NĂM NAY KỶ NIẸM LẦN THỨ 12 GIỖ ĐỨC CHA PHAO LÔ BÙI CHU TAO, NGUYÊN GIÁM MỤC PHÁT DIỆM VÀ LẦN THỨ 2 TẠI CĐ BÌNH HƯNG HÒA, SÀI GÒN CĐ. ỨNG SINH, HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo, nguyên GM Phát Diệm, sinh ngày 21/01/1909 , tại Gx Tam Châu, là Nghĩa tử của Cha Cố Phaolô Dương Đức Liêm. Ngài về Nhà Chúa ngày 05/05/2001.
1. Tiểu sử ĐỨC CHA
PHAOLÔ BÙI CHU TẠO
Đức cha Phaolô Bùi
Chu Tạo sinh ngày 21-01-1909 tại Tam Châu, là con ông bà cố Liên, nghĩa tử của
cha già Phaolô Dương Đức Liêm. Năm 12-15 tuổi ngài theo học tại trường thử Ba
Làng, sau đó về học tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc, rồi Đại chủng viện Thượng
Kiệm sau16 năm, 26 t. Ngài được Đức cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng phong chức linh
mục tại Phát Diệm ngày 13-03-1937. Sau đó, giáo sư tại Tiểu chủng viện Phúc
Nhạc (1937-1940), linh hướng Đại chủng viện Thượng Kiệm (1945-1951). Từ 1951
đến 1954, ngài dưỡng bệnh tại đền Đức Mẹ Cứu Giúp ở cạnh chợ Nam Dân. Sau năm
1954, ngài về nhận nhiệm sở tại Tam Châu cho tới ngày được Tòa Thánh bổ nhiệm
làm giám quản tông tòa Phát Diệm (30-11-1956). 47 tuỏi Ngài chính thức về nhận
giáo phận ngày 25-01-1957. Ngày 26-04-1959, ngài được ĐC Trịnh Như Khuê tấn
phong Giám mục giáo phận Phát Diệm, tại Hà Nội. Lm Phúc ..Ngài được gọi về nhà
Cha ngày 05-05-2001, hưởng thọ 92 tuổi. Suốt cuộc đời 64 năm linh mục, 42
năm giám mục, ngài đã nên gương sáng trong đời sống cầu nguyện, thực thi bác ái
, khẩu.hiệu "Incaritaste non ficta" Nghĩa là “Ta hãy yêu thương nhau thật tình đừng giả dối”.
2. Chủ Chăn gương mẫu, hết mình vì đoàn chiên Phát Diệm
Đức Giám quản Phaolô
Bùi Chu Tạo giữa lúc xã hội VN cũng như giaó phận Phát Diệm đầy biến cố phức tạp. Cuộc di cư
1954 để lại trong giáo phận những khoảng trống khó lấp đầy; số linh mục di cư
gần hết, giáo dân di cư hơn một nửa; giáo phận xơ xác, tiêu điều. Chính Đức Tân Giám quản khi vừa nhận trách nhiệm nặng nề này, trong Thư Chung đầu tiên gửi
toàn giáo phận đề ngày 25.01.1957, đã khiêm nhường xác tín: “… Biết mình tài
hèn sức yếu, tôi hết sức từ chối, nhưng ‘La-mã đã phán’ tôi nhận là thánh ý
Chúa, nên cúi đầu vâng theo…”, “… Con thuyền này vẫn chở Chúa Giêsu và đoàn chiên
yêu dấu của Chúa, cũng không khi nào Chúa để nó đắm chìm. Bất kỳ tay lái là ai,
Gioan hay Phaolô, ta cứ yên trí vì có Chúa ở bên tay lái.” 2 giờ sáng, lên nhà
nguyện. Ngài quỳ cầu nguyện sốt sắng trước Thánh Thể đến 5 giờ rồi dâng lễ.
Ngài có thói quen rất đáng khâm phục là đọc các Giờ Kinh Phụng vụ trước Thánh
Thể. Đức cha phải từ tầng hai xuống gọi dậy giúp lễ. Thái độ ôn tồn, bao dung
của Đức cha khiến người giúp lễ quyết tâm từ đây tự điều chỉnh để dậy đúng giờ. Ngày thứ
hai, nghe tiếng chân Đức cha bước lên cầu thang, đã vội bật dậy lên theo. Hầu
hết các xứ, họ vắng bóng các linh mục, giáo dân phải tự sống đức tin của mình.
Để nâng đỡ họ, Đức cha Phaolô đã tìm mọi cách để Bí tích Thánh Thể đến với đoàn
chiên. Ngài lựa chọn các ông trùm, ông quản, những người đạo đức, trao thừa tác
vụ ngoại lệ để họ kiệu Mình Thánh về cho giáo dân chầu buổi tối; buổi sáng có
cử hành Lời Chúa và Hiệp lễ, rồi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt. Ngài mời gọi
những ai không hiệp lễ được thì hợp lòng rước lễ thiêng liêng. Nhờ vậy giáo dân
vẫn giữ vững được đức tin. “Đức cha Phaolô Bùi Chu Tạo, con người hom
hem ốm yếu, cân nặng chừng 36 ký. Con người như thế, lẽ ra theo nhận xét loài
người, với sức đè nặng của nhiệm vụ Giám quản, giám mục trong suốt thời loạn ly
bi đát (1954-1960), đã phải kiệt sức và mất sớm. Tuy nhiên chương trình của
Thiên Chúa thì khác hẳn: hơn 40 năm trong chức vụ chủ chăn, ngài đã cầm cự với
thời gian, với thời cuộc, luôn luôn phấn đấu kiên cường, trí khôn vẫn minh mẫn
sáng suốt, và tuy sức khỏe đã giảm nhiều, nhưng ngài vẫn minh chứng phong độ
khí khái, dẻo dai! Con người thầm lặng, ít nói, nhưng nếu nói ra thì câu nào
cũng như đinh đóng cột, và thế đứng của ngài lúc nào cũng bình chân như vại!” Dù
gặp hoàn cảnh nào ngài cũng luôn bình tĩnh, từ tốn và khôn ngoan. Cũng một linh
mục Phát Diệm kể lại: Một hôm, sau khi dâng lễ ngoài nhà thờ lớn, ngài
trở về Nhà Chung theo lối Núi Sọ. Có một anh công an y phục chỉnh tề đứng bên
cạnh đường lên giọng hỏi ngài: Ông đi đâu? Ngài vẫn bình thản, thinh lặng bước
đi. Anh ta đi theo, tới cổng vào nhà, anh ta lại hỏi lớn hơn: Ông đi đâu? Trước
khi khép cổng, ngài dừng lại một chút và nhỏ nhẹ trả lời: “Nhà tôi đây”, rồi
tiếp tục về phòng không chút bực bội hay khiển trách. Sau khi thay lễ phục,
ngài chỉ nói như để bào chữa cho người công an: “Hình như anh này mới đến
đây.”Đối diện với biết bao khó khăn, bị hạn chế đi lại, bị những lời la mắng
của chính những giáo dân mà ngài yêu thương, bị những người một thời được ngài
coi là thân thuộc quay lưng lại, ngài vẫn một thái độ điềm đạm, bao dung.
Bởi ngài biết họ chỉ làm theo yêu cầu nào đó. Quả thực, lời Chúa Giêsu đã thấm
nhuần nơi ngài: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” và “Ngài đã yêu thương họ đến
cùng”. Hoàn cảnh khó khăn đã cầm chân ngài tại Tòa giám mục. Không thể đến với
giáo dân, ngài viết thư luân lưu giáo huấn hàng giáo sĩ và giáo dân bằng những
lời tâm huyết được kín múc từ nguồn mạch khôn ngoan là Lời Chúa và Thánh Thể.
Từ năm 1959 đến năm 1988, ngài viết khá nhiều thư về các đề tài, vào các dịp
khác nhau, nhằm nâng đỡ đức tin và hướng dẫn đoàn chiên sống đức tin trong hoàn
cảnh mới.Có thể nói, Đức cha hiếm khi lớn tiếng. Ngài luôn nhỏ nhẹ, nhưng giọng nói âm trầm, rành rọt và
khúc chiết, thâm thúy pha chút hóm hỉnh. Dáng người nhỏ nhắn, yếu ớt mà sự ung
dung tự tại đến vĩ đại vẫn luôn toát lộ ra ngoài; ánh mắt luôn nhân hậu, hiền
lành không sắc sảo mà vẫn đọc được tâm can người đối diện, dù là người thiện
hay tà tâm. Đức cha sống đơn sơ, đạm bạc: từ tiện nghi trong phòng tới ăn
mặc. Căn phòng của ngài chỉ là chiếc giường chiếu đơn sơ với bộ bàn ghế mộc
mạc. Bữa ăn thường ngày là rau mắm đạm bạc. Ngài tự giặt giũ quần áo cho mình
và tự tay thu dọn phòng riêng. Ngài chẳng tích trữ gì riêng cho mình, sẵn sàng
chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, bệnh tật. Quả thật gương sống thanh
bần của ngài đã ảnh hưởng tới nhiều tâm hồn.
3. Thánh ý Thiên Chúa nhiệm mầu
Nhân ngày sinh nhật Đức Cha môt Lm đã chúc:
...Một chín chín chín ơi là chín
Năm hai ngàn khẽ vịn cũng rơi.
Chúng con chúc đến thế thôi,
Chúc thêm chút nữa Chúa Trời bảo tham.
Thế mà Đức Cha sống tới ngày 05/05/2001 thọ 92 tuổi
Cuộc đời của ngài hoàn toàn xả
thân cho giáo dân, liên tục sống đời trong suốt, chiếu dọi một nếp sống thánh
thiện. Đối với chính quyền địa phương, ngài đối xử lịch thiệp, biết lui biết
tới, mặc dù vẫn kiên trì trong phong độ cương nghị. Có người nói: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, không thấy Ngài kêu goi tòng quân, nhưng khi xảy ra cuộc chiến tranh chống Trung Quốc, Đức Cha đã lên tiếng hưởng ứng lệnh tổng động viên...Điều mà ai ai cũng cảm phục
và nhận thấy nơi Đức cha là lòng bác ái, bao giờ cũng sẵn sàng tham gia với
chính quyền chống nạn đói, chống bão lụt và mưu tìm lợi ích cho dân chúng.Ngài
thật là Kitô thứ hai, thành mẫu gương sáng cho mọi thế hệ. Chính vì thế, trong
dịp mừng Ngọc khánh Linh mục của ngài, người ta đã không ngại tặng ngài danh
hiệu: “Mục tử hiền lành, chủ chăn can đảm”. Thật xứng đáng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét