LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm C
MỤC LỤC
1. Chúa Ba Ngôi
2. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
3. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Ngô Quang Kiệt
4. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
5. Toàn bộ sự thật
6. Mọi sự của Cha là của Thầy
7. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
8. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
9. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta - Achille Degeest
10. Tình yêu hiệp nhất
11. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
12. Mầu nhiệm đức tin
13. Chúa Ba Ngôi
14. Mầu nhiệm
15. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
16. Suy niệm của JKN
17. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
18. Thiên Chúa Ba Ngôi
19. Sống đời sống Thiên Chúa
20. Chú giải của Noel Quesson
21. Chú giải của Fiches Dominicales
22. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
1. Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa
Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết
được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người
bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả
những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả
năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng
việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và
tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ
không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người
phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là
Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và
sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm
sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm... nói
lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên
cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi
Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm
ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên
Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và
Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai
ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết
ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha,
nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho
các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ
không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh
Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái
chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ
có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận,
công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời:
Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ
tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên
Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải
lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong
tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai
ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
2. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu
nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con
người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc
khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba
Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải
mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi
chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như
thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả
những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và
hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ
nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta
mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình
Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi
và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như
diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ
tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó,
sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc
chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn
và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta
tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có
bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời
để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin
trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha
đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho
chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi...Hẳn chúng ta còn nhớ
câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề
oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi
nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã
được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận
phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô
lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến
Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa
đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập
thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến
nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại...Ngài đã chịu chết trên thập
giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là
tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải
cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ
Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết
trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách
thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu
xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi
chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư
nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an
ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm
hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các
Ngài.
3. Mầu nhiệm tình yêu - ĐTGM Ngô Quang Kiệt
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó
là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu
nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu
nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình
yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều
lần khẳng định: "Ta và Cha Ta là một"; "Xin cho chúng nên một
như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha" (Ga 17,21). Nên một trong tư
tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha:
"Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương
của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương
của Người" (Ga 15,10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý
muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay:
"Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho
anh em". Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả
Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga
14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như
lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: "Mọi sự Chúa Cha có đều là
của Thầy". Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con
là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha
(cf. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng
cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn
Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha
thiết cầu nguyện: "Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa
con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn" (Mc 14,36).
Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn.
Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi.
Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong
phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả
muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên
Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được
tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình
yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được
hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm
cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt
chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp
nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết
sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng,
hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên
giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ
được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó
chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của
Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng thực ra
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu điều này
thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế
nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta phải
kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, ta
phải làm gì?
4. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
"Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần ,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta".
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không
nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và
Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất
nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất
mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt
dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và
Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý
do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng
các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
"Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền
thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Trong Phúc âm thánh Gioan được
dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải
về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải
cho các môn đệ như sau: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng
bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy
chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe
gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai.
Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền
cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là
Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của
Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng
nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm
Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên
Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người
hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì
chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ
như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
"Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con
không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất
cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật". Mỗi ngày chúng
ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi
sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi
chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến
sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong
đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa
hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện,
kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở
rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể.
Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải
thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá
chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho
chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi,
được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc
sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai
sau.
5. Toàn bộ sự thật.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ, anh em không
có sức chịu nổi."
Đức Giêsu khi sắp về với Cha, đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ. Ngài
chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói, nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố
hiểu. Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở. Ngài chấp nhận
mình không phải là vị thầy duy nhất: Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều
(Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất vì còn một Đấng Bảo Trợ khác
đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật, sự thật về Cha, về bản thân
mình và về con người. Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần từ từ dẫn dắt các
môn đệ mới hiểu thấu và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7), để nhường chỗ
cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng là đưa con người đến với Cha và Con là Đức
Giêsu. Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình, nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng
cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình. Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (c.15) Cha là nguồn mạch luôn
trào dâng qua Con. Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy đó là một
cộng đoàn lý tưởng. Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ. Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi
ngôi vị trọn vẹn là mình, và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương, nhưng thế giới của
Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình, để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công
trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người. Con yêu loài người đến độ
dám sống và chết cho họ. Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên để ủi an
nâng đỡ. Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại đi vào thế giới thần linh
của mình, để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ. Chúng ta tự hỏi mình có
sẵn sàng mở ra để Chúa đi vào thế giới của mình và để mình đi vào thế giới của
Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự
sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình
giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa
tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ
âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu
thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng
trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như
anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô
hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở
sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
6. Mọi sự của Cha là của Thầy
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần, chúng ta nhắc đến Chúa Ba
Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân
thể, và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn, chính Ba Ngôi đã không ngừng
ghi dấu trên cuộc đời ta và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị là mầu nhiệm được Đức
Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con. Con là người được yêu và được Cha
sai vào thế giới. Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một ngôi vị đơn độc, nhưng
là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có: "Mọi sự Cha có đều là của
Thầy" (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp. Thánh Thần không tự mình mà
nói nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu, giống như Đức Giêsu đã chẳng
tự mình mà nói nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ thì ta có thể gặp được mẫu mực
sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác, và từ đó tạo ra khuôn
mặt riêng của mình. Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba. Hội Thánh cũng vừa duy
nhất, vừa đa dạng. Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha... Để
sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn, để sự đa dạng đừng trở thành cớ
chia rẽ, cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của con người trên trần
thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi
ta.
"Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23),
"Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em" (Ga 14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao: Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất
gần ta, chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao, mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối
của mình. Hãy cung kính trước sự hiện diện đó, và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do
hoạt động nơi bạn, và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai." Bạn có
kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất
chính mình?
Một em bé nói: "Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người
mẹ." Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được
Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ
âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu
thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng
trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như
anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô
hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng co tin vào sự hiện diện của Chúa ở
sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
7. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TÍN HỮU
THEO KIỂU MẪU "GIA ĐÌNH BA NGÔI"
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy rất cao siêu nhưng không phải là xa vời viển vông,
trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người con
cái Chúa và giúp cho đời sống con người trở nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn.
"Gia Đình Thiên Chúa Ba Ngôi": Ba nên một
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia Đình" Ba Ngôi. Nói một
cách bình dân thì "Gia Đình" nầy có ba nhân khẩu. Còn nói theo giáo
lý và thần học thì "Gia Đình" nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt. Vị
thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần. Ba
Vị yêu thương nhau vô hạn và thông hiệp với nhau trong tình yêu bền chặt đến
nổi ba Vị không còn là ba mà nên một Chúa.
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: "Thầy với Chúa
Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa
Cha" và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh Tin Kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình
hiệp thông khắng khít giữa Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần:
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy"(Ga 16,15). "Mọi sự của
Cha cũng là của Con và những gì của Con cũng là của Cha".
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: "Chúa Cha yêu thương
người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. (Ga 3,35). Rồi "Con yêu Cha
nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy" (Ga 14, 31) cho dù
phải "vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập
giá"(Phi 2,8).
Như thế, trong "Gia Đình" nầy, tình yêu thương đã liên kết ba Vị
nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một
Chúa.
Gia đình Ađam-Evà: hai nên một
Thế rồi, ba Ngôi Thiên Chúa đã lấy "Gia đình" Ngài làm mẫu để
dựng nên gia đình thứ hai, đó là gia đình Ađam-Evà. "Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có
nữ" (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy là gồm hai con người nhưng
cũng đã trở nên một. Để trình bày tính cách 'hai nên một' nầy, kinh thánh đã
diễn tả rất thi vị và hình tượng như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa
khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn đến
với ông. Ađam nói: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Bởi đó,
người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một
thịt" (St 2, 18-23).
Vì được dựng nên theo đúng khuôn mẫu "Gia Đình" Thiên Chúa nên
gia đình Ađam-Evà nói riêng cũng như gia đình tín hữu nói chung cũng mang những
đặc tính giống như "Gia Đình" của Thiên Chúa là hiệp thông nên một
trong yêu thương. Trong gia đình, người cha và người mẹ không còn là hai mà là
một. Rồi hoa trái của tình yêu vợ chồng là con cái cùng có cùng chung huyết
nhục với cha mẹ và được cha mẹ yêu thương như chính bản thân mình. Từ đây, cha,
mẹ và con không còn là ba nhưng chỉ là một. Do đó, gia đình nhân loại đúng là
họa ảnh của "Gia Đình" Ba Ngôi Thiên Chúa.
Gia đình Hội Thánh: nhiều nên một
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng lấy "Gia Đình" Ba Ngôi làm mẫu để
dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều. Ta gọi đây là đại Gia Đình Hội
Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích rửa tội để tháp
nhập mọi tín hữu vào thân mình Ngài như những cành nho được tháp vào thân nho,
như bàn tay được tháp vào cơ thể. Thánh Phao-lô dạy: "Bất cứ ai trong anh
em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện
phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả
anh em chỉ là một trong Đức Kitô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng tỉ người tin
Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Kitô không còn là nhiều nhưng đã hiệp
thông nên một: nhiệm thể Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy
nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ,
chúng ta được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải keo
sơn như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài
thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở
trong con và con ở trong Cha" (Ga 17, 21).
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy cầu xin cho mỗi người
chúng ta luôn nhìn ngắm và nhận "Gia Đình Ba Ngôi Thiên Chúa" làm
kiểu mẫu lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta luôn
sống trong yêu thương và hiệp nhất bền chặt như "Gia Đình Thiên Chúa Ba
Ngôi", nhờ đó mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta sẽ là một hình ảnh sống
động về Thiên Chúa Ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
"Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh
hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa"
8. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí
ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn
đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục
trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi
khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như
thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền
nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ
bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng
mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của
chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa
đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và
thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa
đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì
không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều
đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không?
Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều
Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc
chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ,
để "kính nhi viễn chi" mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba
Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta
đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là
để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi
theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với
chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ:
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính
mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với
cách biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật
và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện
nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn
tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình
yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta
và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên
Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy.
Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình
yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại
gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội.
Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho
nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà
chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy
cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân
và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền
lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức
ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong
nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra
nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn
chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng
đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá
quen với cụm từ "mac ke no", tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo
hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm
đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi
hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời
có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám
sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa
vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình
Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại,
từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ
Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành
người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như
Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn
quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
9. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta - Achille Degeest
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi
lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên
khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích
thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông
thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô
hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác
động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa
Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa
Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác
động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với
chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ
lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng
có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng
ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho
chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc
đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng
như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa
Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta
không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người
chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những
có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai
câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa:
1) Người sẽ tôn vinh Ta.
Câu này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta
nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại,
Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa.
Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng
ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của
Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận
xét sơ lược: Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những
kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị
giam hãm trong một lao tù.
2) Để thông báo cho các ngươi.
Chúng ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý
niệm: Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp
Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự
Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt
động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để
nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật
của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu,
cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta
nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay ít.
10. Tình yêu hiệp nhất
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến
ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: "tôi không chấp nhận
điều gì tôi không hiểu, vấn đề "ba Chúa trong một Chúa" hay bất cứ
điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin".
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: "bạn có tin mặt trời
không?". Kẻ hoài nghi trả lời: "dĩ nhiên có chứ". Linh mục nói
tiếp: "được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150
triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh
sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời
chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức
nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích
được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?" người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên
chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu
được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với
chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật
lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi
tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa
Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống
động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu
nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu
thương: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa
Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là
Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm
nên một với người khác. "Thiên Chúa là Tình Yêu", Ngài không đơn độc
một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách
ích kỷ vô cùng... nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến
nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng
phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương
nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn
toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba;
là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: "Mọi sự của Con là Cha, và mọi
sự của Cha là của Con" (Ga 17,10). "Cha Thầy và là một" (Ga
10,30). "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
"Thiên Chúa là Tình Yêu", vì thế mọi hoạt động bên trong cũng
như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn
vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của
tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã
ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho
tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác:
"Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu
của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta"(1 Ga 4,12). Bởi vậy, "Ai không
yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu
thương" (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa
thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của
Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa
Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu
nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa
Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự
sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài
đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh
Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết
chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là
Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng
ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu
thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: "Ai yêu mến
Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong
người ấy" (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ
sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên "Nhân Danh Chúa Cha , Chúa Con và
Chúa Thánh Thần" chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng
với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin
Kính.
11. Nhìn thấy Thiên Chúa - McCarthy
(Trích trong 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên
Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt
Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người
hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những
người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ
và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn
người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn
nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống
viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách
nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những
người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: "Thiên Chúa
ăn mặc như thế nào?".
"Người mặc một cái áo choàng đỏ", người thứ nhất đáp.
"Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam", người thứ hai
đáp.
"Cả hai anh đều sai", người thứ ba nói. "Đó là một áo choàng
màu xanh lá cây".
"Các anh điên rồi", người thứ tư gào to. "Người mặc một cái
áo choàng màu vàng".
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ
khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người
chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện,
họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt
được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu
đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần
gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn
khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người
ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có
một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể
cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta
có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm
đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức
Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: "Người là hình ảnh của Thiên Chúa
vô hình". Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng
ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống
mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với
chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương
giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để
cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài
không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho
chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng
ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ
mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ
và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc
và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về
một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là
một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện
Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp.
Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và
bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh
trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô.
Ông nói: "Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào
linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân
mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi:
Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng".
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời
sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã
nói: "Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi
biết chính điều ấy".
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm
hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều
đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với
tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự
chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế
giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể
nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một
Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao
cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc
lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
"Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm
trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên
ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong
những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với
Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong
Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con
khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu".
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta
nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta
hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô
đã nói: "Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu" (Cv
17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người
giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông
vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng
"Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an
toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và
hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình
dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi
vật" (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính
mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy
nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
"Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với
tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú
vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp,
trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt
tôi".
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì
chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi
biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự
thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert
Einstein đã nói: "Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về
điều mầu nhiệm ". cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế
biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã
nói: "Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu"
12. Mầu nhiệm đức tin
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
- Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất
cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà
cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng
bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao
siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân
ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực
thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức
tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín,
nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng
là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là
được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài,
cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô,
người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta.
Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì
thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với
Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực
của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm
phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta
rằng:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra
từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của
chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu
thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên
Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện,
của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một danh từ
quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả.
Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy
và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc
tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo,
bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào
ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình
của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài
người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ
trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh
chính thức được kêu cầu...tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng
ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời
thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
- Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp
của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những
tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu
thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
13. Chúa Ba Ngôi
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương
quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó
là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là
hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai
chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có
trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu
rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người
cũng như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu
hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự
phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả
thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng
ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ
chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc
khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa
Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố
Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm
của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần
Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này,
và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng
là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian,
các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa
Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi
bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương
quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác
nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến
đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa,
bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc
đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông
đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm
Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa
hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn
vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích
ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó
là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay
không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như
chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công
giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu
nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và
qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con
và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người,
muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với
Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các
ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành
động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi
trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức
của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp
nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa
có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm
điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương
quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp
chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện
trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người
chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng
nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn
giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những
chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong
đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
14. Mầu nhiệm
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính
đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng
của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống
Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu
được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba
Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm
người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa
Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn
thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên
Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta
chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy
nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm
đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên
Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như
chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa
Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy
nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau,
khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa,
nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản tính, một
quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: "Cha Ta và Ta là một".
"Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy", "Ai thấy Ta là thấy Chúa
Cha". Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: "Chúa
Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa
Kitô", "Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa".
Những điều trên cho chúng ta biết: Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không
đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi
như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin,
chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm
sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí
tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài
người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và muốn. Ba
giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển
động, đốt nóng và soi sáng... Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để
diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn
tả hết được, như có người đã nói: "Đố ai định nghĩa được tình yêu",
phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi
biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ
lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ
vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ
ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà
tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà
tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng
con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn.
Đừng bao giờ điên rồ đòi "giải quyết vấn đề Thiên Chúa", đứng mất
công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay
một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của
con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc
chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên
Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này
chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá
là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba
Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và
nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực
và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ
bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc
gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
15. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết "Thiên Chúa là Đấng duy
nhất" (Đnl.6, 4). Nhờ Đức Yêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là "Ba
Ngôi Vị".
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn
toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một "ông già"
râu dài phúc hậu, hoặc "chim bồ câu" chỉ Chúa Thánh Thần, là những
hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như "Cha", như
"Con", như "Thánh Thần", cũng là những từ ngữ được dùng với
nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên
Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên
Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường
dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa
Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy
vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa
là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng
có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính
Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên
Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ "ba ngôi". Từ ngữ "ba
ngôi" là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng
"nguồn" của mọi sự, Đức Yêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa,
đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là "Thiên Chúa nhập thể",
Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại
(nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba
ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không
phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba
Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong
ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là
"Cha", là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Yêsu, là Thiên Chúa nhập
thể, là "Con", là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần
là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong
mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng "ngự trên
trời", đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ
ngữ "ngự trên trời", cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu
việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Yêsu "lên trời ngự bên hữu
Thiên Chúa" nhưng Ngài đang "ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế".
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và
xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận
giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội,
và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn
Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là
Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn
ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ
con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. "Mọi sự của Cha đều là
của Thầy" nhưng Thánh Thần lại "lấy những gì của Thầy mà loan báo cho
anh em", như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
"Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta". Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu
chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý thức
Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn với Ngài
như thế nào?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?
16. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa đều đã được mạc khải
qua Đức Giêsu Kitô, và không còn gì để nói về Thiên Chúa ngoài những mạc khải
ấy?
2. Theo Đức Kitô, «khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới
sự thật toàn vẹn». Thần Khí sự thật đã đến chưa, và Ngài đã mạc khải sự thật về
Thiên Chúa như thế nào?
3. Có thể có nhiều cách nhìn khác nhau nhau về Thiên Chúa không? Các cách
nhìn ấy có thể mỗi cách đều có giá trị riêng của nó không? Tại sao?
4. Ba Ngôi Thiên Chúa có khác biệt nhau không? Sự khác biệt ấy làm cho Ba
Ngôi hợp nhất hay chia rẽ? Sự khác biệt giữa mọi loài, mọi vật, mọi tôn giáo trên
thế giới, có nằm trong ý muốn của Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý
1. Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra.
Đức Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng
đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian
rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng
vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời
này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết
ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám
phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là
Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như
Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói
hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ
giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: «Thầy còn nhiều điều phải nói với
anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi». Nghĩa là về Thiên Chúa thì
còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng
lãnh hội được!
«Không có sức chịu nổi», vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả
năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời
gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học
sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các
môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được,
vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn
hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao
hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức
Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên
Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khải
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về
Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như
Đức Giêsu đã hứa: «Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự
thật toàn vẹn». Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần,
nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con
người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại.
Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu: nhập thể thành
một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước:
«Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết
thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ
thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần
Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ» (Cv
2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói
được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên
Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ
Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con
người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân
lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở
đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy
được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên
Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo
lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để
cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu
Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi
đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô
tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn
Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý
muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của
Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài
cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
3. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diện
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào
cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do
nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng
người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một
cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân.
Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể
kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn
luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng
nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và
bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một
loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ
trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này
chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành
cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn
điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức
hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ
túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự
khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã
không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã
dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ
được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà
tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam
và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt
kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau,
mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên
Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn
nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi
không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng
nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn
vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi
trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác,
muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi
của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất
trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia
đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm
mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ
duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng,
thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với
nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý
của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị,
muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những
hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian,
trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác
của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của
nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình,
nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu
thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây
dựng cho trần gian.
17. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
BA NGÔI THIÊN CHÚA, MỘT CỘNG ĐOÀN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung
Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp
một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công
việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào
lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi
em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam
giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi
với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy
dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình
ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư
hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá
siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi
chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh
tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình
yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của
Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí
thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định
nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha
trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con
là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao
quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất:
"Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho
bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của
tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra
thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình,
cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu
chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi
buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều
gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến
rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì,
làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ
nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư
huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các
"phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến,
vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì
được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H.,
phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ
với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn
chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là
một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng
thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như
thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của
mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá:
Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Sr Têrêsa, trích từ
Vietcatholic)
18. Thiên Chúa Ba Ngôi
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là
đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên
Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho
những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan
của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa
Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao
phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải
mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu
thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm
được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân
lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa
trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho
đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp
nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông
vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa
đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa,
Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không?
Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để
xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không
được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã
chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết
tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người
không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần
phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền
cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa
vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu
chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo
hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến
tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến
trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa
chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo
hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để
trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ
chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta
là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy
trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm
cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa...
19. Sống đời sống Thiên Chúa
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi
thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên
bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không
gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa
không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận
mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba
ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, "chúng tôi đã
gặp Người". Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao
nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho
toàn dân phải kêu lên: "Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa,
không có Chúa nào khác".
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta
một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta
chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên
Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với
Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên
Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu
nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh
Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người
phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba
Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta
không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta "giống hình ảnh
Chúa", Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những
hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua
ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn
có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn.
Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước
chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công
giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng
có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời
sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn
ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba
Ngôi.
20. Chú giải của Noel Quesson
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, "Chúa Ba Ngôi"
cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm,
là có "Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong
Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu
ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr
2, 4.1). Và các "con cái" của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22
-Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công
chính (Kn 2, 18 - 5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa
xâm nhập một số người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên
Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên,
để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của "hiện tượng Giêsu": Ngài trực
diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự
kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu
diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê
năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức
chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với
những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết những
gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu
chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta
quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần
bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với
Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là
"Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a
đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức
tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh
liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống cần
phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá,
cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào
đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông đồ,
là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi,
cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ
một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." "Tôi không thể mất
đức tin..."
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một
cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi,
Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe.
Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa!
Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước
những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp
một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức tin"
đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám
phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"? Lạy Chúa,
xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với
Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với anh em con
trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra một
người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu
thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích
thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn
đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn
từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện
diện ở đó, là để "hướng dẫn" bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng
dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước....
rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người
dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi cao": Đức
tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một
mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên. Cần phải có một
ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây
của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là một
"Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm
sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức
ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt
tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài
hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của
"vòng tròn hoàn hảo" , thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái
đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra"
và "thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa:
đó là Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri
thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước
hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi...
nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở đây, thuộc
về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước vào mối
tương quan với họ.
Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là một lời
thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình
yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với một
người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí
sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người
sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức
Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập
lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức
Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự
người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà
không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai
lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng
ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật
đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô
mà có" (Ga 1,17) "Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho
anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về
Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều
Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như
vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình
làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là
sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh
Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương
giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi
trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều được chia
sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời
nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của
mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân
loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua
được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu
phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một thực
tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng
lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói về
Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và hòa
ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia
đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở
trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp
lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu
đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé
chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có
nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt
mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt
thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì
bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu
nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày
khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy , vì thế Thầy đã nói: "Người lấy
những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây
bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương
thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân
sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự Thiên Chúa
có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi
lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là
Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của
Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là
Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí
phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm
ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp thông các ngôi vị
"nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương trình hành
động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một "chóp
đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người
"hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!
21. Chú giải của Fiches Dominicales
CHÚA CON ĐÃ SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIAN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ thời kỳ của Đức Giêsu.
Vào, giờ Đức Giêsu sắp "phải bỏ thánh giá mà về với Chúa Cha",
ta thấy có hai giai đoạn trường bài diễn từ sau bữa Tiệc Ly.
- Thời kỳ của Đức Giêsu, thì các môn đệ không làm sao có sức chịu nổi
" những lời Người.
- Thời kỳ của Thánh Linh " thì chính Người sẽ dẫn dắt các ông tới sự
thật toàn vẹn".
X Léon-Dutour quảng giải: "Bấy giờ" của bữa tiệc ly đối tương
phản với thời kỳ Đấng Bảo Trợ đến; là việc đến này tùy thuộc vào lễ vượt Qua
của Chúa Con" ("Lecture de L'Evangile de St. Jean ", cuốn 3,
Seuil, trg 231).
2. Đến thời kỳ của Chúa Thánh Thần.
Thần Khí này, Đức Giêsu hứa với các tông đồ: "sẽ dẫn các ông đến sự
thật toàn vẹn ". Việc Chúa Thánh Thần đến soi sáng vào quá khứ của Đức
Giêsu, sẽ khiến cộng đoàn các môn đệ của Người hiểu sâu thêm những lời nói và
việc làm của người, hiểu để áp dụng và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, Người còn cho
các môn đệ thông hiệp vào hiện tại của Đức Giêsu, người Con đã được tôn vinh
nơi Thiên Chúa và đang muốn thông ban cho các môn đệ chính con người vinh quang
của mình.
- Thần Khí này, Đức Giêsu phán tiếp "sẽ lấy những gì của Thầy mà loan
báo cho anh em". Để dẫn đến sự thật, Thần Khí "sẽ nói lên" hay
là "sẽ diễn tả" điều mà Người nhận từ Chúa Con... X. Léon-Dufour giải
thích thêm: "Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Người nói trong tim
(đồng nghĩa với "mạc khải") vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Thần
Khí. Quả vậy Thần Khí không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như
Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thần Khí sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như
Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha (8, 26). Tiếng nói của Thần Khí chắc chắn không đập
vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tận tâm hồn. Như vậy Chúa Con tiệp tục mạc khải của
mình bằng cách thế khác trước, cách thế thần linh"... Chúa Thánh Linh sẽ
là người biểu lộ Đức Giêsu vậy":
BÀI ĐỌC THÊM:
1. "Nguồn suối không hề cạn"
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Vào lúc ly biệt,
những lời kín đáo này phát ra từ môi miệng Đức Giêsu để kết thúc buổi hàn huyên
đầy tình hiệp thông. Vấn đề không tại điều muốn nói, mà tại ý nghĩa thẳm sâu
nằm ở những lời ấy. Sánh với những gì nằm sâu trong lòng biển cả bao la, thì
lời nói cũng chỉ như đám bọt biển trắng xoá trên mặt mà thôi. Điều mà Thầy muốn
ban cho anh em, chia sẻ với anh em là những gì tự đáy lòng Thầy, là những gì là
sâu xa nhất từ nội tâm Thầy.
Không phải là Thầy không còn thời giờ, cũng chẳng phải là Thầy còn nói
thêm nhiều điều khác. Thầy chỉ mong muốn lặp đi lặp lại mãi mãi điều cốt lõi.
Ước chi điều cốt lõi được lặp lại hoài này, luôn có được vẻ tươi mát của buổi
bình minh đang xuất hiện.
Nội tâm Thầy như mạch nước muốn vọt lên nhưng lại không vọt lên được. Điều
Thầy muốn nói ra thì lại không thể diễn tả được. Và người nghe không bao giờ có
thể hiểu, cũng không thể cảm nghiệm được với ánh sáng và cường độ mà Thầy mong
muốn vì điều đó thuộc về Thầy một cách quá lạ thường. Cái "tôi" thẳm
sâu này không sao tả xiết.
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Nhưng lúc này, như
thế là đủ rồi. Không thể nói thêm nữa, là người nghe cũng không thể tiếp thu
hơn. Sự truyền đạt từ người này sang người kia kết thúc, vào lúc mối hiệp thông
không còn có thể hiệp nhất thêm nữa.
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Khi Đức Giêsu tâm sự
điều này với các bạn hữu của Người, thì tình Thầy trò thân mật trước lúc chia
ly rất phong phú đến nỗi không có thể nói gì hơn nữa.
Vả lại Người còn có thể mạc khải gì hơn về Người hoặc về Chúa Người chăng?
Người chẳng phải là mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa rồi đấy sao? Đây không phải
một "món hàng tàng trữ" ngủ yên trong tủ sắt, hoặc được nâng niu giữ
gìn trong hộp quý. Không đâu, đây là một dòng suối không hề cạn kiệt.
Thần Khí, trong khi giúp người ta hiểu biết và nhìn nhận Đức Gtêsu, sẽ
khiến người ta không ngừng đói khát muốn hiểu biết hơn nữa. Thần Khí khơi dậy
nơi lòng người tín hữu sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Người giúp khám phá sự
hiện diện đó là gì, có hệ quả gì trong cuộc sống thường nhật cũng như trong
những giờ phút trọng đại của lịch sử.
Một sự hiện diện kín đáo và mãnh liệt.
Một sự hiện diện đầy bình an và tình thương.
Và sự hiện diện này là Sự sống. "
2. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải, Người là ai?
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt kitô
giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người.
Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những
chuyện ấy à? Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa
học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì
có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được
những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không
phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình
thương... , có thể nói được rằng: " đó là nhịp đập của ba trái tim thương
yêu nhau " hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực
lại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng Ba Ngôi là một Chúa duy
nhất.
Thật vậy bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kể trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức
Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người
đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ
đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một Người Con.
Người chỉ mang trong tim, chỉ nói ra nơi cửa miệng cái tên của lòng yêu thương,
các tên của Đấng mà, các trẻ nhỏ Do Thái ngày nay vẫn còn dùng để gọi cha của
chúng trên các đường phố Giêrusalem.
Chúng ta vừa mới nghe những lời rất đơn sơ của Tin Mừng: Mọi sự thuộc về
Cha, do thánh Gioan kể lại (Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu phiên dịch cách hồn
nhiên là: à Papa le Bon diêu": thuộc về "Ba" Chúa Trời) những gì
thuộc về Cha Thầy, là của Thầy. Rồi Người nói tiếp liền: " Thần Khí sẽ lấy
những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với
"Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên
kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "qui hướng về Đấng khác".
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức
Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên
Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong
một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy
sinh mối liên hệ yêu thương.
22. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ SỰ THẬT
1. "Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi". Các nhà chú giải đã
phải khổ vì mấy chữ trong 15,15 theo đó thì Chúa Giêsu đã nói tất cả cho các
tông đồ. Chắc chắn Ngài đã nói hết cho họ vì Ngài là mạc khải hoàn hảo của Cha
và không còn gì mới để Chúa Thánh Thần mạc khải thêm; vì thế đừng đợi chờ một
mạc khải nào khác. Tất cả đã được Kitô mang đến vì Ngài là "lời"
(1,1.14), là "sự cắt nghĩa" Chúa Cha (1,18). Không còn chữ nào có thể
thêm vào Lời đó, không còn có thể sửa chữa được điều gì. Nhưng có thể quảng
diễn ra dài hơn, trở lại những điều Ngài đã nói để thấu hiểu tường tận (thánh
Gioan đã dùng phương pháp khai triển kiểu vòng ốc này) (x.14,16.26). Nếu Đức
Kitô xét rằng nói hết bây giờ cho các tông đồ cũng đều vô ích, mặc dầu họ có
nhiều thiện chí, là vì chỉ Thánh thần mới có thể biến họ đủ khả năng quán triệt
mạc khải của Thiên Chúa bằng cách làm cho họ biết đón nhận "những điều
thần thiêng (1Cr 2,13); như trẻ sơ sinh trong 1Cr 3,1, họ chưa có thể ăn uống gì
ngoài sữa.
2. Thần khí "sự thật" đến khi mạc khải kết thúc, sẽ hoàn toàn
đưa họ vào tận nguồn chân lý. Ngài sẽ hướng dẫn họ khám phá toàn bộ chân lý và
chân lý sẽ là con đường sống đối với họ, là qui tắc nội tâm cho cuộc đời của họ
(Tv 25,5.9; 143,10; Kn 9,11; 10,17). Mặc dầu Chúa đã truyền đạt tất cả những
điều bí nhiệm cho (15,15), họ vẫn chưa thể hiểu hết được. Để thấu hiểu, họ cần
có một phương pháp thích hợp mà khoa sư phạm của Thánh Thần sẽ mang đến. Thánh
Thần không phải là thày dạy nhưng là một người lặp lại và giải thích lời giáo
huấn của thày thôi. Ngài không tự quyền nói, cũng như Chúa Giêsu cũng như Chúa
Giêsu không nói tự quyền mình (Ga 3,32; 7,16-17; 8,26-28.40,12,14,10; 15,15)
nhưng chỉ mạc khải Chúa Cha để tôn vinh danh Người (Ga 12,28; 14,13; 15,8;
17,4-6) Vì thế Thánh Thần không có giáo thuyết riêng. Ngài chỉ đến khơi lại và
giúp cho hiểu được mạc khải của Cha được Con (14,26).
Khoa sư phạm của Thánh Thần còn có một mục đích khác; soi sáng những biến
cố sẽ xảy ra. Vì thấu hiểu mạc khải của Đức Kitô sẽ không ích gì nếu không biết
áp dụng vào các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nhờ ánh sáng của Ngài, môn
đệ có khả năng nhận thức họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với các hoàn cảnh
khác nhau sẽ xảy đến, để điều chỉnh lối sống của họ theo nhân sinh quan và vũ
trụ quan Kitô giáo. Người Kitô hữu nhìn mọi sự khác cái nhìn của lương dân vì
họ giải thích tất cả bắt nguồn từ biến cố luôn hiện thực của Đức Kitô. Sự chết,
sự phục sinh và lên trời của Ngài không phải chỉ là những sự kiện quá khứ đã
xong xuôi chẳng còn âm hưởng gì đến thời hiện tại. Các hành vi cứu thế của Đức
Kitô vẫn kéo dài từ thời gian này qua thời gian nọ, trong công việc tầm thường
hàng ngày cũng như trong những biến động của lịch sử. Gán cho lịch sữ mộ ý
nghĩa Kitô giáo, giúp khám phá ra những dấu vết của chương trình Thiên Chúa
trong tất cả sự kiện đó ("vì tôi đã không e ngại mà dấu giếm đi, để không
loan báo cho anh em biết ý định của Thiên Chúa")(Cv 20,27), chiếu ánh sáng
sống động của mạc khải trên mọi biến cố, vào mọi thời đại: đó là sứ mệnh của
Thánh thần nơi các môn đệ. Như vậy, Ngài không có tiên báo chi tiết về tương
lai cũng như không tường thuật những biến cố làm đề tài của niên sử. Dưới con
mắt của Ngài, điều thiết yếu không phải là chỗ đó, nhưng là chiều hướng diễn
tiến của kế hoạch cứu rỗi.
Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ biến tất cả Kitô hữu thành những ngôn sứ. Giống
như các ngôn sứ CƯ, bổn phận chủ yếu của họ không phải là tiên báo, nhưng là
khám phá ý định Thiên Chúa trong biến cố hiện đại, "đọc các thời
triệu", nhận biết chiều kích riêng của Thiên Chúa đằng sau những biến cố
đó. Tất cả mọi biến cố của thế giới, xảy ra từ ngày Chúa Giêsu hiển vinh, đều
thuộc về thời cánh chung, cho nên việc thấu hiểu trật tự mới, mà người đàn bà
Samarotanô trông đợi nơi đấng Messia (4,25), chỉ có Thánh Thần thông ban mà
thôi. Tác giả sách khải huyền đã thử nói tiên tri theo kiểu này.
Vì thế Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải
thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại.
Thánh Thần liên tục tham chiếu mạc khải của Đức Kitô. Ngài đón nhận tất cả từ
Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Cha. Có một tiếp nối hoàn hảo
giũa mạc khải trong Đức Kitô và sự thông hiểu nhờ Thánh Thần. Cả hai đều bắt
nguồn từ Cha.
Nhưng tất cả những cái đó không cấm giáo hội, dưới ảnh hưởng của Thánh
Thần, giải thích không ngừng nội dung mạc khải do Đức Kitô mang đến, phát sinh
cái mà các nhà khoa học gọi là "sự tiến triển các tín điều". Công
đồng Vaticanô II đã dạy: "Thánh truyền do các tông đồ truyền lại được tiến
triển trong Giáo hội dưới sự trợ giúp của Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và
các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi
của các tín hữu, những người đã ghi nhận những điều đó lòng (Lc 2,19 và 51); nhờ
sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng
dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị
trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo hội luôn hướng tới sự
viên mãn của chân lý Thiên Chúa cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính
Giáo hội (hiến chế mạc khải của Thiên Chúa, số 8).
KẾT LUẬN
1. Trước khi tiếp tục mùa quanh năm (là mùa sẽ kết thúc năm phụng vụ bằng
lễ Chúa Kitô Vua). Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta thưởng thức mạc khải chính
yếu do Đức Kitô mang đến. Qua tất cả những biến cố cuộc đời Ngài mà chúng ta đã
cùng nhau sống lại suốt năm phụng vụ này Chúa Giêsu đã dần dần cho chúng ta
nhận biết một cách cụ thể mối giây liên lạc giữa Ngài với Cha và Thánh Thần.
Chính qua Ngài, chúng ta từ từ tiến sâu vào mạc khải của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã tỏ mình ra không như là một hữu thể trừu tượng, một kiến
trúc của trí tuệ, hay còn tệ hơn nữa như một người xa lạ. Trong Đức Kitô, người
trở nên một người trong chúng ta để chúng ta dễ nhận biết Ngài: "Ai thấy
Ta là thấy Cha", Chúa Giêsu đã nói với Philipphê như vậy.
2. Trong lời Chúa nghe hôm nay, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem Chúa Giêsu
nói thế nào về Cha và Thánh Thần, Chúa đã tự mạc khải thế nào cho ta. Đầu tiên,
Chúa Giêsu nói đến Cha và Thánh Thần như những ngôi vị riêng biệt khác với
chính Ngài. Trong phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
"Khi Ngài đến, vì là Thần khí sự thật...". Chúa Giêsu nói đến Ngài
như một ngôi vị thật sự mà người ta đợi chờ, như một Đấng sẽ đến và sẽ hoàn tất
một sứ mệnh rõ ràng và lạ thường.
Chúng ta nhớ lại là đã cùng nhau đọc và suy niệm một vài đoạn trong diễn
từ sau Tiệc ly trong các Chúa nhật mùa Phục sinh; trong các đoạn đó, Chúa Giêsu
thường nói về Cha và Thánh Thần; chính nơi Cha mà Con qui chiếu mọi dự định của
mình và nhận lấy Lời để loan truyền. Con công chính hóa loài người, ban cho họ
sự bình an và uỷ cho họ quyền hòa giải. Thánh Thần dẫn đưa những ai đón nhận
Con đi đến chân lý.
3. Chính khi nói về các Đấng đó như những ngôi vị tách biệt, Chúa Giêsu
cũng nói đến Cha và Thánh Thần như hiệp nhất với Ngài. Ngài cho thấy các đấng
đã hiệp nhất với nhau đến nỗi Đấng này sẽ không làm gì nếu không có đấng kia.
Trong bài phúc âm hôm nay cũng thấy nói đến sự hiệp nhất Chúa Cha, Con và Thánh
Thần. Thánh Thần chỉ lặp lại giáo huấn của Chúa Giêsu hay khi dạy là Ngài dạy
về Chúa Giêsu. Mọi điều Đức Kitô biết và có được đều bắt nguồn từ Cha. Hơn nữa,
tất cả những gì Cha biết và có thì Người đã ban cho Đức Kitô đến nỗi mỗi ngôi
đều có cái mà ngôi kia có và đồng thời không chiếm hữu một điều gì riêng cho
mình. Khi nói đến Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy các đấng vừa
khác biệt vừa đồng nhất, vừa tách rời vừa hiệp nhất, khi các đấng hành động thì
là ba, và đồng thời cũng chỉ có một hiện diện.
4. Khi nói cho chúng ta biết về chính Ngài và về mối tương giao của Ngài
với Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu tỏ bí mật tình yêu cho chúng ta, Ngài thỏa
mãn những gì mà chúng ta ao ước tự thâm tâm nhưng cảm thấy không thể nào đạt
được.
Một đàng, sự phân biệt các ngôi vị cho thấy sự phân biệt tự trị trọn vẹn
của mỗi ngôi. Cho nên có một sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc
hay thống trị lẫn nhau. Thật vậy ai mà không ước mơ được sự giải thoát khỏi uy
lực của kẻ khác? Vì đó chính là điều kiện căn bản để ngôi vị được tự trị và độc
lập trọn vẹn.
Đàng khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối hiệp
nhất. Các đấng không bao giờ làm việc gì mà không có nhau; các Ngài luôn cùng
nhau hành động; điều gì ngôi này có thì ngôi kia cũng có; ngôi này là gì thì
ngôi kia cũng vậy. Ai mà không ước mơ sự thông hiệp hoàn toàn với người khác,
sự hiệp nhất khắn khít đến nỗi không còn ranh giới, đến nỗi thông giao với nhau
một cách trọn vẹn, đơn sơ, chân thành. Ở đây chúng ta bắt gặp lại từ ngữ nổi
tiếng của thánh Gioan, một từ ngữ mà chưa bao giờ có ai tát cạn ý nghĩa phong
phú: "Thiên Chúa là tình yêu". không phải là Thiên Chúa có tình yêu
như có ánh sáng, quyền năng hay sự sống. Không! Ngài là tình yêu. Tình yêu là
bản chất của Ngài.
5. Chính giữa lòng cuộc sống hàng ngày và trong mối tương giao với người
khác, chúng ta sẽ dần dần bắt chước tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ học cách
yêu thương dưới ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu xin Chúa mạc
khải cho chúng ta có lòng ước muốn tình yêu đó. Như vậy sự hiểu biết Thiên Chúa
sẽ làm tâm hồn ta luôn tràn ngập bình an và hân hoan vui sướng.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét