CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: 1V. 3, 5.7-12; Rm. 8, 28-30;
Mt. 13, 44-52
MỤC LỤC
1. Kho báu
2. Thế vận hội
3. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
4. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ
Thông
5. Suy niệm của Lm. Gioan B. Phan Kế
Sự
6. Kho báu - Viên ngọc quý
7. Ăn xin – Lm Vũ Đình Tường
8. Kho báu ẩn dấu và viên ngọc
quý
9. Hãy làm mọi sự để có được Nước
Trời
10. Kho báu Nước Trời là Đức Kitô
11. Khôn ngoan đích thực – Lm Đam Trần
Văn Điều
12. Nước Trời giống như kho báu
13. Nước Trời – Lm– Đam. Lê Đức
Thiện Giuse Trần Việt Hùng
14. Nước Trời quý giá
15. Bán tất cả để mua viên ngọc quý –
Đỗ Lực
16. Vui mừng bán tất cả
17. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
18. Kho báu Nước Trời
19. Viên ngọc
20. Kho báu và ngọc quý – R. Veritas
21. Kho tàng
22. Kho tàng
23. Kho báu
24. Tìm kiếm kho tàng hạnh phúc – Lm
Trần Ngà
25. Phải dấn thân để chiếm đoạt Nước
Trời
26. Giá trị vô song – Lm. PX. Vũ Phan
Long
1. Kho báu
Có một vị đạo sĩ Ấn Độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông,
thì một người đàn ông giàu sang đến xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị đạo
sĩ và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý nhất để làm lễ ra mắt. Vị đạo
sĩ không cần nhìn kỹ vào món quà, cầm lấy một viên ngọc và ném xuống dòng sông.
Vì tiếc của, người đàn ông bèn lặn xuống để tìm lại cho bằng được viên ngọc.
Nhưng lặn suốt cả một ngày mà cũng không tài nào tìm thấy.
Chiều đến, vừa mệt mỏi vừa chán chường, người đàn ông mon
men đến gần vị đạo sĩ và năn nỉ: Ngài là người ném viên ngọc xuống dòng sông,
xin ngài hãy chỉ cho biết chỗ nào để tôi lặn xuống hầu tìm lại. Vị đạo sĩ liền
cầm lấy viên ngọc thứ hai và ném xuống dòng sông rồi nói: Đó, ta ném vào chỗ
đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm.
Cử chỉ của vị đạo sĩ biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với
những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả. Chúa Giêsu cũng đòi
hỏi chúng ta một sự từ bỏ như vậy. Và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta
noi gương Ngài mà bắt chước. Con đường Ngài đi cũng là con đường của chúng ta,
những người muốn bước theo Ngài. Chỉ có con đường ấy, chỉ có cuộc sống ấy và
chỉ có cái chết ấy mới dẫn chúng ta tới cõi phúc trường sinh. Tất cả những ý
tưởng trên đã được Ngài gói ghém qua đoạn Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh:
kho tàng, viên ngọc. Hai hình ảnh trên có chung một kết luận, đó là anh lái
buôn và bác nông phu, cả hai đều bán mọi sự mình có để mua thửa ruộng và viên
ngọc.
Người đón nhận Nước Trời cũng cần phải từ bỏ nếp sống cũ
để sống đời sống mới trong sự kết hợp với Chúa, cũng cần phải dấn thân để chiếm
lấy Nước Trời, bởi vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi
chi. Còn đối với chúng ta thì sao. Liệu chúng ta có dám liều, dám hy sinh tất
cả để chiếm lấy Nước Trời? Hay chúng ta lại phản ứng như chàng thanh niên giàu
có: chần chừ, so đo tính toán rồi lầm lũi cúi mặt bỏ đi. Anh không dám bán
những gì anh sở hữu mà làm phúc bố thí cho người nghèo rồi bước theo Chúa. Anh
không dám từ bỏ sự ổn định của cuộc sống hiện tại để đi theo Đấng mà không có
lấy được một chỗ tựa đầu. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm hoàn toàn bấp bênh và vô
định. Anh sợ rằng mình sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lãi.
Làm sao chúng ta có thể tin rằng Nước Trời là kho báu, là
viên ngọc quý khi chúng ta vẫn còn bị giam hãm trong cái thế giới vật chất này,
khi chúng ta còn quá quyến luyến và mắc míu vào tiền bạc, địa vị và lạc thú.
Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi cái cách thức đánh giá của người đời để
cảm nghiệm được sự quý giá và siêu việt của Nước Trời.
2. Thế vận hội
Giả như Chúa Giêsu sống vào thời buổi hiện giờ, thì có lẽ
đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã có những hình ảnh khác. Thay vì nói về tay lái
buôn đã hy sinh tất cả để mua cho được viên ngọc quý, hay bác nông dân bán cả
gia sản để mua miếng đất cất giấu kho tàng, thì Ngài sẽ nói về một lực sĩ bơi
lội, đang tham dự thế vận hội, bởi vì anh ta cũng đã phải sẵn sàng hy sinh tất
cả, chấp nhận một chế độ kiêng khem và tập luyện nghiêm khắc, với hy vọng chiếm
được tấm huy chương vàng.
Tại sao tôi đưa ra hình ảnh của anh chàng lực sĩ, bởi vì
anh ta cũng có một điểm chung với tay buôn ngọc hay bác nông dân; đó là cả ba
đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đã đặt ra ở phía trước.
Điểm chung này dẫn chúng ta tới ý muốn của Chúa. Đó là
muốn trở nên công dân Nước Trời, chúng ta phải dấn thân triệt để, chứ không thể
thực hiện mục đích ấy như một việc ngoài giờ, như một việc phụ thuộc hay như
một việc có tính cách tiêu khiển. Chúng ta phải đầu tư, phải dấn thân vào đó
100%, phải xem đó như nỗi ưu tư số một của cuộc đời chúng ta. Người Kitô hữu
phải giống như tay buôn ngọc, bác nông dân hay anh chàng lực sĩ, bởi vì nó đòi
hỏi một sự dấn thân trọn vẹn.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt giữa người Kitô hữu và ba
người kia, như thánh Phaolô đã diễn tả: Một vận động viên trong thời kỳ tập
luyện phải tuân theo kỷ luật nghiêm khắc, chỉ để được khoác lên đầu một vòng
hoa vinh quang chóng tàn lụi, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vinh
quang tồn tại muôn đời. Đó là điểm khác biệt chính yếu.
Viên ngọc của tay lái buôn, kho tàng của bác nông dân, tấm
huy chương của anh chàng lực sĩ, chỉ có giá trị trong một thời gian ngắn, bởi
vì khi giờ chết đến, tất cả sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Có chăng thì chỉ là
một phần di sản, một vật lưu niệm cho người còn sống. Nhưng chúng ta, những
Kitô hữu thì khác, khi chết đi thì cửa Nước Trời sẽ mở rộng để chờ đón chúng
ta.
Như thế, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là quan
trọng, bởi vì không gì trên thế gian có thể chiếm vai trò ưu tiên hơn Nước Chúa
và sự theo đuổi của chúng ta để đạt cho được nước ấy. Bởi vì khi chết, thì điều
đáng kể không phải là chúng ta đã mua sắm được những gì khi còn sống, mà là
chúng ta đã trở nên một con người như thế nào. Chúng ta đã yêu thương nhau
chưa? Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa? Chúng ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu
chưa. Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa? Chúng ta đã dấn thân và trung thành
với Chúa và với nhau hay chưa? Với sự trợ giúp của ơn Chúa, chắc chắn chúng ta
sẽ làm được điều ấy. Bởi vì nếu không làm được điều ấy, chúng ta sẽ làm cho
Chúa, cho gia đình và những người thân yêu thất vọng. Còn bản thân chúng ta kể
như đã thất bại, đã thua lỗ trắng tay mất rồi.
3. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
Người ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố
Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn
bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác.
Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa
đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến
thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết thêm viên đá
quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù
nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác
sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông dân nghèo đã tình cờ
mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên
đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ biển Bắc Hải và ngày
ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào là ông ném xuống biển.
Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt
một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên
đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một năm nữa, nhưng vẫn chưa
tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng
lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở
thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném
luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi tay ông.
Có một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì?
Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là
sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này
hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có
những người mất cả đời để đi tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện.
Có những người dám đánh mất cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh
phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.
Hạnh phúc chính là viên ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi
giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ
nó mãi trong cuộc đời của mình.
Nhưng kho tàng hạnh phúc đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt
được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi người ta có lắm của nhiều tiền.
Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh, sự nghiệp. Điều đó đúng không
sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh sự nghiệp mình bán rẻ lương
tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có hạnh phúc hay không? Nếu phải
chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?
Có những người vì chỉ muốn có tiền nên gian tham, trộm
cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng tiền bất chính nhưng liệu rằng
niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?
Có những người vì tình mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng
chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng vói nhân phẩm của một con người hay
không?
Có những người vì địa vị mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người
khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình hay đầy lo âu sợ hãi?
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn
lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn lựa trần gian mau qua hay nước trời
vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một
tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn
lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia tài, những gì mình có để mua lấy nước
trời. Như trường hợp người thanh niên giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo
anh: "Hãy bán hết của cải mà cho người nghèo, rồi đi theo tôi". Chọn
lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã từng hỏi: "Chúng con bỏ mọi sự theo
Thầy, chúng con sẽ được gì?". Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai
ngã về không. Đem bán hết gia tài để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại,
nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn
việc làm, mất cả địa vị xã hội mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài
danh vọng chỉ là của đồng lần, nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình,
và mình cũng không chiếm hữu nó trọn đời.
Thế nên, người Kitô hữu phải có sự khôn ngoan như Salômôn.
Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng để đánh bại quân thù. Ông xin sự
khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa. Không phải là khôn ngoan thế
gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu
là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động theo đúng với luân thường đạo lý,
đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con người là "nhân linh hơn vạn
vật". Một con người có lý trí, ý chí, tự do chứ không phải hành động theo
bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của mình.
Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan để chúng ta đi tìm
Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá, chúng ta phải bằng mọi cách để
đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc quý, chúng ta phải trân trọng
và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chọn lựa gia
tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải trần gian mau qua. Vì "được
lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì? Amen.
4. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho
con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.
Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua
Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con
"một tâm hồn biết lắng nghe" và "biết biệt phân phải trái"
để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho
con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi
người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.
1V 3: 5, 7-12
Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn
cầu Thiên Chúa cho ông có được "một tâm hồn biết lắng nghe" và
"biết biệt phân phải trái".
Rm 8: 28-30
Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín
hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con
của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết
nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu
cho bằng được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12
Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế
vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là "một thanh niên bé
nhỏ", như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của
ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn;
còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.
1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:
Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín
cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem
chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một
giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời
xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình
những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với
hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en
chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc
mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục
Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách
thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện
trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.
2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không
cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng
"một tâm hồn biết lắng nghe" và "biết biệt phân phải trái"
để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, "một dân đông đúc, không kể xiết, cũng
không đếm nổi".
Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một
thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết
nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua,
vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu
của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý,
hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.
3. Tính chất thần học của chuyện tích:
Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt.
Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu
thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi
bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng
của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt
của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự "ân sủng".
Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế
lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy
nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân
chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ
là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong
lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói "dân của tôi",
nhưng "dân của Ngài". Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi
thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho
vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả
của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé
nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người
thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30
Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu
Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây
là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.
1. Vấn đề:
Phải hiểu những lời này của thánh Phaolô: "Những ai
Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng
với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông
đúc" như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn
của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phaolô lấy lại sự phát triển của
mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người
được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên
Chúa về nhân loại. Từ ngữ "ý định" (prothesis) luôn luôn được thánh
Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn
mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài
"biết trước", còn về phía con người, họ có "ơn gọi"; giữa
Thiên Chúa và con người, có "sự tự do". Cứu cánh của con người là ơn
gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định
phải chịu kết án cả.
2. Tình yêu của Thiên Chúa:
Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng
gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là
"những ai yêu mến Người", sẽ thấy rằng "Thiên Chúa làm cho mọi
sự đều sinh ơn ích cho họ". Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc,
nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ
"mọi sự", đối lập với "ơn ích", chỉ những thăng trầm của
thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng
dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài
dùng những phương cách gây sửng sốt.
Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: "Những ai
Người đã biết từ trước" luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát
xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa
cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp
trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.
3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng
trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo
hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân
sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài,
cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô,
con người được "phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy" của mình.
Tiếp đó, thánh Phaolô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật
văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của
Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh
quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ:
"Người đã cho hưởng vinh quang" để diễn tả một điều chắc chắn. Về
việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta
gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức
Giêsu nói: "Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được
rồi, thì sẽ được như ý" (Mc 11: 24).
Vì thế, theo thánh Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì
khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại
cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính
là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên
"trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc".
TIN MỪNG Mt 13: 44-52
Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về
các dụ ngôn của Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn
kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần
với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.
1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn
trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát
triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn "miêu tả".
Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những "lời khuyến dụ" được
gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi
đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của
Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng
ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì
thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể
hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay
ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được
kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được
giải thoát khỏi những điều bất tất.
2. Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng
là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi
họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề
của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo
những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn
tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo
giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì
nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và
Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong
phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những
ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.
Để kết luận, thánh Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành
môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người
kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu
thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở
đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.
5. Suy niệm của Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
"Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có"
(Mt 13,44-52)
"Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?"
"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong
ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc quý và cũng giống như chuyện chiếc
lưới cá thả xuống biển... Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như
vậy."Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu
giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như những chuyện đời
thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu hay không.
Nhiều người "thưa hiểu" nhưng thực sự chẳng
hiểu, chẳng biết cái gì cả...
Vì họ cũng chỉ trả lời như cái máy, "theo phong
trào", cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi cách sống của họ là cái vỏ bề
ngoài, là cái hình thức hấp dẫn "không đụng hàng" chứ không cần cái
nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng chẳng qua là cho nó
"có" với chúng bạn.
Vì họ hiểu theo "kiểu của họ": Chúa phải là
người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ và Chúa trở thành "con
rối"của lòng tham.Rốt cục "họ nói hiểu mà thực chất chẳng hiểu
gì!".
Vì họ chỉ hiểu theo "nghĩa đen" và cuộc đời của
họ là những chuyện quanh quẩn của những hành động "vơ, vét, vào": là
mong đạt được những gía trị trần thế,là có được của cải mối mọt xông đến
được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng và trở thành "kẻ bị loại
trừ".
Nhiều người "thưa hiểu" và quả thực họ hiểu được
ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để
tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn tại của mình. Người đời vẫn thường dạy
"có gan thì làm giàu".Họ vui mừng ra về và bán hết tất cả những gì
mình có để được Nước Trời.
Khôn ngoan của người hiểu biết là sự chọn lựa giữa những
cái vô gía và cái "có giới hạn".
Khôn ngoan của người thương gia là dám can đảm bán hết tất
cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho báu.
Khôn ngoan của người hiền lành là biết đứng về phía cá tốt
để "được chọn lựa" và "không bị vứt ra ngoài" trong ngày
tận thế.
"Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.... Họ
đáp lại: thưa hiểu"
Chẳng ai dại mà nhặt cá xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược
lại.
Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công
chính.
Như chủ nhà lấy ra từ kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để
lọai trừ.
Và sẽ chẳng bao giờ có cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai
và cho cả chính chúng ta.
Người đời vẫn thường nói "Khôn chết, dại chết, biết
sống". Qủa thế,người hiểu biết là người khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không
ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết, vì mọi người phải tự quyết định
đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân
định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả.
Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính
sự tự do của mình.
Họ đáp "thưa hiểu" và Chúa đã dạy "hãy biết
tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho của mình" để đầu tư cho sự chọn lựa
của chính đời mình. Cái khôn của người hiểu biết là can đảm "bán hết tất
cả" để có được cái vĩnh cửu,cái đời đời, không mối mọt và hư họai.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt chọn lựa cứu
cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con "biết liều" với sự chọn
lựa đúng đắn để trở thành "cá tốt" được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người
chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với chính sự chọn lựa của mình trong tin
tưởng, tín thác vào tình thương Chúa. Amen.
6. Kho báu - Viên ngọc quý
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng,
ông vội chạy theo kêu lên: "Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của
ông". Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi "Viên ngọc quý nào?". Ông ta
nói: "Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc
quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên
đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó". Nhà tu hành tốt bụng móc trong
bị ra và nói: "Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên
kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông".
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi
ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: "Từ nay mình sẽ là người giàu có, không
phải vất vả gì nữa". Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông
bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm
nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón
rén đến gần đánh thức dậy và nói: "Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc
quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm
hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc
xót".
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành
kia có được nghị lực khước từ mọi giàu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi
cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn "kho báu" và
"viên ngọc quý". Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây
để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đứng vậy, cả hai dụ ngôn đều
muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao
quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo
đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh "kho báu" và "viên ngọc
quý" vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết gía trị của chúng thì
quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính
vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa
ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý giá kia cũng thế, họ
nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện "Ông già xứ
Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông
già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý,
ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn
lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả,
cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống
sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim
cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi
ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất
có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà
chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được
thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cữu, chỉ được
thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu
muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà
chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô chúng ta
đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn
trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc
đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải
tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta
đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều
hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải
không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả
mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời
đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết,
tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải
hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế
này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi
tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng
ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh
tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật
chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần
thiết của đời sống...đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là
tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này
kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp
may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt
được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình.
Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý
trong Tin Mừng hôm nay.
7. Ăn xin – Lm Vũ Đình Tường
Ngay từ nhỏ những dịp đi xa, mỗi lần xe đậu tại bến xe đò,
bến phà hay ga tầu hoả, nhiều lần được nghe câu.
Ông bà cô bác làm ơn cho xin đồng tiền, bát gạo.
Người ăn xin bao giờ cũng nhắm đến xin người giầu có hơn
mình, không xin người nghèo khổ hơn. Thực ra xin người nghèo khó hơn mình họ có
gì để cho. Vì thế câu xin nhắm đến đối tượng ông bà, cô bác. Đây là bậc trưởng
thượng trong xã hội, mới có dư giả để cho. Họ cũng xin rõ ràng mạch lạc. Không
xin gì khác ngoài đồng tiền, bát gạo. Thực ra mấy ai đi đường mang theo gạo để
sẵn có gạo mà cho. Vì thế hầu hết người ta cho tiền để người ăn xin tự đi mua
gạo và nhu yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Người làm việc bác ái dọc đường
không cần biết người ăn xin tiêu tiền như thế nào, với mục đích gì. Họ đáp lại
theo yêu cầu xin cho cơm ăn, áo mặc của kẻ nghèo khó. Người ăn xin hoàn toàn tự
do chi tiêu số tiền đó theo hoàn cảnh riêng từng người.
Nên nhớ không phải tất cả những người xin ăn đều phung
phí, tay trắng cả đâu. Họ cũng biết tích trữ chứ. Người ăn xin không nhà cửa
ngoại trừ chỗ ngủ qua đêm, tránh mưa gió. Hẳn nhiên chỗ đó không an toàn nên có
lẽ tiền xin dư hay để dành được họ phải tìm cách chôn giấu quanh đâu đó. Chỗ
giấu hay nhất chính là chôn dưới đất. Chẳng may người đó mất đi nếu chủ ruộng
tìm được, đương nhiên hưởng gia tài chôn dấu đó.
Phúc âm nhắc đến dụ ngôn người tìm được kho tàng chôn dấu
anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó. Kho tàng đây không phải của người
mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng
người tham của cải thế gian sẽ mù quáng không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết
gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch
lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài
ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu hơn không phải vì đất ruộng tăng giá.
Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Người xưa dùng hình ảnh viên ngọc quí và hình ảnh chủ
ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn ngoan mới có khả năng tậu viên
ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm thuê, công nhân. Viên ngọc quí
và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức Kitô dùng chỉ về nước trời.
Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc đời. Người khôn ngoan là người
được Lời Chúa soi sáng trong đời. Muốn được Lời Chúa làm chủ cuộc đời người đó
cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ duy nhất. Chọn như thế anh sẽ
một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành với chủ là đầy tớ khôn ngoan.
Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo huấn chủ giáo dục, hướng dẫn
biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói cách khác khôn ngoan anh có
được là do chủ ban cho. Anh giầu có không phải vì miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giầu
có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục khoét, không hư hao, mất giá vì thời
gian.
Chọn Chúa là Đấng duy nhất làm chủ đời mình và chọn lời
Chúa làm kim chỉ nam soi đường là người sống có mục đích, biết rõ con đường
mình đang đi tới, mục đích mình muốn đạt. Từ đó mọi suy nghĩ hành động đều qui
hướng về mục đích cao cả đó. Đây chính là trường hợp của vua Salomon trong bài
đọc một hôm nay.
Cựu ước ghi lại ơn khôn ngoan của vua Salomon khi ông biết
ông non dại, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo, không thể làm tròn trách nhiệm Chúa
trao nên ông xin.
Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con.
Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang
sống giữa dân Chúa chọn.... Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan
để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ... 1V3,7-12
Chúa ban cho điều Salomon xin và còn cho hơn cả những điều
ông không biết để xin. Lý do nào Chúa làm thế? Vì Salomon không xin lợi riêng
cho mình nhưng xin ơn làm tròn sứ vụ Chúa trao. Vì thế Chúa ban cho dư đầy. Xin
như thế là xin Chúa làm chủ đời mình nên Chúa ban cho Solomon nhiều sự lành.
Ngài cho ông trở nên công chính và khôn ngoan. Người lãnh đạo khôn ngoan và
công chính mang lợi ích cho muôn dân, làm sáng Danh Thánh Chúa.
Muốn trở nên giầu có phải biết học cho đi. Muốn trở nên
khôn ngoan phải biết học khôn từ lời Chúa.
8. Kho báu ẩn dấu và viên ngọc quý
(Suy niệm của Lm. Pietro Nguyễn Hương)
Sống là một hành trình tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ. Tìm
kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành dữ.
Trong tác phẩm nổi tiếng "la Pensées", Pascal
(triết gia Công Giáo Pháp) cho rằng có ba thứ bậc của sự cao trọng. Bậc thứ
nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề cao những ai giàu có, những ai
có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp. Bậc này có một giá trị không thể xem
thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.
Bậc thứ hai cao trọng hơn là bậc của tài năng siêu việt mà
các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và các nhà thơ nắm giữ. Đây là một bậc có
một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp hay xấu, không thêm không bớt điều gì
từ những thiên tài. Trước họ chúng ta phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc
cao nhất.
Còn có một thứ bậc cao hơn, đó là thứ bậc của tình yêu,
của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của thánh thiện và ơn sủng. Gounod cho
rằng: "Một giọt thánh thiện đáng giá hơn một đại dương tài năng". Đẹp
hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm hay bớt đi điều gì khỏi một người
thánh thiện, một vị thánh. Sự cao cả của ngài thuộc về một thứ bậc khác, vượt
trên cả hai bậc kia. Điều này rất phù hợp với quan niệm của người Việt Nam:
"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du, Truyện Kiều).
Có thể nói rằng đức tin Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này,
bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu, và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện.
Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội, là kitô hữu đều được mời gọi sống
cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay trong chính đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay cũng nói tới sự cao cả và lời mời gọi
này: Vua Salômon trong bài đọc I không xin Chúa cho được giàu có, sống lâu,
nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành
dữ. Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông được khôn ngoan và có tất
cả.
Dụ ngôn "kho báu giấu ở thửa ruộng" và
"viên ngọc quí" diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, mà
không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. "Kho
báo" và 'viên ngọc quý" ở đây là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối
tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không
có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng ta có tất cả! Nói như
Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta "những người theo dự định
của Chúa, được kêu gọi nên thánh", trở nên giống với hình ảnh Chúa Con,
trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh chính là trở nên giống
Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Khủng hoảng lớn nhất của con người hôm nay là khủng hoảng
về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền bạc lên ngôi, trở thành tiên,
thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành một thứ secondhand, "hàng
ế"! Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống. Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói
rất chính xác rằng: "Trong lòng nhiều người sống trong xã hội chúng ta,
bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan rộng của sa mạc tâm linh, một sự
trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một cảm thức lặng lẽ của tuyệt
vọng" (Bài giảng ở Sydney 2008). Nếu cuộc sống chúng ta vắng bóng Thiên
Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu như sự thiện tuyệt đối,
như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ bị vong thân, cuộc sống
đánh mất nền tảng căn bản.
Như hai người trong Tin Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc
quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là
viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng
ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ
nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao
hơn đó là "tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời"; có những giá trị còn lơn
lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của
đời ta. Amen!
9. Hãy làm mọi sự để có được Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Một điều vô tiền khoáng hậu như thế được ký kết trong một
giấc mộng tại Gabaon giữa một bên là Thiên Chúa, bên kia là Salomon, Thiên Chúa
phán: "Đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin ... đến nỗi trước ngươi không
có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi" (1V 3, 12).
Thiên Chúa muốn thông ban người vinh quang đã có tự đời
đời cho con người. Vinh quang này được sánh như một kho báu hay một viên ngọc
quí trong Tin Mừng hôm nay. Con người luôn luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là
nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn chia sẻ vinh quang ấy cho con người.
Chính con người cũng không biết mình được dựng nên để vui hưởng vinh quang với
Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi
được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta. Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết
chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang chúng ta trong lòng Ngài, như một
người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong dạ.
Kế hoạch của Thiên Chúa là Ngài muốn chúng ta trở nên
giống hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Ngài, vì Chúa Giêsu là hình của Thiên Chúa,
như Chúa Giêsu nói với Philiphê "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga
14,9). Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta là một thành viên trong gia đình
Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một đại ân huệ Thiên Chúa dành cho chúng ta! Nên
Ngài mời gọi chúng ta trở nên hình ảnh của Con Chúa, nên đồng hình đồng dạng
với Chúa Giêsu, nhất là mang trên mình danh hiệu là Kitô hữu "Đức Giêsu
Kitô: làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu
anh em được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài " (2Cr 8,9).
Nếu chúng ta nghe và đáp lời Chúa, Thiên Chúa sẽ biện hộ
cho chúng ta; Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên thánh thiện, hoan lạc, hạnh phúc
và chiếu tỏa rạng ngời vinh quang Chúa phù hợp với Thiên Chúa. Vì kế hoạch của
Thiên Chúa là " Những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ
nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông
đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu
gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên
công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang " (Rm 8, 29-30).
Trong khi đó, kế hoạch của con người, là đi tìm hạnh phúc.
Việc tìm kiếm này đòi phải phân định. Như chiếc lưới kéo lên tất cả các loại
cá, nên hạnh phúc cũng có tất cả các loại. Có những thứ hạnh phúc đích thực, có
những thứ hạnh phúc rẻ tiền, hão huyền, trống rỗng và giả dối.
Vua Solomon đã xin Chúa ban cho một "tâm hồn khôn
ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ" (1V 3, 9).
Để có hạnh phúc thực sự, cần phải cầu xin Chúa như
Salomon: cho được ơn làm chủ bản thân, biết phân biệt tốt xấu, chọn lựa điều tốt,
bỏ điều xấu. Vì tất cả những gì chúng ta hài lòng chưa hẳn đã là tốt.
Có ơn phân định, để nhận ra tiếng Chúa, làm theo kế hoạch
của Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã hát: " Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị
Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả
huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối gian tà con đều ghét bỏ " (118,
127-128). Cần phải có tâm hồn tỉnh thức, sẵn sàng không hời hợt, bốc đồng.
Tỉnh thức, thì dễ vâng phục và lắng nghe Chúa hơn, như thế
mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây chính là điều Chúa Giêsu áp dụng cho Nước
Trời, khi Người sánh ví như một kho báu hay một thương gia đi tìm ngọc quí.
Nước Trời, là chủ để hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi
có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như người kia tìm được kho tàng khi cày
ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ
đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm được kho tàng, hay viên ngọc quý
rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán hết những gì đang có, để mua
bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc quí ấy là chính Đức Kitô, là tình
yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa Kitô trước đã. Ôi thật là khó, vì
chung quanh chúng ta có quá nhiều ràng buộc, ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức
Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người tình yêu trên hết, chúng ta phải
là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố: "Không ai có thể làm tôi hai
chủ" (Mt 6,24). Chỉ có "kho tàng trên trời" chúng ta mới có thể
lựa chọn để gửi gắm lòng mình: "Vì kho tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng
ở đó" (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói rõ: "Nước quê ta là trời
cao" (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để có được Nước Trời cần phải dứt bỏ
tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ
chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta" (Mt 16,24)... Và
chỗ khác Người nói: "Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những
gì ngươi có mà cho kẻ khó", sau cùng Người thêm: "đoạn hãy đến
theo" (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn đấu, "giống như người
buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà
mua viên ngọc ấy". Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta rằng không thể có được Nước
Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì chúng ta đang có: vinh quang,
giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá,
(Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có lựa chọn và hành động nửa vời: cần
phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi là những thứ ngăn cản chúng ta với
Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, dủ lòng
thương xót, để mỗi người chúng ta có nghị lực vứt bỏ tội lỗi, như chúng ta vẫn
tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của
chúng ta. Amen.
10. Kho báu Nước Trời là Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Xuyên suốt trong các Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật
trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa
tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng đất, và Chúa nhật hôm nay là kho báu
chôn giấu trong ruộng lúa.
Palestine là miền đất có nhiều tranh chấp và nguy hiểm
rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói khát, cướp bóc, nô lệ...hay bất
cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài sản và cuộc sống của người dân.
Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở
lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do đó, người ta thường tìm thấy kho
tàng.
Dụ ngôn "Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng" là
một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể
cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng
còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải
một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi
qùy xuống nâng chân con bò lên. Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh
ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: -
Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu
lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở
về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu
mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc
mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá
hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ
ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất
ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để
nói về Nước Trời.
Ý nghĩa của dụ ngôn, chính là thái độ của người nông dân:
tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như
bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền
mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý.
Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho tàng quí giá ấy.
Dụ ngôn "Viên ngọc quý": thương gia khi đã khám
phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc
ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Dụ ngôn "Kho báu chôn trong ruộng" và "Viên
ngọc quí" diễn tả sự cao trọng, sự vô giá của Nước Trời, không có cái gì,
không có vàng bạc hay tài năng nào sánh được. "Kho báu" và "Viên
ngọc quý" ở đây, là chính Đức Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là
niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là
tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay
là: trong Người, chúng ta "những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi
nên thánh", trở nên giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô.
Như thế, lời mời gọi nên thánh, chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức
Kitô, là đạt đến Nước Trời.
1. Nước Trời có một giá trị tối thượng
Chúa Giêsu nói về kho báu và viên ngọc mà người cày ruộng
và thương gia dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối
hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho họ hân
hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó (GLCG #
546).
Tính chất cao quý nầy được các bài đọc Sách Thánh hôm nay
làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh ví von.
Cao quý như sự khôn ngoan được vua Salômon coi trọng hơn
phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1). Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon
nhận rõ mình "trẻ người non dạ" và những hạn chế của bản thân trước
trọng trách làm vua. Salômon được Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được
quyền xin ơn gì ông cần. Salômon không xin giàu có, không xin vinh quang và
cũng không xin trường thọ. Salômon xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được
tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa
và ông được nhậm lời. Salômon trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên
hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông, không ai
như ông và sau ông, không ai bằng ông.
Cao quý như lề luật được Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng
dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như "Kho báu chôn trong ruộng" như
"Viên ngọc quý".
Nước Trời là một ân ban cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ
kiếm tìm.
2. Chọn lựa và quyết định.
Sau khi đã nhận ra kho báu, người cày ruộng lẫn người buôn
ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định.
Là Kitô hữu, môn đệ Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì?
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những
cám dỗ mời mọc của trần thế: 'Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì,
uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm...Trước
hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những
thứ kia, Người sẽ thêm cho." (Mt 6,31-33).
Sách Giáo lý Công giáo cũng khuyên dạy: "Chúa Giêsu
kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng
của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc
của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để
được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có
những hành vi" (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, một khi đã khám phá ra,
phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt,
không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính là thái độ dấn thân vì Nước
Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới
can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho
được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả tài sản để mua cho bằng
được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
3.Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời
Người nông dân, vị thương gia, đều vui mừng khi tìm được
kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá
ra Nước Trời trong cuộc sống, là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm
vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ,
tất cả những gì trước nay ta cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui
mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có
được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời.
Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác
thịt, thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong
Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là
niềm vui của đời Kitô hữu, chính là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa,
mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa, mới tìm kiếm được nguồn
mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.
Thái độ "vui mừng bán tất cả", không phải ai
cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm "Người thanh niên giàu có"
là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi
nghe Chúa Giêsu bảo: "Anh hãy về bán hết của cải, phân chia cho người
nghèo, rồi hãy đến theo Ta...".
Làm sao bán hết Chúa ơi khi con đã một đời vất vả tảo tần
để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay? Làm sao vui mừng để từ chối một mối tình
vụng trộm mà con mới cất công xây nên? Làm sao con từ bỏ một thói đã đem lại
cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng lười? Làm sao con có thể bỏ lỡ một
cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa Nhật? Làm sao con có thể bố thí
nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua
vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi con là đấng bậc vị vọng? Làm sao
con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học giáo lý?...Và cuối cùng, chắc con
cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá nhiều tham vọng và của cải...
Cuộc đời vẫn luôn có những "chàng thu thuế Lêvi"
sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn
còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những
ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô Xaviê, Phanxicô Asissi, vẫn còn những
Têrêxa Calcutta... bỏ cả cuộc đời để ra đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ người
nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe, Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp
đền mạng sống...
Điều quan nhất, là phải biết khám phá, trong bản thân
mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con
người là "hình ảnh của Thiên Chúa", được dựng nên "giống Thiên
Chúa" (St 1,26.27; 9,6), là "con cái Thiên Chúa" (Lc 20,36; Ga
11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10), "được thông phần bản tính
Thiên Chúa" (2 Pr 1,4).
Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con
người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn
tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như
một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất
cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà
Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Trong Đức Kitô, sự khôn ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày
qua sự yếu đuối nhân loại.
Ai chân thành với Đức Kitô, sẽ gặp thấy Ngài chính là kho
báu.
Ai trung thành làm theo lời Đức Kitô, sẽ sở hữu trọn vẹn
kho báu ấy.
Ai nhiệt thành gắn bó với Đức Kitô, sẽ được chia sẽ cùng
Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.
11. Khôn ngoan đích thực – Lm Đam Trần
Văn Điều
Saigon sau biến cố 1975, có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:
* Thập niên 1990, nền kinh tế thị trường nở rộ, dân miền
quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành
đai thành phố Saigon được quy hoạch lại, chính phủ quyết định mở rộng thành phố
đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua
đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng.
Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút chốc trở thành những triệu phú bất
đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng, "kho tàng" thửa ruộng mình.
* Sau đó một thời gian, nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây
dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng lân cận Saigon, khu Long Thành:
nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải
quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về
Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống trong vòng đai qui hoạch của phi
trường mới, vô tình chiếm hữu được "viên ngọc qúi" ngay trên thổ cư
bất động sản của mình.
Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một
phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy
giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie's, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì
đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên
nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn
làm chủ được "viên ngọc qúi" vô tình ấy.
Những câu chuyện thời sự trên giúp ta liên tưởng đến hình
ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn giấu trong ruộng và hình ảnh
người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng
bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc hoặc làm chủ được
thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán "một vốn bốn lời" khiến họ
nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng to lớn của những sản phẩm
đó.
A. Óc khôn ngoan của người đời:
1. Sách Các Vua quyển thứ nhất (1V.3:5.7-12) cho ta thấy:
Salomon lên nối nghiệp Cha là David làm Vua dân Israel. Trẻ người, non kinh
nghiệm, cai trị một vương quốc rộng lớn bao quát cả 12 chi tộc, Salomon đã cầu
khẩn Giavê Thiên Chúa trợ giúp mình. Chúa hứa Vua muốn xin gì, Ngài sẽ ban cho.
Salomon không xin Chúa ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng
bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm tuổi... vốn là những ước mơ chung
con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân
biệt phải trái, đúng sai, tội phúc...mà hành xử dân Chúa cách hợp lý.
Quả thật, điều ông xin rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho
Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử chính xác trong vụ án Con Của Ai
(1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc
rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.
2. Tài liệu lịch sử cũng ghi lại: Từ Hi Thái Hậu vốn là
người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu đá qúi. Năm 1895, bà đã khôn
ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở Đông Lăng, thuộc thành phố
Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo cất tất cả vàng bạc châu báu
vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng vẫn thuộc quyền sở hữu của bà.
Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được hoàn tất: điều độc đáo là 4
ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74 tuổi. Mọi vòng vàng được chôn
theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng được ẩn giấu mãi với thời gian.
Nào ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một
sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật
lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ
thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men
lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào
của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.
Tin đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái
Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn
Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ
Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân
châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch
một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều
đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.
Có người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực,
ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn
ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan
Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
B. Những khôn ngoan ấy có giá trị lâu dài chăng?
1. Salomon nổi tiếng là vị Vua khôn ngoan hơn các Vua
trước ông và sau ông (1V. 3,12). Qủa thật, suốt triều đại Ngài, vương quốc
Israel được thanh bình, thịnh vượng. Nữ hoàng Saba từ phương Nam tìm đến
Saolomon để học hỏi. Vua xây dựng đền thờ cho Chúa ngự trị giữa muôn dân. Óc
khôn ngoan giúp Saolomon lãnh đạo thành công trong việc trị nước.
Thế nhưng sử liệu còn ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều
phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các thần ngoại, mất lòng chung thủy với
Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời
trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều. Salomon đã chết trong sự dại khờ
say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.
2. Người nông dân khéo thăm dò địa chất tốt, biết rõ kho
tàng chôn giấu trong ruộng. Bằng mọi cách, ông khôn ngoan thuyết phục chủ ruộng
bán lại cho ông mảnh đất vàng đó. Có được kho tàng trong tay, ông nghĩ rằng
cuộc đời ông từ nay sẽ giàu có, sung sướng lâu dài.
Thế nhưng cái chết đến bất thình lình, ông ra đi với hai
bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính
toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.
3. Người thương gia biết thẩm định giá trị viên ngọc chính
xác, ông sẵn sàng hy sinh mọi của cải đang có, để mua cho được viên ngọc qúi
báu. Óc khôn ngoan định mức giúp ông tự tin, luôn cho rằng mình đang đầu tư một
món hàng chắc chắn sẽ có lời sau này.
Thế nhưng phải đến ngày ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên
ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái
chết đã chấm dứt mọi lo toan.
4. Salomon, người nông dân và anh lái buôn: có lẽ cả 3 đều
nghĩ rằng mình đã khôn ngoan đắc thủ được món quà giá trị nhất (sự thông minh
sáng suốt, kho tàng vô giá, viên ngọc qúi báu).
Thực tế, những chiếm hữu ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu
chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan mà họ đã suy tính đâu có mang
lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.
C. Đâu là sự khôn ngoan đích thực?
Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu
biết, là nền tảng mọi thông minh thượng trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà
khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường xác tín: "Tôi nhận ra Thiên Chúa
ngay trên đầu viễn vọng kính của tôi". Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi
khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.
1. Chính Thiên Chúa đã ban cho ta thửa ruộng vàng, đất
vàng, có kho tàng cao qúi ẩn giấu trong đó.
* Thửa ruộng vàng, đất vàng ấy chính là Nước Trời.
* Trong Nước Trời ấy có kho tàng cao qúi là Đức Tin Công
Giáo, là Giáo Hội.
Chúa Giêsu phán với các bệnh nhân: "Đức tin của con
đã cứu chữa con". Trong đức Tin, ta học hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân
giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành, xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước
Trời.
Trong Giáo Hội, ta nhận được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn
Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc lãnh nhận các Bí tích...là những
hành trang đưa ta vào Nước Trời.
2. Chính Thiên Chúa cũng đã ban cho ta một viên ngọc qúi
là chính Đức Giêsu Kitô.
* Qua bí tích Thánh Thể, ta có được Đức Giêsu ở trong
mình.
* Chúa Giêsu phải là viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn
trân trọng bảo trì tốt.
"Có Chúa đi với con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có
Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?"
"Có Chúa trong lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong
lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!"
Lạy Chúa! Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
biết Chúa là viên ngọc qúy thật sang giàu,
biết con chỉ là thụ tạo thấp bé, thật nghèo hèn,
để suốt đời, con chỉ say sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích
thực đời con. Amen.
12. Nước Trời giống như kho báu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Tiếp nối bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng
hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ
ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một
lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).
1. Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý (cc.44-46)
"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong
ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả
những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một
thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất
cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy" (cc.44-46).
Hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc có chung một điểm nhấn
quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời không phải chỉ là chuyện của ước
muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của một cuộc tìm kiếm thành công bất
ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả của một cuộc dấn thân đòi phải
dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình đang có không phải là một hành
động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một chọn lựa tự nguyện cùng với niềm
vui lớn lao.
Sứ điệp và trải nghiệm về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi
giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng trở nên tương đối. Tất nhiên những
thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại có giá trị, như sức khoẻ, gia
đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành công, tình bạn, tình yêu đôi
lứa... Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa ẩn mình nơi những sứ điệp và hoạt động của
Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những
giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám
bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta
đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy nhất có khả năng làm cho sự sống của
anh ta trở nên thực chất và giàu có vô cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh
Phaolô: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho
là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt
vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và
tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được thuộc về Người" (Pl
3,7-9)
Cuối cùng, hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc, một lần nữa,
đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như được nói trong 5,3 ("Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó"), khi lặp đi lặp lại: "bán tất cả những
gì mình có" (cc.44.46). Kho báu và viên ngọc quý, như thế, chính là kinh
nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa ("Nước Trời là của họ"). Kinh
nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn. "Kho tàng anh ở đâu thì
lòng anh ở đó" (6,20).
2. Dụ ngôn chiếc lưới (cc.47-50)
"Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả
xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi
nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ
xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng
ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc
nghiến răng" (cc.47-50).
Đây là dụ ngôn cuối cùng trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển
hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ ngôn cuối cùng này có kèm lời
giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp của các dụ ngôn hạt giống và
cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.
Như đàn cá bơi dưới biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác
nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không
có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt
sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số phận khác nhau hoàn toàn.
Sự đối lập "cá tốt" và "cá xấu" tương
ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây xấu trong 7,15-19. Vậy những "cá
xấu" ở đây chính là các ngôn sứ giả, những đồ đệ giả, những con sói đội
lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo Chúa Kitô còn thực chất là chạy
theo những giá trị giả trá và không thực... Trong lời giải thích ở câu 48, họ
bị gọi là những "kẻ xấu".
Số phận của họ sẽ là bị quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau
đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong số phận chung cuộc của họ được
miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: "khóc lóc" và "nghiến
răng". Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là sự vĩnh viễn mất đi sự
sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung cục như thế là nhằm giúp
các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những quyết định hiện tại. Chỉ
những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời đời.
3. Kết luận về các dụ ngôn (cc.51-52)
Kết thúc các dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Anh
em có hiểu tất cả những điều ấy không?" Họ đáp: "Thưa hiểu."52
Người bảo họ: "Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời,
thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn
cái cũ" (cc.51-52).
Giáo huấn dành cho các môn đệ được kết thúc trong khung
cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng
quay lại với chủ đề "hiểu", vốn là chủ đề xuyên suốt Mt 13
(cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, các môn đệ
phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả Mt muốn nhấn mạnh một
sự khác biệt lớn giữa các "bậc thầy" trong cộng đoàn Kitô giáo với
các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư Israel mang trên vai
gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn không cho phép mọi sự
vượt quá giới hạn cổ xưa. Các "kinh sư đã được học hỏi về Nước Trời",
tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không bị lệ thuộc vào truyền
thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là "cái mới" trong kho
tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; "cái cũ" phải lệ thuộc cái mới
đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình trước hết trên nền tảng là
những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên chính mầu nhiệm của Chúa
Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu và đó chính là chìa khoá
giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.
Không ít học giả hiểu rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn
kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Tác giả Mt không có ý nói về tính cách luân lý trong
quyết định và cách hành xử của người đi tìm kho tàng và người đi tìm viên ngọc
quý trong hai dụ ngôn ở đầu bài Tin Mừng hôm nay. Vì vậy, sẽ không chính xác
nếu chúng ta buộc ông phải trả lời về vấn đề này. Điểm nhấn mà ông nhắm tới là
niềm vui của con người gặp được mầu nhiệm Nước Trời, vốn là thực tại tuyệt hảo,
cao quý hơn tất cả mọi giá trị khác.
2. Điều quan trọng không phải là ao ước Nước Trời, mà phải
tìm kiếm, và nhất là phải quyết định, phải chọn lựa và phải nỗ lực suốt đời để
chiếm lấy Nước Trời. Kho tàng quý và viên ngọc quý sẽ không thuộc về chúng ta
nếu chúng ta không dám quyết định bán tất cả những gì mình đang có.
3. Một trong những yếu tố đáng lưu ý là niềm vui tràn ngập
tâm hồn các nhân vật trong hai dụ ngôn kho tàng quý và viên ngọc quý. Niềm vui
đó vừa diễn tả độ lớn của niềm khao khát vừa là yếu tố thúc đẩy người ta mau
mắn quyết định bán tất cả những gì mình đang có. Chúng ta đón nhận mầu nhiệm
Nước Trời trong hân hoan hay miễn cưỡng? Chúng ta sống các mầu nhiệm thánh
trong Đạo với niềm vui hay với sự chán nản mệt mỏi? Sứ điệp mà chúng ta công bố
với thế giới có là tin mừng hay không?
4. Số phận thật của những con cá khi mẻ lưới được kéo lên
sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ
bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm,
chúng ta cần phải trở thành những con cá tốt. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ
thuộc vào chất lượng của cuộc sống hiện tại này.
5. Điểm quy chiếu chính yếu, nền tảng căn bản và đầu tiên,
có tính quyết định, phải là chính Đức Giêsu và đạo lý của Ngài, chứ không phải
là những truyền thống cổ xưa của con người, cho dù là những truyền thống tốt
lành. Chính Đức Giêsu sẽ là tiêu chuẩn đánh giá những truyền thống ấy, những
thực tại "cũ" ấy. Người kinh sư đã được hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời
sẽ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào các truyền thống Do Thái cũ như các kinh sư
Do Thái nữa. Điểm quy chiếu có tính quyết định luôn luôn là chính Chúa Giêsu,
Đấng là chính thực tại Nước Trời giữa chúng ta.
13. Nước Trời – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã yêu thương và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều.
Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành cho đời của ông. Vua cha Đavid
đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng ban cho ông những ơn cần thiết
tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn
khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân
này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua 3, 9). Salômôn đã không xin cho
được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn
khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui và thành công trong đời. Khôn
ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử đúng sai trước mặt Chúa.
Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần,
giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua
Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng ơn khôn ngoan để cai quản dân
chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an bình thịnh vượng. Chúa chấp
nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin và ban cho ngươi tâm hồn
khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi và sau ngươi
không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn ngoan đích thực. Chúng ta
biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc đã ngoan. Thiên Chúa ban
cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ lại dùng sự hiểu biết
nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế. Có nhiều người tuy
tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ sự khôn ngoan
thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ nhưng đã tỏ vẻ
huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ
trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người chúng ta chỉ là
một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó rồi biến đó.
Vua Salômôn là một bậc minh quân. Ông biết phân biệt trời
cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu
đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi những cám dỗ cả về danh, lợi và
thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy theo các thần dân ngoại của các
bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành
cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt đẹp. Ông đã hoàn tất công trình
của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn ngự. Ông khéo léo cai quản gìn
giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho
ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một thời. Danh tiếng của ông vang
khắp miền.
Trong bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng
ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước Trời được ví như một kho tàng, một viên
ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công
đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải là một số kiến thức, một triết thuyết hay
một chủ trương sống, mà là một kho tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước
trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi
xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt
13, 44). Kho tàng này là một món qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng
là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa
Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.
Nước Trời được ví như viên ngọc quý, khi tìm thấy, người
ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc quý là chính ơn cứu độ mà Thiên
Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con
Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý từ trời ban xuống là Đức Kitô đã
hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao đời, có biết bao nhiêu người đã
nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã
tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra
thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm tin. Mọi người đều có thể sở hữu
viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân sủng, của tin yêu và hy vọng.
Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.
Ai tin vào Chúa thì sẽ được lãnh nhận ơn cứu độ.
Một hình ảnh rất cụ thể: Nước trời giống như chiếc lưới
thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47). Nước Trời khởi sự tại trần
gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi thứ cá, có nghĩa là Nước
Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần biến đổi. Trong đời sống
Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành, đạo đức và cũng bao gồm
nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình thức, chỉ mang danh Kitô
hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần sa chìm tội lỗi, sống bê
bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên đường lữ thứ trần gian
cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh luyện con người nên tốt
hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng ta tới quê thật là Nước
Trời.
Chúa Giêsu dậy rằng am tường sự khôn ngoan là biết lợi
dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào Nước Trời. Trong kho tàng của
Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên ngọc quý: Bởi thế, những thầy
thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những
cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời khôn ngoan đã được mạc khải
trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể và cư ngụ
giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về chương trình cứu độ và mở
cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của ơn cứu độ, chúng ta có
thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo của Ngài. Thiên Chúa đã
ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong thời Cựu Ước. Giáo ước đã
dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết bằng Máu châu báu của chính
Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời, chúng ta cần phải tìm hiểu kho
tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Thiên Chúa tạo dựng muôn loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều
có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì, sự gì hay sự sống nào là vô ích.
Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho
nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể khám phá ra tất cả ý nghĩa cao
sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại
và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con người mang hình ảnh của Thiên Chúa
được chia phần vinh quang cách đặc biệt. Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma,
thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi họ, và
những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên
Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết, nhưng tin rằng chúng ta sẽ được
chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa đã gọi chúng ta vào đời và tái
sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Niềm hy vọng của chúng ta là
cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau hết.
Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa Nước Trời đón nhận những ai tin
vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối bước của Chúa và trung thành thực
thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết
gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để sinh hoa kết quả tốt lành và
thánh thiện.
14. Nước Trời quý giá – Đam. Lê Đức
Thiện
Bài Tin Mừng thuật lại ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn
kho báu giấu trong ruộng, dụ ngôn viên ngọc quý và dụ ngôn cái lưới đánh cá. Dụ
ngôn cái lưới đánh cá, ý nghĩa gần giống như dụ ngôn cỏ lùng, đã được nói tới
vào Chúa Nhật tuần trước. Vì thế, ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai dụ ngôn kho
báu và viên ngọc quý. Hai dụ ngôn này có ý nghĩa tương tự nhau.
Trước hết, chúng ta thấy hai dụ ngôn này đều nhằm mục đích
diễn tả sự quý giá tột bậc của Nước Trời, không một thứ gì ở trần gian quý giá
bằng hay có thể sánh ví được. Tuy nhiên, trong dụ ngôn thứ nhất, Nước Trời quý
giá vì đem lại lợi ích vô cùng to lớn, là được hạnh phúc đời đời, còn dụ ngôn
thứ hai, Nước Trời quý vì vẻ vinh quang tuyệt vời của nó. Trong dụ ngôn trước,
kho báu đến với người nông dân một cách ngẫu nhiên, tình cờ, tức là nhấn mạnh
đến hạnh phúc Nước Trời do tình yêu Thiên Chúa ban nhưng không. Còn trong dụ
ngôn sau cho biết ông thương gia phải vất vả tìm kiếm viên ngọc quý tức là muốn
nói đến thái độ phải cộng tác tích cực vào việc chiếm hữu Nước Trời. Nhưng
trong bất cứ trường hợp nào, Nước Trời luôn luôn là điều quý giá nhất, đòi hỏi
người ta phải hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được.
Đàng khác, hai dụ ngôn này còn cho chúng ta thấy thái độ
khôn ngoan của người tìm được kho báu cũng như của người tìm được viên ngọc
quý. Họ bán hết gia tài sản nghiệp để mua, vì họ biết chắc rằng: kho báu kia,
viên ngọc quý kia đáng giá hơn gia tài sản nghiệp họ đang có. Và đây cũng chính
là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: người nào biết đi tìm Nước Trời trước
nhất, dám hy sinh tất cả những gì mình có, kể cả mạng sống, để chiếm đoạt cho
bằng được, đó là người khôn ngoan. Chúng ta biết, khôn ngoan là một ân huệ, một
đức tính cao quý, làm cho trí khôn chúng ta, trong mọi hoàn cảnh, mọi công
việc, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy
hướng tất cả về mục đích sau cùng.
Tuy nhiên, khôn ngoan cũng có nhiều thứ: khôn ngoan xác
thịt, khôn ngoan tự nhiên và khôn ngoan siêu nhiên. Khôn ngoan xác thịt là cái
khôn chỉ biết khéo léo tìm mọi cách để thực hiện những ước muốn tội lỗi, để
thỏa mãn những khát khao của dục vọng, danh giá và tiền tài. Chẳng hạn vua
Đa-vít, sau khi phải lòng và sa ngã với bà Bét-sa-bê, ông đã khôn khéo biết
bao: nhà vua đã bày mưu tính kế để cho U-ri-a, chồng bà Bét-sa-bê về thăm nhà
và ép ông uống rượu để giấu nhẹm tội ngoại tình của mình. Không thành công ông
lại khôn khéo làm cho U-ri-a chết ngoài mặt trận để được tự do thoải mái kết
hôn với bà Bét-sa-bê. Chúng ta có thể nói: bao nhiêu mánh lới, bao nhiêu thủ
đoạn, bao nhiêu cách thức để đạt được mục đích chơi bời, thỏa mãn bản năng,... bấy
nhiêu trường hợp đều cần đến trí óc suy nghĩ, xếp đặt, lừa dối, trá hình khôn
ngoan. Nhưng khôn ngoan ấy là khôn ngoan xác thịt. Cái khôn mang lại những
thiệt thòi, đổ vỡ, hối hận. Cái khôn mà người liêm khiết khinh chê, miệng đời
đàm tiếu, mai mỉa. Cái khôn mà thánh Phao-lô đã kết án, vì nó đối nghịch lại
Thiên Chúa và thiệt hại cho linh hồn.
Tiếp đến, khôn ngoan tự nhiên là cái khôn chỉ khéo léo lựa
chọn những phương thế tốt đẹp để đạt mục đích tự nhiên mà không quy về mục đích
sau cùng. Chẳng hạn tài khéo trong việc buôn bán, tính toán giỏi trong công
việc làm ăn, bặt thiệp trong việc giao tế với mọi người. Đó là sự khôn ngoan để
dùng người, khôn ngoan để được vật chất, lợi lộc trần gian. Người phú hộ trong
Tin Mừng đã khôn ngoan kiểu này: thấy mùa màng bội thu, không đủ chỗ chứa hoa
lợi, nên ông tính toán: phá kho lẫm cũ, xây kho lẫm mới rộng lớn hơn. Bảo đảm
rồi, yên chí lớn nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng Chúa đã bảo: "Người khờ dại,
chính đêm nay ngươi chết, thì của cải ngươi thu tích để lại cho ai?". Thánh
Mátthêu cũng ghi lại lời Chúa Giêsu kết án thứ khôn ngoan này: "Được lời
lãi cả thế gian, mà không được Nước Trời thì ích gì?".
Sau hết, khôn ngoan đích thực là cái khôn của những người,
trong mọi hoàn cảnh, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng
thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng. Người có khôn ngoan này biết
khước từ những khoái cảm chốc lát, vì biết rằng nó sẽ khuấy động lương tâm, làm
mất bình an, làm phai nhạt hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn. Họ biết lánh xa nếp
sống dễ dãi, đua đòi, vì sợ xác thịt được voi sẽ đòi tiên, sợ lời cảnh cáo:
"Ai gieo trong nguy hiểm, sẽ ngã trong hiểm nguy". Người có thứ khôn
ngoan này biết suy rằng: không phải bất cứ cái gì thiên hạ làm được là mình
cũng có thể làm được. Họ biết rằng: có nhường nhịn đôi chút thì cũng chẳng mất
mát gì, nhưng chắc chắn sẽ được đền bù. Họ biết rằng: có phải ép mình cầu
nguyện nửa giờ, dự thánh lễ một tiếng, chỉ là cách đổi công khó nhọc chóng qua
để lấy những công phúc to lớn hơn. Người có thứ khôn ngoan này, biết lợi dụng
những cái trước mắt để sinh ích lợi sau này, nhưng luôn cảnh giác: không vì cái
lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời
là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải
hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời là một dịp tiện, moi ngày sống là một
dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt
được Nước Trời hay không là do chính chúng ta.
15. Bán tất cả để mua viên ngọc quý –
Đỗ Lực
Hành trình của đời người là một hành trình đi tìm kho báu,
nghĩa là đi tìm hạnh phúc. Đó là một mục tiêu chính đáng. Tuy nhiên, như Đức
Giêsu đã nói: "Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó" (Lc
12,34), chúng ta hãy tự hỏi xem hạnh phúc mà chúng ta đang tìm kiếm thực sự là
gì? Có phải chăng đó là tiền bạc, là quyền uy, danh vọng và khoái lạc? Chúng có
đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc thật sự không, hay sự giàu có về của
cải vật chất chỉ làm cho con người thêm lo âu, và lối sống hưởng thụ chỉ khiến
người ta thêm trống rỗng?
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết
rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà con người cần tìm kiếm chính là
Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc quý, một kho tàng vô giá mà bất
cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối với Thiên Chúa, họ là những
người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên
rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là một ảo tưởng. Nước Trời đem lại
cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong
cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi mọi sự mê hoặc của những kho tàng
dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta,
cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trọn vẹn trên
Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Thiên
Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính là một kho tàng thật sự. Nhờ đó
chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ
có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều chúng ta hằng khao khát kiếm
tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin (Mc 9,23; 10,27).
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giống như người nông dân và
người buôn ngọc, khi phát hiện được viên ngọc quý giá, họ đã ra đi, bán tất cả
những gì mình có mà mua cho bằng được viên ngọc, xin cho chúng con cũng biết
can đảm và vui tươi, sẵn sàng ra đi, bán tất cả nhửng gì mình có để mua lấy
hạnh phúc Nước Trời.
Xin cho lòng chúng con luôn thanh thoát trước những kho báu
phù phiếm ở đời này, biến "bán" đi những đam mê, ích kỷ của mình mà
mua lấy kho báu bất diệt trên trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con đừng bao giờ quay lưng lại
trước những lời mời gọi của Chúa; không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ, tránh cái
nhìn yêu thương mà Chúa luôn dành cho chúng con. Amen.
16. Vui mừng bán tất cả
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ tình cờ
gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời, có
giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất giống nhau: ra đi, bán tất
cả những gì mình có và mua... Không thấy có dấu vết của sự nuối tiếc hay ngần
ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và tràn ngập niềm vui thanh thản. Ai
cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm được kho báu và viên ngọc. Cuộc
đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người trên được coi là bình thường. Ở địa
vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là những thứ thấy được, có giá trị
hiển nhiên và hết sức hấp dẫn. Chúng hứa hẹn một sự giàu sang mà ai cũng thèm
thuồng, nên người ta dễ bán tất cả để mua được chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não trạng hưởng thụ vật chất, chúng ta
thường coi kho báu duy nhất ở đời này là tiền bạc, quyền uy và khoái lạc. Khi
nói Nước Trời là kho báu bền vững, Đức Giêsu là viên ngọc quý đích thực, chúng
ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ, xa xôi, ít lôi cuốn, thậm chí không có thật.
Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi từ bỏ, dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy
sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Đức Giêsu là viên ngọc quý, và Nước
Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những thực tại vô hình và ngây ngất trước
giá trị của chúng, người ấy mới hồn nhiên và vui tươi đánh đổi tất cả kho báu
phù phiếm của đời này để lấy kho báu bất diệt trên trời (x.Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một biến cố, một người bạn, qua một
cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm, tôi chợt gặp Đức Giêsu như viên
ngọc ngời sáng, hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên khỏi cái tôi tầm thường: tôi có
dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình để mua lấy tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta
chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với người dám bán tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các tu sĩ thường được coi là những người đã bỏ mọi sự mà
theo Chúa. Theo ý bạn, giáo dân có phải từ bỏ mọi sự để theo Ngài không?
Nước Trời ai cũng mua được, dù bạn nghèo đến mấy đi nữa.
Chỉ cần bạn bán đi tất cả những gì bạn có. Có khi nào bạn bán tất cả mà lòng
vẫn vui không? Có khi nào bạn hy sinh mà ngại ngần, tiếc nuối?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc là những điều hấp dẫn
chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới
đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi bán tất cả những gì
chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng trước những
lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
17. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC TRỜI.
Vua Salomon nổi tiếng là vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông
đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo léo không khác gì Bao Công. Bà
hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải đến nghe sự khôn ngoan của ông.
Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn lựa, ông đã không xin được
trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn khôn ngoan. Lời cầu xin của
ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban cho ông mọi điều mong muốn.
Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn khôn ngoan và biết khôn ngoan
trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa chọn Nước Trời như những
người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Những người trong bài Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao
thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy trong thái độ bôn ba đây đó, khảo
sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng.
Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi
còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm cho ra Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết phân định. Đời sống đem đến cho ta
đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm
cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân định. Lựa chọn những giá trị cao
quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá xấu. Biết giá trị của viên ngọc
dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn. Biết giá trị của kho tàng dù nó
còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết giá trị của Nước Trời dù Nước
Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Họ khôn ngoan vì dám dấn thân. Khi đã biết được giá trị
Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn thân trọn vẹn nên bán tất cả
những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc quý. Dấn thân quyết liệt vì bán
hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ, chỉ còn gắn bó với quê hương mới
mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ vì một viên ngọc. Dấn thân như
thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao khát mãnh liệt. Đó chính là
thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết từ bỏ. Bán tất cả những gì mình có
là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một
nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương lai bấp bênh thì thật là phiêu
lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác. Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên
ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức
lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất
thành. Chần chừ một chút là hỏng việc. Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.
Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ
cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì họ đã dứt khoát với những gì
xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với kho tàng mới tìm thấy.
Đó là những thái độ khôn ngoan đáng cho ta noi theo trên
con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi tìm. Biết phân định giá trị. Biết
mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến cùng.
Lạy Chúa, xin ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chọn
Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có thực sự coi Nước Trời là kho tàng quý giá nhất
không?
2) Bạn đã thực sự bán hết mọi sự để mua Nước Trời chưa?
Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành
người khôn ngoan thực sự không?
18. Kho báu Nước Trời
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Aman là một làng chài lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên
ngoài chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ
cái nghèo vật chất không ngăn cản họ sống hạnh phúc thật sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá này đều sống
trong an vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là
Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một thùng rất nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở
nhanh thùng ra và rất đổi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc
quý. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà
hiền triết A-ki-an sống gần bên.
Sô-pốt hỏi:
- "Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt
ngọc này?". Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi
người một hạt và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế nhà hiền triết liền trả lời cách khô khan:
- Hãy đem đổ lại xuống biển!
Anh chị em thân mến,
"Thưa ngài chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc
quý này?". Câu hỏi của hai anh em Sô-pốt và Sô-pa làm cho chúng ta nghĩ
ngay đến câu hỏi của chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: "Thưa Thầy,
tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Giống như câu trả lời của nhà hiền
triết trong câu chuyện, Chúa Giêsu không đề nghị với chàng thanh niên hãy lo
tích chứa của cải thêm để được hạnh phúc, nhưng Ngài bảo phải về bán đi tất cả
những gì anh có rồi đến theo Ngài. Ngài là tất cả. Có Ngài là có được tất cả.
Ngài là hạnh phúc.
Chàng thanh niên giàu có không dám bán những gì anh sở hữu
mà cho người nghèo, rồi theo Đức Giêsu. Anh chưa hiểu được rằng tình bạn với
Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, chính Ngài là sự sống đời đời mà anh đang
mong mỏi kiếm tìm (Mt 19,16-22). Bởi vậy, anh không dám bỏ sự an toàn hiện tại
của mình để đi theo một Đấng không có chỗ ngả đầu (Mt 8,20). Anh sợ mình
"thả mồi bắt bóng".
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu vừa kể cho chúng ta hôm nay,
chúng ta thấy người nông dân nghèo tình cờ tìm được kho báu trong ruộng cũng
như người buôn ngọc bất ngờ tìm được một viên ngọc quý, cả hai lật đật hối hả
trở về nhà, trong đầu chỉ mang một ý nghĩ duy nhất là phải mua ngay, nếu không
sẽ lỡ cơ hội ngàn vàng. Và để mua ngay thì phải bán ngay lập tức những gì mình
đang có. Như thế, kho báu thật có giá trị hơn gấp bội nhà cửa, tài sản của anh
nông dân; viên ngọc quý làm át đi vẻ ngời sáng của những viên ngọc người thương
gia hiện có. Kho báu và viên ngọc có một sức hấp dẫn kỳ diệu. Từ ngày gặp được,
cả hai thấy mình phải hciêm1 lấy, dù phải đánh đổi bắng tất cả tài sản của
mình.
Cả hai người bán tất cả những gì mình có, người buôn ngọc
chắc chắn phải bán nhiều hơn anh nông dân nghèo, nhưng cả hai đều phải bán tất
cả. Bán "cái tất cả cũ"để mua được kho báu và ngọc quý là "cái
tất cả mới". Chỉ cần được "cái tất cả mới"này là cả hai người
được mãn nguyện, cuộc đời không còn như xưa nữa. Chính vì thế, việc bán cái cũ
không diễn ra trong nuối tiếc và dằn vặt, nhưng trong niềm vui chan chứa. Tuy
nhiên, người ngoài có thể không hiểu nổi thái độ của hai người. Một thửa đất,
một viên ngọc: có cần mất tất cả để mua được không? Cuối cùng, chỉ ai thấy mới
hiểu được.
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu chuyện sau đây mà
Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị ẩn tu trong sa mạc và hỏi: "Thưa
cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ, tại sao
có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó lắm người bỏ về, và có
ít người bền đỗ?". Khi ấy, vị ẩn tu trả lời: "Chuyện này giống như
một con chó đuổi theo một con thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác
nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo. Chẳng bao lâu, những con sau này
đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên, lúc nào cũng tiếp tục chạy
cho đến khi bắt được con thỏ, còn những con chó kia không thấy! Vị ẩn tu muốn
nói rằng, chỉ có người nào thấy được Đấng mình theo đuổi, người ấy mới dám theo
Đấng ấy tới cùng, dù phải chịu nhiều hy sinh từ bỏ". Vậy vấn đề chủ yếu ở
đây là: chúng ta có thấy Nước Trời, là kho báu hay có thấy Đức Kitô là viên
ngọc quý không? Nếu chúng ta thực sự thấy và xác tín như vậy, thì việc từ bỏ
mọi sự chúng ta có, sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng, thưa anh chị em, làm sao chúng ta có thể thấy Nước
Trời là kho báu khi chúng ta vẫn bị giam hãm trong cái thế giới khả giác này,
khi thế gian hằng dạy cho chúng ta biết kho báu duy nhất là tiền của, quyền lực
và khoái lạc? Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi lối đánh giá của người đời
và cảm nếm được tính ưu việt của Nước Trời?
Có một người đã sẵn sàng bán tất cả của cải, vật chất cũng
như tinh thần, để được Đức Kitô: Thánh Phaolô. Ngài đã nói: "Tôi coi tất
cả thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của
tôi, vì Ngài, tôi đánh mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô
và được kết hợp với Ngài" (Pl 3,8-9). Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự vì đã
cảm nghiệm được kho báu lớn lao và quý giá mà ngài lãnh nhận.
Thì ra Nước Trời mới thật là kho báu, là viên ngọc mà con
người đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm cho bằng được.
Đây mới là sự khôn ngoan đích thực đem lại hạnh phúc vĩnh cửu (x. 1V 3,4-14)
"Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?".
Vấn đề đã rõ ràng. Công việc quyết định lựa chọn dứt khoát chỉ còn tuỳ ở mỗi
người chúng ta. Hãy chọn cho đúng thứ thiệt. Hãy chọn cho kịp thời, kẻo trễ mà
"mất cả chì lẫn chài"khi mẻ lưới đã được kéo lên bờ và số phận của
những con cá đã được quyết định, không thể thay đổi được nữa, như trong dụ ngôn
kết thúc Tin Mừng hôm nay.
19. Viên ngọc
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra ba hình ảnh: Đó là kho
tàng, viên ngọc và mẻ lưới. Cả ba đều có chung một lý tưởng: Nước trời là một
cái gì quý giá, và muốn chiếm hữu, chúng ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả.
Trong cuộc sống, chúng ta thấy có những thành công sáng
chói, nhưng rất có thể đó chỉ là một lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi
đứng trước ngưỡng cửa vĩnh cửu, tâm hồn họ đã bị mục rữa từ lâu.
Trái lại, có những người âm thầm chịu đựng và làm việc.
Cuộc sống của họ thì tăm tối, còn bản thân họ thì nhiều khi bị ghét bỏ và khinh
chê, nhưng thực sự họ là những người được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Tới đây tôi xin kể lại một mẫu gương của ông hoàng
Vladimir Ghyka. Ong là một người thuộc hoàng tộc, được ăn học đến nơi đến chốn
và được thừa hưởng nhiều của cải vật chất. Ông có thể sống một cuộc sống nhàn
hạ và sung sướng, cũng như có một địa vị cao sang ngoài xã hội.
Thế nhưng, ông đã từ chối những quyến rũ trần gian, những
vui thú mà cuộc sống vương giả đem lại. Ông đã chọn cho mình viên ngọc quý của
Phúc Âm. Ông sẵn sàng từ bỏ tất cả để chiếm lấy viên ngọc quý ấy.
Từ bỏ tất cả, ông đã sống một cuộc sống nghèo túng giữa
những kẻ nghèo túng. Đời ông kể từ nay thuộc hẳn về Thiên Chúa và những người
bất hạnh. Ông đã qua đời vào năm 80 tuổi trong ngục thất, nơi mà kẻ thù đã giam
giữ ông.
Dưới cặp mắt của người đời, thì ông đã thất bại hoàn toàn,
cũng như Chúa Giêsu đã thất bại hoàn toàn khi bị treo trên thập giá. Thế nhưng,
chính cái kết thúc bi thương ấy lại mở ra con đường vinh quang mà chúng ta
không thể nào mường tượng nổi.
Như người lái buôn khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã
bán tất cả những gì mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa
chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Với chúng ta cũng thế, nếu chúng ta hiểu được hồng ân của
Thiên Chúa, chúng ta cũng phải hành động như vậy. Thế nhưng có biết bao nhiêu
người khao khát hạnh phúc, đã lầm lẫn một cách tệ hại khi chọn lựa cho mình
những sự chóng qua, để rồi ngay từ đời này họ đã cảm nghiệm được sự bẽ bàng và
cay đắng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã khuyên nhủ chúng ta:
- Các con hãy thu tích cho mình những kho tàng trên trời,
nơi mà mối mọt không phá hủy và kẻ trộm không đục tường khoét vách mà lấy đi.
Bởi vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.
Trên con đường dẫn tới nước trời, chúng ta rất dễ dàng bị
lạc lối, bởi vì chúng ta tìm hạnh phúc nơi không có bóng dáng của nó. Trái tim
chúng ta thật lớn lao, nhưng chúng ta lại chất đầy nó bằng những ảo ảnh phù du.
Chúng ta như những con thiêu thân lao mình vào lửa để rồi, để rồi lửa của đam
mê và dục vọng sai trái đã đốt cháy bản thân và cuộc đời chúng ta.
Bởi đó, mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm xem: chúng ta
có dám hy sinh để chiếm lấy nước trời và chúng ta có dám từ bỏ để bước theo
Chúa hay không?
20. Kho báu và ngọc quý – R. Veritas
(Trích trong 'Sống Tin Mừng')
Một em học sinh thuộc câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa
Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng, rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai
tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, chiều về
em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và
ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương
trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi nào sinh hoạt đó không cản trở
chương trình học và luyện tập bơi lội của em.
Có người tò mò hỏi, tại sao em dám làm như vậy?
Em trả lời cách xác quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch
trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.
Trên đời có nhiều người dám hy sinh tất cả cho mục đích,
hay lý tưởng mà họ đã chọn. Phần chúng ta thì sao? Nước Trời, ơn cứu rỗi đã
được Chúa ban cho chúng ta, chúng ta những người Kitô hữu hôm nay có hiểu, đánh
giá và chấp nhận như là mục đích cuối cùng của chúng ta hay chưa? Chúng ta có
chấp nhận hy sinh những điều khác để chiếm đoạt được Nước Thiên Chúa hay không?
Người Kitô hữu theo Chúa có một thái độ dấn thân, quyết
chọn Chúa và những gì thuộc về Ngài như là mục tiêu duy nhất của lòng trí, của
mọi hành động và lời nói của mình, sao cho hành động và lời nói của mình được
hòa hợp với những gì mà Chúa dạy. Nhiều khi con cái thế gian dấn thân hy sinh
cho những lợi lộc vật chất, cho những mục đích trần thế như đoạt giải thể thao
trong thế vận hội, đạt được một địa vị xã hội nào đó, v.v... nhiều hơn là chúng
ta thực hiện giới răn của Chúa.
Thánh Phaolô tông đồ nơi thư thứ nhất Corintô đã nói như
sau: "Mọi lực sĩ sống trong thời gian luyện tập, chấp nhận theo một kỷ
luật nghiêm khắc đến độ để đạt tới phần thưởng có thể bị hư nát. Nhưng chúng ta
thì khác, chúng ta luyện tập những điều không hư nát" (1Cr 9,25).
Vào giây phút cuối cùng cuộc đời, khi chúng ta đối diện
với cái chết của chính mình thì chỉ cần một điều cần thiết mà thôi, đó không
phải là chúng ta có lãnh được nhiều giải thưởng này nọ hay không, có đạt được
hạt ngọc này, hạt ngọc khác hay không, nhưng điều quan trọng là chúng ta đã trở
nên như thế nào để đạt được viên ngọc quí hay kho tàng là chính Nước Chúa, là
chính ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta cần xác tín điều này, và khi đã
xác tín thì sẽ được biểu lộ trong đời sống rằng, trên đời này không có gì cao
quí đối với chúng ta hơn là Nước Chúa và chúng ta càng phải cố gắng làm sao để
đạt được Nước này.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Thánh Phaolô đã ý thức điều
đó trong chính kinh nghiệm sống của ngài khi ngài tâm sự với các tín hữu
Corintô như sau: "Kho tàng ấy, kho tàng Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng
ta, chúng ta lại chứa trong những bình sành dễ vỡ, để chứng tỏ quyền năng phát
xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta. Chúng ta bị dồn ép tư bề nhưng
không bị đè bẹp, hoang mang nhưng không bị tuyệt vọng, bị bạc đãi nhưng không
bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng ta luôn luôn mang nơi
thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi
thân phận chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì
Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của
chúng ta".
Thiên Chúa ban cho chúng ta kho tàng ân sủng của Ngài, và
để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần phải chiến đấu chống lại những cám
dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với tinh thần trần tục hóa của thế gian
để được trung thành với ơn Chúa. Đây là điều mà thánh Phaolô gọi là: "Chúng
ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu
cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng giòn của chúng ta. Thật vậy, đang sống
nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng
được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta".
Để sống trung thành với kho tàng đức tin, với kho tàng ân
sủng mà Chúa ban cho chúng ta trong thế giới có nhiều cám dỗ này, chúng ta cần
phải cố gắng hy sinh, cần phải cầu xin ơn Chúa ban cho mỗi người chúng ta, giúp
chúng ta luôn trung thành với kho tàng đức tin, kho tàng ân sủng mà làm cho kho
tàng đức tin đó, kho tàng ân sủng đó phát triển đến mức độ hoàn hảo nơi mỗi
người chúng ta. Amen.
21. Kho tàng
Dụ ngôn kho tàng chôn dấu trong thửa ruộng là một câu
chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho
nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như thế.
Ngày hôm ấy Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn
lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã quị và gẫy mất một chân vì gặp phải một
cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy
xuống nâng chân con bò lên.
Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn
thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ:
- Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu
lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở
về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền, hầu
tậu lại thửa ruộng, bởi vì anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc
mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá
hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ
ngày anh ta làm chủ mảnh đất, thì anh ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong
mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để
nói về Nước Trời. Việc chôn dấu vàng bạc cũng là một việc thông thường ở xã hội
Việt Nam nơi những người giàu có, nhất là trong thời buổi loạn lạc.
Rất có thể một tai nạn bất ngờ xảy ra, người chủ của kho
tàng đã phải ra đi, hay đã chết một cách đột ngột mà không có người thừa kế.
Kho tàng trở thành vô chủ, bị vùi dưới ba tấc đất mà chẳng một ai hay biết.
Mặc dù câu chuyện không đưa ra một kết luận hiển nhiên,
nhưng ai cũng biết rằng kể từ nay anh nông dân may mắn ấy đã có được một cuộc
sống an nhàn.
Tuy nhiên đều quan trọng đối với chúng ta chính là thái độ
của anh ta: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng, tuy nhiên anh ta cũng không
quên cẩn thận: bới đất và vùi lại cho kỹ hơn, rồi vội chạy về nhà, tìm đủ mọi
cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay mượn bà con lối xóm, để có
đủ số tiền tậu thửa ruộng ấy.
Hành động của anh ta thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp
lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả chỉ vì kho tàng quí giá ấy.
Hình ảnh anh nông dân cũng là hình ảnh của mỗi người chúng
ta. Kho tàng của chúng ta là Nước Trời, là Tin Mừng, hay nói một cách mạnh mẽ
hơn, là chính Đức Kitô. Tuy nhiên thái độ của chúng ta là như thế nào?
Rất có thể chúng ta đã háo hấc về Chúa, nhưng khi Ngài đòi
hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn
bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của Ngài, như chàng thanh niên giàu có
trong Phúc Âm.
Tìm gặp Chúa không phải chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe
lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm ngơ và quên lãng. Điều quan trọng
là phải đáp trả với tất cả con người, có nghĩa là phải sống và thực thi những
điều Ngài truyền dạy.
Tin Chúa không phải chỉ là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn
bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả
cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu thương.
Đã tin Chúa, đã gặp Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi
thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh
vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở
thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói trước vẻ huy hòang của kho tàng
vừa tìm thấy.
Đức Kitô chính là kho tàng quí giá, mà mối mọt không thể
đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy dám đánh đổi tất cả để có được kho
tàng quí giá ấy. Bởi vì, có Đức Kitô là có tình yêu và hạnh phúc bất diệt. Như
vậy, có Đức Kitô là có tất cả.
22. Kho tàng
Sau khi dùng những dụ ngôn nói về Nước Trời, Chúa Giêsu
hỏi dân chúng: "Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Ngài muốn
chúng ta hiểu điều gì?
1. Chúa Giêsu nói về kho tàng và viên ngọc mà người cày
ruộng và buôn ngọc dám bán tất cả những gì họ có để mua lấy nó. Bởi đó là giá
trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc đời họ. Đó là điều làm cho
họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự trên trần gian để có nó.
Có một tu sĩ nổi tiếng là khôn ngoan đi đến một làng quê
và ngồi nghỉ qua đêm dưới một gốc cây. Một người dân làng đi qua thấy ngài bèn
hỏi: "Hòn đá! Hòn đá! Xin ngài hãy cho tôi hòn đá quý!" "Hòn đá
gì?" tu sĩ hỏi. "Đêm hôm qua Thiên Chúa đã hiện ra với tôi trong giấc
mơ", ông dân làng nói, "Và bảo với tôi rằng nếu tôi đi ra ngoài làng
vào lúc ban tối, tôi sẽ gặp một vị khôn ngoan cho tôi một hòn đá quý. Nó sẽ làm
cho tôi giầu có vĩnh viễn". Vị tu sĩ lục lọi trong túi sách, lấy ra một
hòn đá. "Có lẽ ông muốn hòn đá này phải không?" vừa hỏi ngài vừa đưa
cho ông dân làng hòn đá, "Tôi đã thấy nó trên lối đi vào rừng cách đây mấy
ngày. Ông có thể cầm lấy nó đi". Người đàn ông ngạc nhiên nhìn hòn đá. Đó
là cục kim cương. Có lẽ là cục kim cương lớn nhất trên thế giới, vì nó to bằng
cái đầu người. Ông ôm lấy cục kim cương và bước đi. Suốt đêm hôm ấy, ông lăn
lộn trên giường, không cách nào ngủ được. Ngày hôm sau, ngay lúc tảng sáng, ông
đi ra đánh thức vị tu sĩ đang ngủ dưới gốc cây thức dậy và nói, "Xin trả
lại cho ngài cục kim cương này, tôi muốn xin ngài cái điều đã làm cho ngài có
thể cho đi cục kim cương này một cách dễ dàng".
Điều gì là giá trị nhất mang lại nguồn vui trong cuộc sống
của chúng ta? Nếu bạn phải vứt bỏ tất cả mọi sự trên đời, cái gì khó nhất cho
bạn phải khước từ: gia đình, sức khỏe, nghề nghiệp, hay của cải? Cái mà bạn
không thể sống mà không có đó sẽ rất khác nhau đối với từng người, và sự chọn
lựa cái giá trị tối thượng của người này xem ra lại rất phi lý đối với người
khác!
2. Đức tin là món quà được ban nhưng không của Thiên Chúa,
nhưng cũng có thể là kết quả của sự kiếm tìm thao thức lâu dài của con người.
Có người may mắn giống như anh nông dân cày ruộng, họ tìm thấy và đón nhận đức
tin một cách dễ dàng ngay những biến cố hằng ngày của cuộc sống. Có người lại
giống như anh buôn ngọc, phải vất vả, lao nhọc, và trăn trở cả đời trên cuộc
hành trình trí thức và tinh thần mới gặp gỡ được đức tin. Lại có người đã được
mời gọi đến với đức tin rồi, nhưng những thiệt thòi, khó khăn và thử thách do
chính đức tin gây ra lại làm họ bị mất đức tin!
Trong cuốn tiểu thuyết The Pearl, John Steinbeck đã viết
lại nội dung của dụ ngôn viên ngọc quý qua câu chuyện kể về cuộc đời của Kino,
một người Mễ Tây Cơ nghèo khổ làm nghề thợ lặn kiếm tìm ngọc trai dưới biển để
nuôi vợ con sống qua ngày. Rồi bỗng một ngày anh tìm được viên ngọc sáng ngời
tên là "Viên ngọc của thế giới". Thoạt tiên, anh rất phấn khởi, nhưng
sau đó anh bị bao vây bởi những kẻ buôn bán ngọc trai bất lương, và những người
hàng xóm ghen tức. Ngay cả đến bác sĩ cũng đòi trao đổi việc chữa trị cho đứa
con của anh bị bọ cạp cắn để chiếm lấy viên ngọc. Sau hàng loạt những tai ương
xảy ra, Kino đã ra biển và ném viên ngọc quý giá trở về đáy biển. Có những điều
đắt giá tới độ phải trả bằng giá máu của cuộc sống.
3. Sau khi đã nhận ra kho tàng, cả anh thợ cày ruộng lẫn
người buôn ngọc đều đã biết cái gì là quan trọng, họ phải chọn lựa và đi đến
một quyết định. Là một Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái
gì? Chúa Giêsu luôn kêu gọi chúng ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời
mọc của trần thế: "Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống
gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân ngoại vẫn tìm kiếm... Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho.
Vào thế kỷ thứ 18, một người Ý tên là Alessandra Mazoni,
đã viết một cuốn sách nghiên cứu về những điều kiện xã hội của dân chúng sống trong
vùng Lombardy, phía bắc nước Ý ở thế kỷ thứ 17 như sau:
"Bao lâu còn sống trên trần gian, con người ta giống
như một người bệnh nằm trên một cái giường, dù ít hay nhiều gì cũng đều không
cảm thấy thoải mái, đang khi nhìn sang những cái giường khác có vẻ đẹp đẽ, và
êm ái với những mơ tưởng rằng ắt hẳn hắn sẽ thoải mái hơn nếu nằm nghỉ trên
những cái giường đó. Rồi hắn đồng ý trao đổi cái giường đang nằm; nhưng khi đặt
lưng xuống giường khác hắn lại lo sợ, trước khi bắt đầu nằm, hắn đè xuống thật
sâu, cảm thấy chỗ này có một điểm nhọn đâm vào mình hắn, chỗ kia có một cục u
lớn quá cứng. Tóm lại, chúng ta tiến đến cùng một câu chuyện kể đi kể lại. Và
vì lý do này... chúng ta nên nhắm vào việc hành động tốt hơn là sống ở đâu
tốt...
Sách Giáo lý Công giáo cũng đã khuyên dạy chúng ta rằng:
Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài dụ ngôn của Ngài, nét
đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn này, Ngài mời người ta
tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người ta một sự chọn lựa
triệt để: để được Nước Trời, người ta phải cho tất cả, và lời nói không đủ, còn
cần phải có những hành vi".
23. Kho báu
Một hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng,
ông vội chạy theo kêu lên: "Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của
ông". Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi: "Viên ngọc quý nào?". Ông ta
nói: "Đêm qua tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc
quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giầu có nhất trên
đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý đó". Nhà tu hành tốt bụng móc trong
bị ra và nói: "Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên
kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông".
Người ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi
ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: "Từ nay mình sẽ là người giầu có, không
phải vất vả gì nữa". Thế nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông
bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm
nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón
rén đến gần đánh thức dậy và nói: "Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc
quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm
hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc
xót".
Viên ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành
kia có được nghị lực khước từ mọi giầu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi
cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng là hai
dụ ngôn "kho báu" và "viên ngọc quý". Kho báu và viên ngọc
quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời.
Đúng vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời,
không của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi,
và mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh "kho báu" và "viên ngọc
quý" vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì
quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó, chính
vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia có kho báu ở ngay trong thửa
ruộng của mình mà không biết, hay người có viên ngọc quý kia cũng thế, họ nắm
trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng giống như câu chuyện "Ông già xứ
Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông
già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý,
ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn
lội đi tìm hết nước này sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu cả,
cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống
sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim
cương khổng lồ ngay trong nông trại đó. Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi
ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất
có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc nước trời và những hồng ân của nước ấy mà
chúng ta không biết chăng? Đây không phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được
thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cửu, chỉ được
thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu
muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước trời như kho báu, như viên ngọc quý mà
chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm hữu. Quả thực, mọi người Kitô hữu chúng
ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời. Công việc tìm kiếm này không chỉ giới
hạn trong một quãng thời gian hay trong một số công việc nào, nhưng suốt cả
cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì nước trời là cái giá trị nhất chúng ta
phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì
chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và nước trời sẽ ban cho chúng
ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Vì thế,
chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng đánh đổi tất cả những gì chúng
ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước trời đây là phần rỗi, là sự sống đời
đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết,
tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải
hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong. Quả thực, khi bước vào trần thế
này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi
tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng
ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh
tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của vật
chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta phải quan tâm đến những nhu cầu cần
thiết của đời sống... đó là điều chính đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là
tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này
kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp
may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt
được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh cửu hay không là do chính mình.
Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu và viên ngọc quý
trong Tin Mừng hôm nay.
24. Tìm kiếm kho tàng hạnh phúc – Lm
Trần Ngà.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Một học giả uyên thâm đã già, sau khi nhìn lại quãng đời
quá khứ, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình tìm kiếm kho tàng của ông như
sau:
Giai đoạn thứ nhất: tìm kiếm kho tàng tri thức
Hồi còn niên thiếu, tôi nhận thấy tri thức là tối cần và
trong tôi có một khao khát cháy bỏng là được học nhiều, biết nhiều, tích luỹ
thật nhiều kiến thức để trở thành nhà thông thái. Thế là tôi đam mê việc đèn
sách hơn mọi thứ trên đời. Tôi cho đó là phương thế tốt nhất để trở nên thông
thái và thành đạt. Tôi đã đem hết nghị lực của tuổi thanh xuân và tiêu tốn gần
hết gia tài cho việc học tập nghiên cứu. Cuối cùng tôi cũng đạt được thành quả
mong muốn: được nhìn nhận là bậc thức giả của xã hội đương thời.
Thế nhưng khi đến tuổi sáu mươi, tôi mới nhận ra một thực
tế phũ phàng là bao nhiêu kiến thức mình thu thập được suốt gần cả đời người,
giờ đây gom góp lại không bằng mớ dữ liệu được lưu trữ trong ổ đĩa máy vi tính.
Và điều làm cho tôi ngỡ ngàng là đứa cháu nhỏ mới mười lăm
tuổi của tôi chỉ cần ngồi vào máy tính có nối mạng và chỉ mất mươi phút là có
thể truy xuất được nhiều kiến thức chính xác và phong phú về mọi lãnh vực, mà
chính tôi, người đã dày công nghiên cứu học tập hơn nửa đời người, cũng chưa
nắm bắt được một cách chính xác và đầy đủ như thế.
Điều nầy làm tôi liên tưởng đến câu chuyện một đạo sĩ phải
mất năm mươi năm khổ luyện mới đạt được một thành tích thượng thặng là có khả
năng đi trên mặt nước. Với khả năng nầy, ông ta có thể rảo bước trên mặt nước
như đi dạo trong vườn, có thể vượt qua con sông rộng mà không cần đến thuyền
bè. Thế nhưng sau đó, khi nhìn thấy một em bé nhà quê chẳng học tập tu luyện gì
ráo, chỉ cần bỏ ra mươi đồng để trả tiền đò là có thể qua mặt ông để lướt qua
sông, ông cảm thấy trong người hụt hẫng: giá như ông tận dụng thời gian năm
mươi năm khổ luyện ấy để đổi lấy điều gì đem lại lợi ích thiết thực hơn. Đó
cũng là tâm trạng lúc nầy của tôi.
Rồi thỉnh thoảng đọc báo, xem truyền hình, tôi được biết
có những nông dân thất học lại có thể xây dựng được hàng chục chiếc cầu treo,
chế tạo được hàng trăm máy hút bùn, máy cắt lúa, xén cỏ... lại có cả những
những người thuộc dân tộc thiểu số tạo ra được máy lảy bắp, máy gieo hạt...
Những nông dân mù chữ nầy đã cống hiến nhiều tiện ích cho những người lao động
chân tay, còn tôi với bao nhiêu kiến thức được tích luỹ hơn nửa đời người, mà
chưa có phát minh hay sáng chế nào đem lại ích lợi cho làng xóm của tôi.
Thế là từ đó, tôi cảm thấy nỗ lực chiếm hữu kho tàng tri
thức của mình trong suốt nửa thế kỷ qua là một đầu tư không đúng hướng. Và bấy
giờ tôi nghĩ rằng giá như mình có thể phát minh sáng tạo được chút gì tương tự
như những nhà 'khoa học chân đất' nói trên thì mới bỏ công miệt mài đèn sách
suốt bao năm qua.
Giai đoạn thứ hai: tìm kiếm kho tàng đem lại hạnh phúc
Sau đó, tôi lại nhận ra rằng nhân loại hôm nay tuy có
nhiều máy bay, nhiều xe hơi, nhiều tiện nghi hơn những thế kỷ trước, nhưng số
người bất hạnh lại nhiều hơn, số người tự tử cao hơn, số người mắc bệnh tâm
thần đông đảo hơn, số gia đình tan vỡ vượt trội, số phạm pháp gia tăng...
Thế là cuối cùng khi cuộc đời đã về chiều, tôi mới học
được bài học thứ hai: dồn mọi nỗ lực vào việc phát minh và sáng chế chưa hẳn là
điều tốt cho nhân loại, vì con người hôm nay, cho dù được sở hữu nhiều máy móc
hiện đại, được hưởng nhiều tiện nghi tuyệt vời nhưng đời sống có phần bất hạnh
hơn, và do đó, lòng khao khát hạnh phúc của con người hôm nay càng mãnh liệt
hơn.
Quả vậy, không có gì quý bằng hạnh phúc nên điều tốt nhất
là cống hiến cho nhân loại phương thế đem lại hạnh phúc. Đó là điều mà nhân
loại hôm nay đang mong đợi một cách khẩn thiết. Từ đó, tôi cất bước kiếm tìm
một vị tôn sư có thể chỉ giáo cho tôi phương cách đem lại hạnh phúc cho đời
mình và cho nhân loại. May thay, cuối cùng tôi đã tìm được điều tôi mong đợi nơi
Chúa Giêsu và kho báu Tin Mừng.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết có
một kho tàng, một viên ngọc vô cùng quý báu mà mọi người nên đánh đổi tất cả để
sở hữu cho bằng được, đó chính là Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người. (Chúa Giêsu
và Tin Mừng của Người chỉ là một).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng chứa đựng sự khôn
ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu mang từ trời xuống ban tặng
cho thế gian.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô là kho tàng quý báu vì có sức đem
lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời tuyên xưng của thánh Phêrô: "Bỏ
Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời
đời" (Ga 6,68)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là ánh sáng cho thế gian:
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8, 12)
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là con đường dẫn đến sự
thật, bình an và hạnh phúc. "Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống,
không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy." (Ga 14,6)
Chỉ trong Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người, con người mới
có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực. Đó là khám phá của thánh Augustino:
"Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài, và hồn con khắc khoải cho đến
khi được an nghỉ trong Ngài."
* * *
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người là kho báu cao quý và cần
thiết nhất cho toàn nhân loại, nhưng tiếc thay, phần đông nhân loại đã bị bức
màn vật chất và dục vọng che chắn nên đã không nhận ra giá trị của Kho Báu nầy.
Xin thương chiếu dọi ánh sáng của Chúa vào tâm trí con
người, để họ nhận ra giá trị cao quý của Tin Mừng và quyết tâm chiếm hữu cho
bằng được.
Và xin cho chúng con luôn kiên trì tiếp tay với Chúa Giêsu
trong sứ mạng giới thiệu kho báu nầy cho thế giới. Amen.
25. Phải dấn thân để chiếm đoạt Nước
Trời
(Suy niệm của Đỗ Bá Công)
Cha Mark Link, thuộc Dòng Tên, nổi tiếng ngày nay vì những
bài giảng thức thời và thiết thực, có nói: "Nếu Đức Giêsu sống giữa chúng
ta ngày nay, trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài sẽ nói rất khác: thay vì chuyện
người buôn ngọc đã hy sinh tất cả, để đi mua một hạt ngọc quý, hay là chuyện
một nông dân đã bán tất cả để mua thửa đất trong đó có chôn giấu một kho tàng,
thì Chúa sẽ nêu lên một lực sĩ chạy marathon, kiêng khem tất cả, để đoạt chiếc
huy chương vàng."
Vì sao Ngài nói thế? Có gì liên hệ giữa người buôn ngọc,
người đi tìm kho báu, với người chạy marathon? Ba người ấy có gì giống nhau?
Thưa chỉ vì một điều họ giống nhau: là họ cùng dấn thân vào một giấc mơ. Cả ba
đều muốn hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ đặt trước mắt họ.
Trong trường hợp người buôn ngọc là làm sao thủ đắc một
viên ngọc thượng hặng. Trong trường hợp người đi tìm kho báu thì làm sao gặp
được một kho tàng hiếm lạ. Trong trường hợp người đi tìm chạy marathon là làm
sao được huy chương vàng. Sự kiện ấy dẫn chúng ta vào một điểm cốt yếu mà Chúa
Giêsu muốn đề ra cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm ấy là: công dân
Nước Trời phải dấn thân toàn diện con người. Chúng ta không thể theo đuổi mục
đích ấy cách hờ hững. Nhưng chúng ta phải dốc toàn lực trăm phần trăm. Chúng ta
phải coi đó như là một ưu tiên trên hết của đời sống chúng ta.
Làm người Kitô hữu giống như là làm người đi buôn ngọc.
Làm người Kitô hữu như là một người đi tìm kho báu.
Làm người Kitô hữu là như một tay chạy marathon, phải cần
có một cuộc dấn thân và tận hiến. Tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt lớn lao
giữa người Kitô hữu và ba hạng người kia. Thánh Phaolô nhắc lại điều ấy trong
Thư thứ nhất gởi Tín hữu Corinthô: "Phàm là tay đua, thì phải kiêng khem
đủ điều: Vậy mà họ, là để đoạt một triều thiên hư nát. Còn ta, ta trông một
triều thiên bất hoại" (1 Cor 9,25).
Sự khác biệt là ở đó. Cái giá vô song của người buôn ngọc,
kho tàng hiếm lạ của người nông, chiếc huy chương vàng cao quý của lực sĩ
marathon đều phải hư nát. Khi người buôn chết, viên ngọc quý kia không còn giá
trị gì cho người ấy. Khi người nông chết, kho tàng trở nên vô dụng chỉ như một
cái hộp mà ông ta đã tìm hồi ấy. Khi người lực sĩ marathon chết, huy chương
vàng kia chỉ là một lưu niệm cho gia đình hay bạn bè mà thôi. Nhưng khi người
Kitô hữu chết, Nước của Thiên Chúa sẽ sáng lên rực rỡ, và càng lâu càng rực rỡ
hơn. Đến giờ chết, chỉ còn một điều đáng kể, đó không phải điều mà chúng ta đã
chiếm đoạt: một viên ngọc quý, một kho tàng lạ, hay một huy chương vàng. Chỉ
một điều có giá là chúng ta đã biến đổi ra sao qua những điểm tiến của cố gắng
chúng ta khi đi tìm ngọc, khi đoạt được khi báu, khi thắng được huy chương
vàng.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt lên một điểm đáng ghê sợ và cốt
lõi. Không có gì trong thế gian có quyền uy tiên hơn trên Nước Chúa và trên
những phương sách chúng ta theo đuổi cho được chiếm đoạt Nước ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta hay, điều còn đáng
kể khi chúng ta chết, không phải là điều chúng ta đã dành được trong cuộc sống,
mà là điều là biến đổi đời chúng ta.
Chúng ta đã học để thương yêu nhau không?
Chúng ta đã học để tha thứ cho nhau không?
Chúng ta đã học để giúp đỡ người nghèo khó không?
Chúng ta đã học để động viên những người nhút nhát không?
Chúng ta đã học để đi với tha nhân thêm dặm thứ hai không?
Chúng ta đã học để đưa má kia nữa cho người ta vả không?
Chúng ta đã học để đi dấn thân không? Và biết chân thành
với Chúa và với nhau không?
Tôi hy vọng chúng ta đang chân thành với Chúa.
Tôi đang cầu xin với Chúa cho chúng ta được chân thành. Vì
nếu chúng ta không chân thành, chúng ta đã phản bội với Chúa, với gia đình
chúng ta, với bạn bè chúng ta. Và cuối cùng chúng ta cũng đã phản bội với chính
mình chúng ta nữa.
26. Giá trị vô song – Lm. PX. Vũ Phan
Long
Tất cả các dụ ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là
biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời
với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó
khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện
tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu
xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại
sao sứ điệp của Người không được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa
không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy
lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người
gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết
quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc
những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt
cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát
triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa
tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau,
nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô biên
đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về
Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho
báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có
lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),
b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),
c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn
(13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn
(13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống như một kho báu (44): Không phải là Nước
Trời được ví với một kho báu, nhưng là "những gì xảy ra" khi một
người khám phá ra một kho báu được so sánh với "những gì xảy ra"
(hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra Nước Trời.
- kho báu chôn giấu trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ,
vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc
chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an
toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh thoảng, có người khám phá ra một
khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn một cái chum chứa những đồng tiền vàng
hay các loại đá quý.
- thương gia (45): Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất
vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47): Sagênê, "chiếc lưới", có kích
thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.
- thả xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng
participe aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy
có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người gieo giống,
chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ "hiểu". Ở
đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông.
Câu trả lời thật gọn: "Thưa hiểu (Nai)". Ngữ cảnh cho thấy là những
người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi
không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào, bất
cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ tình trạng "đám
đông" sang tình trạng "môn đệ".
- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có những định chế
("Nhóm Mười Hai": 10,1; Phêrô: 16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất
có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các "thầy dạy" được gọi là
"kinh sư" vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải,
Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý
(44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc
quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể
đây là một người thợ đi cày trong ruộng của người khác và
đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong
ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của
cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho
công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng
cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự của nhân vật
này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ
ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của đời thường, như sau này
Người kể truyện người quản lý bất lương, những người làm vườn nho sát nhân:
Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ nơi truyện người đi săn
ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp
(khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề được đề cập là khám phá ra
và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là
chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi
phương tiện mà thủ đắc một điều gì; "ông bán tất cả những gì mình có"
(cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước
Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên
Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là
Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô
trật tự, những sự dữ và những tai họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và
muốn ban cho chúng ta được thành công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự
hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu
đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai
nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và
hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi
sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của
chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự
hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng ước muốn được đi
vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng
ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải
để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn,
mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt
chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự, cần phải có sự quy
hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất
cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện
nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui... không phải là những giá trị và tiêu
chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và
được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc
thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống
trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống
vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải
thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ
lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn
trước, "cánh đồng" tượng trưng Nước Trời; trong dụ ngôn sau là
"chiếc lưới".
Tại hồ Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá
còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá
ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn luôn như
thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom
lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế "ngồi" của các dân chài có thể
khiến nhớ tới tư thế "ngồi" Con Người thẩm phán thế gian (19,28;
25,31; 26,64). Các tính từ "tốt" (kalos) và "xấu" (sapros,
"vô ích") khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x.
7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu
lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau
của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan
tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa người tốt và người
xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn
Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý
chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như
thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy
sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán
xét: Người đang ở tại "hồ" (13,1-2), có một đám đông "đã tụ họp
lại" ("gom cá") trên bờ, trong khi Đức Giêsu "ngồi"
trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa
dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau này.
Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một chi
tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: "các thiên sứ sẽ ... quăng kẻ xấu vào
lò lửa" (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ
xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần
kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu hỏi và
lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa
trong bài giảng của Đức Giêsu. "Hiểu" không chỉ có nghĩa là "nắm
được ý nghĩa" mà còn là "chấp nhận", "làm cho nên hiện thực
trong đời sống mình". Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người
thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là "con cái Nước Trời" (c. 38). Do
đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư
Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong
giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về Nước Trời.
Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến
cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời
vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ theo
Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của
việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị
và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc.
Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều gì là quan trọng,
chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào chuyện gì. Điều quan
trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa
tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao
núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải chỉ là dời các giá trị khác ra phía
sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi mọi sự khác không
còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là
Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là "tất cả" trong cuộc đời, cần
thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết như thế là "hoán cải", thay
đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao cả của Nước Trời thì
không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm
lấy giá trị này. Truyện người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt
19,21.27.29).
2. Nước Trời là một điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay
mọi người, nhưng không phải là mọi người đều "tìm thấy" Nước Trời bởi
vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện
thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều
này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có
ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào
cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù
vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời
vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta đang kinh
nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm
nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị
Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có
tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều này chăng? Do đang
còn mang não trạng "thế gian", do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc
thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương
trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn
bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho
Ngài.
4. Cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình
trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ
trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống thật của người ta còn đang được
che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó, "mặt thật"
của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là "xấu" nếu tận đáy
lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm một mình Thiên Chúa.