn; xếp đặt tất cả những điều coi là quan trọng dọc theo cạnh
đáy của hình tam giác. Rồi bắt đầu di chuyển những điều ưu tiên hơn lên trên.
Khi chúng ta di chuyển chúng lên trên như vậy, cạnh đáy của hình tam giác càng
thu hẹp nhỏ lại để đưa những điều quan trọng hơn lên trên đỉnh của hình tam
giác. Chúng ta sẽ đặt những điều ít quan trọng nằm ở phía dưới và sẽ giữ lấy
những điều coi như quan trọng hơn ở trên. Sau cùng, khi chúng ta đạt tới đỉnh
của hình tam giác, chỉ còn một chỗ duy nhất mà thôi. Kết quả là, chúng ta sẽ tự
hỏi chính mình, "Cái gì quan trọng nhất trong cuộc đời, ở trên tất cả mọi
sự?" Câu trả lời, dĩ nhiên là sống hoà hợp với ý muốn của Thiên Chúa, là
đầu tư cuộc đời để thi hành thánh ý Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những nén bạc trong bài
Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tin tưởng trao
ban cho mỗi người một cuộc sống, một khả năng, một kho tàng để chúng ta phát
triển trở nên phong phú bằng cách sẵn lòng đầu tư khả năng của mình vào chương
trình và mục đích của Ngài.
Thiên Chúa muốn chúng ta chấp nhận hy
sinh cho chương trình của Ngài. Ngài muốn hoạt động và phát triển mạnh mẽ trong
cuộc sống của chúng ta.
Một vị vua kia có ba người con trai,
mỗi người với những tài năng riêng của mình. Người thứ nhất có tài trồng cây ăn
trái. Người thứ hai chăn nuôi cừu. Và người thứ ba kéo đàn vĩ cầm (violin) rất
hay. Một hôm nhà vua phải đi ra khỏi nước một thời gian lâu dài. Trước khi ra
đi, vua gọi ba người con lại và căn dặn rằng vua tin tưởng nơi họ làm cho dân
chúng hài lòng trong lúc vua vắng mặt.
Lúc đầu mọi sự rất tốt đẹp. Nhưng rồi
mùa đông tới, một mùa đông lạnh giá chưa từng có. Không còn đủ củi cho dân
chúng sưởi. Người con thứ nhất phải đối diện với một quyết định vô cùng khó
khăn, có nên để dân chúng chặt một số cây ăn trái làm củi sưởi không? Khi nhìn
thấy dân chúng run rẩy trong giá buốt, cuối cùng người anh cũng phải cho phép
họ làm.
Người con thứ hai cũng đã phải đối diện
với một quyết định khó khăn. Dân chúng khan hiếm lương thực để ăn trong mùa
đông. Anh có nên cho phép họ giết đàn cừu yêu quý của mình làm lương thực
không? Khi nhìn thấy trẻ con than khóc vì đói, anh đau lòng và để cho họ giết
đàn cừu làm lương thực ăn qua mùa đông.
Dân chúng đã có củi để sưởi và thịt cừu
để ăn trên bàn. Tuy nhiên mùa đông khắc nghiệt vẫn cứ tiếp tục kéo dài. Tinh
thần của họ trở nên chán nản, không ai có thể làm cho họ vui vẻ, phấn khởi lên
được. Dân chúng tìm kiếm đến người con thứ ba biết kéo đàn vĩ cầm, nhưng anh từ
chối không muốn chơi đàn cho họ nghe. Cuối cùng tình thế trở nên tuyệt vọng,
nhiều người đã bỏ xứ, dọn đi nơi khác.
Đến một ngày, nhà vua trở về nước. Ông
vô cùng buồn bã vì thấy rằng nhiều người đã bỏ nước ra đi. Ông gọi ba người con
lại để tường trình xem chuyện gì đã xẩy ra. Người con thứ nhất nói, "Thưa
cha, con hy vọng rằng cha sẽ không giận con, nhưng mùa đông đã quá lạnh và con
đã cho phép dân chúng chặt cây ăn trái xuống làm củi để sưởi". Người con
thứ hai nói "Thưa cha, hy vọng rằng cha cũng sẽ không giận con vì khi
lương thực khan hiếm, con cho phép dân chúng làm thịt bầy cừu của con".
Nghe vậy, nhà vua thay vì giận dữ, đã
ôm lấy hai người con, hãnh diện và hài lòng về họ. Rồi người con thứ ba tiến
đến với cây đàn vĩ cầm trên tay và thưa, "Thưa cha, con đã không thể nào
chơi đàn nổi vì cha đã không có mặt ở đây để thưởng thức những tiếng đàn đó,
hơn nữa dân chúng cũng đang chịu khổ vì đói lạnh, làm sao vui được!"
Bấy giờ người cha mới nói rằng
"Hỡi con, hãy kéo đàn cho cha nghe vì bây giờ lòng cha buồn rầu tan
nát". Người con cầm cây đàn vĩ cầm lên kéo, nhưng tự cảm thấy rằng những
ngón tay của mình đã trở nên cứng nhắc vì bỏ lâu không thực tập. Dù cố gắng hết
sức, anh cũng không thể nào nhúc nhích được những ngón tay. Sau đó người cha
nói, "Con đã có thể làm cho dân chúng phấn khởi lên bằng tiếng nhạc của
con, nhưng con đã từ chối không làm. Nếu xứ sở này đã mất đi một nửa số dân, đó
là lỗi tại con. Nhưng bây giờ chính con cũng không còn có thể chơi đàn được
nữa. Đó chính là hình phạt cho con vậy".
Để sống một cách phong phú hơn chúng ta
phải biết sử dụng tài năng đã đón nhận từ Thiên Chúa. Trong dụ ngôn những nén
bạc, ba người đầy tớ được trao ban những nén bạc. Một nén bạc tương đương với
15 năm lương của một người lao động suốt ảc ngày. Trong Anh ngữ nén bạc được
dịch là "talent", lại còn có nghĩa là tài năng thiên phú tự nhiên trong
các sinh hoạt sáng tạo như nghệ thuật, âm nhạc, thi phú... Tài năng tự nhiên có
thể được hiểu rộng rãi hơn gồm những ơn lành chúng ta đã đón nhận từ Thiên
Chúa, đặc biệt là đức tin, sức khoẻ, kiến thức và những cơ hội may mắn... Những
tài năng này đã được ban cho chúng ta không phải để cất dấu, làm mai một đi,
nhưng phải được đầu tư để làm cho chúng sinh hoa kết quả.
11. Nén bạc
Báo Văn Học số 196 tháng 8 năm 2002,
trong mục Tin Văn của Thế Quân, ca ngợi ông Gene Smith 65 tuổi, "Một người
mê sách: kẻ cứu tinh của một nền văn học". Nhờ mê sách mà ông cứu vớt nền
văn học của Tây Tạng. Ký giả Barbara Stewart của báo New York Times đã gọi ông
già Smith là người cứu tinh của nền văn học Tây Tạng. Ông Smith đang sở hữu một
kho tàng văn chương Tây Tạng mà ông sưu tập được từ 37 năm nay. Theo ước tính,
ông hiện có khoảng 12 ngàn tác phẩm văn chương Phật giáo và văn chương chịu ảnh
hưởng Phật giáo của Tây Tạng. Những học giả Mỹ đánh giá công trình sưu tập văn
chương của ông là công trình to lớn nhất ở phương Tây và có thể lớn nhất thế
giới.
Thế nhưng sự nghiệp này đã được bắt đầu
rất đơn giản. Lý do đưa ông đến việc nghiên cứu văn chương Tây Tạng là hồi
chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông xoay sở để được hoãn dịch bằng cách học một
trong những ngôn ngữ khó học là tiếng Tây Tạng. Sau đó, ông đã học triết lý và
quan điểm về thế giới của Phật giáo Tây Tạng với lạt ma Deshung. Lạt ma Deshung
là một người mê sách. Và nỗi đam mê ấy truyền sang Smith khiến ông trở thành
một người mê sách luôn. Sau 5 năm học tiếng Tây Tạng, ông du hành qua An Độ để
sưu tầm sách.
Mặc dù văn chương Tây Tạng đã có lịch
sử cả 1000 năm với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn chương, nhưng vẫn là
một nền văn minh ẩn giấu, không mấy ai biết đến nền văn minh này. Trên thế giới
không đâu có tác phẩm của Tây Tạng kể cả những thư viện lớn nhất thế giới. Lý
do là vì người Tây Tạng không biết in sách. Sách được hoàn thành bằng cách chép
tay hoặc khắc trên những bản gỗ, và lưu giữ trong các tu viện hoặc nhà riêng.
Đã thế mỗi một trong 4 tông phái Phật giáo Tây Tạng lại có một nền văn chương
riêng biệt. Chẳng ai phân loại hay có một danh sách đầy đủ. Sau khi Trung Quốc
xâm lăng, sách bị phân tán khắp nơi, cuốn còn, cuốn mất. Hơn nữa sách được mang
ra ngoại quốc thường do những người tỵ nạn Tây Tạng vượt ngọn núi Hy Mã Lạp Sơn
mang sang An Độ. Tìm hỏi cho ra người mang sách đã là việc khó, lại còn phải
biết sách nào quan trọng trong các tông phái chính đòi hỏi phải có kiến thức và
sự nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để khắc phục những khó khăn trên, ông
Smith phải dốc toàn tâm lực làm việc liên tục, tra cứu, tham khảo với các vị
lạt ma, gửi các chuyên viên đến các nơi xa xăm ở An Độ cũng như Nepal để săn
lùng sách. Trong quá trình làm việc như thế kiến thức của ông Smith trở nên
phong phú phi thường. Ông trở thành giám đốc lưu động của văn phòng thư viện
đặt tại New Delhi , Indonesia
và Cairo . Hiện
nay ông đang dự định chuyển chỗ ở về New York với cơ quan văn hoá "Rubin
Cultural Trust" hứa sẽ cung cấp đủ chỗ để chứa thêm một số sách hiện đang
tồn trữ và hàng trăm cuốn sách mới khác vừa được tìm thấy gần đây mà người ta
tưởng rằng đã bị phá hủy. Nói rằng Gene Smith là người cứu tinh của cả một nền
văn học, quả không có gì quá đáng!
Sự tiêu cực và bi quan đã bóp méo hình
ảnh của Thiên Chúa trở nên một ông chủ hung ác. Đây là thái độ của người đầy tớ
thứ ba.
Một người cha sắp sửa lên đường đi làm
ăn xa, trao cho hai người con tiền bạc để xây cho ông hai căn nhà. Người con
đầu tiên đã dùng tất cả số tiền được trao phó xây cho cha một ngôi nhà tuyệt
đẹp, sang trọng. Còn người con thứ hai nhìn thấy đây là một cơ hội để kiếm tiền
riêng cho mình, hắn dùng những vật liệu xây cất rẻ tiền, và xây cho cha một
ngôi nhà rất tầm thường. Khi người cha trở về, để làm quà thưởng cho các con,
ông nói "Để trả công cho các con, cha cho mỗi con chính căn nhà mà các con
đã xây cho cha, hãy đưa gia đình các con vào ở trong căn nhà đó".
Sự ích kỷ và lười biếng của người đầy
tớ thứ ba đã làm cho anh có cái nhìn tiêu cực và bi quan về thiện ý của chủ rồi
dẫn tới hành động chôn giấu nén bạc dưới đất.
Thiên Chúa chúng ta tờ phượng là một
Thiên Chúa của sự sống, đầy yêu thương. Nói đến sự sống là nói đến sự sinh
trưởng, phát sinh hoa trái. Vì chính Ngài là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên vũ trụ và
phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên
mặt đất có trái tuỳ theo loại:, Ngài cũng phán ngay với con người rằng:
"Hãy sinh sôi nẩy nở..." Do đó không tăng trưởng là dấu hiệu của sự
hủy diệt, sự chết. Không phát sinh hoa trái là đi ngược lại thánh ý của Thiên
Chúa và gây tai hại cho chính bản thân mình.
Chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay,
William Barclay đã viết: "Thiên Chúa không muốn những con người phi thường
làm những việc phi thường, nhưng Ngài rất muốn những con người bình thường làm
những việc bình thường một cách phi thường".
Chúa Giêsu sẽ trở lại để hỏi chúng ta
về những nén bạc, tài năng, ơn lành đã được Thiên Chúa trao ban. Chúng ta sẽ bị
xếp vào loại người đầy tớ nào?
12. Hãy dùng thời gian để yêu thương
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
Thiên Chúa là Alpha và Omega, Ngài là
Khởi Nguyên và là Tận Cùng. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là
thời gian. Thiên Chúa là thời gian trong ý nghĩa Ngài là chủ thời gian. Thiên
Chúa hiện hữu không phải trong thời gian mà là siêu thời gian vì ngàn năm đối
với Chúa như một ngày.
Chỉ còn 2 tuần lễ nữa là kết thúc thời
gian Năm Phụng Vụ để rồi khởi đầu một chu kỳ Năm Phụng Vụ mới. Các bài đọc của
các tuần Chúa Nhật này đều nói về việc trở lại của Chúa Giêsu trong ngày quang
lâm. Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo.
Ngay từ ban đầu khi loài người sa ngã,
Thiên Chúa đã muốn cứu chuộc loài. Ngài đã can thiệp nhiều lần vào lịch sử bằng
những biến cố kỳ diệu, độc đáo được ghi trong Thánh Kinh. Thiên Chúa dùng lịch
sử làm phương thế cứu chuộc, biến lịch sử loài người thành một Lịch Sử Thánh,
một Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch Sử Cứu Rỗi gồm ba giai đoạn chính.
Cựu Ước chuẩn bị Ơn Cứu Rỗi, Tân Ước thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thời Giáo Hội nối
dài và phân phát ơn cứu rỗi. Sau ngày Quang Lâm của Chúa Kitô lịch sử sẽ được
hoàn tất trong vinh quang Nước Trời.
Đức Giêsu là trung tâm của Lịch Sử Cứu
Rỗi, nơi Ngài, Ơn Cứu Rỗi không còn là lời hứa mà đã trở thành hiện thực. Đức
Giêsu còn là tận đích của Lịch Sử Cứu Rỗi, vì tất cả lịch sử quy hướng về Ngài.
Ngài là hồng ân tuyệt hảo Thiên Chúa ban cho nhân loại. Trong Ngài loài người
đạt tới sự sống viên mãn.
Như vậy có hai lịch sử song hành: lịch
sử trần thế và Lịch Sử Cứu Rỗi.
Lịch sử trần thế là lịch sử các dân
tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính
trị, các tiến bộ kỹ thuật. Đây là mặt nổi có thể quan sát được.
Lịch Sử Cứu Rỗi là lịch sử sinh hoạt
siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần. Lịch
sử này đang khai diễn âm thầm dưới chiều sâu trong các tâm hồn theo nhịp của ân
sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ có Đức Tin mới nhận ra. Như vậy Đức Tin giúp chúng
ta nhận ra có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế, bao trùm thấm nhập
lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có một ý nghĩa. Từ đỉnh cao của
vĩnh cửu, Thiên Chúa đang từng bước hướng dẫn loài người đến Ơn Cứu Rỗi chung
cuộc.
Khi lịch sử chấm dứt là lúc Đức Giêsu
trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ để mọi người và mọi sự
được hoàn tất trong Ngài.
Ngày Đức Giêsu trở lại, ngày quang lâm,
tái lâm được gọi bằng nhiều tên: Ngày cuối cùng (Ga 6, 39; 11, 24; 12, 48),
Ngày của Chúa (1 Cr 3, 13; 5, 5), Ngày Chúa đến (1 Cr 1, 8), Ngày của Đức Kitô
(Pr 1, 10; 2, 16), Ngày viếng thăm (1 Pr 2, 12), Ngày xét xử (1 Ga 4, 17).
Chính Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến Ngày Tái Lâm này (Mt 24, 30; 25, 31; 26,
64; Mc 8, 38; 14, 62; Lc 17, 24; Ga 6, 39 - 40).
Không ai biết Ngày Quang Lâm bao giờ sẽ
đến, kể cả Đức Giêsu về mặt nhân tính (Mt 24, 36). Ngày đó đến bất ngờ
"như kẻ trộm trong đêm tối" (1 Tx 5, 1 - 3). Theo nhiều dụ ngôn, Chúa
đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể
nhân loại (Mt 24, 37; 37, 44; Mc 13, 33 - 37; Lc 17, 22 - 37; 21, 35)
Ngày tận cùng của thời gian, Đức Giêsu
tái lâm biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Sẽ có một cuộc phán xét
chung. Rất nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu ám chỉ ngày phán
xét chung này: cỏ lùng trong ruộng lúa (Mt 13, 37-43), phân loại cá sau mẻ lưới
(Mt 15, 39-49), chủ đòi gia nhân tính sổ (Mt 18, 23-35), thợ làm vườn nho cuối
ngày trả công (Mt 20, 1-16), mười trinh nữ đi dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13). Ngày
ấy các dân thiên hạ được thâu họp lại trước mặt Ngài hết thảy. Tất cả mọi người
không phân biệt màu da, chủng tộc ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo... đều được triệu
tập trước mặt Người. Lúc ấy Người sẽ phân biệt kẻ lành kẻ dữ. Cuộc phán xét của
Thiên Chúa sẽ không diễn ra theo cách thức của các tòa án trần gian: tố cáo,
biện minh, đối chiếu, bằng chứng... Nhưng đây là một sự soi sáng từ bên trong.
Trong ánh sáng của Thiên Chúa mỗi người sẽ thấy rõ những giá trị các hành vi
của mình, cách mình đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân.
Thiên Chúa là Alpha và Omega. Thánh
Gio-an còn định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Thiên Chúa là thời
gian và cũng là tình yêu. Như thế thời gian và tình yêu song hành là một.
Tôi sống trong Thiên Chúa là sống để
yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Thời gian không có tình yêu sẽ trở
thành lạnh lùng buồn tẻ. Tình yêu ý nghĩa hóa và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó
những người đang yêu là những người đang sống trong thời gian với đầy ắp niếm
vui hạnh phúc. Những người biết yêu là biết nhìn thời gian như vàng ngọc. Ai
sống trong Thiên Chúa là người phải biết yêu quí thời gian Chúa ban.
Các bài đọc Chúa Nhật 33 Thường Niên
kêu mời chúng ta suy niệm về giá trị của thời gian và lao động. Sách Châm Ngôn
mô tả người đàn bà lý tưởng. Bà ăn ở được lòng chồng con, xây dựng gia đình
bằng đôi tay cần mẫn, tháo vát và chăm chỉ. Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo
đoàn Thê-xa-lô-ni-ca đã đề cập đến giá trị của thời giờ. Trong giáo đoàn có
người lo sợ là ngày tận thế sắp đến, họ sợ hãi đến độ không muốn làm gì cả.
Thánh nhân đã cảnh tỉnh: Hãy làm việc, đừng ngũ mê. Hãy biết trân trọng thời
gian Chúa ban. Với bài phúc âm, Chúa Giêsu nói đến giá trị của thời giờ, công
việc và tài năng. Thiên Chúa khi ban sự sống thì đồng thời cũng ban phương tiện
sinh sống như thời giờ, tài năng, như "nén bạc Chúa trao".
Thiên Chúa ban tài năng thì chúng ta có
trách nhiệm phải biết dùng tài năng ấy để sinh lợi cho mình và cho người khác.
Kẻ lười biếng sẽ được gọi là tôi tớ bất hảo; còn người tôi tớ chăm chỉ làm
việc, sinh lợi các nén bạc thì được gọi là lương hảo. Tiêu chuẩn căn bản mà
Chúa xét xử đó là tình yêu. Dấu chỉ chúng ta yêu mến Chúa đó là tình yêu chúng
ta thực thi đối với anh chị em mình.
Thiên Chúa là thời gian và cũng là tình
yêu. Chúng ta quý trọng thời gian, dùng thời gian để làm việc trong tình yêu,
yêu Chúa và yêu người. Ai yêu thương là kẻ được Thiên Chúa sinh ra và người ấy
biết Thiên Chúa. Thời gian quý giá như vàng ngọc. Bởi vậy:
Dùng thời gian để suy nghĩ, đó là nguồn
sức mạnh
Dùng thời gian để đọc, đó là nền tảng
sự khôn ngoan
Dùng thời gian để tìm hiểu, đó là cơ
hội để giúp người khác
Dùng thời gian để cười, đó là âm nhạc
của tâm hồn
Dùng thời gian để ước mơ, đó là kiến
tạo những gì thuộc về tương lai
Dùng thời gian để thinh lặng, đó là cơ
hội để gặp Chúa
Dùng thời gian để yêu và được yêu, đó
là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa
Dùng thời gian để cầu nguyện, đó là sức
mạnh vĩ đại nhất trên trái đất này.
Nguyện xin Thiên Chúa là Chúa của Thời
Gian, là Vua của Tình Yêu giúp chúng con biết dùng thời gian để dấn thân phục
vụ trong tình yêu.
13. Nhận nhiều thì bị đòi hỏi nhiều –
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho
rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có
phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công thì phải giải thích
sự bất bình đẳng này ra sao?
2. Người được nhiều thuận lợi có trách
nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách nhiệm thế nào?
3. Thiên Chúa phán xét con người dựa
trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức
độ nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, sự phân phối những điều
tốt đẹp không đồng đều
Không ai có thể chối cãi điều này: trên
đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính tình, khuynh hướng, khả
năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v... Đúng như cổ nhân nói:
"Bá nhân bá tánh", "chín người mười ý"... Và ngay trong
từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng
ai, y hệt như: "Bàn tay ngón thấp ngón cao". Điều đó tạo nên sự phong
phú đa dạng trong thế giới con người. Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên
vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công?
Phải chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn
người, giàu có hơn người... thì được lợi hơn những người khác?
2. Ai nhận được nhiều thì bị đòi hỏi
nhiều
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên
Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít,
thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giêsu đã từng nói: "Hễ ai đã được cho
nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều
hơn" (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những
ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở
thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai
nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít
thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không
hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không
công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất
công bằng.
Những ân huệ ta nhận được cũng như món
tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi
năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả
số lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi suất là 10% một năm (tức
0,83% một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu.
Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà
không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không có tiền để trả lãi, và vay
càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi thì càng nguy hiểm. Vì tới
kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết
thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi, thì
vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân gây
ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều
thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu không làm cho chúng sinh lợi thì rất
có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.
3. Hãy ý thức trách nhiệm về những
thuận lợi mình đang hưởng
Vậy chúng ta hãy tự xét xem chúng ta
được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo
dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v... Chúng ta thường hãnh
diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách
nhiệm vì được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận
lợi hơn người, người Kitô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng.
Những thuận lợi đó phải được đem ra làm
ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được
quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên
ta không thể tránh được hình phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà
không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có tình yêu, và như thế là ta
không có Thiên Chúa trong chúng ta: "Nếu ai có của cải thế gian và thấy
anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình
yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được" (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt
vật chất mà Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta "ai có hai áo, hãy chia cho
người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy" (Lc 3,11), thì về mặt
tinh thần, Ngài còn đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. Vì sự chia
sẻ vật chất thì rất giới hạn, còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới hạn hơn rất
nhiều.
4. Đừng vội tự hào hay kiêu hãnh về
những thuận lợi của mình
Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét
theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đã đạt
được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên
Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta
không phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để
làm ích cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ
được Ngài ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người
ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi
là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công
bằng thật sự.
Vì thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn
người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn
người. Coi chừng kẻo lầm to: "ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng
kẻo ngã" (1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của mình hơn người
khác mà kết luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả mình làm
được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho, xem đã tương xứng chưa:
"Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (...) chứ đừng so sánh với
người khác" (Gl 6,4).
Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người
sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo
dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do
cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã
trở thành một người khá lương thiện. Còn người kia được sinh ra từ một cha mẹ
đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều,
anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã
hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được
đánh giá là công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa,
Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của
người thứ hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất
sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người thứ hai.
Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa
khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Ngài đã từng nói với các các thượng
tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo
đức: "Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước
các ông" (Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người tội lỗi ấy đã cố gắng
vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi
Gio-an Tẩy giả và Đức Giêsu đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đã sám hối và
tin theo ngay!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng vì được
Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đã hãnh diện và tự hào
với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy mình thật
dại dột, vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người
kém may mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại
trở thành những gì gây bất lợi cho con. Xin cho con ý thức được trách nhiệm của
con đối với họ.
14. Nhu cầu
Trước hết, tài năng cần được phát hiện
và thừa nhận. Người ta nói rằng nơi sinh thực sự của chúng ta là nơi mà, chúng
ta được đánh thức những năng khiếu và tài năng của mình. Thông thường, cần có
một người bên ngoài nhận ra tài năng của chúng ta.
Tương tự như mặt trời làm trổ sinh
những bông hoa thơm ngát còn đang nằm ẩn bên dưới lòng đất ở những cánh đồng,
cũng vậy, có những người tìm kiếm cách hoàn thành nhiệm vụ, bằng cách giúp cho
những tài năng nơi người khác được bộc lộ ra. Có lẽ đây là những người có tài
năng nhất.
Dostoevsky, một văn sĩ người Nga, đã
viết tác phẩm Người Khốn Khổ, năm ông chỉ mới lên 20 tuổi. Belinsky là một nhà
phê bình lỗi lạc nhất thời nay. Khi Belinsky đọc bản thảo của cậu thanh niên
Dostoevsky, ông nói "Cậu đã làm cho chúng tôi chú ý đến một sự thật khủng
khiếp. Cậu có một tài năng vĩ đại. Hãy chăm sóc cẩn thận tài năng này, rồi cậu
sẽ trở thành một nhà văn lớn".
Dostoevsky đã say sưa với những lời
nhận định của nhà phê bình nổi tiếng này. Nhiều năm sau, ông viết "Đó là
một giây phút hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời của tôi".
Tại sao giây phút đó lại quan trọng đối
với Dostoevsky đến thế? Bởi vì Belinsky đã thực sự làm chỗi dậy tài năng viết
văn của ông. Ông vẫn còn đang chưa chắc chắn gì về bản thân mình, và do đó, rất
dễ bị tổn thương. Sự phát hiện của Belinsky đã xác nhận được nơi ông niềm tin
tưởng về tài năng của mình. Hơn thế nữa, điều này đã thúc đẩy ông tiến tới trên
đường đời. Thông qua các tác phẩm của ông, ông đã sử dụng cả cuộc đời để diễn
tả về bản thân mình.
Một trong những nhu cầu lớn nhất của
chúng ta là tự diễn tả về bản thân mình. Chúng ta không thể nào thể hiện hoặc
phát huy hết năng lực bản thân, trừ phi chúng ta tự diễn tả về mình. Sự tự diễn
tả cần thiết đối với chúng ta, tựa như hoa lá cần thiết cho một thân cây. Thi
sĩ và nghệ sĩ Kahil Gibran đã nói về điều đó như sau: "Trong hầu hết mọi
người, đều có một nỗi cô đơn lớn lao – một niềm khát vọng được tự diễn tả về
bản thân". Và họa sĩ Van Gogh nói "Giữa điều mà tôi nhận thức và điều
mà tôi diễn tả, có một bức tường ngăn cách; tôi đã trải qua cả cuộc đời mình để
tìm cách phá bức tường đó".
Diễn tả về bản thân là một cách thức
sống trọn vẹn con người của mình, và từ đó, trở nên thánh thiện. Liệu có bao
nhiêu người trong chúng ta có thể nói rằng mình đã phát triển đầy đủ các tiềm
năng của mình, với tư cách là những con người? Tất nhiên là người ta có thể tự
diễn tả về bản thân bằng nhiều cách thức. Tuy nhiên, người ta lại có thể bộc lộ
ra rất nhiều tài năng của mình. Khi điều này xảy ra, chính sở hữu chủ của tài
năng là người bị mất mát nhiều nhất. Một số người cứ sống trôi nổi cả cuộc đời
mình, rồi đã chết đi, mà vẫn không thể hiện ra, dù chỉ một đôi chút tiềm năng
của họ.
Sự diễn tả trái ngược hẳn với sự ngăn
chặn. Ngăn chặn là kiềm chế, đè nén, giấu giếm, ức chế. Sự ngăn chặn không
tránh khỏi tình trạng phát sinh ra sự trầm cảm. Diễn tả là nói rõ ràng ra, là
bộc lộ, thể hiện mình... Sự diễn tả có thể lôi kéo theo nỗi đau, nhưng cuối
cùng, lại đưa đến niềm vui.
Chính bằng lối sống đó, mà chúng ta
phát hiện ra những tài năng của mình, và chính bằng cách sử dụng chúng, mà
chúng được phát triển. Mỗi tài năng cần phải được phát triển. Nếu một tài năng
cần phải mang lại hiệu quả đầy đủ của nó, thì người ta phải biết chịu khó làm
việc, sống kỷ luật và kiên nhẫn. Chúng ta nhận thấy điều này ở người đầy tớ thứ
ba trong dụ ngôn của Đức Giêsu.
Trong trường hợp người đày tớ thứ ba,
chúng ta nhận thấy có sự trái ngược. Không phải do tính khắt khe của ông chủ,
đã ngăn cản anh ta không sử dụng được những nén bạc của mình – đó chỉ là lý do
biện hộ. Anh ta cũng không thiếu cơ hội. Bản thân anh ta đáng bị khiển trách,
do tính lười biếng, hèn nhát và ích kỷ.
Cuộc sống là quà tặng của Thiên Chúa
đối với chúng ta. Chúng ta làm được gì cho cuộc đời, đó chính là quà tặng của
chúng ta đối với Thiên Chúa.
15. Dụ ngôn các nén bạc – Lm. PX. Vũ
Phan Long
Người đầy tớ trung thành là người không
những biết chu toàn một sứ mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh
thần, mà còn biết lấy sáng kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ
có thể chờ đợi nơi họ.
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài,
"Dụ ngôn Những nén bạc" (Mt 25,14-30) được đặt trong ngữ cảnh là
chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của Tin Mừng I,
ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Câu truyện
đặt đối diện hai nhân vật: một ông chủ và các đầy tớ. Ở đây giống như trong dụ
ngôn mười trinh nữ, có những đầy tớ "tốt" và những đầy tớ
"xấu". Khi ông chủ trở về, người ta không còn có thể thay đổi tình
thế được nữa, mà phải chấp nhận vĩnh viễn tình thế ấy.
Tuy nhiên, ở ngay chỗ bắt đầu bản văn,
có từ "bởi vì" (gar). Từ này nối bài dụ ngôn với câu trước là 25,13
và làm cho bài dụ ngôn này nối với bài trước như sau: "Vậy anh em hãy canh
thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào. Bởi vì cũng như có người kia sắp
đi xa...". Vậy bài dụ ngôn biện minh cho việc phải "canh thức/tỉnh
thức". Dĩ nhiên, Mt không hiểu từ ngữ này theo nghĩa chữ, nếu không ngài
đã chẳng dùng lời khuyến cáo này làm câu kết cho một dụ ngôn trong đó các trinh
nữ đều đã ngủ cả. "Canh thức" là ở trong tư thế luôn "sẵn
sàng" đối với cuộc Phán xét, mà mình không biết ngày giờ.
Nếu dụ ngôn Các nén bạc nói về
"canh thức" thì phải có những ý tưởng liên hệ tới đề tài này. Chúng
ta thấy ở c. 19, tác giả cho biết rằng ông chủ trở về "sau một thời gian
lâu dài". Chi tiết này tương tự chi tiết của bài trước: "vì chú rể
đến chậm..." (25,5); chi tiết này lại nhắc đến một chi tiết có trước trong
dụ ngôn Người đầy tớ trung tín, trong đó người đầy tớ nói: "Còn lâu chủ ta
mới về" (24,48). Những câu này nêu ra vấn đề các Kitô hữu đang phải đương
đầu vào cuối thời các tông đồ do cuộc Quang Lâm đến chậm: Đức Kitô chậm trở lại
như thế, có thể khiến các Kitô hữu thất vọng (x. 2 Pr 3,4), sẽ mất sự bền bỉ.
Do đó, cần phải nhấn mạnh đến đề tài "canh thức" với các sắc thái
khác nhau của đòi hỏi này. Mt diễn tả bổn phận canh thức qua các tĩnh từ dùng
cho các đầy tớ: "tài giỏi và trung thành", hay là "tồi tệ và
biếng nhác".
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Giới thiệu các nhân vật và chủ đề
(25,14-18):
a) Ông chủ giao tiền trước khi ra đi
(cc. 14-15),
b) Thời gian giữa thời điểm ông chủ ra
đi và trở về (cc. 16-18);
2) Tính sổ với ông chủ (25,19-30):
a) Câu mở (c. 19) và Cảnh người đầy tớ
tốt thứ nhất (cc. 20-21),
b) Cảnh người đầy tớ tốt thứ hai (cc.
22-23),
c) Cảnh người đầy tớ xấu (cc. 24-30. Hoặc:
Người đầy tớ xấu: cc. 24-28; Nhận định chung kết: cc. 29-30).
3.- Vài điểm chú giải
- nén bạc (15): Một talanton Israel
khoảng 35kg bạc (x. Xh 25,39; 1 V 9,14...), còn một talanton Hy Lạp (x. 1 Mcb
11,28; 2 Mcb 3,11; Mt 18,24...) thì khoảng 21-26kg. Ngoài các nghĩa tượng trưng
đã được gán cho "nén bạc" (khả năng, các trách nhiệm, thì giờ, các
của cải...), ý nghĩa của "nén bạc" tương ứng nhất với Tin Mừng Mt là
"Tin Mừng", hoặc tốt hơn, là sự hiểu biết mỗi người có về Tin Mừng
(c. 15: "tuỳ khả năng riêng mỗi người"). Sự hiểu biết này phải được
chuyển thành hoa trái phục vụ và bác ái đối với người khác. Nói chung, có thể
cho rằng một nén bạc bằng 10.000 quan (một quan là công một ngày làm việc).
- được giao ít mà anh đã trung thành
(21.23): Lời khen này có thể khiến độc giả nghĩ đến những gương mẫu trong quá
khư, như Môsê hoặc Đavít: lúc đầu Thiên Chúa đặt các ngài chăn dắt các đàn vật
trước khi giao cho các ngài những nhiệm vụ lớn lao hơn.
- niềm vui (21.23): Hẳn đây là niềm vui
hai người đầy tớ tốt cảm nhận khi được vào hưởng bữa tiệc thiên sai, chứ không
phải là niềm vui của ông chủ cảm nhận do lý do gì ta không biết.
- Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm
(29): Công thức có lẽ là một câu tục ngữ (x. 13,12), hoặc một câu nói của Đức
Giêsu đã bị tách khỏi ngữ cảnh, được Mt đặt ở đây. Câu này tóm dụ ngôn rất
khéo: vào ngày Phán xét chung (bản văn Hy Lạp là "sẽ được ban cho" là
một công thức ở thái bị động tuyệt đối, để nói về hành động của Thiên Chúa, và
động từ ở thì tương lai gợi đến một hành động cánh chung của Thiên Chúa), ai
có, tức là đã trung thành trong những chuyện nhỏ của cuộc sống trần thế, sẽ
nhận được một phần thưởng lớn; còn kẻ nào không có gì, tức đã bất trung hoặc
lười biếng, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
- chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc
lóc nghiến răng (30): Hình phạt này chỉ có thể là cuộc trầm luân đời đời (x. Mt
22,13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và chủ đề
(14-18)
Dụ ngôn bắt đầu với từ hai từ nhỏ đáng
chú ý: "cũng như" ([h]ôsper) và "bởi vì" (gar, "vì
chưng" [NTT]; "quả thế" [CGKPV]). Với từ "cũng như",
bài dụ ngôn mới này dường như liên kết với c. 13 nói về canh thức. Còn với
"bởi vì", bài này triển khai câu cuối của dụ ngôn trước (25,13:
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào"). Thật
ra, cả bài nhắc nhớ đến các truyện Đức Giêsu đã kể trước đây: truyện Tên mắc nợ
không biết thong xót (18,23-35: các từ có chung là "các yến vàng",
"tính sổ") và nhất là truyện Người đầy tớ trung tín (24,45-51: các từ
có chung là "đầy tớ trung thành", "đặt lên"/"giao
[nhiều]", "ông chủ [các] tên đầy tớ ấy", ở đó, sẽ phải khóc lóc
nghiến răng").
Mọi chuyện xảy ra giữa ông chủ và các
tôi tớ. Ông chủ chuẩn bị đi xa, đã ký thác công việc quản lý tài sản ông cho
các đầy tớ. Trong thời gian ông đi vắng, các đầy tớ này phải vận dụng khả năng
mà làm cho số bạc đã nhận sinh lãi. Như vậy, các tôi tớ này không tự do và độc
lập, nhưng họ ở trong một tương quan lệ thuộc và phục vụ. Họ thuộc về ông chủ;
những gì được ký thác cho họ là của cải của ông chủ và những gì họ làm sinh ra
từ đó là sở hữu của ông chủ. Họ bị ràng buộc với chủ nhiều cách.
Nhân vật chính là một ông chủ giàu có,
nhưng dù vậy, ông không muốn để cho vốn của ông nằm đó, càng không muốn cho các
đầy tớ của ông chỉ biết nằm ngủ. Dường như điểm sau này là mối quan tâm chính
của ông. Với tám nén bạc, ông có thể tự mình đưa đến ngân hàng hoặc đầu tư cách
nào khác; ở đây ông lại muốn giao phó số bạc cho các trung gian. Ông đã bỏ một
lối xử sự đảm bảo hơn, như ông cho biết trong mẩu đối thoại với tên đầy tớ biếng
nhác, mà chọn lấy một cách phiêu lưu hơn, mục đích chỉ để họ chứng tỏ sự cần
mẫn (c. 27) và chịu khó. Nét bất thường này cho thấy rằng mục tiêu đầu tiên của
ông không phải là lợi nhuận nhưng là xem xét các khả năng, sự sẵn sàng, óc sáng
kiến nơi các thuộc cấp. Nhưng cách làm ấy cũng chứng tỏ ông tin vào thiện chí
của họ. Ông không muốn họ chỉ là những kẻ lệ thuộc, nhưng là những cộng sự viên
có lương tâm. Để thẩm định óc sáng tạo và chuyên chăm, ông không xác định cách
thức họ phải theo. Mọi sự được phó mặc cho chọn lựa của họ. Nếu ông phân phát
các nén bạc tùy theo khả năng của từng người, là để cho mọi người có cơ hội làm
ra một năng suất tối đa, chứ không phải là thiên vị người này hơn người kia.
Lời nhận xét của người đầy tớ vô tích sự: "Thưa ông chủ, tôi biết ông là
người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi" (c. 24) xác nhận
cách xử sự của ông chủ và hơn nữa việc ông tín thác công việc cho các cộng sự
viên. Lẽ ra biết ông chủ là người nghiêm khắc, người đầy tớ càng phải ra sức mà
làm việc, thay vì ươn ái bất động như thế!
Hai người tôi tớ tốt bắt tay vào việc
tức khắc. Họ sử dụng của cải đã được giao cho họ theo cách tương ứng với ý muốn
của ông chủ. Họ tuân theo các mục tiêu của ông và bảo vệ của cải lợi lộc cho
ông. Cách làm của họ đã đưa lại hoa trái dồi dào.
Người tôi tớ thứ ba mang yến bạc đến
trả lại cho chủ, không hơn không kém. Ngay từ đầu, anh đã có một tương quan sai
lạc với chủ. Anh ta thấy ông là một con người cứng rắn, anh trách ông là gặt
chỗ không gieo, và anh sợ ông (25,24t). Anh nhìn nhận mình lệ thuộc ông, nhưng
không quy phục ông với lòng tin tưởng và cần mẫn. Anh cảm thấy sự lệ thuộc của
mình gay go và áp bức và tức giận với ông như đối với một kẻ bóc lột bắt kẻ
khác làm việc cho mình và sống nhờ công lao của những kẻ khác. Do đó, anh từ
chối phục vụ và không hành động theo ý muốn của chủ. Anh không phung phí của
cải được giao và không tiêu xài cho mình. Anh chỉ để nó ở đấy không sinh lợi và
trả lại cho chủ y như đã nhận. Những lời nói của anh chao đảo giữa sự nghi ngờ,
phản đối và sợ hãi. Anh bị kết án không phải bởi vì anh đã không đạt được con
số như các đồng nghiệp, nhưng bởi vì anh không vận dụng một sáng kiến nào cả,
dù là việc dễ hơn như bỏ số bạc vào ngân hàng (dễ hơn cả việc đào lỗ chôn giấu
énn bạc của chủ!), dễ nhưng phiêu lưu hơn, nên cũng nặng trách nhiệm hơn. Lỗi
của anh là đã chôn giấu một của cải tự nó phải sinh lời.
* Tính sổ với ông chủ (19-30)
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở
về và gọi các tôi tớ đến tính sổ. Cảnh tính sổ với ông chủ được chia thành ba
hồi nhỏ: Ba người đầy tớ đến gặp chủ, mỗi người nói ra cách mình đã làm với số
bạc của chủ và nghe ông đánh giá.
Trường hợp hai người đầu thì hoàn toàn
song song: người đầu như thế nào, thì người thứ hai như vậy (mỗi người được
dành cho 2 câu); người thứ ba được đặc biệt lưu ý (anh được dành cho 7 câu,
hoặc ít ra là 5 câu, nếu tách cc. 29-30 ra như là phần thêm vào sau). Về phương
diện văn chương, bốn câu dành cho hai người đầu làm thành một đơn vị văn chương
được dùng làm đối trọng cho người đầy tớ thứ ba. Như vậy, trong thực tế, chúng
ta có một phép đối ngẫu: điểm giáo huấn quan trọng nằm trong sự tương phản giữa
hai người đầu với người thứ ba. Trong một dụ ngôn có đặc tính đối ngẫu như thế,
điểm nhấn luôn nằm nơi vế thứ hai của thế đối ngẫu (x. các dụ ngôn trong các
Tin Mừng và Tl 9), vế thứ nhất chỉ nhằm làm rõ vế hai mà thôi.
Họ đã báo cáo lại cho chủ đầy đủ và
được ông không tiếc lời khen ngợi. Ông nhìn nhận họ là những tôi tớ tốt lành và
trung tín. Một tôi tớ tốt lành thì chấp nhận trọn vẹn vị trí của mình và ra tay
phục vụ chủ. Người ấy không theo các ý riêng hoặc các cảm hứng riêng, không
tránh né chủ, nhưng tự đồng hóa với các mục tiêu và quyền lợi của chủ. Một tôi
tớ tốt lành thì ân cần chăm sóc của cải đã được giao phó cho mình với lương
tâm. Sau khi hai tôi tớ đã được thử thách, ông chủ có thể giao phó cho họ các
nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông mời gọi họ đến niềm hạnh phúc viên mãn: "Hãy vào
mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (25,21.23). Tin Mừng rất thường nói đến
việc "đi vào Nước Trời" (x. 5,20; 7,21; 18,3), "vào trong cõi
sống" (18,8t; 19,16) và bây giờ "vào trong niềm vui". Những ai
trung tín thì được chấp nhận cho thông phần Nước Trời, nghĩa là được sự sống
viên mãn và niềm hạnh phúc vô tận. Ông chủ không đẩy các tôi tớ ra xa, nhưng
chấp nhận họ vào trong môi trường sống của ông, trong cuộc sống hạnh phúc viên
mãn của ông. Chúng ta không thể đạt tới mục tiêu này và mức sống viên mãn nhờ
dựa vào sức riêng, hoặc nhờ đi qua một nẻo đường chọn riêng, nhưng chỉ nhờ phục
vụ Chúa. Hai người tôi tớ nhận được phần thưởng như nhau, phần thưởng này không
được xác định bởi mức độ đóng góp của họ, nhưng bởi mức độ là sự chuyên cần và
trung tín.
Còn kiểu tính toán của người đầy tớ
cuối cùng là một tính toán sai lầm; trong khi anh tưởng được yên thân khỏi bị
quy trách, anh đã làm hại quyền lợi của ông chủ. Anh trả lại "nguyên
xi" nén bạc đã nhận, nghĩ rằng như thế là "cân bằng thu chi":
anh vừa lười biếng lại vừa ngu ngốc. Ông chủ gọi anh là đầy tớ tồi tệ và biếng
nhác (c. 26), một kẻ đã hoàn toàn làm hỏng cuộc đời của chính mình và lệnh
truyền đã nhận. Bởi vì anh đã tránh né chủ, bây giờ ông chủ cũng tránh né anh.
Ông không cho anh vào hiệp thông đời sống với ông, nhưng cho quăng anh ra
ngoài, nơi đó không có niềm vui, nhưng chỉ có khóc lóc vì đau đớn và nghiến răng
vì giận dữ vì sự hư hỏng chính mình đã gây ra cho mình (x. 8,12). Đây là một
cuộc sống trong tối tăm, trong sợ hãi và tuyệt vọng.
+ Kết luận
Cho dù cuộc Quang Lâm có đến chậm, các
Kitô hữu cần phải luôn "canh thức" với ý nghĩ là cuộc Phán xét sẽ đến
và lối sống của họ sẽ bị thẩm định để xem có được vào hưởng niềm hoan lạc hay
không. Sự canh thức này cũng đồng thời là sự trung thành chu toàn các nhiệm vụ
đã được giao phó, tức là tất cả các bổn phận thuộc đời sống Kitô hữu. Xét như
thế, bài này có những liên hệ với bài dụ ngôn Người đầy tớ trung thành
(24,45-51). Người đầy tớ trung thành là người không những biết chu toàn một sứ
mạng đã được giao phó vừa theo mặt chữ vừa theo tinh thần, mà còn biết lấy sáng
kiến mà làm việc trong chiều hướng những gì ông chủ có thể chờ đợi nơi họ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Giống như các tôi tớ trong dụ ngôn,
chúng ta, cùng với những gì chúng ta có, là thọ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta
không có gì thuộc về chúng ta; các khả năng của chúng ta từ Người mà đến. Tuy
nhiên, không phải mọi người đã nhận được như nhau; mức độ các ân ban của Thiên
Chúa cho từng người thì khác nhau, và đó là quyền của Ngài. Các nén bạc đây có
thể là các đức tính, các khả năng phải phát triển. Nhưng điều tác giả dụ ngôn
nhấn mạnh là sự tin tưởng nơi ông chủ, và sự tha thiết, quảng đại hy sinh hầu
chu toàn ý muốn của chủ.
2. Thiên Chúa dùng các cộng sự viên để
thực hiện các kế họach của Ngài. Ngài không tự mình làm nhưng nhờ trung gian
các người thân tín. Những người này cần phải nhận ra cách xử sự như thế của Thiên
Chúa là một vinh dự cho mình, để mà ra sức quảng đại đáp lại sự chờ đợi của
Người. Đời sống Kitô hữu không phải là một nếp sống tĩnh hoặc nghỉ ngơi thoải
mái.
3. Không phải chỉ tránh sự dữ là đủ;
còn cần phải vận dụng tất cả các năng lực và chính đời sống mình mà làm điều
thiện. Ơn gọi Kitô hữu là một số vốn bấp bênh; đây không phải là một món tiền
chết, nhưng là một quà tặng phải được làm cho sinh lời với óc khôn ngoan, chăm
chỉ và tình yêu. Mỗi Kitô hữu phải lấy tinh thần trách nhiệm và can đảm mà làm
việc.
4. Thời gian hiện tại là nhà băng thử
thách để đưa tới định mệng tương lai. Ai đã chứng tỏ mình biết dấn thân làm
việc sẽ được giao phó cho một hoạt động cao hơn; ai ươn ái và lười biếng sẽ mất
cả số vốn của mình và thậm chí bị loại khỏi Nước Trời.
5. Chúng ta chỉ có một cách đạt tới
cùng đích của đời sống chúng ta, đó là ra tay phục vụ Thiên Chúa, sử dụng theo
ý Ngài tất cả những gì đã được ban tặng và ký thác cho chúng ta. Chúng ta không
thể sử dụng theo ý muốn của mình và phung phí đời sống và thì giờ, các khả năng
và phương thế, các công việc của chúng ta. Thiên Chúa đã ký thác tất cả các thứ
đó cho chúng ta, và chúng ta phải trả lẽ với Ngài về tất cả. Không phải trong
sợ hãi Thiên Chúa, nhưng trong sự tin tưởng vào Ngài, chúng ta mới có thể chu toàn
nhiệm vụ của chúng ta.
II. LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Bách hại
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa Giêsu
đã phán: Môn đệ không trọng hơn Thầy. Nếu người ta đã bắt bớ Thầy thì người ta
cũng bắt bớ các con. Lời tiên tri này đã được thực hiện một cách trọn vẹn.
Trước hết nơi Chúa Giêsu: từ khi bước
vào cuộc sống công khai Ngài đã gặp phải sự chống đối của bọn biệt phái. Chúng
tìm mọi sơ hở để bắt lỗi những lời Ngài giảng và những việc Ngài làm. Chúng tố
cáo Ngài là phạm thượng lộng ngôn, dùng quyền quỷ mà trừ quỷ, lỗi ngày Sabat,
xách động dân chúng chống lại chính quyền Lamã và sau cùng ý đồ đen tối của
chúng đã được thực hiện, chúng đã bắt giữ và đóng đinh Ngài trên thập giá.
Tiếp đến là các tông đồ. Sau ngày lễ
Hiện Xuống Phêrô và Gioan đã bị tống ngục. Trong số 12 tông đồ thì chỉ có mình
Gioan chết già tại cộng đồng Êphêsô, còn tất cả đều đã hy sinh mạng sống cho
Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng là Giáo Hội. Giáo Hội thời sơ
khai đã trải qua 300 năm cấm cách dưới thời các hoàng đế Lamã. Những tín hữu
muốn sống sót và bảo toàn đức tin phải chui rúc trong những hang toại đạo. Vì
thế các sử gia đã gọi thời kỳ này là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm.
Riêng tại Việt Nam, Tin Mừng được rao
giảng vào thế kỷ 16, từ đó cho đến thế kỷ 19, từ đời hậu Lê cho tới thời Chúa
Nguyễn, trải dài hơn 300 năm, cũng đã gặp phải bao cấm cách, nhất là dưới thời
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Biết bao nhiêu người đã phải bỏ nhà cửa, ruộng
vườn và sản nghiệp trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc để bảo vệ đức tin.
Trên 130.000 người đã hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, trong số đó có
117 vị đã được tôn phong lên bậc hiển thánh.
Qua những sự kiện lịch ấy chúng ta đi
tới kết luật: Thân phận người Kitô hữu là thân phận bị bách hại. Sự bách hại có
mặt ở mọi nơi và trong mọi lúc, khi thì khắc nghiệt và toàn phần như đã xảy ra
trong dĩ vãng. Khi thì từ từ và từng phần như đang xảy ra tại nhiều nơi trên
thế giới. Khi thì như mơn trớn vuốt ve bằng tiền tài danh vọng và lạc thú như
tại những nước tư bản. Nhưng tất cả đều dẫn tới một mẫu số chung là làm cho đời
sống đức tin suy yếu và con số những người bước theo Chúa mỗi ngày một vơi
giảm.
Con người càng tiến bộ thì phương cách
bắt bớ càng tinh vi, có thể chúng ta không bị bắt bớ vì lý do tôn giáo nhưng
người ta sẽ chụp mũ và bắt bớ chúng ta ở một tội trạng nào khác, nhưng theo tôi
nghĩ sự bắt bớ quan trọng nhất đang diễn ra ngay tại cõi lòng chúng ta, vì ai
trong chúng ta cũng cảm thấy một sự giằng co giữa sự thiện và sự ác, giữa sự
tốt và sự xấu. Nhiều khi sự ác đã lấn át và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Có
chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm tuy âm thầm nhưng mãnh liệt này, chúng ta
mới hy vọng chiến thắng được thế gian vì tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ.
Thân xác các thánh Tử đạo Việt Nam tuy
đã chết nhưng tinh thần tử đạo của các ngài vẫn sống mãi. Hãy bước theo dấu
chân của các Ngài. Thực vậy, mặc dù chúng ta không được diễm phúc tử đạo, nhưng
cũng hãy dùng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để làm
chứng cho Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Mỗi hy sinh chúng ta chịu sẽ là một
giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
2. Thập giá
Nhân ngày lễ kính các thánh tử đạo Việt
Nam, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về thập giá trong cuộc sống của các ngài.
Hơn ai hết, các thánh tử đạo Việt Nam
là những bậc cha ông của chúng ta đã sống mầu nhiệm thập giá một cách sâu xa
nhất. Đúng thế, chẳng những vác thập giá mình hằng ngày bằng một đời sống thánh
thiện quên mình, chết đi cho lòng vị kỷ và cho tội lỗi như các tín hữu khác,
các ngài còn thực sự uống chén đắng và trải qua cuộc thanh tẩy bằng máu mà Chúa
Giêsu đã trải qua trong cuộc khổ nạn.
Các ngài chịu đau khổ và chết trong
thân xác như Đức Kitô trên thập giá. Cuộc đời các ngài lặp lại từng bước những
chặng được thập giá của Chúa Giêsu và kết thúc bằng lời phó thác: Lạy Cha, con
xin phó hồn con ở trong tay Cha. Bằng đời sống và bằng cái chết các ngài nói
lên niềm xác tín của mình: Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Đức
Kitô. Tình yêu của các ngài còn mạnh hơn cả sự chết và là yếu tố tạo nên chiến
thắng. Các ngài sống cho tình yêu và chết cho tình yêu, đối với tình yêu thì
giá nào cũng vẫn còn là thấp, kể cả sự chết.
Các ngài đã làm chứng và loan truyền
mầu nhiệm thập giá. Cái chết của các ngài không còn là một việc riêng tư, nhưng
đã trở nên một biểu hiện cho niềm tin chung của Giáo Hội vào giá trị tuyệt đối
của Nước Trời, vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Sự chết đó còn là một tiếng
gọi, một lời thúc giục toàn thể dân Chúa hãy sống trọn vẹn niềm tin của mình và
chiếu sáng niềm hy vọng giữa lòng cuộc đời. Nếu sống được như vậy, thì dẫu
không trải qua cái chết tử đạo, chúng ta cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm
thập giá. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một
chứng nhân. Các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng cả sự sống lẫn sự chết.
Thập giá đã đưa Đức Kitô đến phục sinh.
Sau khi đã tự hạ vâng lời cho đến chết, Đức Kitô đã được suy tôn cùng với uy
quyền và vinh quang. Còn các thánh tử đạo thì sao? Dù các ngài chưa thể sống
lại trong thân xác như Đức Kitô, nhưng cũng đã đạt tới sự sống vinh quang của
Ngài, bởi vì ngay lúc chết, các ngài đã được tham dự vào sự sống vinh quang của
Đức Kitô phục sinh chỉ còn phải chờ đợi ngày được tỏ hiện mà thôi. Sự liên đới
với Đức Kitô trong cái chết chắc chắn sẽ tạo nên sự liên đới trong sự sống.
Dù trong cảnh ngộ nào, Đức Kitô và các
môn đệ Ngài cũng vẫn chung một số phận: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng
Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị. Vẫn là một
quy luật muôn thuở của Nước Trời: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất còn ai
liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Trong mùa gặt phong phú của Giáo Hội
Việt Nam thời sơ khởi, các thánh tử đạo đã loan truyền mầu nhiệm thập giá một
cách kiên trì trên mảnh đất thân yêu. Xin các ngài giúp chúng ta, là những
người công giáo Việt Nam hôm nay luôn sống trọn vẹn niềm tin, và làm chứng cho
tình thương Chúa bằng đời sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
3. Kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương
Mấy thế kỷ trước đây, trong thời gian
các tín hữu công giáo Việt-nam bị bách hại ác liệt, nhà cầm quyền khuyến dụ các
tín hữu bước qua thập giá như một dấu chỉ công khai bỏ đạo để được tha. Tín hữu
nào theo lệnh vua quan dẫm đạp lên thập giá được xem như là người công khai bỏ
đạo.
Ngày nay, không còn áp lực bên ngoài
bắt buộc các tín hữu dẫm lên thập giá, nhưng có nhiều áp lực bên trong như tham
lam, ích kỷ, ganh tỵ, oán thù... vẫn hằng thôi thúc các ki-tô hữu chà đạp lên
nhân phẩm và tình người, biến họ trở thành những người chối bỏ Đạo yêu thương
của Chúa Giêsu.
Đạo Chúa là Đạo yêu thương
Đạo Thiên Chúa được gọi là Đạo yêu
thương vì cốt tủy của Đạo là giới luật yêu thương và mục tiêu của Đạo là xây
dựng đời sống yêu thương huynh đệ trên khắp thế giới.
Khi có vị luật sĩ hỏi Chúa Giêsu, trong
các điều răn, điều nào trọng nhất, Chúa đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều
răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22,
37-40)
Thánh Phao-lô cũng nhắc lại giáo lý nầy
cho các tín hữu Rô-ma: "Các điều răn... đều tóm lại trong lời này: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy." (Rm 13,9-10)
Tuyên ngôn yêu thương nầy đã được Chúa
Giêsu nâng lên thành điều răn mới khi Ngài phán: "Thầy ban cho anh em một
điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh
em." (Ga 13, 34)
Chỉ có những ai yêu thương mới được xem
là người môn đệ Chúa
Muốn ghi tên gia nhập vào một tổ chức,
một đoàn thể hay một đảng phái nào đó, ứng viên phải chấp nhận một số nội quy
của tổ chức đó.
Cũng thế, khi muốn gia nhập vào Đạo yêu
thương để trở thành môn đệ Chúa Giêsu, thì điều kiện đầu tiên phải có là lòng
yêu mến tha nhân, như lời Chúa Giêsu dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để
nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau."
(Gioan 13, 35).
Như thế, không phải hễ đã có tên trong
sổ rửa tội, có tham gia sinh hoạt tôn giáo là có thể xưng mình là môn đệ Chúa
Giêsu nhưng là phải thật sự yêu mến tha nhân quanh mình.
Ai ghét bỏ tha nhân là từ bỏ Đạo yêu
thương của Chúa
Vì Đạo Chúa là Đạo yêu thương nên ai
ghét bỏ tha nhân, kẻ ấy không còn là môn đệ của Chúa Giêsu nữa, như lời Chúa
dạy: "Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy:
là anh em có lòng yêu thương nhau." (Gioan 13, 35).
Như thế, khi ghét bỏ người khác hay cạn
lòng yêu thương tha nhân, ki-tô hữu tự loại mình ra khỏi hàng ngũ những người
môn đệ Chúa.
Ngoài ra, những ai thiếu lòng yêu mến
tha nhân thì trong ngày phán xét, sẽ bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền
rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa, như lời Chúa dạy trong dụ
ngôn phán xét cuối cùng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta
mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó" (Mt
25, 34. 41)
Noi gương các thánh tử đạo Việt Nam,
chúng ta kiên quyết không bỏ Đạo yêu thương.
Thách thức của các kitô-hữu bị bách hại
ngày xưa là quyết không bước qua thập giá dù phải chịu máu đổ đầu rơi. Thách
thức của kitô hữu hôm nay là quyết giữ lòng yêu mến tha nhân đến cùng dù phải
đối mặt với hận thù, bạo lực và ghen ghét.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh
dũng bước theo Chúa Giêsu và kiên trì sống Đạo yêu thương đến cùng. Dù ngục tù,
gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt, các ngài vẫn không hề nao núng. Nhờ đó, các
ngài được lãnh nhận triều thiên tử đạo. Nếu hôm nay chúng ta kiên quyết xoá bỏ
oán ghét hận thù, để kiên trì giữ luật yêu thương, để sống chan hòa với mọi anh
em trong tình huynh đệ (cho dù để đạt được điều nầy, chúng ta phải chịu khổ nạn
trong tâm hồn), thì chúng ta cũng sẽ được đứng vào hàng ngũ các thánh tử đạo
hiển vinh.
4. Bách hại vì sống công chính
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Một trong các bài Tin Mừng được chọn
đọc trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo là phần đầu của bài giảng trên núi mà
chúng ta quen gọi là 'Tám Mối Phúc'. Mối phúc cuối cùng trong danh sách là:
"Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ'.
Trong sách Tin Mừng Lu-ca chương 06, dầu chỉ đề cập tới có 04 mối phúc, nhưng
mối phúc sau chót cũng vẫn nói tới cùng một điều này là "Phúc cho anh em
khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như
người xấu xa. Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa vì này đây phần thưởng dành
cho anh em ở trên trời thật lớn lao." (Lc 6,22) Phải chăng đó là lý do tại
sao các Ki-tô hữu từ thời xa xưa đã dành cho các vị anh hùng tử đạo một sự mừng
kính đặc biệt trân trọng. Họ gán cho các ngài danh hiệu cao quý là Chứng Nhân
Tin Mừng (Martyr). Ngày nay trong tư cách con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo,
chúng ta muốn thực sự tìm hiểu các vị tử đạo nói chung, và Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam nói riêng, đã là chứng nhân Tin Mừng như thế nào? Khi tiến ra pháp
trường để bị trảm quyết, các ngài đã thật sự trung kiên bảo vệ điều gì? Và ở
điểm nào các ngài thực sự liên quan tới người Công Giáo Việt Nam chúng ta đang
sống trong xã hội hôm nay?
Trong tiếng Việt, chữ 'đạo' thường được
chúng ta sử dụng để nói tới một đạo giáo, một tôn giáo, như Đạo Phật, Đạo Hồi,
Đạo Lão, Đạo Ông Bà, Đạo Thiên Chúa... Thế nhưng theo nguyên ngữ hán-nôm, 'đạo'
là con đường, là lẽ sống, là học thuyết... dẫn tới mục đích tối hậu của cuộc
sống, chẳng hạn đạo Khổng, đạo hiếu, đạo làm người. Đức Giê-su đã tự giới thiếu
mình "là đường, là sự thật và là sự sống". Và nếu nói theo từ vựng
hán nôm Ngài sẽ phải tuyên bố mình là 'đạo, chân, sinh'. Vậy thì, trong cả phúc
âm Mát-thêu lẫn Lu-ca, khi đề cập tới mối phúc chót này, Đức Giê-su chắc chắn
không hề có ý muốn tuyên bố 'phúc thay' những ai dám chết cho một đạo giáo hay
tôn giáo, nhất là hiểu dưới khía cạnh cơ cấu tổ chức của tôn giáo đó. Điều mà
Đức Giê-su muốn biểu dương là tất cả mọi hình thức 'bị bách hại', 'bị người ta
oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu xa...' đều là 'phúc' vì
một yếu tố duy nhất, đó là 'vì sống công chính', hay rõ hơn: 'vì Con Người'.
Tới đây tôi gợi nhớ lại tư tưởng bài
suy niệm về đoạn Tin Mừng Lc 18, 9-14 của Chúa Nhật XXX thường niên năm C: 'Đối
với Đức Giê-su, ai mới là công chính?' Nếu đã có một nền công chính của Cựu Ước
tóm gọn trong luật Mô-sê để bẩy anh em nhà Ma-ca-bê, vị bô lão Ê-lê-a-da, và
Gio-an Tiền Hô, vì trung thành với nó, đã buộc phải gánh lấy cái chết... và
'các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế',
thì riêng với Ki-tô hữu sẽ có một thứ công chính mới được chính Đức Giê-su công
bố. Nói đúng ra chính Người là hiện thân của nền công chính đó, sự công chính
của Thiên Chúa từ nhân, công chính của tình yêu tha thứ và cứu độ; 'Vì Con
Người', Người đã khảng định. Ai đón nhận và sống Tin Mừng này để rồi 'bị bách
hại', hay chịu thua thiệt dưới bất cứ hình thức nào, đều là những người được
Đức Giê-su biểu dương. Còn nếu có ai đó bị giết chết vì nền công chính mới này
thì phải được chính Đức Ki-tô và toàn Nhiệm Thể Ngài tuyên dương, phong thánh.
Chính vì thế mà Giáo Hội, ngay từ thời sơ khai và qua mọi thời đại, đã có thói
quen phong thánh cho các vị anh hùng 'tử vì đạo'. Giáo Hội luôn muốn tuyên bố
rằng các anh chị em tín hữu này là chứng nhân cho Tin Mừng tình yêu vì đã dám
chấp nhận thua thiệt lớn hơn hết là mất cả mạng sống mình. Với việc phong thánh
như thế Giáo Hội đồng thời cũng muốn khảng định bất cứ thua thiệt nào các Ki-tô
hữu phải hứng chịu trong cuộc sống thường ngày vì 'sống công chính mới' đều có
giá trị vô song.
Suy nghĩ như thế tôi mới thấy có một
liên hệ mật thiết giữa các chứng nhân 'tử vì đạo' với mỗi Ki-tô hữu chúng ta.
Các ngài không phải là những trường hợp biệt lệ để các tín hữu có 'may mắn'
được sống trong thời đại an bình nhìn vào mà thán phục mà ca ngợi, với mơ ước
rằng: nếu chẳng may lâm vào cơn cấm cách, mình cũng sẽ trung thành. Đức Giê-su
đã chẳng gọi tất cả mọi Ki-tô hữu là 'ánh sáng', là 'muối men' của trần gian,
là chứng nhân Tin Mừng là gì? Chứng nhân tích cực rao giảng Tin Mừng thì ít,
nhưng chứng nhân vì buộc phải chấp nhận các thua thiệt, khó khăn vì nền công
chính Tin Mừng trong đời sống thường ngày thì nhiều. Vì thế thật là chí lý: các
'Thánh Tử Đạo' được coi như tấm gương, như cột sống của Ki-tô hữu qua mọi thời
đại, thời buổi bị bắt bớ thử thách cũng như khi được sống an bình sung túc.
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta
luôn tự hào vì Giáo Hội Việt Nam đã có hàng trăm ngàn các chứng nhân Tin Mừng
như thế, trong số đó 117 vị đã được toàn Nhiệm Thể Đức Ki-tô phong thánh. Vấn
đề được đặt ra là: phải chăng các ngài đơn thuần chỉ tạo nên nơi chúng ta một
niềm kiêu hãnh mang tính lịch sử, hay đã trở thành cột sống, thành cơ bắp thúc
đẩy chúng ta sống công chính Tin Mừng cách cụ thể trong đời sống thường ngày?
Thua thiệt vì Tin Mừng thì thời đại nào cũng có, kể cả trong các xã hội được
coi là phồn vinh dễ dãi và tự do. Thế thì các 'Thánh Tử Đạo Việt Nam' đã đóng
góp được gì cho người Công Giáo Việt Nam chúng ta trong xã hội được cho là 'dễ
dãi hơn' hôm nay? Phải chăng chỉ là một khích lệ trung kiên nào đó sẵn sàng
chiến đấu chống lại mọi thế lực thù nghịch khi cần, hay để kiên trì 'sống công
chính' khi 'bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như người xấu
xa...' ngay trong xã hội hôm nay? Ngày mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm
nay sẽ không mấy ý nghĩa nếu mỗi người không tìm ra được câu trả lời cho vấn
nạn này.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài
đã chịu bách hại vì dám chấp nhận 'sống công chính' tới độ anh hùng. Nếu Hội
Thánh đã tuyên phong cái chết của các ngài thì đồng thời cũng tuyên phong vô
vàn những tủi hổ, thiệt thòi của biết bao tín hữu anh hùng vô danh khác. Tất cả
các điều này không nằm ngoài mục đích thôi thúc mỗi người Công Giáo Việt Nam
chúng con sẵn sàng hơn trong việc cùng với Đức Ki-tô thập giá tha thứ và yêu
thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống đời thường, ngay trong lòng xã hội hôm
nay. Xin các ngài tiếp tục trở nên chứng nhân Tin Mừng cho chúng con về một
tình yêu tha thứ tuyệt đối. Amen.
5. Sống chứng nhân
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý
trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng
can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi
nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu
gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho
Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta
cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy
chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm
cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết
tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức
đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung
HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh
lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất
nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam
tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao
chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn
cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong
đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo
đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho
hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của
chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta
trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng
ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống
chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng
chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ
quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham
nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm
bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu
những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta
phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất
hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường,
tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là
kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta
phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau,
con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu
thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không
phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng
nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại
nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo
Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái
chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là
chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận
căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt
lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều
các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng
phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
6. Truyền đạo
Người Công giáo Việt Nam thường coi
mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt
sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất
là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều
mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những
người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức
tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ
khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua
việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm
nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia
sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm
nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân
thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho
chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức
tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt
hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì
không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho
khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ
rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng
niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương
mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong
cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt
Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái
lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp
tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn,
nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời
mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một
vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan,
nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới
hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì
vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa
bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người
nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không
phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư
tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng
Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn
bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence,
thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng
chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng
để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi
danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo
nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng
Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh
hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da
đen... trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng
thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El
Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh
lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can
đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ
được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết
cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết
như vậy hay không?
7. Con đường hạt lúa – ĐTGM. Jos. Ngô
Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những
hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại
các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không
phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật
lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm
cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái
chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây,
các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có
lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang
này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ
đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế
quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không
một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là
một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người
nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói:
"Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác". Hạt giống Giáo
Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300
năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài
đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta
cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị
các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình
thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là
xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly
cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình
ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ "tả đạo" trên má ngưới có
đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành
với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị
chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị
trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo.
Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi
chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách
tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng
100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ
một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người.
Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục
nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín
lời Chúa dạy: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin
tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như
Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết
tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác
ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để
xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn
khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn,
vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan
thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú
ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy
con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị
bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều
gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo
Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm
gì?
8. Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử
hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn
tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem
theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai
một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu.
Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên
là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp
dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho
thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên
vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ
dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một
số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên
thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà
bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy
lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo
gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành
quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính
gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép
cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng
luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ
phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để
vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón
vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống
nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố
ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã
tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới
lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ
sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu
vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh
nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo "Người chứng
thứ nhất" của Phạm Đình Khiêm).CN
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là
chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế
nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã
man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái
diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và
các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được
loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng
rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho
quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung
là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư "Tiến đến thiên
niên kỷ thứ ba", Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương
lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì "trong thế kỷ này lại có
những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là "những chiến sĩ vô
danh" – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ
máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo,
những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những
người kết hôn, góa bụa và trẻ em" (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch
sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị
tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh
mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng
trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy
nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo
cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt
vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861
đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam.
Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong
ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117
vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy
sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là
con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta
cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài
ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và
Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn
đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản
thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều
bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng
mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy
trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống
như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy
các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận
biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói:
"Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu".
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là
một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta
thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các
vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc,
tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng
khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất
đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không
ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
9. Chứng nhân
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988
tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển
thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là
con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300
năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt
thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với
đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh
phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài
can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân
chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một
số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh
mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ,
ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam
nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu
nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng
chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người
làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát,
để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả
hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo
cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó
Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống
cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước
những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang
giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách,
đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất
hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là
phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là
như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác
cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ
nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt
cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công
giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ
phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết.
Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn
bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ
đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu
các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các
ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết
cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó,
đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy
mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo,
minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình
khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời
sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho
những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ "tử đạo"
có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng.
Pascan tiên sinh đã nói: "Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại
giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng".
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo,
chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ
trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các
ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của
chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô
giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và
gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa
ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành
riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành
động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt
nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống
đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng
quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người
khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp
học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những
người bệnh tật... chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương
tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự
tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những
người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống
trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối
với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên
Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để
chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền
vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách
sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.
10. Tử Đạo - Người làm chứng (Mt
10,17-22)
(Suy niệm của Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Thật là lạ lùng khi mà các bài đọc
trong Thánh lễ mừng các Thánh Tử Đạo hôm nay lại chỉ toàn nói đến niềm vui. Đặc
biệt là lời đáp trong Thánh Vịnh hôm nay: "Chúa đã đối xử đại lượng với
chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan". Vậy đâu là lý do để Giáo Hội
chọn những bài đọc này?
Nếu cứ theo cách nghĩ của người đời thì
làm sao có thể ca lên lời Thánh Vịnh nói trên, khi mà trong suốt gần 300 năm
(261) bị bách hại, người Công Giáo Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu
gian nan thử thách: nào là gông cùm, tù tội, nào là đòn vọt, xích xiềng... Với
6 triều vua cùng 53 sắc dụ cấm đạo đã cướp đi mạng sống của trên 130 ngàn người
Công Giáo. Họ đã anh dũng ngã xuống để bảo vệ niềm tin của mình.
Có lẽ, không chỉ giáo đoàn Việt Nam, mà
trong suốt dọc dài của lịch sử Giáo Hội, người tín hữu Chúa Kitô dường như đều
gắn liền với những cuộc bách hại. Trong thời Giáo Hội sơ khai, các tín hữu cũng
bị bách hại dữ dội, thế nhưng các ngài vẫn không hề nao núng. Sách Công vụ Tông
Đồ thuật lại rằng, mặc dù bị đánh đập, hành hạ, nhưng khi các Tông đồ ra khỏi
hội đường của người Dothái thì "lòng đầy hân hoan vì thấy mình xứng đáng
chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu Kitô".
Cũng vậy, các thánh TĐVN – cha ông
chúng ta – đã cảm thấy hãnh diện vì được chịu khổ nhục vì đạo Chúa. Không những
thế, các ngài còn đón nhận những hình khổ cũng như cái chết một cách vui mừng,
mà không một chút nao núng, như trường hợp của Thánh Phêrô Đoàn Công Quý:
"Dù trăng trói, gông cùm tù rạc, Chén ngục hình xiềng tỏa chi nề. Miễn vui
lòng cam chịu một bề. Cho trọn đạo trung thần hiếu tử."; hay trường hợp
của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc: "Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm
mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn
thanh nhàn."
***
Đã có một thời, thậm chí ngay cả ngày
hôm nay, nhiều người không cùng niềm tin với chúng ta vẫn còn tỏ ra dè dặt về
danh xưng "Tử Đạo". Có lẽ vì hai chữ "Tử Đạo" dễ khiến
người ta liên tưởng đến những cuộc thánh chiến hay những cuộc đánh bom tự sát
chăng?
Nhưng đối với trường hợp của các thánh
TĐVN thì không như vậy. Mặc dù các ngài ở những bậc sống khác nhau, xuất thân
từ những môi trường không giống nhau: có vị là Giám mục, có vị là linh mục, rồi
thầy giảng, trùm trưởng, giáo dân; thậm chí có vị còn nắm giữ những trọng trách
trong triều đình như Thánh Micae Hồ Đình Hy. Tuy nhiên, các ngài đều có một
điểm chung đó là tình mến Chúa thiết tha và lòng yêu mến quê hương nồng nàn.
Cái chết của các ngài không hề mang màu sắc của sự thù hận, nhưng phát xuất từ một
niềm tin, như lời Thánh Micae Hồ Đình Hy: "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ
dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần
cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Nguyên ngữ của chữ Tử Đạo (Martyr) có
nghĩa là "Người làm chứng". Ngày hôm nay, có lẽ không còn những cuộc
bách hại đẫm máu, những tra tấn, gông cùm, tù tội..., hoặc ít ra là không gắt
gao như thời của các Thánh Tử Đạo - cha ông chúng ta. Tuy nhiên, người tín hữu
sống đạo hôm nay, vẫn phải đối mặt với muôn vàn thử thách.
Văn hóa thực dụng và lối sống hưởng thụ
thời nay, một cách nào đó, đã và đang cản trở chúng ta thực thi các đòi hỏi của
Tin Mừng. Giữa thế giới văn minh, tiện nghi, việc đạo được nhiều thuận lợi,
biết đâu, có khi chúng ta lại dễ dàng chối bỏ niềm tin của mình? Đó là khi
chúng ta sống ích kỷ, chỉ chăm lo đến ốc đảo của riêng mình; đó là khi chúng ta
bỏ qua lời thề ước của hôn nhân để ngoại tình; đó là khi những người mẹ giết
con bằng hành vi phá thai; đó là khi những người trẻ sống một cách buông thả;
đó là khi chúng ta coi trọng những cuộc nhậu nhẹt say sưa hơn là các giờ kinh
lễ; đó là khi chúng ta chia rẽ, hận thù và phá vỡ mối giây hiệp nhất trong cộng
đoàn...
Làm sao để chúng ta có thể vẫn ở trong
thế gian nhưng không thuộc về thế gian, là điều không hề đơn giản. Chúa muốn
chúng ta là nắm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men
cũng không được biến chất thành bột. Bởi vì nếu như thế, men sẽ trở nên vô ích.
Cũng như muối mà mất đi chất mặn thì chỉ còn cách đổ ra đường để cho người ta
chà đạp lên...
***
Sẽ khó có thể nói được rằng Tử đạo ở
thời nào hay nơi nào khó hơn. Bởi vì, mỗi thời, mỗi nơi, đều có những khó khăn
thử thách riêng. Các vị Tử đạo cha ông chúng ta, đã phải hứng chịu những bách
hại, đặc biệt là những gian khổ về mặt thể lý, như đòn vọt, gông cùm, tù tội...
còn chúng ta ngày hôm nay, mặc dù không chịu những thử thách tương tự, thế
nhưng để giữ đạo và sống đạo cho đúng với ơn gọi làm người Kitô hữu của mình,
chúng ta đã phải tử đạo mỗi ngày, mà người ta vẫn gọi là "những người tử
đạo trắng".
Người Kitô hữu sống đạo hôm nay được kể
như người đang "lội ngược dòng đời". Đang khi thế gian chạy theo tiền
bạc và hưởng thụ, tìm mọi cách để vun vén cho bản thân, chúng ta lại được mời
gọi sống cho tha nhân, và mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Đang khi cuộc sống
hôm nay đầy dẫy những lọc lừa, gian dối, chúng ta lại được mời gọi sống ngay
thẳng và làm chứng cho sự thật. Đang khi thế gian coi nhẹ phẩm giá con người,
chúng ta được mời gọi tôn trọng sự sống và bảo vệ những mầm sống đó ngay từ
những giây phút đầu tiên trong thai bào. Đang khi mối quan hệ gia đình, sự thủy
chung trong đời sống vợ chồng ngày một trở nên lỏng lẻo, chúng ta lại được gọi
mời sống trung thành với nhau cho đến chết... Và mỗi lần sống như thế, là mỗi lần
chúng ta tử đạo.
Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay,
mỗi người chúng ta đều được mời gọi trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô qua
đời sống yêu thương phục vụ. Nhờ đó, Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô sẽ được lan
tỏa đến tận cùng trái đất.
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời!
Chúa đã hy sinh mạng sống mình vì lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài
người chúng con. Xin hãy dạy chúng con biết đáp đền tình yêu lớn lao ấy bằng
chính cuộc sống chứng tá của chúng con. Xin cho chúng con giữ được vị mặn của muối,
và độ nồng của men, để đem đến cho cuộc đời này một sức sống mới. Amen.
11. Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn
Thiên
(Bài giảng lễ kính các Thánh Tử đạo
Việt Nam - Missouri , 8-8-2014)
Kính thưa cộng đoàn,
Ngày 19-6-1988 đã in một nét son trong
lịch sử Giáo Hội Công giáo tại Việt Nam . Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II đã tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm
96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. 117 thánh tử đạo là con số tiêu
biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.
Đây là một biến cố quan trọng đối với Dân tộc Việt Nam . Người Việt Nam vốn đã tự
hào về một truyền thống kiên cường trong việc dựng nước và giữ nước, nay càng
tự hào hơn vì có những bậc tiền nhân anh hùng kiên vững trong Đức tin. Quê
hương Việt Nam
đã xinh đẹp, nay còn xinh đẹp hơn nhờ được tô điểm bằng Đức tin Công giáo.
Tại Quảng trường Đền thờ Thánh Phêrô ở
Rôma hôm đó, trước hàng triệu tín hữu, trong số đó có những tín hữu Việt Nam,
Vị Cha chung của Giáo Hội Công giáo hoàn vũ đã nhân danh Chúa Ba Ngôi long
trọng tuyên bố: kể từ nay, 117 vị Tử đạo Việt Nam được kể vào hàng các thánh và
được tôn kính trong toàn thể Giáo Hội. Để bày tỏ tình thương hiền phụ đối với
các tín hữu Việt Nam ,
vị Thánh Giáo Hoàng đã ngỏ lời với con cháu các thánh Tử đạo bằng ngôn ngữ của
họ. Đây là lần đầu tiên tiếng Việt thân thương của chúng ta được phát âm và
xướng lên bởi một vị Giáo Hoàng: "Chào anh chị em Việt Nam thân mến.
Cha gửi lời chào chúng con từ bốn phương trời tuốn về La Mã, vui vẻ hiên ngang
mừng các thánh Tử đạo của Giáo Hội chúng con hôm nay. Xin Chúa chúc lành cho
chúng con, và Cha cầu chúc cho chúng con sống xứng đáng là con cháu các vị anh
hùng".
Đã 26 năm từ sự kiện phong thánh, những
lời của vị Cha Chung ngỏ lời với con dân Việt vẫn còn vang vọng đâu đây trong
tâm khảm của các tín hữu Việt Nam đang sống trong nước cũng như ở hải ngoại.
Bởi lẽ, qua những lời đơn sơ ấy, vị Thánh Giáo Hoàng muốn mời gọi chúng ta
tưởng nhớ về một quá khứ đau thương hào hùng của Giáo Hội Công giáo Việt Nam,
đồng thời khuyên chúng ta học nơi các ngài bài học sống Đức tin trong cuộc sống
hiện tại hôm nay.
- Thứ nhất, hồi tưởng về quá khứ. Giáo
Hội công giáo Việt Nam
đã trải qua những thử thách đau thương khốc liệt, giống như cộng đoàn tín hữu tiên
khởi tại Rôma ở thế ký thứ hai. Hơn một trăm ngàn người Việt Nam đã phải hy
sinh mạng sống chỉ vì một lý do là họ tin vào Chúa. Họ phải chịu biết bao đau
khổ và nhục hình: phân biệt đối xử, phát vãng lưu đày và tử hình. Có thể thế hệ
hôm nay sẽ đặt câu hỏi: các Thánh Tử đạo Việt Nam là những ai? Thưa họ là những
giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh; họ là những người cha, người mẹ, những
người con trong gia đình; họ là những người học hành uyên bác nhưng phần lớn
trong số họ là những người bình dân; đa phần trong số họ là những người chân
lấm tay bùn, vất vả quanh năm với con trâu, cái cày. Trong số họ cũng có 21 vị
là người ngoại quốc. Các ngài đến từ những đất nước văn minh và đã chọn Việt Nam là quê
hương thứ hai của mình. Các Thánh Tử đạo Việt Nam , không phân biệt Tây hay Ta,
nam hay nữ, giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân. Tất cả đều yêu mến Chúa, yêu
quê hương Việt Nam và yêu
Giáo Hội Việt Nam
đến mức sẵn sàng đổ máu đào để làm chứng cho tình yêu ấy. Vì thành kiến và thù
ghét, người ta đã nghĩ ra biết bao hình khổ ghê rợn hầu làm họ chối bỏ Đức tin,
nhưng các ngài vẫn can đảm kiên trung trước lời đe dọa của những nhà cầm quyền.
Chủng sinh 18 tuổi, Tôma Trần Văn Thiện, đã nói với quan: "Đạo dạy tôi thờ
Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo". Thấy
Tôma Thiện là một chàng trai trẻ có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, quan muốn nhận
làm con rể mình, và sẽ đứng ra lo liệu cưới xin. Nhưng ngài đã từ chối:
"Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần
thế". Thánh Tôma đã thấu hiểu lời Đức Kitô trong Tin mừng Luca: "Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh
mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?". Sách viết về cuộc
đời của các Thánh Tử đạo còn kể lại biết bao chứng tá anh hùng của các ngài.
Các ngài không sợ hình phạt, chỉ sợ mất nghĩa cùng Chúa. Đi ra pháp trường mà
các ngài vui vẻ như đi dự hội. Với các thánh Phạm Khắc Khoan, Nguyễn Văn Hiếu
và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn "TE DEUM"
bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình,
các ngài lại hát bài ca "Alleluia" như trong đêm vọng Phục Sinh. Chỉ
có một Đức tin kiên trung và lòng phó thác trọn vẹn mới có thể đem lại cho các
ngài nghị lực và niềm vui như vậy.
Sống đạo đức thánh thiện và trung thành
với Đức tin, các ngài còn là những người sống bác ái với mọi người. Lịch sử các
Thánh Tử đạo còn ghi lại thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh
miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thánh
Martinô Thọ, Ngài thường trồng vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo.
Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và
nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn
giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an
táng đàng hoàng như một người bình thường.
- Ôn lại quá khứ, chúng ta là những tín
hữu Công giáo Việt Nam
học những bài học cụ thể cho cuộc sống hôm nay. Quả vậy, lòng tự hào về các bậc
Tiền Nhân không phải chỉ được ghi lại trong những pho sách sử mà thôi. Chúng ta
ôn lại truyền thống hào hùng được ghi dấu và thấm đẫm máu đào, không giống như
chỉ ôn lại một sự kiện lịch sử xa vời, dù rất đẹp nhưng khô cứng và vô hồn.
Chúng ta tự hào về các Thánh Tử Đạo cũng không giống như kiểu lấy công phúc của
các ngài để làm vinh dự cho chúng ta. Việc ôn lại chứng tá của các Thánh Tử đạo
nhắc nhớ mỗi người dân Việt, nhất là những tín hữu Công giáo Việt Nam, dù sống
trên miền đất nào, cũng cố gắng noi theo lòng đạo đức của các ngài, gìn giữ Đức
tin kiên trung vào Chúa, yêu mến Giáo Hội và sống Đức tin trong cuộc sống hằng
ngày. Cuộc sống và chứng từ của các anh hùng Tử đạo cần phải được kể lại cho
mọi thế hệ người Công giáo Việt Nam .
Cùng với lòng tự hào là tâm tình tri ân cảm mến và thiện chí noi gương các ngài
để sống Đức tin. Thời tử đạo dẫn đến máu chảy đầu rơi ngày nay không còn nữa,
nhưng những ai muốn trung thành với Chúa thời nào cũng phải cân nhắc khôn ngoan
để chọn lựa Chúa hay chọn lựa thế gian; chọn lựa hạnh phúc và niềm vui vĩnh cửu
hay chọn lựa vinh quang nhất thời; chọn lựa đường đi trong ánh sáng hay cuộc
sống trong bóng đêm. Môi trường nào cũng vậy, ta luôn phải chọn lựa. Hoàn cảnh
nào cũng thế, ta phải sống khôn ngoan. Cuộc chọn lựa này nhiều khi làm chúng ta
phải vượt lên những ràng buộc khắt khe và có khi phải vượt lên chính mình với
trái tim rướm máu. Nếu những cuộc cấm cách tàn khốc đã lùi vào dĩ vãng thì
người tín hữu hôm nay lại phải đối diện với những thử thách của thời hiện đại.
Quả vậy, biết bao trào lưu và lối sống mượn chiêu bài tự do để đi ngược với
giáo huấn của Tin Mừng, coi thường hoặc lãng quên những thực hành đạo đức, tôn
vinh kỹ thuật một cách quá đáng và lãng quên Thiên Chúa là Cội nguồn mọi sự.
Sáng suốt và khôn ngoan để trung thành với Chúa trong cuộc sống hôm nay, đó là
một cuộc tử đạo trường kỳ, dai dẳng suốt cuộc đời.
Ơn gọi tử đạo gắn liền với những ai tin
vào Chúa Giêsu và muốn làm môn đệ Người. Nếu chúng ta được sống trong một xã
hội dân chủ, an bình, thì đó đây trên thế giới, vẫn còn những nhà truyền giáo
bị hành hung và sát hại, vẫn có những ngôi thánh đường Công giáo bị tàn phá,
vẫn còn những tín hữu không dám công khai tuyên xưng Đức tin, vẫn còn những
người vì hai chữ Công giáo mà bị phân biệt đối xử. Đây cũng là những cuộc bách
hại mang hình thức mới của thời đại và những tín hữu này đang sống từng ngày
chứng tá của mình một cách anh hùng.
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm
tại Missouri đã trở thành điểm hẹn thân thương
cho người Việt Nam
đang sống tại Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước trên thế giới. Chúng ta về đây để
gặp gỡ nhau, để chia sẻ những vui buồn và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Chính
Đức Mẹ Maria đã quy tụ chúng ta nơi đây. Mẹ là điểm nối kết giữa những con Dân
Việt đang sống xa quê. Về với Mẹ, chúng ta được Mẹ vỗ về ủi an. Về với Mẹ,
chúng ta có dịp kể lể tâm sự với Mẹ những băn khoăn trăn trở của cuộc sống trần
gian. Về với Mẹ, chúng ta cũng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Mẹ chiếu tỏa qua các
nhân đức và sự trung thành can đảm của Mẹ. Trong Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo
Việt Nam, chúng ta cùng nhìn lên Mẹ và ca tụng Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo.
Vâng, dưới chân thập giá, Mẹ đứng đó, trong suy niệm và thinh lặng, đau khổ kết
hợp với của lễ của Con mình là Đức Giêsu chịu treo trên thập giá. Mẹ là Đấng
Đồng Công cứu chuộc. Mẹ chia sẻ đau đớn và hiệp thông với Chúa Giêsu. Mẹ cũng
dâng chính bản thân mình làm của lễ lên Chúa Cha. Mẹ xứng đáng được mang ngành
thiên tuế của các vị Tử Đạo. Về bên Mẹ trong Ngày Thánh Mẫu này, chúng ta xin
Mẹ cho chúng ta được lòng cậy trông, chí can đảm và lòng tín thác nơi Chúa
trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đây bài ca ngàn trùng dâng về Thiên
Chúa, bài ca thắm nhuộm máu hồng. Nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao, từng đoàn
người anh dũng tiến lên pháp trường. Một bài ca đẫm máu đào. Một bài ca hào
hùng bất tận. Bài ca ấy, chính là cuộc đời của các thánh Tử đạo Việt Nam . Chúng ta,
nhưng tín hữu Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại, đang là những người
nối tiếp bài ca đã được các ngài xướng lên, để làm vang mãi lời ca tôn vinh
Chúa, ca ngợi vẻ đẹp của Giáo Hội và Quê Hương Việt Nam thân thương.
"Cha cầu chúc cho chúng con sống
xứng đáng là con cháu các vị anh hùng" - lời chúc thiêng liêng của vị
Thánh Giáo Hoàng luôn luôn là một lời mời gọi và là một thông điệp được gửi đến
cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Xin
Mẹ luôn gìn giữ che chở chúng con. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cầu bầu cho
chúng con. Amen.
12. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn
Năng
TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC
TIN
1. Không một tôn giáo nào có một lịch
sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu
dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau
thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng
cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải
bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu
tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các
hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì
muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại
trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền
trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế
kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công
giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người
tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này,
117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117
năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm
1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó
là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín
hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và
đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước
hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu
chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường
dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: "Vì anh em không thuộc
về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét
anh em... Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em... Họ chống lại anh
em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy" (Ga 15,
19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh
mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu
diệt Hội Thánh. "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng
can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy
cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các
ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt
bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên
xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá
Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi
giẫm lên sao được!" Thánh Têôphan Ven nói: "Tôi đã suốt đời thuyết
giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết
nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!"
Chắc chắn không phải vì các ngài đã
theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết
lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: "Tôi kính Thiên
Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ.
Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến
Thượng Phụ là Thiên Chúa được".
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân
đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng
khái tuyên bố: "Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước,
nhưng bỏ đạo thì không bao giờ". Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố:
"Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến
khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng".
Yêu nước không có nghĩa là phải thù
ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo
không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng
đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống
đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các
thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang
thịnh hành trong xã hội Việt Nam ,
nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc
Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân,
như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa
ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của
mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy
con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù:
"Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được
nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa
đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng
lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết
kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần
mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi
người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ
đạo".
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị
thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô
Anna Năm xác nhận:"Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người
thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và
khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con
lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ
chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên
vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con
cãi nhau bao giờ"."
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng
yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp
người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn
phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa
đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên
ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với
ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách
đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng.
Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc
bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin
của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình
thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng
bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì
lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu
biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn
không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh
giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp
tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: "Tôi phải theo
lệnh vua, đừng giận tôi nhé", linh mục Théophane Ven đáp: "Tôi
chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan". Thánh Hoàng Lương
Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: "Cầu Chúa Giêsu, xin cho
các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh".
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin
của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu
này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã
cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra
chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công
giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên
trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng "cụ", ngài không
bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một,
đã lịch sự xin phép: "Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho.
Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé".
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt,
viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa
huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài
để biểu lộ lòng tôi quí cụ."
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các
ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng
không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh
hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta
hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã
lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã
nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những
đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một
cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc,
địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín
hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết
bao người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt
chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có
thể nói như thánh Phaolô không: "Tôi biết tôi đã tin vào ai" (2Tm 1,
12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để
tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức
mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để
đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
13. Bài giảng của ĐGM Vinhsơn Nguyễn Văn
Long
(Bài giảng thánh lễ kính Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam tại Sydney )
Kính thưa quý cha, tu sĩ nam nữ và quý
Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay tôi rất vui mừng được đến đây
dâng đại lễ mừng các Thánh Tử Ðạo Việt Nam cùng với các linh mục tu sĩ và
đông đảo cộng đoàn Dân Chúa tại Tổng Giáo Phận Sydney. Tôi thiết nghĩ rằng,
không có Thánh Lễ nào trong phụng vụ hằng năm nói lên niềm tin của người Việt
Nam Công Giáo cho bằng Thánh Lễ ngày hôm nay. Qủa thế, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chính là
biểu lộ những gì đặc thù nhất và tinh túy nhất của truyền thống đức tin Công
Giáo của chúng ta. Hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì những gì Ngài đã thực hiện
qua những con người yếu hèn; hôm nay chúng ta hãnh diện vì được tiếp nối truyền
thống hào hùng và hôm nay chúng ta noi gương các ngài cùng quyết tâm trung
thành với sứ mạng được trao phó.
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của chúng
ta cũng là bằng chứng hùng hồn của sức mạnh của Thiên Chúa qua sự yếu đuối của
con người. Trải qua chiều dài nhiều thế kỷ, từ khi hạt giống đức tin được gieo
vào lòng đất Việt, Giáo Hội đã trải qua bao gian nan thử thách. Nhưng gông cùm,
bách bớ tù đầy và ngay cả sự chết đã không ngăn cản, không sờn lòng các vị tiền
nhân anh dũng. Các Ngài đã không sợ những người chỉ làm hại thân xác mà không
lay chuyển tâm hồn, như lời chúa phán trong bài Phúc Âm hôm nay. Các Ngài như
vàng được thử trong lửa và như của lễ toàn thiêu được Chúa chấp nhận. Nơi các
Ngài, tình yêu của Chúa Kitô đã chiến thắng tất cả những thế lực của sự dữ:
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã
yêu mến chúng ta. không có gì tách đuợc chúng ta ra khỏi tình yêu củ#a Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Lòng anh dũng can trường của các Thánh
Tử Ðạo Việt Nam
đã và đang thôi thúc các thế hệ nối tiếp. Chúng ta có thể hãnh diện tuyên xưng
không chỉ 117 vị đã được Giáo Hội hoàn vũ liệt kê vào danh sách chính thức.
Thật thế, đã có hàng trăm ngàn các vị đã hy sinh mạng sống mình vì Phúc Âm và
những hạt giống đức tin đó đang sinh hoa kết trái trong lòng đất Việt thân yêu,
nơi các Ngài nằm xuống. Những trang sử oai hùng của chúng ta không chỉ được
viết trong qúa khứ, khi bắt bớ, tù đày và gông cùm không làm cha ông chúng ta
chùn bước.Trong tinh thần đức tin bất diệt, các thế hệ nối tiếp cũng đang viết
lên một trang sử mới, trong muôn vàn thử thách đắng cay.
Trong suốt gần 70 năm dưới chế độ Cộng
Sản, Giáo Hội Việt Nam đã không bị thuần phục và trở thành công cụ của một chế
độ, bất chấp bạo lực mưu mô và sách lược của nhà cầm quyền vô thần. Hơn thế
nữa, những biến cố gần đây tại Thái Hà, Toà khâm Sứ, Cồn Dầu, Con Cuông và
nhiều nơi khác ở Việt Nam đã nói lên ý chí kiên cường cho công lý và trìều đại
chính trực.
Trong một xã hội bị bóng đêm của độc
tài, của bất công và của dối trá thống trị, ngọn lửa Đức Kitô là đường, là sự
thật và là sự sống được các bậc tiền nhân anh dũng và các thế hệ nối tiếp thắp
lên và làm ánh sáng hy vọng, không chỉ cho nguời Công Giáo mà cho cả quê hương
dân tộc.
Kính thưa quý Ông Bà, Anh Chị Em,
Hôm nay cũng là ngày mà người Việt Nam
Công Giáo ly hương xác tín lại sứ mạng của chúng ta trước gia tài thiêng liêng
của các Thánh Tử Đạo. Tôi thâm tín rằng, sự kiện chúng ta hiện diện nơi đây
cũng như trên khặp thế giới là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Mà sự an bài
nhiệm mầu này không phải chỉ dành riêng cho chúng ta, mà còn cho cả giáo hội và
cho quê hương chúng ta nữa. Như người dân Do Thái lưu đầy năm xưa, chúng ta
được đến xứ lạ không phải để tha phương cầu thực mà để làm chứng nhân của tự
do, sứ gỉa của tin mừng và là hạt nhân cho tiến trình công lý hóa và phục hưng
cho quê hương và giáo hội quê mẹ.
Chúng ta cảm tạ Chúa là sau hơn 30 năm
định cư, người Việt Công Giáo đã và đang có những đóng góp tích cực về mọi khía
cạnh của giáo hội: về ơn gọi tu sĩ linh mục, về sinh hoạt đoàn thể, mục vụ giáo
xứ và ngay cả về tài chánh. Nhưng chúng ta không thể dừng lại ở con số hay
những tiêu chuẩn bề ngoài. Cách đây ít lâu tôi có đi kinh lý tại Brisbane vì những khó
khăn cộng đòan trên đó gặp phải. Vì những vấn đề trong các cộng đòan tại Úc,
tôi tự hỏi: Phải chăng chúng ta cần đề cao cảnh giác hơn về các khuynh hướng
gây chia rẽ rạn nứt trong cộng đoàn? Phải chăng chúng ta cần sống đạo có chiều
sâu hơn, nhất là sự tha thứ, bao dung, đại đồng? Phải chăng chúng ta cần áp
dụng triệt để hơn tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, quảng đại, hiến thân? Đây
là những điều mà không phải giáo dân mà cả các anh em linh mục tu sĩ chúng tôi
cần xét mình và hành động. Nếu chúng ta tự hào là con cháu của các Thánh Tử
Đạo, chúng ta phải chứng tỏ bằng hoa trái của đời sống người tín hữu đích thực.
Hôm nay, mừng lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam , chúng ta
cùng cảm tạ Chúa vì gia tài đức tin cao qúi mà các Ngài đã để lại cho chúng ta.
Xin Thiên Chúa qua sự bầu cử của các Ngài, giúp chúng ta làm chứng nhân sống
động của đức tin và của các gía trị cao qúi mà chúng ta đã sẵn sàng trao đổi
mạng sống trong hành trình tìm tự do năm xưa. Thời Cựu Ước, Người Do Thái lưu
đày tại Babylon
đã trở nên hạt nhân của công cuộc tái thiết đất nước của họ. Thời nay, người
Việt ly hương chúng ta cũng không thể quên nguồn gốc và nhất là không thể vô
cảm trước bao thống khổ của đồng bào trong nước. Chính tình yêu đối với Thiên
Chúa và nhiệt tâm cho Vương Quốc của Ngài đòi hỏi thôi thúc chúng ta trong cuộc
chiến cho công lý và sự thật, ánh sáng và sự sống – cuộc chiến mà chính Đức
Kitô đã tranh đấu và khải hoàn qua sự chết và phục sinh của Ngài. Chúng ta cùng
hiệp thông với giáo hội quê nhà và mọi người thiện tâm để hướng tới một tương
lai tươi sáng, một hình ảnh của vương quốc Thiên Chúa trên đất Việt thân yêu.
Hôm nay cũng là ngày Lễ Vọng Chúa Kitô
Vua, là ngày nhắc nhở chúng ta về Đấng là khởi điểm và là cùng đích của lịch
sử. Mặc dù trong thế giới, trong xã hội, hay trong quê hương còn có qúa nhiều
tàn dư của sự dữ, chúng ta tin tưởng vào sự tất thắng của vương quốc Thiên
Chúa. Cùng Đức Kitô Đấng đã chế ngự tử thần và sự dữ, cùng với Mẹ Lavang, các
Thánh Tử Đạo Việt Nam ,
chúng ta hãy vững tiến về tương lai tươi sáng trong tin yêu hy vọng. Với các
Ngài, chúng ta hát câu "người đi trong đau thương sẽ về giữa vui cười,
người gieo trong lệ sầu sẽ gặt trong mùa xuân tươi". Amen.
14. Lễ Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Bài giảng Lễ Thiếu Nhi của Lm Nguyễn
Ngọc Long)
(Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Lc 9, 23 –
26)
Các con thiếu nhi thương mến!
Hôm nay cùng với Giáo hội khắp nơi trên
thế giới, giáo xứ chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể lễ Các Thánh tử đạo
Việt Nam .
Bổn mạng của Hội Thánh Việt Nam
và cũng là lễ bổn mạng xứ đoàn Các Thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo
Việt Nam, từ năm 1580 và kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, nghĩa là cách chúng
ta một thế kỷ và kéo dài gần ba thế kỷ. Thời gian dài 300 năm bị bách hại đã có
trên 130.000 người tử vì đạo. Trong đó, có 117 vị đã được tôn phong hiển thánh
mà chúng ta cùng toàn thể Giáo hội hoàn vũ mừng kính hôm nay. Đoàn các thánh
vinh hiển đó gồm mọi cấp bậc trong Giáo Hội: từ các Giám mục, linh mục đến các
thầy giảng, nữ tu, giáo dân... Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội: từ
những thương gia, nông dân, thợ thuyền, lý trưởng, cai tổng, binh lính..
Các thánh đã chịu những cực hình khủng
khiếp mà chính quyền thời đó đã hành hạ và tiêu diệt những người tin theo Chúa
bằng nhiều cách man rợ như:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo
từng miếng thịt trên thân thể cho đủ 100 miếng.
– Lăng trì: bị chặt chân tay trước khi
bị chém đầu.
– Thiêu sinh: bị thiêu sống.
– Xử trảm: bị chém đầu.
– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý
hình kéo hai đầu dây cho đến chết.
– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ
cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù.
Các con thương,
Các Thánh tử đạo Việt Nam là những
chứng nhân anh dũng đã sống và làm chứng cho Tin mừng, để hạt giống Đức tin
được nảy mầm và trổ sinh nhiều bông hạt. Giáo phụ Tertuliano đã nói: "Máu
các thánh tử đạo là hạt giống nẩy sinh các tín hữu".
Lịch sử hai ngàn năm qua đã chứng minh
sự chân thực của lời nói đó ở nhiều nơi, rõ ràng nhất là trên đất nước Việt Nam này; từ khi
có số tín hữu khiêm tốn ban đầu, hiện nay đã lên tới 7 triệu người Công giáo.
Mảnh đất quê hương Mỹ Tho của chúng ta
cũng tự hào vì đã được thấm gội dòng máu anh hùng của cha thánh Phêrô Nguyễn
Văn Lựu. Cha đã anh dũng đổ máu đào để hôm nay chúng ta là con cháu cũng được
đồng hành với Ngài trên hành trình về quê trời vĩnh cửu.
Các con thương mến!
Nhìn lại lịch sử cuộc bách đạo đã qua,
vào năm 1860 dưới thời Tự Đức, nhà vua đã ban hành chiếu chỉ bắt bớ, giam cầm
nhiều tín hữu Công giáo. Lúc bấy giờ, cha Phêrô Lựu đang coi sóc các giáo họ Ba
Giồng, Mỹ Tho, Sa Đéc... Vì thương đoàn giáo dân, Ngài thường cải trang vào nhà
giam thăm viếng, an ủi họ, ban cho họ lương thực Thánh thể và bình an của Chúa.
Một ngày kia, quan coi ngục phát hiện
Ngài là linh mục và ra lệnh tống giam Cha. Tại nhà lao Mỹ Tho, Cha đã vui lòng
chịu mọi cực hình để cùng chia sẻ với bổn đạo. Khi các quan buộc Cha xuất giáo,
Ngài đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng câu nói nổi tiếng: "Đạo đã thấm
nhập vào xương vào tủy của tôi rồi, tôi làm sao bỏ được, vả lại, một người giáo
dân bình thường, một thầy giảng bình thường còn không có quyền bỏ đạo, huống gì
tôi đây là linh mục...".
Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn Cha ra
khỏi thành phố Mỹ Tho khoảng chừng 1 cây số và chém đầu Cha ngay bên vệ đường,
tại kinh Bảo Định ngày nay.
Là con dân đất Việt, chúng ta tự hào
được mang trong mình dòng máu hào hùng của các chứng nhân niềm tin anh dũng
này. Trong niềm tin của chúng ta hôm nay, có vết tích dòng máu thắm đỏ của các
thánh tử đạo tưới gội và nuôi dưỡng.
Ước chi mỗi ngày sống, chúng con biết
trở thành nhân chứng sống động về niềm tin ở mọi lúc mọi nơi: bằng chính những
hành động tích cực, những tấm lòng nhân ái bao la và khát khao muốn phục vụ mọi
người.
Các ngài là những mẫu gương sống động
cho đời sống đức Tin, nhờ lời các thánh chuyển cầu, xin Chúa nâng đỡ con thuyền
giáo hội Việt Nam vượt qua sóng gió, nhất là những khi gặp thử thách, gian
truân.
Xin cho mọi thành phần trong xứ đoàn
các Thánh tử đạo Việt Nam của giáo xứ chúng con luôn trổ sinh nhiều hoa trái
tốt lành, để một ngày kia trên thiên quốc, chúng con được hợp tiếng với các
Ngài ca tụng tạ ơn Chúa muôn đời vinh hiển.
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam , Lạy Cha
Thánh Phêrô Nguyễn Văn Lựu! Xin cầu cho chúng con.
Thực hành:
1. Năng đọc lịch sử Giáo hội Công giáo
Việt Nam
và hạnh các thánh tử đạo.
2. Cầu nguyện cho nhiều người biết giữ
trọn niềm tin của mình.
Tâm niệm: "Ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy".
Đi tìm kho báu: Mời các con cùng suy
nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
1. Giáo hội Việt Nam của chúng
ta, ngoài 117 Thánh tử đạo còn có một Á thánh tên là gì?
2. Các thánh tử đạo đã để lại cho các
con bài học nào?
3. Các con có nhớ tên 117 thánh tử đạo
không? Hãy kể tiểu sử của một vị thánh tử đạo mà con biết?
15. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới
(Suy niệm của Pm. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam , chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng
ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam .
Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm
chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời
nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của
Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào
Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì
bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới
của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự
sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có
một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm
cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết
cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn.
Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ
bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban
cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập
thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền
lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì
danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc
sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng
cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã
thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: "từ bỏ chính mình": vì xác tín sự
sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; "vác thập giá
mình": chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý
định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam , bước qua
thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì
thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng
được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và
đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản
Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh
muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam , các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống
đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của
lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ... nhưng giáo lý Chúa
Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo
nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo
Việt Nam ,
cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của
cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong
đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập
giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và
nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là
kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá.
Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu
quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng
niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua
thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những
khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất
xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình
bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình.
Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng
ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến
của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng
cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định
chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà
không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có
thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn
là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt
tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một
loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không
chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân
quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc
cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi
chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô
lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh
đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín
hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau... để
không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào,
không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong
chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một
danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được
lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa
không hơn.
- Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các
tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ
không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một
đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
- Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu
tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những
trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
- Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn,
mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống
như khỉ và chết như con khỉ - cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
- Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi
vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách
tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì
hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào
để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục
cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của
Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
- Không cần thiết phải cấm các em học
giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng
những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc
những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc
bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên
đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
- Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả
của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt
bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến
những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào
trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những
rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam
không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào
dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam
bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng
của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất
là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận
phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ
hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn
cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam . Có thể
chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức
Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh
dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập
giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến
mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương
quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết
không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng
ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: "Kẻ nào hổ thẹn chối
Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong
vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần" (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam , thiết nghĩ
mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người
xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho
Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình
vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết "không bước qua Thập
Giá" và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt
giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương
không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần
từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần
trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh
thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình,
chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua
việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin
Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh
của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm
đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.
16. Những vị anh hùng âm thầm – Lc
9,22-26
Dân tộc nào cũng có những vị anh hùng
và tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng, được gọi những danh hiệu khác nhau.
Kitô giáo có hàng ngũ các thánh, những tôi trung, con thảo của Chúa, những mẫu
mực sống đạo của người công giáo. Là anh hùng trong đạo nhưng không có ai
thắng. Có chăng là thắng chính mình, thắng những kẻ thù vô hình không mang quốc
tịch nào như ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Các vị tử đạo Việt Nam không cuồng
tín liều lĩnh, không tự ý tìm đến cái chết: không ai tự thiêu, tự thắt cổ, tự
cắn lưỡi, tự đập đầu mà chết để giữ chữ trung với đạo (không ai tự tử mà lại
được phong thánh).
Trước khi tử đạo, các ngài là những
người muốn sống để phục vụ gia đình, quê hương và Giáo Hội. Muốn sống mà không
được sống, tránh không được thì chấp nhận, để rồi vui nhận. Cam lòng chịu chết
mà không oán hận: đó là tính cách của các vị tử đạo Việt Nam . Kẻ nuôi
lòng hận thù không thể làm thánh vì không xứng danh làm môn đệ của Đấng đã dạy:
Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình.
Tôn vinh các vị thánh tử đạo Việt Nam là nêu lên
một quan điểm tích cực: Lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Không khơi lên đống tro
tàn để bùng cháy lòng căm thù, nhưng sáng lên một tinh thần bao dung hoà giải.
Romeo và Juilette chết đi để hoà giải hai dòng họ thâm thù truyền kiếp. Cũng
thế, dòng máu các vị tử đạo đổ ra không phải là vô ích. Các vị ấy về cõi trời
nhưng gởi lại một thông điệp, đã có những người quyết tử để đất nước được hồi
sinh, đã có những người chết vì niềm tin để con cháu được sống đức tin giữa
lòng dân tộc, đã có những người bị đè bẹp vì thành kiến cố chấp để muôn người
được thông cảm hoà đồng với nhau.
Đất nước Việt Nam sản sinh
nhiều anh hùng: chiến sĩ anh hùng, bà mẹ anh hùng... nay có thêm những anh hùng
đức tin làm cho kho tàng này được thêm phong phú.
Hướng về tương lai trong viễn cảnh thái
hoà, người công giáo Việt Nam
tiếp bước cha ông tiền bối của mình để sống đời chứng nhân, đem tin yêu đến cho
mọi nhà. Còn biết bao nhiêu người đang phấn đấu sống theo chính đạo, chống lại
bóng đen gian tà, chu toàn bổn phận của mình, làm việc với lương tâm chức
nghiệp, sống lương thiện lành mạnh, chống lại các tệ nạn xã hội, tránh thoát ma
lực của đồng tiền, quên đi lợi nhuận để mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân, hy sinh
tiết kiệm để cứu giúp những người bất hạnh. Quả là những anh hùng âm thầm trong
bóng tối mênh mông.
17. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga
12,24-26
(Trích từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc
giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có
nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ
đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ
đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải
ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới
sình bằng những lời ngạo mạn: "Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các
anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại
phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới
nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được
nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các
anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì... Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc
đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!..."
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có
một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những
bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan.
Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và
chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là
bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm
non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi
lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong
bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt
vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm
trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt
vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý
báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra
dạy chúng ta: "Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác."
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại
chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta
biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống
chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: "Ai yêu quý
mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời"
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn
chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn
chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ
đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân
phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa
bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ
diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu,
tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất... nhưng họ đã lầm. Thay vì
huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái
chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị
đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử
đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp
nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa
cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn
vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức
Kitô... Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt
vong... nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi
trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày
càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó
là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: "nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác."
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ
diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm
chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ.
Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như
"hạt-lúa-Giêsu", như "hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo", bằng lòng
chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng...
Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như
lời Người phán: "Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy" để rồi "Thầy
ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó."
18. Can đảm nói không với tội lỗi.
(Trích từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo
tại Việt Nam ,
một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua
thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các
kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp
nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch
thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc
ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng
ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên
quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không
từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến
dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì
muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như
thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo,
không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man
và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các
ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt
những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông
cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu
thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức
bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án
bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt
theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết
nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt
phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực,
dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử
đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt
hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với
những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng
ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam , chúng ta
hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những
lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các
lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán
khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy
thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không
trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu
lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ
nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam
cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh
dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua
thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến
thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
19. "Thà chết vinh còn hơn sống nhục"
(Trích từ 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm
Jos. Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp
với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để
kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng
Adam - Eva: "cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa". Ông bà đã ăn. Ông bà
đã bắt tay cùng sa tan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến
đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc,
tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi
cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối
thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó
những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ
thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất
đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng
lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận
đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử
đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong
các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết
không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác
ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống
và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước
qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ
con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh
tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ
chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc
sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình
để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê
trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng
thắn trả lời với quan quân: "Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường
tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước
thiên đàng vậy". Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng:
"Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến
khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu
đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn.
Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì
hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng".
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt
nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho
gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất
rồi bảo họ: "Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với
đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước
qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu
không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua". Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh
đã nói với người công giáo: "Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm
sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm
chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba
lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao".
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có
kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và
dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù
chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại
với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung
thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng lạc, dù rằng quan
quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn
cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng:
"Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở
lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại". Nhưng cha Lạc
đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: "Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì
đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc
tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu
nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi,
nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em
đừng chuộc tôi nữa".
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam,
chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng
liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để
trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút
bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì
miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một
cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán
mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là
bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn
là mất túi ba gang mà "quạ đen ban tặng". Vẫn còn đó những con người
bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ
danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha
ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ
chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên
chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.
20. Sống chứng nhân
(Trích từ 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm
Jos. Tạ Duy Tuyền)
"Tin đạo chứ không tin người có
đạo". Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải
là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những
người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ
có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng
"đạo tại tâm" nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô
hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét
một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ.
Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội
rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác
phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin
mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi
người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn
bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng
lúa Giáo hội Chúa Ky -tô. Họ chính là những người có đạo nhưng
không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã
lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh
ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một
chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp
thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang
ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã
không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế.
Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới
giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không
thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng
trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh
nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân
đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày
28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan
còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn
tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp
Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về
Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính
là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các
ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Ky -tô.
Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh
quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được
sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi
mà quan triều đình nói với ngài: "Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ
đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông". Nhưng thánh
Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: "Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được
lên thiên đàng".
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc
nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình
huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận
hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất
niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng
anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo
chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta
phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó
những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ
lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn
nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương
trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã
lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng
đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc
bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian.
Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người
vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống
của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án "tin đạo chứ
không tin người có đạo", vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam , là cha ông
chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương
các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc
của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống
thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.
21. "Đây Bài Ca Ngàn Trùng"
(Trích từ 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm
Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam . Một bầu
khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: "Đây
bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao
người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu".
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một
bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian
nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa
trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ
thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các
ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài
ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù
đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn
vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi
Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ
Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế
nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì
chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu
thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong
những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng
nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian,
vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó
là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn
phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là
mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng
đều nói rằng: "Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối
sớm kinh nguyện...".
Đẹp trong cả những gian nan khi bị
người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm
chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài
vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt,
viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa
huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài
để biểu lộ lòng tôi quý cụ".
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói
lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa
yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: "Mình quên nợ
người, Chúa quên tội mình ". Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa
quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: "Bà và các con không đồng ý
cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm
tiền giúp đỡ họ ". Vì ông nói: "Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo
khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của
Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử
đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si
mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng
mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn
những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam , xin cho
chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi
Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca
ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các
thánh Tử đạo Việt Nam
dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.
22. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Bài giảng của Lm. Nguyễn Văn Thuyết)
Sự hiện diện của chúng ta trước bàn thờ
các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay nói lên lòng hiếu kính của con cháu đối
với tổ tiên, nén hương trầm chúng ta dâng lên biểu lộ lòng hiếu thảo đối với
các bậc tiền nhân. Và đây cũng là lúc thuận tiện để chúng ta suy ngắm hình ảnh,
đời sống và đức hy sinh của các ngài cho niềm tin.
Trước hết chúng ta thành khẩn cúi đầu
tạ ơn Thiên Chúa Cửu Trùng đã ghé mắt đến dân tộc Việt bé nhỏ mà ban cho được
ơn đón nhận hạt giống Đức tin.
Chúng ta không quên tri ân các vị thừa
sai, mà trong số đó có những vị đã được phong thánh. Họ là ai? Về thân nhân gốc
gác? Là những người phương tây, chẳng phải dốt nát hay hám lợi, hay thất nghiệp
thất tình để chọn đời truyền giáo mà cái chết đã được tuyên trước và bản án
treo lơ lửng trên đầu họ. Một ông tây mắt xanh mũi lõ, ngôn ngữ bất đồng, thủy
thổ không hợp, nơi lưu ngụ là một chiếc thuyền gỗ lênh đênh.
Đặc biệt chúng ta nhớ đến các vị tử đao
tại Việt Nam .
Tại quê hương, cơn bách hại đến sớm, nghĩ tưởng hạt giống đức tin bị chết ngạt
dưới những áp bức và giết chóc; nhưng không, những con người Việt tuy bé nhỏ về
thân xác, niềm tin còn mới mẻ nhưng đã kịp cắm sâu đức tin đời mình dưới chân
thập giá, trái tim đã kịp nóng để đối diện cơn hồng thủy của sự khước từ và
loại bỏ. Như vậy, từ các ngài, quê hương chúng ta có thể ví được như một mảnh
đất màu mỡ chỉ đợi hạt giống đức tin chạm đến thì vươn vai lớn lên. Minh chứng
lòng tin bằng máu tử đạo của các ngài chính là hoa quả sau hơn hai thế kỷ kể từ
việc khởi đầu của giáo sĩ I-ni-khu năm 1533.
Thành phần tử đạo ngoài giám mục, linh
mục là những người chuyên lo về tôn giáo, còn có các giáo dân như quan trường
(T.Hy), quan án (T. Khảm), chính tổng, lý trưởng.
Những cám dỗ sống bình yên đã không
thay thế được chọn lựa chịu bắt bớ, gông cùm vì đức tin của các ngài như thánh
tử đạo Gioan Đạt, Annê Lê thị Thành...
Những cám dỗ sống trong ân huệ này khác
đã không thể thay thế được chọn lựa chịu sống thiếu thốn khi bị giam cầm vì đức
tin như thánh tử đạo Garelin Kính khi gửi thư về nhà người viết: những thiếu
thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng:
tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp trong hoàng
cung của ngài; hay như thánh chủng sinh Tôma Trần văn Thiện được hứa tặng cho
cả cô gái con quan huyện....
Những cám dỗ sống tự do không thể thay
thế được chọn lựa chịu giam trong ngục thất vì đức tin như thánh Cuenot Thể
viết: dù chỉ còn một giáo sĩ chẳng làm được gì ngoài việc đọc kinh thần vụ, thì
nguyên sự hiện diện của vị đó cũng đủ nâng đỡ niềm tin và sinh hoạt cho các tín
hữu rồi...
Và cám dỗ sự sống đời này không thể
thay thế được chọn lựa chết vì niềm tin như thánh Hồ Đình Hy: Tôi cam chịu mọi
cực hình để nên giống Đức Ky Tô; hay như thầy giảng Nguyễn Cầm, khi được nói
nhắm mắt bước đại qua Thập giá thầy đáp: "thưa quan, mắt thì nhắm được chứ
lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm".
Vậy đó, mỗi cuộc đời tử đạo là một cuộc
tự hiến. Cuộc đời các chứng nhân đức tin chịu đốt cháy trong lao khổ, trong
nhục hình, và cả cái chết đều như một hiến tế dâng lên Thiên Chúa, sẽ trở nên
hạt giống trổ sinh các Kytô hữu cho ngàn muôn thế hệ. Hơn nữa, việc chọn chết
đi cho đức tin của các vị tử đạo không phải là khơi lên máu nóng tìm đến cái
chết vì cái chết nguyên nó chẳng có giá trị gì hết, chính sự sống mới làm nên
muôn điều huyền diệu. Vì thế khi chọn lựa mãnh liệt và dứt khoát trong mầu
nhiệm tự hủy và hiến tế chính là các ngài chọn lựa sự sống muôn đời bất diệt.
Hạt giống đức tin mà ngày nào các vị tử
đạo chịu chôn vùi trong lòng đất quê hương, thì ngày nay chính chúng ta cũng
đang được mời gọi chăm bón và vun tưới trong một cơn bão miên trường, ngày một
khốc liệt. Có khác chăng là được khoác bằng những chiếc áo hình thức khác nhau
mà thôi.
Ngày hôm nay, không gì có thể ngăn trở
chúng ta hiến tế. Các thánh tử đạo tại Việt Nam được hồng phúc hiến tế sự sống
một lần làm hy lễ. Còn chúng ta cứ phải hiến tế đời mình mỗi ngày và mọi ngày
khi chúng ta sống đời nhân chứng đức tin. Khi mà chúng ta thiêu hủy đời mình
như ngọn nến; đốt hết những nhát đảm, những yếu đuối, những toan tính thiệt hơn
và những khô cằn nội tâm. Can đảm làm chứng cho chân lý và Tin Mừng.
Chúng ta nguyện xin các thánh tử đạo
tại Việt Nam nguyện cầu cùng Chúa cho quê hương và con người Việt Nam để dòng
máu các ngài đã đổ xuống, đã tưới gội, đã kiến tạo và đã đặt nền móng cho tòa
nhà Giáo Hội tại quê hương tiếp tục lớn lên, trổ sinh ngàn vạn hoa trái mới để
ánh sang đức tin sẽ là bình minh, một bình minh chiếu rọi rạng ngời trên đất
Việt cho đến thời viên mãn, ngày chúng ta đoàn tụ với cha anh chúng ta trên cõi
bất diệt.
23. Bài giảng của ĐGM. Giuse Nguyễn
Năng
Tuyên xưng, sống và làm chứng cho đức
tin
1. Không một tôn giáo nào có một lịch
sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu
dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau
thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng
cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải
bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu
tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các
hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì
muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại
trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền
trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế
kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công
giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người
tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này,
117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117
năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm
1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó
là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín
hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và
đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước
hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu
chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường
dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: "Vì anh em không thuộc
về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét
anh em... Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em... Họ chống lại anh
em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy" (Ga 15,
19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh
mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu
diệt Hội Thánh. "Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng
can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).
2. Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy
cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các
ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.
Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt
bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên
xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá
Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi
giẫm lên sao được!" Thánh Têôphan Ven nói: "Tôi đã suốt đời thuyết
giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết
nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!"
Chắc chắn không phải vì các ngài đã
theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết
lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: "Tôi kính Thiên
Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ.
Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến
Thượng Phụ là Thiên Chúa được".
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân
đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng
khái tuyên bố: "Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước,
nhưng bỏ đạo thì không bao giờ". Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố:
"Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến
khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng".
Yêu nước không có nghĩa là phải thù
ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
3. Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo
không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng
đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống
đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các
thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang
thịnh hành trong xã hội Việt Nam ,
nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc
Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân,
như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy... đã có thời gian sa
ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của
mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy
con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù:
"Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được
nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa
đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng
lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết
kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần
mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi
người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ
đạo".
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị
thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô
Anna Năm xác nhận:"Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người
thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và
khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: "Tuân theo Ý Chúa, con
lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ
chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho".Người cũng thường khuyên
vợ chồng tôi: "Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con
cãi nhau bao giờ"."
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng
yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp
người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn
phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: "Công bằng chưa
đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện", nên
ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với
ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách
đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng.
Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc
bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin
của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo
bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính
lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng
vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu
biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn
không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh
giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp
tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: "Tôi phải theo
lệnh vua, đừng giận tôi nhé", linh mục Théophane Ven đáp: "Tôi
chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan". Thánh Hoàng Lương
Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: "Cầu Chúa Giêsu, xin cho
các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh".
4. Lời tuyên xưng và đời sống đức tin
của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu
này.
Chính đời sống của các thánh tử đạo đã
cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra
chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công
giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên
trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng "cụ", ngài không
bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một,
đã lịch sự xin phép: "Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho.
Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé".
Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt,
viên cai ngục nói: "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa
huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài
để biểu lộ lòng tôi quí cụ."
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các
ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng
không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh
hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta
hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã
lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã
nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những
đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một
cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc,
địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín
hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết
bao người quên Thiên Chúa.
Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt
chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có
thể nói như thánh Phaolô không: "Tôi biết tôi đã tin vào ai" (2Tm 1,
12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để
tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh
của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa
họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
24. Bài giảng của ĐGM. Giuse Võ Đức
Minh
(Ga 12, 24-26)
NẾU HẠT LÚA MIẾN CHẾT ĐI,
THÌ SẼ SINH NHIỀU BÔNG HẠT.
Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,
Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được
hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô
hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc
Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành
trình đức Tin giữa dòng đời.
"Nếu hạt lúa miến không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình ". Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu
sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho
kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ "trơ trọi một
mình''. "Trơ trọi một mình" là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích
kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến
chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục
vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.
"Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều
bông hạt ": Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh
nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát,
phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở
bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ
đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một
hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số
lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng
chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành
tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử
thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con
người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó,
chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu
thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu
chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết
cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như
vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật
chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ
cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là
một huyền nhiệm.
"Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ
đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô".
Câu nói lừng danh này của Tertulianô có
giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra
trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng
liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu
chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và
cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam , khi chúng ta suy gẫm về các
hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.
Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm
chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định
niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá.
Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với "của lễ toàn
thiêu" như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6).
Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc
Người "tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh
cửu thúc đẩy" (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp
nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài
trở thành "của lễ toàn thiêu", và "của lễ thiêng liêng" (x.
Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan,
Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ
Giảng như sau: "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời
đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài" [1]. Vâng, hành động của các
Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng
liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3...). Cái
chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu,
diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.
Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một
Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: "Chúng tôi
chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha
kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo
huấn của mình mà chống nhà vua được?"[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh
mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: "Thân xác tôi ở trong
tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa,
không có gì khiến tôi hy sinh nó được"[3].
Bài học thứ hai là thái độ kiên định
trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo
và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam . Chúa Giêsu làm chứng cho sự
thật này, là: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm
ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời
đời" (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha.
Người đến thế gian, "để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn
người" (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời
đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế
gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần
mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh
Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là "tả đạo
Gia-tô"; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng
Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất
diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải
dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa
Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.
Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ
bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa
Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải
"yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi" mình (x. Mt
5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ
cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm
trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai
của mình tại pháp trường: "Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo
cha nhé" [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm
vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền
rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với
vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của
mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh
hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc,
tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ
Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam . Với tâm
tình tri ân, chúng ta hãy "Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa
Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại,
sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ
quát của niềm tin vào Thiên Chúa" [5].
Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài
chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng
việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức
cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày
của chúng ta [6].
Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con
yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa
Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ
cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống
với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn
hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới
thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ
những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã
hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để
Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là "dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất
giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau" [7]. Theo nghĩa
đó, "xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ"
[8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.
------------
[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca
2.
[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca
1.
[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca
của Thánh ca Tin Mừng.
[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội
Dân Chúa, cước chú 109.
[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ
với HĐGMVN ngày 27-06-2009.
[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC
Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.
[7] Xem TLLV, chương II.
[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo
năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.
25. Không thuộc về thế gian
(Trích từ 'Manna')
Suy Niệm
"Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới
ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam
chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô." Đó là câu trả lời của ông Micae
Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua
hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một
Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa
việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì
ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách
bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối
cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh
cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae
Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải
giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế
gian" (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho
đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân... Ngài đã yêu mến và
sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của
người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở
thành người Kitô hữu trọn vẹn.
"Họ không thuộc về thế gian, cũng
như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về
thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá
trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải
tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng
đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men
không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả
hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong
hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng
chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử Đạo là cách làm chứng tuyệt vời
trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có
những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình
để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái...
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở
ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt
thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế
gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó
không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa
cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một
xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co
liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào
trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi
vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của
mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế
gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ
mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên
rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên
trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng
con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống
Chúa. Amen.
26. Anh em làm chứng cho Thầy
(Trích từ 'Manna')
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam , được phong
thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị
Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã
là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo
dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách
dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó là lời khai của cô con gái út trước
giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn.
Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của
bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,
bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong
nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một
niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng
chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực
hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của
Việt Nam
là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một
người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan "Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng
phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau
khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải
làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người
dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không
đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững
vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước
những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá,
khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút
đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc
bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin
được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển
giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách
hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức
làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ
giải trí vui chơi...)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm
với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ
có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam , các ngài
đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự
hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào
cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các
ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết
can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên
Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam .
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền
giáo sinh nhiều hoa trái.
27. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là
người Việt Nam ,
không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh
góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng
đông đảo các Thánh Việt Nam .
Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam
được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là
những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi
cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã
cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là
phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm
quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có
quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì
Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn
sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành,
thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi
cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma
Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều
hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh
xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam . Chắc chắn
mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng
trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của
các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết
anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao
đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như
thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn
một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như
bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay,
ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá
nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của
mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay
người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ
tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì
thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến
người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu
càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc
tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị
gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời
Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp
đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường
ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người.
Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai
cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một
phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham
nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn
phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc,
người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt
buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền
phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao
động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng
tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những
cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn
quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ
hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu
tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi
ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại
mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh
hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng
nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam , xưa các
Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin
giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm
chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
28. Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng – Mt
10,17-22
(Trích từ 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho
các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những
bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần
sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách hại là số phận không thể tránh
được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi
bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết
rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
"Nếu thế gian ghét các con, các
con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc
về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không
thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian,
nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: "Tôi tớ không
trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các
con".
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa
Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu
đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ
là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin
tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết
ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như
cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã
từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những
khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ
hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi
nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên
đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi "đừng sợ" đến
ba lần:
- "Các con đừng sợ những kẻ vu oan
vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật".
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta
phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
- Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc:
"Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt
thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn".
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm
mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác
và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần
của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
- Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các
con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng
chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người
cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao".
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm
sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi
người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời".
Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn
luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử
thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm
hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin
vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam , xin Chúa ban cho mỗi người
chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn
cảnh.
29. Tử Đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu
đã tiên báo cho các môn đệ:
- Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt
bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục
tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được
thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân
của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn
lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo Hội đều gặp phải
những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo Hội còn phôi thai, cho
đến tận ngày hôm nay khi Giáo Hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở
Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba
thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực
vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời
Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải
những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ
bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới
triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự
Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu
trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình.
Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những
chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên
hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42
giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo
Hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại
văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao
nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy
nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo Hội và
rồi họ đã chết, còn Giáo Hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức
sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan
XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát
đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng
như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và
thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo Hội, hay nói cách khác,
là một phần của đời sống Giáo Hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị
khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút
chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước
muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha
thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải
có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào
quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một
phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào
chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no
hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo
vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống
người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của
tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
- Những người thuộc về Đức Kitô thì
đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ
giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội
lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng
hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài.
Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi
và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội
phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí
và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh
quang phục sinh.
30. Làm Chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng
kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam . Đây thực là một ngày giỗ tổ
làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ
khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX,
nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt
Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không
mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai
đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính
ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ
hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng
quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to
lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày
19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên
bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn
kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người
Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong
hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa
lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người
mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ
chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng
hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất
định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ "Tử
Đạo" có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời
chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài
đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và
tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính
đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết
liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: "An quả nhớ
kẻ trồng cây" hay "uống nước nhớ nguồn". Chúng ta là con cháu
các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được
chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể
quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải
tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra
công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình
hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng
nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao
quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin
mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh
Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một
sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin
là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn
với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài
cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho
giáo, các ngài đặt chữ "trung" lên trên hết. Không những trung thành
với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua
chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu
nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy
sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà
không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo
đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể
được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi
giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao... Nhưng các ngài can
đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua
chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng
hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận
những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh
chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là
đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những
hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta
đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với
những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân
huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì
không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng
bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn,
cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta
cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính
nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần
bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
31. Suy niệm của Lm. Jos. Phạm Thanh
Liêm
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh
mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là
bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các
Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật
cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám
chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy
Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu
ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô
quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho
dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật
cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối
mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương
lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô
tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong
sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu
và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã
và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là
những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha,
người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các
ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và
những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh
gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của
những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con
ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ
tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì
đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy
không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành
động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu
của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh
Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương
chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô
cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban
chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì
tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương
chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa
giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con
người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây
chính Thiên Chúa giữ. "Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô". Không ai, cho dù đó là thiên thần hay
quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng
vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi,
nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. "Nguồn
ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa". "Đức Chúa là ánh sáng
và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai"! Chính
Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù "kiếm
sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì". Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ
hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh
Luca: "ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo
Ta". Theo Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành
vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các
anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống
cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
"Được lời lãi cả thế gian, mà phải
mất mạng sống mình, thì ích gì?" Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu
chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan
đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những
người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám
chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết?
Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: "sống tốt cuộc
sống này, đã là tử đạo rồi". Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử
Giáo Hội Việt Nam và gương
anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam !
32. Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với
toàn thể Giáo Hội Việt Nam
mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam . Đây là một ngày vui mừng chung
của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu
Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha
Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ,
đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống
Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ "S" thân yêu này.
Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và
sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, "Tử Đạo" theo
nguyên ngữ là "Martyr" có nghĩa là "làm chứng". Vậy thì
việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý,
vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết
không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi
trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là
vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa
phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức
từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: "sống gởi, thác về". Và
chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một
Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác".
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để
làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật
quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ
chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý
của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất
Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn
lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: "Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho
anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai
hoạ". Khi dân Do thái chọn lựa "yêu mến Đức Chúa,... và gắn bó với
Người", thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng,
dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên
Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ
được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
"Trung thành với Thiên Chúa"
cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin
mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước
qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú
quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước
thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua,
không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như
thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận:
đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và
Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng
Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: "Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì
được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi
ngoài biển."
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh,
chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày
tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.
Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: "Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm
lên sao được". Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi,
thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát,
khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: "Tôi đã suốt đời
thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi
thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!".
Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người.
Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng
là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có
lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người
chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu
thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: "Anh em chỉ cần
giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng
mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng".
Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như
thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng
ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh
giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây
là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời
sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ
không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải
pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều
này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời
đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay,
lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn
lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi
đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng
minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi
chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không
kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ
phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ
ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh
đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh
Tử Đạo tại Việt Nam
và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực
hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng
được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: "Ai phục vụ
Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó".
Amen.
33. Can đảm nói không với tội lỗi – Lm.
Trần Ngà
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo
tại Việt Nam ,
một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua
thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các
kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp
nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch
thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc
ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng
ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên
quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không
từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến
dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì
muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như
thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo,
không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man
và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các
ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt
những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông
cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu
thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức
bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án
bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt
theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan...
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết
nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt
phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực,
dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử
đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt
hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với
những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng
ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam , chúng ta
hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những
lời quyến rũ của bạn bè xấu...
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các
lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán
khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy
thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không
trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu
lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ
nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam
cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh
dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua
thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến
thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.
34. Chứng nhân tình yêu – ĐTGM. Ngô
quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu
của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng
hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh
tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn
căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu
dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương.
Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng
vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh tử đạo Việt nam có lòng tin
mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín,
nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài
yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn
được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hi
sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả
mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình.
Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức
quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với
những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung
thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những
gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao lô: Tôi tin chắc rằng:
cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên
Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8:35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao
quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài
cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa
nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15:13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc
sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những
chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý
tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất.
Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong
thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con
người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến
cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hi sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và
xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một
tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu
mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi
con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính
gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình.
Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất
là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình
yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình
yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng
tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay
kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc
rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là
tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta
có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hi vọng được
phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt nam làm chứng cho đạo
Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có
lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo Việt nam, xin chúc
lành cho quê hương và Giáo hội Việt nam. Amen
35. Sống vì đạo - ĐTGM. Ngô quang Kiệt
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn
minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế
mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh
mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại
dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích
của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị
cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ
cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý.
Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là
quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải
biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị
bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta
chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn.
Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: "Cọp chết để da, người ta
chết để tiếng". Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không
kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa
mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên
Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì
tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa
là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở
nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ
của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa.
Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã
từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta.
người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa
Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra
không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha
lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các
thánh Tử đạo Việt Nam
đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả
cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng
đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng
chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ
đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa,
các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới,
sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như
thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt,
dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan.
Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ
để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn
Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta
trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những
mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt
ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để
chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau
đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó
nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc
tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo
không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm.
Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa.
Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế
ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử
đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh
phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình?
Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho
đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và
chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không
còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?
36. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử
Đạo Việt Nam
vì 3 lý do:
- Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là
người Việt Nam ,
không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh
góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
- Hân hoan và hãnh diện vì số lượng
đông đảo các Thánh Việt Nam .
Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam
được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
- Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là
những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi
cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã
cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là
phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm
quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có
quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì
Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn
sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành,
thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi
cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma
Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều
hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh
xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam . Chắc chắn
mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng
trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của
các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết
anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao
đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như
thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn
một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như
bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay,
ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá
nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của
mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày
càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay
người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ
tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì
thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến
người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu
càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc
tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị
gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời
Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp
đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường
ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người.
Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai
cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một
phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham
nhũng, hối lộ. Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn
phá những gía trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc,
người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt
buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền
phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao
động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng
tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Qủa thực xã hội mới, đang tạo ra những
cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn
quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ
hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu
tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi
ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúa Âm trong thời đại
mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh
hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng
nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam , xưa các
Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin
giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm
chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
37. Để làm chứng cho vua quan
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh
nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra
trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những
gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện
diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi.
"Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em" để tuyên xưng
niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức
mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững:
Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua
thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng:
"Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn
hữu" (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh
liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với
Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái
chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng
cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh,
mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh
giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải
chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân,
là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người
không.
Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng
đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại
hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và
Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha,
như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một
lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp
lửng.
Giây phút đứng trước thánh giá là giây
phút quan trọng.
Quyết định không bước qua thánh giá là
kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo
léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu
trong ngục thất...
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước
thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ
bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn,
người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những
đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi
nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi
Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình
yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ
ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các
ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng
Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục
vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã
thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào
mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
38. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio
Veritas Asia)
"Tôi thấy một số đông người không
thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước
tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá
chiến thắng".
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng
đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên Trời mà thánh nhân được
Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
"Những người mặc áo trắng ấy là ai
và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn
đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân
hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong Đền Thờ. Đấng
ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải khát nữa, không còn
bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt
họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng liêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt
họ".
Qua ngày lễ Kính các Thánh Tử Đạo Việt
Nam được toàn thể anh chị em Công Giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội
muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người
đông đảo đứng trước Ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam,
có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách
gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở
về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài
là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người
Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm ba mươi bảy linh
mục, mười sáu thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số
đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son
thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh
chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương
mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng
một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một
người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ
cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã
ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ
này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như
câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới
hay".
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu
bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo
Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài
đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam , chết tang thương, chết treo
trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối
với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các
ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù
phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu
gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng
chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em công giáo khắp năm
châu Mừng Kính Lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa
ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng
chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu
mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau
viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống
chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và
chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp
sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường
sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc
thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm
tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Amen.
Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ
MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM
(Kn 3,1-9; Rm 8, 31b-39; Mt 10, 28-33)
Chúa nhật ngày 19/6/1988, thánh Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã nâng 117 vị chân phước tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Dịp khai
mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp gửi các
Giám mục Việt Nam có viết : « Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117
vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý
của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng
đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường
ngày » (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của
Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ tịch HĐGMVN gửi
cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo
Việt Nam có đoạn : « Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy
nhờ đức Ái (số 1) ; Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp
thông và hiệp nhất (số 2) ; Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo
Tin Mừng (số 3) ; là dịp để cháu con noi gương các Ngài sống xứng đáng những
người con thảo của Cha trên Trời (số 4) ».
Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ
lại bài giảng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau : «
Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương,
nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các thánh, để xe
kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương ... ».
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam ,
khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự
đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da
Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng,
một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng
ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng
sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của
các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn
cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới
gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng
sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: « Máu tử đạo là hạt
giống trổ sinh người tín hữu ».
Hôm nay đây, chúng ta hướng tâm hồn lên
một cách đặc biệt để mừng kính các ngài, trong hân hoan và hãnh diện. Chúng ta
tôn vinh, tri ân các ngài và cùng nhau hô vang : Vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo
Việt Nam ,
vạn vạn tuế Các Thánh Tử Đạo anh hùng.
Làm sao kể lại cho hết tất cả 117 vị Tử
Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một
phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con. Còn có biết bao nhiêu vị cũng
đã « tử vì Đạo » mà chưa được tuyên phong, cũng được mừng kính. Các ngài thuộc
đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống : công chức, thương gia, công nhân,
quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà
truyền giáo « ngoại quốc » Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý... đã đến Việt nam
truyền Đạo và chết vì Đạo.
Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là
người Việt Nam
tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết
năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra
được như: gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy,
bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu lên rốn rồi cho bấc vào đốt, bị đóng đinh vào
ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt
đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân
thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất.
Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh.
4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan :
"Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết
không làm gì được các ngài" ( Kn 3, 1 ). Quả quyết như trên có vẻ là không
chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các ngài đến
ghê sợ như : tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp
tục quảng diễn tư tưởng: «Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các
ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt.
Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài
có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết » ( Kn 3, 2 – 4 ).
Đúng là : « Ai khôn mới biết hiến mình
cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời » (Thánh Phêrô Truật) ; «
Thân xác tôi ở trong tay quan... nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì
khiến tôi hy sinh nó được » (Thánh Phaolô Tịnh)
Các ngài là chứng nhân cho Chúa Kitô đã
toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các ngài được nhiều ơn vĩ đại,
« vì Thiên Chúa đã luyện lọc các ngài và thấy các ngài xứng đáng, Chúa đã thử
thách các ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn
thiêu » (Kn 3, 5- 6). Trong Chúa Kitô các ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.
Chúng ta, dòng giống các vị tử Đạo. Hôm
nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: « Trong ngày phán xét, người công chính
sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau ». (Kn 3, 7) Những
tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau
cùng trong sách Khôn Ngoan: « Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các
quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời » (Kn 3, 17).
Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp
chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức
tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng
trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con.
Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét