MỤC LỤC
1. Con người - Lc 2,1-20
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
3. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18
4. Ngôi Lời là ánh sáng thật
5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc 2,1-14
6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7. Lời ngỏ của Tình Yêu - Ga 1,1-18
8. Noel: Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy Thống
9. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga 1,1-8
10. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2, 1-20
11. Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc 2,1-14
12. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
13. Ngạc nhiên
14. Đêm Thánh
15. Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
16. NOEL: Tình bạn
17. NOEL: Hữu hình
18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
19. NOEL: Đổi đời
20. Đêm An Bình
21. GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
22. GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
23. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương
24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
25. Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
27. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
28. Thiên Chúa làm người vì chúng ta – Noel Quesson
29. NOEL: Yêu thương 91
30. Vinh danh 93
31. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh 96
32. Lễ Giáng Sinh - JKN
33. Tìm kiếm
34. Món quà vô giá
35. Giáng Sinh: Ánh sáng
36. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
37. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta"
38. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh
CHÚ GIẢI
1. Chú giải của William Barclay
2. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
3. Chú giải của Fiches Dominicales
4. Chú giải của Noel Quesson
1. Con người - Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất.
Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người
ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết
làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ
ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào
mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu hiệm giáng sinh, thì yếu tố con người
cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn
đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin
Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng
tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục
thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những
thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên
giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để
con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu
đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá
con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng
sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được
hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã
đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ
cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội
lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người
ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một
cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng
nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị
xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi
chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ
ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người
đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
2. Vì Ngài Ở Với Chúng Ta - Lc 2,1-14
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Đây là thời gian hoan lạc.
Từ vài tuần lễ nếu không phải là vài tháng chúng ta đã dự
tính và tổ chức lễ Giáng Sinh: Chúng ta sẽ đi đến nhà ai, ai sẽ đến nhà chúng
ta. Điều này đối với nhiều người là một mối bận tâm lớn, để sắp xếp mọi cuộc
gặp gỡ và mọi lời mời. Thậm chí thời tiết cũng ảnh hưởng đến những lo toan của
chúng ta: Có bão là các cha mẹ trẻ tuổi sẽ không lên đường được vì sẽ quá nguy
hiểm cho trẻ thơ. Rồi những tuần sau, khi nhà sẽ đầy người, niềm vui sẽ lớn
lên: "Ôi, tôi rất vui được gặp bạn!" – "Ôi, cuối cùng bạn đã đến
rồi!" – "Thật mừng là bạn có thể đến được!".
Ở đây, trong nhà thờ chúng ta có thể lập lại một lời gì
giống như vậy trong suốt mùa Vọng: "Vì Ngài ở với chúng ta! Vì Chúa Giêsu
ở với chúng ta". Lời này đã trở thành khẩu hiệu cho việc chuẩn bị lễ Giáng
Sinh. Nhưng tối nay, những lời ngắn gọn này thốt ra như một tiếng kêu của con
tim: "Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa ở với chúng con, chúng con cũng ở với Chúa.
Nơi nhà Chúa, tối nay người ta đi viếng thăm nhau. Chúa đến nơi nhà chúng con
và chúng con đi đến nhà Chúa! Con ở đây, vì Chúa cũng ở đây nữa!".
Tiếp khách.
Thường lệ khi khách đến, người ta tiếp đón, hỏi han một
chút. Người ta hỏi thăm có điều gì mới không và khi có một em bé cùng đi người
ta quan tâm kỹ hơn, vuốt ve ân cần hơn. Tại sao chúng ta hết thảy không đón
tiếp Chúa Giêsu như vậy?
Quả thật, chính với tư cách một hài nhi mà Ngài đến viếng
thăm: "Đức Maria hạ sinh một con trai đầu lòng, quấn tã và đặt nằm trong
máng cỏ". Nhưng hài nhi này đến viếng thăm chúng ta với những nét đặc
biệt, mang một niềm hy vọng rất đặc biệt, như bài đọc thứ nhất đã nói: Ngài sẽ
là "cố vấn tuyệt vời", Ngài sẽ là "quyền năng của Thiên
Chúa", "Nguồn sự sống đời đời". Ngài sẽ là "một mầm mống
bình an". Một hài nhi như vậy thật là quí báu. Trong một gia đình, đây là
một phúc lành thật sự làm cho mọi người vui mừng.
Không có Ngài, chẳng có gì như vậy được.
Chăm sóc một em bé vài tiếng đồng hồ, thời gian một cuộc
viếng thăm ngắn ngủi, không đòi hỏi nhiều lắm. Nhưng khi người ta đến ở lâu, ở
mãi, làm cho gia đình tăng số, lúc đó sự việc trở nên nghiêm túc hơn. Mỗi lần
một người nào khác đến ở bên cạnh chúng ta, điều này sẽ mang lại bao nhiêu sự
thay đổi! Phải thay đổi bao nhiêu thói quen.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời
để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự
chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát
triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón "bé Giêsu" có ích gì
nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của
chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói:
"Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta". Vì ta
phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân
vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với
người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và
tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa. Việc Thiên Chúa đến
viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật,
Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một
câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: "Nhưng lạy Ngài
có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào
chúng tôi đã không làm điều đó?". Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi
ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông
đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo
nhất và xấu số nhất.
Đây là thời hoan lạc.
Nhưng đêm nay, chỉ với một con tim tươi trẻ mà chúng ta
mới có thể nhận ra những lần Thiên Chúa đến viếng thăm trong cuộc đời chúng ta
và để cho niềm hoan lạc bùng lên. Phải, ta có thể nói: Không có Ngài cuộc đời
của chúng ta không thể như vậy được. Vì bao nhiêu niềm vui đã nhận được và cho
đi, bao nhiêu tình nhân ái đã trổ hoa trong lòng con người vì Hài Nhi này. Hài
Nhi mà người ta để cho lớn lên trong nội tâm mình.
Chính nhờ thế mà chúng ta có thể kêu lên: "Vì Ngài ở
với chúng con, nên đây là thời gian hoan lạc!".
3. Đừng thờ lầm - Ga 1, 1-18
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Phần tự ngôn Phúc âm theo thánh Gioan khuyên nhủ chúng ta
nhận thức rõ tầm mức siêu phàm của lễ Giáng Sinh, cũng như sự uy nghi của mầu
nhiệm Giáng Sinh. Con trẻ Giêsu là Ngôi Lời nhập thể đến cư ngụ giữa chúng ta.
Đứng trước Hài nhi bé mọn ở Bêlem, chúng ta được mời tiến sâu vào chính mầu
nhiêm Thiên Chúa, tới chỗ của Ngôi Lời – tức là Lời hằng sống và thân mật của
Thiên Chúa đã có trước toàn thể vũ trụ. Như vậy chúng ta được mời hãy đến thờ
lạy. Kẻ thờ phụng là kẻ khi được tới gần bên Thiên Chúa liền nhận thức sâu sắc
rằng mình là kẻ tuỳ thuộc, vô giá trị, tội lỗi nữa. Kính thờ và thinh lặng, cảm
tạ và vui sướng, đó là cách tuyên xưng Chúa là sự Thiện tuyệt đối và nguồn mọi
ơn lành. Lễ Giáng Sinh mời chúng ta đến thờ lạy Con trẻ Giêsu. Trong Hài Nhi,
Thiên Chúa rất gần gũi – trong Hài nhi có sự sung mãn của Thiên Chúa – và nhờ
Hài nhi, chúng ta được có mặt trên thế gian để sống, hiểu biết và yêu thương.
Sự suy niệm về một vài từ ngữ trong tự ngôn của thánh Gioan có thể cung cấp cho
chúng ta một phong cách thờ phụng.
1) Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy Đấng tạo hóa. Não
trạng nhân lạo thời nay dễ loại bỏ ý niệm về Đấng tạo hoá, con người chỉ muốn
những gì mình có là do sức mình. Một số tiến bộ nào đó để tìm hiểu những diễn
biến vật chất của sự sống, đã đem lại chước cám dỗ xui con người muốn quyết
định ai sẽ có quyền được sinh ra và cuộc đời mình sẽ diễn tiến thế nào. Con
người quên mất nguồn gốc mình, quên hẳn sự thể bởi đâu mà mình có được thân
xác, có được sự sống. Con người suy tư và hành động như thể không bị hoàn toàn
tuỳ thuộc vào Đấng tạo hoá đã tạo thành y. Trong Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy
Đấng đang có, trước đây vốn có, và đến trong thế gian (Mạc khải 4, 8), nghĩa là
Đấng hiện hữu ngoài thời gian, đã có trước hết mọi khởi đầu, do Người mà muôn
vật được tạo thành. Lễ Giáng Sinh tức lễ Nhập Thể cho thấy một sự tự ý hạ mình
nào đó của Thiên Chúa. Để làm nổi bật sự tương phản giữa tất cả và hư vô. Chúng
ta được mời hãy ý thức lại về thân phận thụ tạo của mình hãy thờ phụng Thiên
Chúa đã tạo thành chúng ta. Thiên Chúa là Đấng tự hữu, Người không được tạo
thành- phần chúng ta, chúng ta đã được tạo thành. Vì thế, chúng ta phải suy tư
và hành động theo chiều nghĩ: nhờ Thiên Chúa mà chúng ta có được mọi sự.
2) Nhờ Đức Giêsu, chúng ta thờ lạy trong tâm trí và trong
sự thật. Một trong những diện chủ yếu và bi kịch nhân loại là con người thường
nhiều phen lầm lạc trong khi thờ phụng. Luôn luôn con người bị cám dỗ thờ ngẫu
tượng. Tại sao? Vì lẽ, nếu không có Đức Kitô thì nhân lại chỉ còn biết dò đường
trong đêm tối – trí tuệ bị u ám, trái tim chán nản hết sinh động. Thế mà Đức
Kitô là Ánh sáng. Người là Sự Sống, và sự sống là Ánh sáng nhân loại. Thờ phụng
cách linh hoạt giống như tâm hồn tiến bước trên đường tới đích là Thiên Chúa. Phải
được soi sáng mới khỏi lạc đường. Đức Kitô- Anh sáng soi sáng trí tuệ con người
và chỉ con người thấy đường đi của số mệnh y.
Ánh sáng và sự sống liên kết với nhau. Kẻ thờ các ngẫu
tượng (khoái lạc, danh vọng, tiền của, thế gian) thì dò dẫm trong bóng tối linh
hồn, và hiến mình cho những vật chết. Cách vô hình, và nhiều phen thật bất hạnh
cho y, kẻ ấy liên kết trong tâm hồn bóng tối và sự chết. Trái lại, người nào
tiếp nhận ánh sáng, tức quy tắc về Chân Lý, do niềm tin vào Đức Kitô phát ra,
người ấy liên kết trong tâm hồn Ánh sáng và sự sống.
Lễ Giáng Sinh mừng ánh sáng. Trong khi vui ngắm những giây
đèn giăng mắc ngoài đường phố và trong tư gia, chúng ta hãy nhớ đến sự cần
thiết hàng đầu là làm thế nào để Ánh sáng Đức Kitô soi sáng lòng và trí chúng
ta.
4. Ngôi Lời là ánh sáng thật
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước
máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha
đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng
phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu
không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên
Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi
hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một
chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn
bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp.
không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở
nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân
trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng
chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng
tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở
trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu
đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay,
trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất
nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón
nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên
một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy
lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập
Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
• Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn
đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho
con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi
với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm
được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám
sống như con.
5. Vinh danh Thiên Chúa trên trời - Lc
2,1-14
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời
ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương"
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ
trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc
Thiên Chúa với con người.
Tại sao ""Vinh danh Thiên Chúa trên trời"
phải đi liền với "Bình an dưới thế cho người Chúa thương"? Thưa vì
Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm
người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì
yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một
người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên
trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên
Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là
khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà
hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm
đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết
cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta
hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời
gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra
trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ.
Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ.
Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những
truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho
hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục
vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn,
cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta
làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người.
Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người
được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con
người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao
trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: "Vì loài người chúng tôi và
để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế", ta hãy quỳ gối trước
tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của
con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn
thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ
Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà
tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu
bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy
những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi
chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh
ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có
thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ,
yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương"
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất
cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho
người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa
Thiên Chúa với con người không?
2. Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người
nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3. Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực
sự mừng đón Chúa đến?
6. Đêm Ánh Sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
ĐÊM ÁNH SÁNG
Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp lớp bóng tối dày đặc.
Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm. Bóng tối
cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang.
Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ. Bóng tối âm u
trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh. Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.
Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn
ánh sáng rực rỡ.
Đó là ánh sáng tình yêu.
Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm.
Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên chúa dành cho nhân loại. Tình yêu
đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì
có thể so sánh được. Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho
thêm gì nữa. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên chúa đi tìm con người.
Thiên chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người. Thiên chúa đã tìm thấy
con người trong những khốn cùng tột độ của nó. Thật lạ lùng, Thiên chúa quá yêu
thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại. Thiên chúa đã cưới lấy
bản tính nhân loại. Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên chúa. Bóng
đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương. Anh sáng Thiên chúa soi sáng kiếp
người tăm tối. Ánh sáng Thiên chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.
Đó là ánh sáng niềm tin.
Ánh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện
chí. Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm. Nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh
thức. Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn. Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống
âm thầm trong bóng tối. Đó là những người nghèo của Thiên chúa. Đó là thánh
Giuse, Đức Maria. Đó là Ba Vua. Đó là các mục đồng. Khiêm nhường nên các ngài
sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên chúa. Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận
những dấu chỉ Thiên chúa gửi đến. Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường
ngay khi nhận được tín hiệu. Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng. Hê rô đê
và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt. Trái lại "vinh quang
của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng". Và ngôi sao xuất hiện dẫn
đường cho Ba Vua. Anh sáng đã bao phủ các ngài. Anh sáng đã dẫn đưa các ngài
đến bên máng cỏ. Anh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy "một trẻ sơ sinh bọc
tã, nằm trong máng cỏ" và các ngài đã tin.
Đó là ánh sáng hy vọng.
Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế
giới. Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu. Những người nghèo của
Thiên chúa âm thầm kiên trì chờ đợi. Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước
mắt lên trời tìm kiếm. Niềm khao khát đã được đáp ứng. Đã đến mùa Thiên chúa
gieo hạt. Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại. Hạt
giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ. Mặt trời
bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian. Anh
bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng. Với Hài nhi Giêsu, một
thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn
được kính trọng. Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên chúa gieo vào thế giới.
Đó là ánh sáng Tin Mừng.
Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những
ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ
ánh sáng với những người chung quanh. "Họ kể lại điều đã được nói với họ
về Hài Nhi này". Tin Mừng được loan đi. Niềm vui lan tới mọi tâm hồn. Ánh
sáng bừng lên phá tan đêm tối.
Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú. Mầm cây cần bàn tay ân
cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê. Hài nhi Giêsu như ngọn nến
đem ánh sáng vào đêm tối. Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau
cho ánh sáng lan rộng.
Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra
đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần
gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.
7. Lời ngỏ của Tình Yêu - Ga 1,1-18
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: "Thiên Chúa là tình
yêu". Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều
hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều
khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc
phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một
của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa
chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để
lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh
vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình
yêu. Qua bản thân Ngài, qua ánh mắt Ngài, qua khung cảnh hang đá, ta sẽ nghe
được tiếng thì thầm của Thiên Chúa. Tiếng thì thầm đó là tiếng nói của tình yêu
dưới nhiều sắc mầu khác nhau.
Đó là tiếng nói của tình yêu dâng hiến. Bêlem theo tiếng
Do Thái có nghĩa là nhà bánh. Chúa Giêsu tự nguyện trở thành tấm bánh nuôi
dưỡng chúng ta. Ngài nằm trong máng cỏ như một lương thực mời gọi đoàn chiên
đến để được bổ dưỡng. Lương thực đó không phải là lương thực vật chất nuôi xác,
nhưng là lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn. Ngày nay, tuy nạn đói cơm
bánh đã bớt phần gay gắt, nhưng lại xuất hiện những cơn đói mới: đói văn hóa,
đói sự an ủi chia sẻ, và nhất là đói khát đời sống thiêng liêng. Chúa Giêsu
chính là tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới, đáp ứng những cơn đói mới của thế
giới.
Đó là tiếng nói của tình yêu khiêm nhường. Tình yêu chân
thực là tình yêu khiêm nhường. Tình yêu hạ mình vì người yêu. Chúa Giêsu đã hạ
mình thẳm sâu. Từ trời xuống đất. Từ địa vị Thiên Chúa xuống địa vị làm người.
Khiêm nhường nên nhường hết không gian cho con người. Những không gian rộng
lớn, cao sang thuộc về con người. Chúa chỉ thu mình trong một góc nhỏ nghèo hèn
của chuồng bò. Nhường không gian cho con người ăn nói. Còn Chúa chịu im lặng,
thu nhỏ trong câm nín.
Đó là tiếng nói của tình yêu đi tìm. Tình yêu của Thiên Chúa
luôn đi những bước trước. Yêu con người khi con người chưa biết yêu Chúa. Tha
thứ cho con người trước khi con người xin lỗi. Đi tìm con người trước khi con
người quay về. Cuộc đi tìm thật vất vả. Chúa phải bỏ trời cao, phải mặc thân
phận yếu hèn, phải chịu khổ sở, phải chịu nhục nhã, phải chịu chết mới tìm được
con người.
Đó là tiếng nói của tình yêu hy sinh. Vì yêu nên Chúa chấp
nhận hết những thiệt thòi về phần mình. Chịu đói nghèo, chịu bị xua đuổi, chịu
khổ nhục. Trẻ thơ Giêsu rét mướt nằm trong máng cỏ nói với ta điều gì nếu không
phải là tình yêu, yêu đến độ chấp nhận tất cả.
Đó là tiếng nói của tình yêu kết hợp. Cứ dấu này các ngươi
nhận biết Ngài, đó là một em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ. Vâng, kỳ diệu thay
tình yêu Thiên Chúa. Vì yêu nên đã kết hợp trọn vẹn với con người. Trở nên một
với con người. Chấp nhận hết những gì của con người. Chấp nhận đói khát, khổ
sở, nghèo nàn. Chấp nhận cả những bấp bênh, bất trắc của kiếp người.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng
cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái
tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ,
ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh
sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của
Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi
vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của
Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn nghe thấy gì qua tiếng nói thinh lặng của Hài Nhi
Giêsu trong máng cỏ?
2. Yêu thương, ngỏ lời mà không được lắng nghe và đáp lại.
Bạn cảm thấy thế nào nếu rơi vào tình trạng đó? Bạn có hiểu được lòng Thiên
Chúa khi ngỏ lời yêu thương với bạn không?
3. Còn nhiều người chưa nghe được lời yêu thương của Chúa.
Bạn có sẵn sàng làm sứ giả đem lời tình yêu của Chúa đến với họ không?
4. Để làm sứ giả tình thương, bạn cần những đức tính nào?
8. Noel: Lễ nhập cuộc – ĐGM. Vũ Duy
Thống
(Trích trong 'NÚT VÒNG XOAY' – Trg. 35)
Đi qua trường Kinh Tế Tài Chính 4 bên cạnh Đại Chủng Viện
hôm qua, tình cờ nghe được mẩu đối thoại giữa mấy cô gái. Có tiếng hỏi:
"Noel, bồ có đi đâu không?". Có tiếng đáp: "Không, mình ở
nhà". Và khi tiếng đáp vừa mới dứt đã có tiếng ai đó xen vào: "Noel
mà lại ở nhà à? Người ta phải ra đường chứ!".
Vâng! Noel người ta ra đường thật. Từ Đại Chủng Viện tới
đây mặc dù đường đi chỉ có mấy bước, nhưng tôi vẫn bị kẹt xe bởi những con
đường lớn đều chật ních những người là người. Dường như cả thành phố đều ở trên
đường. Kẻ đi người lại, đông ơi là đông. Vì thế, tiếp cận với Tin Mừng Giáng
Sinh đêm nay, tôi bỗng thấy thánh Giuse và Đức Maria cũng đang ở trên đường,
đường dong duổi cho cuộc đăng ký hộ khẩu kiểm tra dân số. Những điều tai nghe
mắt thấy ấy đã tự nhiên gợi lên hình ảnh Noel là một lễ nhập cuộc.
1) Noel là lễ của sự nhập cuộc.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong
đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm
thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn
bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông
chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là
"Đấng khôn tả", nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối
phủ định nghĩa là thêm chữ "vô cùng" vào sau mỗi phẩm tính muốn dành
cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là
"Đấng đáng sợ", nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi.
Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân
làm người ở giữa chúng ta.
Người nhập cuộc trong lịch sử chung của toàn thể nhân loại
cũng như trong lịch sử riêng của đời Người. Sự nhập cuộc ấy đã được lịch sử cắm
mốc thời gian rõ ràng là "thời Hoàng đế Cêsarê Augustô" và được cấp
sổ đỏ không thể chối cãi là "thành Bêlem xứ Giuđêa" như Phúc Âm ghi
lại. Sự nhập cuộc ấy đã làm nên lý lịch trích ngang của Đấng Cứu Thế. Người có
một gia đình, đã được cưu mang chín tháng như bất cứ ai để cuối cùng mở lòng mẹ
bước ra chào đời và sống đời như bao người khác.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc "Thiên Chúa viếng
thăm Dân mình", nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn
ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua
vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc.
Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng
rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung
nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
2) Và nhập cuộc là chấp nhận vòng quay nghiệt ngã của cuộc
sống.
Trong bài đọc thứ nhất, qua lăng kính của Isaia, Thiên
Chúa được xưng tụng là "Chúa hùng dũng", thế mà Người đã hóa nên con
người yếu đuối trong hình hài một thơ nhi bé bỏng.
Dẫu được gọi là "Thủ Lĩnh bình an", nhưng chính
Người khi xuống thế đã nhập cuộc vào những xáo trộn của cuộc đời, để chẳng được
an thân sinh ra trong nhà của mình. Hoàng đế Rôma chỉ là thụ tạo, nhưng lại nắm
quyền ra lệnh khai sổ nhân danh khiến Thủ Lĩnh đích thực là Người lại phải chịu
sinh ra trên đường đăng cai hộ khẩu. Hộ khẩu dẫn tới "hậu khổ"! Người
ta dòng dõi vua chúa sinh ra được bọc vải điều nơi lầu vàng gác tía giữa đông
đảo kẻ hầu người hạ, còn Người lại tự nguyện sinh ra nghèo khó nơi hang đá
trong máng cỏ bò lừa. Người là "Cha vạn thuở", bản thân Người là căn
nguyên vạn vật, thân thế Người là cội nguồn nhân sinh, muôn vật muôn loài đều
phải nhờ Người mới có, thế mà hôm nay Người lại chịu sinh ra trong thời gian
bởi một người phụ nữ với tiến trình trưởng thành tuần tự bình thường. Người là
"Cố Vấn kỳ diệu", nhưng khi sinh ra làm người hôm nay chẳng thấy
Người cố vấn cho ai, mà ngược lại xem ra Người đã "cố mà vấn vào đời
mình" những gì là bình thường nhất nếu không muốn nói là hèn mạt nhất của
kiếp phận nghèo khổ.
Rõ ràng là Người đã nhập cuộc trong quỹ đạo của một đời
người giữa những người đời. Nhập cuộc như thế cũng có nghĩa là ăn đời ở kiếp
giữa đời với những hệ quả muôn thuở của cuộc đời. Nếu cuộc đời luôn bằng phẳng có
lẽ đã không có kiểu nói diễn tả "bụi trần", và nếu cuộc đời luôn hạnh
phúc có lẽ cũng chẳng phải lắm điều đặt chuyện "đời là bể khổ" làm
chi. Chẳng bi quan cũng thấy cuộc đời không luôn ổn định. Thế mà Chúa đã yêu
thương đón lấy cuộc đời ấy, để chính khi hóa thân làm người là cùng lúc Người
dấn thân vào trong những bấp bênh bồng bềnh bó buộc của cuộc sống.
3) Để cứu độ trần thế và con người.
Nếu nhập cuộc chỉ có nghĩa là hòa vào dòng chảy cuộc đời
thì có lẽ chẳng có lễ Noel. Nhưng sở dĩ có lễ Noel là bởi vì Chúa nhập cuộc để
cứu độ trần thế và con người.
Người nhập thế để làm gì? Thưa để đem trần thế vào lại
"trật tự nguyên thủy" như nét đẹp ban sơ của trần thế ngày sáng tạo
mà tội lỗi đã làm hư đi. Nên Noel còn gọi là "Ngày sáng thế mới". Đêm
Noel là đêm đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của ơn cứu độ.
Người nhập thể để làm gì? Thưa để đem con người về với ơn
cứu độ. Người là Emmanuel của một Thiên Chúa không đến rồi đi, không ở rồi về
mà là một "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", một Thiên Chúa đến ăn đời ở
kiếp với nhân loại để nâng nhân loại lên ngang tầm với vinh quang của Người.
Thảo nào, các thiên thần đã hát: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an
dưới thế cho người thiện tâm". Và cũng chính vì thế các Giáo phụ Đông
phương đã bảo: "Thiên Chúa làm người cho người được làm con Thiên
Chúa". Như vậy, Noel chính là lễ của một sự nhập cuộc tuyệt vời cũng như
chữ Noel đến từ danh xưng Emmanuel đã làm nên Thánh lễ đêm nay.
Thiên Chúa nhập cuộc để đem ơn cứu độ. Đó là Tin Mừng
trọng đại cho toàn dân, nên sứ điệp của đêm nay là hãy nhập cuộc cùng với Noel.
Nhập cuộc tức thời là hãy mở lòng mình ra mà đón Chúa sinh
vào, và nhập cuộc dài hơi là biết sinh Chúa ra bằng một đời sống tín hữu gương
mẫu. Đừng để Noel trở thành dịp phô trương đời sống hoặc phô bày đam mê như
trong báo Công An tuần qua đăng tải về một Việt kiều tổ chức sinh nhật của mình
một cách trụy lạc. Đừng để Noel qua đi mà lòng mình vẫn còn trĩu nặng ước muốn
quyền hành hoặc tình cảm ghét ghen. Và nhập cuộc lớn hơn cả chính là biết cùng
với Chúa mà cưu mang xây dựng, cảm thông nâng đỡ những anh chị em túng quẫn
hoặc đau khổ vốn không thiếu trong đời, cho dẫu chính khi nhập cuộc như thế
mình phải hy sinh đi theo quỹ đạo của nhập cuộc.
Noel nhập cuộc là thế, là Tin Mừng sống động, là chan hòa
sự sống. Nhưng Noel bao giờ cũng là lễ của niềm vui, của bàn tay nắm lấy bàn
tay, của bước chân tiếp nối bước chân dấn thân vào đời phục vụ cho hạnh phúc
con người. Niềm vui và hạnh phúc là điều người ta thường cầu chúc trong đêm
Noel. Chân thành kính chúc cộng đoàn một Noel tràn đầy niềm vui: thứ niềm vui
cứu độ, quên mình, nhập cuộc; và hạnh phúc dẫy đầy: thứ hạnh phúc không phải
chờ đến xa xôi mai hậu, nhưng đã bắt đầu đêm nay bằng cách biết tiếp nhận Chúa
sinh vào và biết sinh Chúa ra trong quyết tâm nhập cuộc của mình.
9. Ngôi Lời đã trở nên người phàm - Ga
1,1-8
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi
hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em nhỏ tên Thad. Nhiều người ở Mỹ và
Canađa đã góp tiền, thực phẩm để tặng cho em khi người ta chuyển đến "Cơ
quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố" một bức thư đầy lỗi chính tả của em. Em viết
như sau:
"Thưa Ông "dà" Noen, Giáng Sinh này xin ông
giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều
thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn...
Con muốn được lên "chời" để ở chung với các
thiên thần. Ông mang con lên "chời" nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua
đồ ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con "xung xướng". Xin Ông
mang cho bố con một chỗ làm và ít thức ăn...
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và
cho mẹ con ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy tuần lộc... Con gởi lời chúc
Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noen và các chú lùn nữa.
Ký tên: Thad.
Người ta vẫn chưa tìm ra em Thad y như rất nhiều người Do
Thái đã không tìm ra trẻ Giêsu nghèo khó năm xưa. Họ đâu dám đi ra ngoài vì sợ
trời lành, họ không dám đến những khu nhà tối tăm, bẩn thỉu vì sợ dơ quần áo.
Họ giống như những người giàu thời đại chúng ta chỉ muốn ở yên trong nhà, tự
mãn với những nệm êm, chăn ấm, với những bữa tiệc, những cây thông đủ ánh đèn
màu, với những chương trình tivi hấp dẫn. Những người giàu ấy sẽ phải khóc vì
không nhận được ơn bình an và ơn cứu độ của Chúa Hài Đồng.
Chúng ta không cần tìm kiếm ở đâu xa xôi, vì Ngôi Lời đã
làm người và ở giữa chúng ta. Quả thức, Thiên Chúa không phải chỉ làm người giả
hiệu, mà Ngài đã cắm lều ở giữa chúng ta. Để nhận ra điều đó, chúng ta hãy bước
đến hang đá. Hẳn nhiên đó chỉ là biểu tượng. Nhưng là một biểu tượng nhắc nhớ
một biến cố lịch sử duy nhất. Một cảnh sống nghèo nàn, thanh bạch đến thiếu tất
cả, giữa một đêm tối không đèn, không đóm, nơi một góc trời không tên không
tuổi. Hai người bạn trẻ, hai người lao động đơn sơ nằm nhờ trên đống rơm giữa
những con vật hiền lành. Một hài nhi mới sinh trong một cuộc hành trình bất đắc
dĩ. Nhưng Thiên Chúa đó! Thiên Chúa không yêu thương chúng ta từ trời cao. Ngài
đã đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong da thịt Đức Giêsu Nazarét. Điều mà không
ai có thể tưởng tượng ra, đó là Thiên Chúa liên đới trọn vẹn với số phận mạt
kiếp của chúng ta. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta, như là một người nghèo nhất
tại Bêlem trước khi trở thành người rốt hết trên thập giá. Giáng Sinh nhắc nhớ
cuộc gặp gỡ thân tình có một không hai đó giữa Thiên Chúa và con người như một
huyền nhiệm, như một trao đổi kỳ diệu.
Và như vậy, thưa anh chị em, chúng ta thấy Thiên Chúa
"người" hơn chính chúng ta. Ngài ở dưới đất. Đừng đi tìm Ngài trên
khung trời cao! Chúng ta là như vậy đó: Khi tình yêu quá lớn, nghĩa là quá
khiêm tốn thì chúng ta lại không dám nhận ra, không dám chấp nhận. Chúng ta
không chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức Ngài đến gặp
chúng ta trong huyền nhiệm Nhập Thể của Ngài. Nhưng dù chúng ta có muốn hay
không, thì từ nay Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của ngõ hẹp, của chuồng chiên
bò, của hang đá, máng cỏ.
Và nếu Thiên Chúa đã tự hạ gần gũi như vậy, tầm thường như
vậy, thì không có gì xảy ra trong đời thường của chúng ta lại ở ngoài ánh sáng
thần linh của Thiên Chúa, "ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi
trong bóng tối, và ánh sáng ấy là sự sống". Khi đất này đã được sự hiện
diện yêu thương của Thiên Chúa trong Đức Giêsu bao trùm, thì đất này đã là túp
lều của Con Thiên Chúa nhập thể. Mọi đóng góp cho đất này đã trở thành nơi ở,
chẳng những ở được mà còn ở tốt cho Thiên Chúa và cho con cái loài người của
Ngài, là một điều không ai được khước từ nếu không muốn phủ nhận niềm tin của
mình và mầu nhiệm Giáng Sinh. Không có con người nào là con người bị loại ra
ngoài tình yêu của chúng ta nếu chúng ta không muốn cho đức ái chỉ là chữ viết
trên giấy. Không có cảnh đời nào là cảnh đời chúng ta phải chạy trốn, nếu chúng
ta thật sự muốn sống lòng cậy trông của mình. Chúng ta thường đi gặp Chúa ở
ngoài cuộc sống cụ thể, hằng ngày, trong khi Thiên Chúa đã nhập thể làm người
trong cuộc sống cụ thể hằng ngày đó.
Chính vì thế mà những người Mỹ, những người Canađa, những
cảnh sát ở thành phố Los Angeles vẫn chưa tìm ra được em Thad khi họ nhận được
bức thư em gởi cho ông già Noen. Bởi em Thad là hiện thân của bao nhiêu em bé
và gia đình nghèo đói trên trái đất này, nơi Thiên Chúa đã làm người và cư ngụ
ở giữa chúng ta trong những gia đình, những em bé khốn khổ đó.
Anh chị em thân mến, tôi không tin là chúng ta có thể gặp
được Chúa trong nhà thờ nếu đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một
khuôn mặt nào đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông
già bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của
những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, thiếu vắng tình
thương... Bởi vì, đối với chúng ta, cụ thể mà nói, quê hương này là nơi Thiên
Chúa làm người để anh em đồng bào chúng ta không phân biệt giai cấp, được làm
con Chúa; là nơi Thiên Chúa hẹn gặp chúng ta; là nơi chúng ta phải gặp Ngài qua
chứng từ về ánh sáng, để nhờ ánh sáng anh em đồng bào chúng ta sẽ nhìn thấy Ánh
sáng của Tình thương, Ánh sáng của sự sống.
10. Suy niệm của R. Gutzwiller – Lc 2,
1-20
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính
cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách
trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1) Chúa Giáng Sinh.
Việc Giáng Sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình,
nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà
bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma.
Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành
thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là
công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con
người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra
lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành
một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những
chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài
hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và
qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu
Đavít, như Tin Mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục
đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích
thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên
Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như
Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác,
đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế
giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một
biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại)
có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang
lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ 'hoà bình của Rôma', thì Chúa Giêsu đúng
là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến 'bình an của Thiên Chúa'.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh
trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể
hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó.
Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú,
thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa
sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò
lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn.
Tin Mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng
bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối
của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một
Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản,
thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại
chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng
vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những
gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng
thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương,
chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu
tiên của ngày Giáng Sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn
và trần trụi trên cây thập tự.
2) Loan báo tin Chúa Giáng Sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp.
Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại
mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy
theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên
Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ,
nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba
danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài
đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là
Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh
của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì
mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: 'Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi
đặt nằm trong máng cỏ'. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền
năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những
cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng
nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai
phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có
'trời, vinh danh và Thiên Chúa'. Phần hai có 'thế trần, hoà bình và con người'.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang,
vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa
Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh
Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình
an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy
có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập
Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng
của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố
vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc
hay lời nguyện xin. 'Chúc tụng Thiên Chúa' đó là một lời loan báo và cũng là
một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban
xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn
vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón
nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã
thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã
ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được
diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm
đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc
giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có
sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng
rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên
thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn
là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là
giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại
chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.
11. Sứ điệp vinh quang và bình an – Lc
2,1-14
Từ nhiều thế kỷ nay, những bài Phúc Âm tường thuật về cuộc
đời thơ ấu của Chúa đã kích thích trí tưởng tượng thi nhân và nuôi dưỡng lòng
đạo đức của bao tâm hồn đơn sơ. Còn ngày nay chúng làm đối tượng cho những sự
phân tích tinh vi và óc tưởng tượng huyền hoặc của một số trí khôn phức tạp đã
tìm cách hạ thấp chúng xuống cho ngang với tầm mức của mình. May mắn thay, có
một khoa học nghiêm chỉnh vẫn duy trì những bài tường thuật ấy ở trình độ mà
Giáo Hội từ xưa nay vốn đặt chúng. Bài tường thuật của thánh Luca kể lại một sự
kiện. Ngài kể lại một cách giản dị không vẽ vời thêu dệt, khả dĩ giúp ta chiêm
thờ được. Ở đó người ta không nhận thấy một cách tỏ tường như trong những bản
văn khác, cái mối ưu tư của tác giả là làm sao đặt việc Chúa Giáng Sinh trong
tương quan với những gì đã được loan báo bởi Cựu Ước. Nhưng người ta bắt gặp
cái tư tưởng tiêu biểu của thánh sử Luca: là Đức Giêsu Kitô là Cứu Chúa. Hôm
nay, trong thành Đavít, một vị Cứu Tinh đã sinh ra cho các ngươi. Ta thử đứng
thật sát đoạn văn đơn sơ mà tuyệt vời này để rút ra một vài nét về ý nghĩa của
danh xưng 'Cứu Chúa'.
Chúa Giêsu là Cứu
Chúa đã được hứa hẹn. Đó là lý do tại sao Người được mô tả là phát sinh từ dòng
dõi Đavít, ít ra về mặt pháp lý, và điều đó rất quan trọng trong xã hội Do
Thái.]
Chúa Giêsu sinh ra
bởi một Trinh Nữ. Thánh Mátthêu cho ta biết thánh Giuse đã nhận Maria làm bạn
trăm năm trong hoàn cảnh nào.]
Chúa Giêsu là một
con người. Người là Con Thiên Chúa, nhưng cũng là người thật. Người đã bắt đầu
cuộc sống và sự sống Người đã nẩy nở trong lòng Maria. Sinh ra bởi một người
phụ nữ, như thánh Phaolô nói, Người không tách rời khỏi lịch sử, là lịch sử của
mọi người. Người không giả bộ làm người; Người là người thật.]
Chúa Giêsu được
loan báo cho người nghèo khó, cho người chăn chiên, nghĩa là người đến trong
nhân loại thông thường nhất, giữa hạng người không có thời giờ để lo sao cho có
nhiều tiện nghi, hạng người bám vào phận sự hàng ngày cốt sao cho được sống mà
thôi.]
Người mang tới sứ
điệp vinh quang và bình an, ng]hĩa là người đến tái lập trong linh hồn
con người cái ý thức rằng Thiên Chúa là Chúa, Người tập hợp loài người lại và
bảo họ rằng Chúa yêu thương tất cả mọi người, vì thế họ là anh em với nhau.
Ngoài ra, chúng ta hãy nêu lên trong bài tường thuật này
một sắc thái căn bản mà con người thời đại ta đang cần, đó là sự thờ phượng.
Thờ phượng, ấy là
đức tuân phục của Maria và Giuse đến Bêlem, khi nhận ra ý Chúa qua một biến cố,
là cuộc kiểm tra dân số.Y
Thờ phượng, ấy là
công bố rằng: Hài Nhi chính là Đức Kitô Chúa Tể. Sự sợ hãi của bọn mục đồng có
thể tan biến khi viếng máng cỏ, nhưng Hài Nhi gần gũi với họ đó, vẫn là Thiên
Chúa. Ta hãy nghĩ tới Thánh Thể; bí tích ấy làm cho Thiên Chúa trở nên gần gũi
ta, và một sự tục hóa thiếu suy nghĩ có khuynh hướng coi thường. Một cộng đoàn
họp mặt cử hành Thánh Thể nâng cao con người trong lời ngợi khen và tạ ơn.Y
12. Ánh sáng nào soi chiếu trong ta?
(Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề
tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính
trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì
người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây
ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự
rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một
Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho
con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần.
Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu
của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình
độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh
khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn
tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng
nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không
thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng
nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng
Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa. Không có
Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác
nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì
cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến
việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta
có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu
hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá
lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về
đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không?
Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức
Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù
sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái
giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta,
ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa,
Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau.
Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em
giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng
điện của tình yêu Thiên Chúa.
Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình
yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người,
đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức
độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón
nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
13. Ngạc nhiên
Tại miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng.
Trong số các nhân vật đứng và quì nơi máng cỏ này, du khách thường chú ý tới
một con người nhỏ bé với hai bàn tay trống trơn và mở rộng, nhưng gương mặt lại
để lộ một vẻ ngạc nhiên khó mà diễn tả nổi. Vì thế, người ta đã đặt cho nhân
vật này cái tên gọi là Ngạc Nhiên. Dân địa phương thường giải thích về sự ngạc
nhiên của anh bằng một mẩu chuyện như sau:
Hôm đó, tất cả các nhân vật nơi máng cỏ, kể cả mấy chú bò
lừa đều tỏ ra khó chịu đối với anh, bởi vì anh không có gì để mang tặng cho
Chúa Hài nhi, ngoài hai bàn tay trống trơn của mình. Và thế là họ bắt đầu xỉ vả
anh:
- Mày không biết xấu hổ hay sao? Mày đến thăm Chúa Hài nhi
mà không mang theo gì cả ư?
Thế nhưng, anh không để lộ một phản ứng nào, ngoài cặp mắt
mở to và chăm chú nhìn vào Hài nhi Giêsu. Những lời rủa xả vẫn cứ tiếp tục trút
xuống trên anh, đến nỗi Mẹ Maria phải lên tiếng bênh vực cho anh.
Quả thực, mặc dù đã đến với Chúa Hài nhi bằng đôi bàn tay
trằng, thế nhưng anh đã mang tới một món quà cao đẹp nhất, đó là sự ngạc nhiên
của anh. Điều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm
tư anh. Và Mẹ Maria đã kết luận như sau:
- Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu như luôn có những
người giống anh, biết ngây ngất và ngạc nhiên trước quyền năng và tình thương
vô biên của Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Ngạc nhiên là khởi đầu của mọi khám phá.
Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đưa
ra những giả thuyết, người ta mới tìm tòi, khảo sát và khám phá. Sự tiến bộ của
loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên ấy.
Trong lãnh vực siêu nhiên cũng vậy. Thiên Chúa đã ban cho
con người khả năng biết ngạc nhiên để rồi từ đó khám phá ra quyền năng và tình
thương của Thiên Chúa. Đúng thế, khi nhìn ngắm những kỳ công trong vũ trụ, cùng
với trật tự lạ lùng của nó, chúng ta không khỏi ngạc nhiên và thán phục.
Từ chỗ ngạc nhiên và thán phục này, chúng ta phải đi đến
một kết luận, đó là có Thiên Chúa và Ngài là Đấng quyền năng và thương xót, đã
dựng nên, an bài sắp xếp và bảo tồn mọi sự. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Thiên nhiên là một cuốn sách vĩ đại, mà mỗi trang, mỗi
dòng, mỗi chữ đều nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa.
Vũ trụ này là một cuốn sách được mở ra để mời gọi con
người tìm đọc lời ngỏ đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, khi nhìn vào lịch sử nhân loại, cũng như cuộc
đời riêng tư, chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên trước biết bao ơn sủng mà
Ngài đã trao ban, để rồi chúng ta sẽ khám phá ra bàn tay của Thiên Chúa luôn
hướng dẫn và dìu dắt nhân loại, cũng như mỗi người chúng ta trên vạn nẻo đường
đời.
Và giờ đây trước máng cỏ Bêlem, nếu thực sự biết ngạc
nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, lời
hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện, Thiên Chúa đã tỏ bày tình thương
của Ngài bằng cách trao ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài, hay nói theo
kiểu thánh Phaolô: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người tiến lên
ngôi Thiên Chúa.
Trước máng cỏ Bêlem, bằng cặp mắt đức tin hẳn chúng ta sẽ
phải ngạc nhiên vì tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, để rồi từ sự ngạc
nhiên ấy, chúng ta sẽ tin tưởng và phó thác cho tình yêu của Ngài. Khi gặp
những sự may mắn, chúng ta dâng lên Ngài lời cảm tạ đã đành, mà ngay cả lúc khổ
đau và đắng cay, chúng ta vẫn có thể nhận ra dấu ấn tình yêu của Ngài. Trong
mọi sự, người biết ngạc nhiên sẽ luôn luôn nhận ra tình yêu của Thiên Chúa, bởi
vì tất cả đều là hồng ân.
Ước gì trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy đến bên hang
đá máng cỏ, ngạc nhiên trước tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, để rồi dâng
lên Ngài tâm tình cảm mến tri ân.
14. Đêm Thánh
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là "Đêm Thánh"?
Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi
Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện
các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin
về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không
phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm.
Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này
của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm
xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang
một ý nghĩa kép, một ý nghĩa "hàm hồ"- cũng như hầu hết mọi yếu tố
khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời
gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm
tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm
nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối
mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời
gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu
phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng
đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm
khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi
dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa
trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh
lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và
cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng
kêu: "Kìa chàng rể đến!". Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian
của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những
ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức
Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận
như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên:
"Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa..." (Tv 74,16). Daniel (3,71)
kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh,
"đêm này kể lại với đêm kia" sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3),
cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những
chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu,
như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ
ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn
chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay
nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như
một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai... Tất cả đều còn đó ý nghĩa
hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn
quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất...
... Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại
mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn
trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song
đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy ... thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh.
Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và
tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm
Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: "Đêm Thánh vô cùng. Giây
phút tưng bừng...".
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt
vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ
của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của "Mặt Trời Công Chính"
(danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis
invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật "thần mặt trời bất
khuất".
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh
thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ
ánh sáng chói lọi 'khủng khiếp' của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ,
thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn
khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng
ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm
thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con
đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa.
Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ
không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về
với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc.
Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở
bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành
trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái
chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta.
Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường
định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên
Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa
sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là
khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài
trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con
tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của
một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình,
nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả...
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận
đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè
chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh
né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ
trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của
chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm
Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn
nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt
trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau
và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành,
nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng
của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút
vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay
căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy
chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong
một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn
che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự
hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện "lên lời" bằng
chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể 'nghe' được nếu biết lắng nghe.
Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao;
Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những
gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và
trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm
cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô
cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn
lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào
trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập
chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì
đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một
đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà
đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh
cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái
tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có,
là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao!
Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn
có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới
ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ
hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có
thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng
lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang
lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng
nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc
ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm
chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác
phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta,
lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong
cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ
nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy
lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng
chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện
hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng...
Giây phút tưng bừng...
15. Chúa giáng trần (Ga 1, 1-18)
"Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với
Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa." Chưa từng có một lời văn nào
diễn tả về cuộc nhập thể của Chúa Giêsu một cách hào hùng và trang trọng như
thế. Một Thiên Chúa toàn năng đã mặc lấy xác phàm loài người chúng ta. Ngài là
sự sống và là ánh sáng thế gian (Ga 1,4). Thánh Gioan nói cho ta biết trong và
qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta về tình yêu của Ngài đối với
nhân loại. Thế nhưng ở ngay giữa đoạn Thánh Kinh huyền nhiệm đó, chúng ta đọc
thấy câu, "Ngài đã đến nhà các gia nhân Người và đã không được đón
nhận." Sau đó, Thánh Gioan lại tiếp, "Chúng tôi đã nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của Người Con Một
đầy ân sủng và chân lý" (Ga 1,14). Ở đây, Thánh Gioan nhấn mạnh về mầu
nhiệm tình thương bao la của Thiên Chúa. Cho dù có bị chối từ, Ngài vẫn đến để
trao ban tình thương cho chúng ta. Thánh Gioan đã viết tiếp rằng những ai đón
tiếp Ngài thì Ngài ban cho họ được quyền làm con Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta hãy tự đặt ra cho mình một câu hỏi,
"Làm sao để chúng ta có thể được quyền làm con Thiên Chúa? là công dân
Nước Trời?" Câu trả lời chúng ta tìm thấy ngay trong Phúc Âm.
"Hãy để những trẻ nhỏ đến cùng Thầy". Chúa Giêsu
đã phán với các môn đệ. "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như
chúng. Hãy tin Ta, nếu ai không đón nhận Nước Thiên Chúa giống như chúng thì
chẳng được vào Nước Trời" (Lc 18:16-17). Thật đáng tiếc là trong cuộc sống
thực tế, chúng ta đang phải cảm nghiệm những cực đoan của xã hội. Mừng Giáng
Sinh không có nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi cái thế giới đầy hỗn độn
này. Hôm nay chúng ta tụ tập nơi đây để chia sẻ niềm vui và nỗi khổ của nhau.
Chúng ta không thể phủ nhận sự hiện diện của những thử thách và gian nan trong
cuộc sống của mỗi cá nhân. Có lẽ một số các bạn bây giờ đang phải khổ não phiền
muộn. Một số người trong chúng ta đang suy tư về sự hiện hữu của mình. Các nước
đang chiến tranh với nhau. Nhiều người đang phải đói khổ. Những tên khủng bố
đang ngầm phá. Các nước lớn đang dự trữ vũ khí nguyên tử để hăm dọa nhau. Thế
nhưng giữa những điều tiêu cực đó, sứ điệp của Giáng Sinh nói với chúng ta rằng
Thiên Chúa sẽ toàn thắng và sự dữ không thể thắng được Ngài. Không bao giờ!
Trong giây phút linh thiêng của ngày Lễ Giáng Sinh, các
bạn hãy để cho tâm hồn mình mở rộng để bình an của Chúa đổ tràn vào. Hãy trở
nên những trẻ nhỏ. Hãy thưa tiếng "Xin Vâng" với Thiên Chúa. Ngài sẽ
làm tất cả. Ngài sẽ tẩy rửa và chữa lành chúng ta, và ban cho chúng ta sự sống
mới. Ngài còn chỉ cho chúng ta con đường công chính dẫn đến ơn cứu độ. Ngài sẽ
ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể chu toàn nhiệm vụ của chúng ta.
Khi chúng ta còn đang nói về câu truyện Giáng Sinh, thì có
lẽ chúng ta còn phải tưởng nghĩ đến một phần của câu truyện Giáng Sinh nữa là
phần Đức Maria đang ngồi trên lưng con lừa đi bên cạnh Thánh Giuse trên con
đường gồ ghề lởm chởm từ Galilêa đến Giuđêa. Khi đến Bethlehem, thì cả hai đều
phải đối diện với một sự tủi khổ đó là cái nghèo. Chuyện xảy ra cách đây hai
ngàn năm cũng đang xảy ra ngày nay. Nếu các bạn có tiền, các bạn có thể tìm
được chỗ ở khách sạn, cho dù khách sạn đó có ghi câu "hết chỗ" (No
Vacancy). Thánh Giuse và Đức Mẹ đều không có tiền nên cả hai đã đi ra cánh đồng
và ở trọ trong một hang bò lừa. Sau khi sinh ra, Gia Đình Thánh Gia còn chưa
được ổn định. Vua Hêrôđê đã lùng bắt Chúa Giêsu để giết, và cả ba Đấng Thánh
lại phải chạy trốn sang Ai-Cập. Những chuyện bất công, lừa dối, giết chóc, kiêu
căng, nghèo khổ... tất cả đều có đầy đủ trong câu truyện Giáng Sinh. Giáng Sinh
không chỉ là một cuộc vui mừng đượm bằng những cây thông, gói quà, kẹo ngọt...
nhưng là một sứ điệp rằng Chúa Giêsu đã xuống thế gian với chúng ta để chia sẻ
cho chúng ta tình yêu bao la của Ngài. Tình yêu của Ngài ở với chúng ta trong
mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Xin các bạn hãy lãnh nhận lấy Chúa Hài Đồng để Ngài ban
cho các bạn sức mạnh và tình yêu để các bạn có thể chia sẻ những ơn ấy cho
người khác.
Xin kính chúc tất cả các bạn được an hưởng một mùa Giáng
Sinh đầy tràn ơn bình an và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng!
16. NOEL: Tình bạn
Nhiều thế kỷ trước đây tại nước San Marinese, có một ông
vua rất kính sợ Thiên Chúa và thương yêu dân chúng. Ông sống chính trực và rất
được dân chúng kính trọng, mến phục. Nhà vua không chỉ hài lòng với cuộc sống
trên dung lụa của hoàng cung, cũng không chỉ nghe theo lời báo cáo tường trình
của các quan cận thần mà thôi. Để biết rõ hơn về hoàn cảnh sống của dân chúng,
nhà vua thường hay cải trang đủ cách để có thể đi lại dễ dàng và trà trộn giữa
mọi lớp người để không bị theo dõi hoặc chú ý tới. Một hôm nhà vua cải trang
với manh áo rách vá chằng chịt như một người hành khất và đến ngồi ăn xin tại
một công viên. Nhà vua làm quen với người phu quyét đường thường ngồi nghỉ trên
ghế công viên, ăn qua loa nắm cơm nguội dưới ánh nắng mặt trời nắng gắt. Ngày
qua tháng lại, nhà vua trở nên như bạn thân của người phu quét đường. Họ chia
sẻ từng nắm cơm, ly nước và chuyện trò vui vẻ như hai người bạn thân vậy. Sau
cùng vua quyết định nói sự thật và tỏ mình cho người phu quét đường biết mình
là ai. Nhà vua còn bảo người phu quyét đường có thể xin điều gì mà anh ta ưa
thích nhất như mòn quà kỷ niệm tình bạn thân thiết ấy. Nghe nhà vua tỏ tình thương
mến, người phu quét đường trố mắt ngạc nhiên nhìn nhà vua và nói: Thưa hoàng
đế, nhà vua đã không quản ngại khó nhọc, khước từ vinh quang của cung điện để
đến chia sẻ nắm cơm chén nước và những khó nhọc của bần hèn này. Nhà vua có thể
ban tặng cho quan thần những món quà quí giá, nhưng đối với phận hèn này nhà
vua đã dành cho món quà lớn nhất là chính mình. Vì thế nếu được, phận hèn này
chỉ xin một điều duy nhất, là xin nhà vua đừng cất đi tình bạn mà nhà vua đã
dành cho kẻ hèn từ trước tới nay.
Thật vậy, tình bạn là một trong những món quà lớn lao, quí
giá nhất mà con người có thể nhận được. Tình bạn là mối dây liên kết vượt hẳn
lên trên những mục đích chung của công việc làm, của những lợi lộc hoặc những
vấn đề cá nhân. Tình bạn chân thật là sự hiện diện cạnh bạn khi vui cũng như
lúc buồn, cho dù không thể tăng thêm niềm vui, cũng chẳng biết làm vơi đi nỗi
buồn của bạn. Tình bạn làm cho cuộc sống thêm tươi sáng. Có bạn cuộc đời cũng
đỡ bớt cô đơn. Trong Phúc âm, chính Chúa Giêsu cũng đã để cao giá trị của tình
bạn khi Ngài nói với các môn đệ rằng: "Thầy đã gọi chúng con là bạn hữu,
vì Thầy đã tỏ cho chúng con am tường mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy".
Cũng vì tình yêu cao quí mà Chúa Giêsu đã tự nguyện đến trần gian mặc lấy thân
phận con người. Niềm vui của Chúa Giêsu là trở nên như chúng ta những con người
yếu đuối hạn hẹp mà Người đã muốn nâng lên hàng bạn hữu, là trở nên thành phần
của đại gia đình nhân loại và cùng đi với chúng ta trên con đường trở về với
Thiên Chúa Cha. Đấng Emmaunuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta chính là món quà cao
cả nhất. Thiên Chúa ở với loài người, là ý nghĩa sâu xa nhất của mầu nhiệm
Giáng Sinh Nhập Thể.
17. NOEL: Hữu hình
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một
biến cố đã qua, một biến cố tràn đầy hạnh phúc nhưng đã chìm vào dĩ vãng. Vậy
đâu là ý nghĩa của ngày lễ hôm nay?
Trong ngày lễ này, chúng ta xác tín: Thiên Chúa đã trở nên
hữu hình đối với chúng ta. Ngài không còn là Thiên Chúa xa lạ, cách ta nghìn
trùng nữa. Thiên Chúa đã đến với loài người. Ngài đã đến giữa loài người như
một người trong chúng ta, sinh bởi một người phụ nữ, cần đến tất cả sự chăm sóc
và âu yếm của mẹ Ngài, thừa hưởng cả một quá khứ gia đình. Việc Ngài sinh ra
được bao bọc bởi vài thành viên trong gia đình và những người chất phác có Kitô
hữu năng thán phục trước một hài nhi đã ra đời. Ngài đã đến trần thế này để dự
phần vào những vui buồn của mỗi người trong chúng ta. Ngài không yêu cầu đặc ân
nào ngoài đặc ân được ở giữa những người nghèo. Ngài đã có một chỗ đứng trong
dòng tộc với quá khứ và tương lai của dòng họ. Tổ tiên của Ngài là những người
chăn nuôi súc vật, những kẻ di dân, những người lao động tay chân và những
người đánh giặc. Vài người trong họ đã để lại kỷ niệm xấu vì giết chóc và trộm
cướp. Những người khác là những người có đức tin và lòng sùng đạo rất lớn với
những nhân đức khiêm tốn nhưng bền bỉ. Chính như vậy đó mà Thiên Chúa đã trở
nên hữu hình trong sự giống hệt loài người. Ngài không mặc lấy nhân tính của
chúng ta như một bộ y phục. Ngài đã nhập thể và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa
không ngừng trở nên hữu hình! Lý do của việc con Thiên Chúa nhập thể là
"Thông ban ân sủng để cứu độ hết thảy mọi người". Lý do này không bao
giờ bị rút lại. Nó vẫn còn đó và luôn luôn được thể hiện.
Chúng ta không cử hành lễ Giáng sinh như để kỷ niệm một
biến cố đã qua mà ta không muốn quên, nhưng đây là lễ đón mừng một hồng ân hiện
đang được ban cho loài người. Đôi khi người ta nói về một người mà sự nghiệp
đặc biệt lừng lẫy nên người ấy vẫn tiếp tục sống ở giữa chúng ta do ảnh hưởng
công việc của họ. Nhưng đó chỉ là một cách biết ơn nhân vật quá cố thôi. Vì
người ấy cũng như sự nghiệp của họ không tồn tại mãi mãi được.
Nhưng công trình của Thiên Chúa, ân sủng làm cho chúng ta
trở nên con cái của Ngài vẫn luôn luôn được thể hiện. Thiên Chúa đã trở nên hữu
hình trong những cách hiện diện với loài người mà Chúa Giêsu đã chọn sau cuộc
Phục sinh của Ngài: Cộng đoàn Giáo Hội, sự hiệp thông giữa các môn đệ của Ngài,
là thân mình Ngài, sự hiện diện của lời Ngài nơi những tâm hồn biết lắng nghe
trong đức tin, và Bí tích Thánh Thể, hồng ân và dấu chỉ sự hiện diện thật sự
của Ngài. Mối tương quan mà những kẻ đã sống với Chúa Giêsu có thể thiết lập
với Ngài trong đức tin và đức cậy, cũng có thể được đối với mỗi người chúng ta.
Chúa Kitô bao giờ cũng niềm nở và lắng nghe, bao giờ cũng đầy lòng thương xót
và luôn sẵn sàng ban sự sống như thế cả.
Lễ Giáng sinh mà chúng ta cử hành với một niềm vui lớn lao
cũng thực sự là lễ mừng ngày chúng ta được sinh vào đời sống thiêng liêng mà
con Thiên Chúa đến ban tặng cho chúng ta.
18. NOEL: Lễ vật dâng Chúa
Đã biết bao nhiêu đêm như đêm nay đã đến với đời mỗi người
chúng ta. Thế mà cứ mỗi lần nhìn thấy hang đá, ngắm những trang trí lạ mắt, ánh
sáng rực rỡ lung linh, tiếng đàn tiếng hát du dương hớn hở, chung quanh ai nấy
ăn mặc, trang điểm xinh đẹp thì tâm hồn chúng ta lại dâng trào niềm vui khôn
tả. Chính lúc ngây ngất sung sướng đó, mỗi người chúng ta không thể không đưa
mắt chiêm ngắm Chúa Hài đồng xinh xắn mà thương mến mà thầm ước.
Và có lẽ, trong giây phút linh thiêng trang trọng này, ai
cũng tự hỏi mình phải làm gì cho Chúa hài đồng vui lòng đây, mình nên dâng cái
gì quí nhất đây để tỏ lòng yêu Chúa. Chắc mọi người nghĩ ra nhiều việc hay,
tưởng tượng nhiều quà quí hiếm để tiến dâng. Nhưng câu chuyện sau đây muốn
trình bày cho chúng ta thấy một món quà Chúa ưa thích nhất:
Số là đúng cái đêm Chúa sinh ra như đêm nay, các thú vật
chung quanh Bêlem đều tới mừng Chúa và mỗi con đều dâng Chúa một món quà nhỏ:
Chị bò cái dâng sữa, anh Lừa hà hơi sưởi ấm, cậu Khỉ biếu Chúa mấy trái nho,
chú Sóc biểu diễn một điệu nhảy đẹp mắt, Bé Vàng khuyên hát một bài du dương,
cậu Bướm tình nguyện làm đồ chơi. Chúa Hài đồng vui vẻ nhận tất cả. Đang lúc
các thú vui thích quây quần bên Chúa thì chàng Cáo xuất hiện. Mọi thú đều ghét
cáo vì nó gian manh xảo quyệt. Chúng chặn đường không cho Cáo đến gần Chúa.
Thấy thế, Chúa can thiệp và ra hiệu cho Cáo vào. Cáo đến quỳ bên Chúa thì thầm
nói với Chúa một hồi. Thấy Chúa thích thú đến độ đặt hai tay trên đầu cáo tỏ
dấu ưng nhận và chúc lành. Riêng Cáo hớn hở, vui tươi lễ phép đứng lên cáo biệt
rồi đi thẳng. Những con vật khác tức tối, tò mò hỏi Chúa Cáo đã dâng gì cho
Ngài mà Ngài thích thú như vậy. Mỉm cười Chúa đáp:"Cáo đã dâng cái mà ta
thích nhất: Đó là những tội lỗi của nó".
Nghe thế ai mà chẳng bỡ ngỡ vì tưởng gì chứ tội lỗi ai mà
chẳng có, lại có rất nhiều. Nhưng có lẽ ai cũng thắc mắc tại sao Chúa lại ưa
cái thứ quỉ quái xấu xa đó? Có gì lạ đâu, cứ nhìn vào máng cỏ nghèo hèn, rồi
nhìn vào thân phận yếu đuối của ta mà Chúa đã bỏ trời cao xuống trần mang lấy
để gánh chịu mọi hậu quả của tội lỗi mà cứu thoát chúng ta. Vì khi ai biết cho
Chúa mọi tội lỗi của mình thì người đó đã nhận ra sự hy sinh cao cả và tình yêu
vô biên của Chúa.
Và rồi chúng ta tự hỏi cái gì trên cõi đời này làm cho con
người phải điêu đứng khổ sở, phải lo lắng bối rối, phải ray rứt hối hận? Dĩ
nhiên, tất cả bởi tội mà ra. Hơn nữa, khi Ngôi Hai xuống thế làm người là Ngài
mong muốn chúng ta được an vui, hạnh phúc đích thực, nhưng chỉ còn một trở ngại
ngăn cản cuối cùng là tội lỗi. Vì thế ai muốn có sự bình an thật thì phải dâng
tội cho Chúa vì chỉ có Chúa mới tẩy xóa được chúng và giúp con người trở nên
bạn hữu của Ngài.
Vậy khi dâng tội cho Chúa tức là chúng ta dâng trót cuộc
đời còn lại của mình để cố gắng chừa cải ăn năn, để chỉ ước muốn làm điều đẹp
lòng Chúa. Đổi lại, Chúa sẽ ban cho mỗi người chúng ta một tặng phẩm quí giá:
Đó là sự anbình vui tươi của đêm thánh hôm nay đem lại cho mọi người thiện tâm
thiện chí.
19. NOEL: Đổi đời
Trời vừa rạng sáng, sao vừa biến và người khách cuối cùng
vừa từ giã, mẹ Maria xếp lại đống rơm và Hài nhi thiu ngủ... Bỗng, cánh cửa của
chuồng bò kẹt mở. Một người đàn bà xuất hiện, áo rách rưới, da nhăn nheo đến độ
khuôn mặt tóp lại trông dễ sợ. Thấy bà, Mẹ Maria sợ như thể một mụ phù thủy
mang xui xẻo đến. May thay, Hài nhi thiếp ngủ, bò lừa đang nhai rơm yên lành.
Còn Mẹ Maria không ngớt theo dõi. Mỗi bước chân của bà già đối với Mẹ Maria
hình như dài cả thế kỷ. Bà ta vẫn tiếp tục bước và đã đến bên máng cỏ. Bất chợt
Bé Giêsu mở mắt nhìn và mẹ Maria hết sức ngạc nhiên khi thấy đôi mắt Con Mẹ và
đôi mắt của bà già sao mà giống nhau như thể ánh lên cùng một niềm hy vọng.
Đoạn bà già thò bàn tay khẳng khiu vào bọc áo tồi tàn mò tìm một vật gì cất rất
kỹ. Mẹ Maria vẫn lo lắng quan sát và các con vật vẫn thản nhiên. Cuối cùng, bà
ta hình như đã tìm được và lôi ra khỏi bọc một vật dấu trong bàn tay, rồi trao
lại cho Hài nhi. Không biết quà tặng là cái gì và bà già là ai mà có vẻ bí
hiểm. Mẹ Maria chỉ thấy chiếc lưng còng cúi xuống khá lâu trên chiếc nôi. Rồi
bà già đứng thẳng dậy như trút được một gánh nặng trên hai vai, khuôn mặt rạng
rỡ như tìm lại được vẻ trẻ trung cách kỳ diệu. Sau đó, bà ta từ từ rời khỏi nơi
Hài nhi và biến mất vào đêm tối. Bây giờ mẹ Maria mới thấy được món quà tặng
của bà già và biết rõ bà ta là ai. Thì ra, bà già ấy chính là Eva vừa trao lại
cho Hài nhi một trái táo nhỏ. Trái táo của tội nguyên tổ. Và trái táo đó rạng
ngời trong đôi tay xinh xắn của Hài nhi như một quả địa cầu của thế giới vừa
mới được tái tạo nhờ Hài nhi.
Vậy có thể nói rằng ngay từ khi Ngôi Lời đã hóa thành nhục
thể đến ở giữa trần gian thì tất cả mọi tạo vật, kể cả tội nguyên tổ, đều được
biến đổi, thăng hoa, ẩn chứa hồng ân cứu độ, phản ảnh tình thương của Thiên
Chúa. Đặc biệt, đối với con người nhờ việc Ngôi Hai mặc lấy bản tính của họ nên
họ được vinh dự lớn lao là trở thành tạo vật mới đầu tiên ở trong Chúa hài
đồng.
Tuy nhiên, bất cứ một cuộc biến đổi nào muốn đi tới thành
công mỹ mãn đều phải trải qua ba giai đoạn then chốt này: Một là xác định rõ hướng
đi; hai là hợp tác chặt chẽ; ba là kiên trì theo đuổi đến cùng. Nhất là cuộc
biến đổi hóa thần từ một bản tính yếu đuối tội lỗi thành một bản tính thần
thiêng cao vời lại càng đòi buộc con người nhiều hơn nữa nếu con người muốn hóa
thần thành công.
Thứ nhất là hướng đi. Đã là con người ai cũng cảm thấy
thân phận mình thật mỏng dòn, yếu đuối, hay hướng chiều theo đam mê sa đọa, lúc
nào cũng cảm thấy ray rứt bất an, luôn khao khát tìm kiếm mà không bao giờ được
thỏa mãn. Tất cả những biểu hiện đó là do tội nguyên tổ gây ra, khiến con người
cứ chìm đắm trong bến mê, thất vọng. Khi phải sống trong một tình trạng khốn
khổ đó mà có ai đủ khả năng giải thoát con người khỏi bóng tối đến với ánh
sáng, từ bị luận phạt giam tù đến chỗ tự do, từ đau khổ đến bến bờ hạnh phúc,
chắc chắn người ta không bao giờ để tuột mất cơ hội ngàn vàng. Đó là Ngôi Hai
giáng trần, một hướng đạo tài năng, một ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho nhân
loại được cứu thoát.
Thứ hai là hợp tác. Khi đã xác định được hướng đi mà muốn
thành công, hai bên phải biết hợp tác để cùng hành động và hỗ trợ cho nhau. Về
phía Chúa, nguyên việc xuống thế, mặc lấy thân phận hư hèn của con người cũng
đã đủ để nói lên tình thương và thiện ý của Ngài là muốn cứu thoát tất cả mọi
người. Do đó, Ngài không từ chối bất cứ việc gì, ngoại trừ tội lỗi, để giúp con
người đi tới hạnh phúc, nên Ngài đã không ngần ngại phó mạng sống và quyền năng
của Ngài cho con người sử dụng. Còn về phía con người muốn đón nhận hồng ân cứu
rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa ban, đương nhiên phải biết hợp tác với Ngài bằng
cách nhiệt tâm, tin tưởng, vâng theo những sự chỉ dẫn của Ngài. Nói khác đi,
con người muốn được cứu thoát phải biết tiếp nhận Chúa như là bạn đường, như là
khách quí mời vào trọ trong nhà mình để yêu mến, phục vụ Ngài tận tình chu đáo.
Tất nhiên, khi có Chúa ở cùng, con người phải từ bỏ mình cùng với những xấu xa,
coi ma quỷ như kẻ thù không đội trời chung...
Cuối cùng khi đã quyết chí lên đường theo Chúa để có thể
đi đến cuối con đường của hạnh phúc đích thực được thì phải có lòng kiên trì
bền vững luôn. Đây là một điều kiện then chốt vì con đường đến với Chúa và cùng
đi với Ngài không phải là một con đường thoải mái, dễ dàng, nếu không có chí
sắt đá, không có lòng kiên định thì khó mà đi trọn vẹn. Bởi vì, tin tưởng và chấp
nhận đi theo Chúa không phải một vài lần là được mà phải chấp nhận suốt đời và
cũng không phải lúc nào đời người đều bình yên lặng gió mà là luôn có trở ngại
thử thách đủ thứ. Vì thế, chỉ có những ai bám chặt vào Chúa thì kẻ đó mới đến
đích bình an.
Chúa vì thương con người đã làm một cuộc đổi đời kỳ lạ từ
trời xuống đất, từ Chúa thành người để cứu vớt và đưa con người lên hàng thần
thánh. Còn con người muốn được hóa thần phải biết đổi đời từ tối thành ánh
sáng, từ hư hèn thành bất diệt.
20. Đêm An Bình
Trong đêm Giáng sinh, sứ thần Chúa đã hát vang trên cánh
đồng Bêlem:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Vào buổi sáng ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện
ra và chào chúc các môn đệ:
- Bình an cho các con.
Ngài cũng đã xác quyết:
- Thầy ban bình an của Thầy cho các con.
Vậy sự bình an mà Chúa trao ban cho chúng ta là sự bình an
như thế nào?
Trước hết đó phải là sự bình an trong tâm hồn qua việc
giải thoát chúng ta khỏ sự kìm kẹp của tội lỗi, giao hòa chúng ta với Chúa.
Thực vậy, sự bình an bên ngoài chỉ có thể được xuất phát từ bên trong, từ tâm
hồn, từ cõi lòng mà thôi. Bao lâu chúng ta còn sống trong tội lỗi, trong sự thù
địch với Chúa, thì chúng ta còn băn khoăn, còn lo lắng, Chính sự bình an nội
tâm này sẽ phản chiếu trên khuôn mặt và trên cuộc sống, làm cho chúng ta được
vui mừng và hạnh phúc, dù hiện tại có gặp phải những túng cực và khổ đau. Chính
trong chiều hướng ấy, Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi
là con Thiên Chúa.
Cũng trong chiều hướng này, Ngài đã xuống thế làm người để
cứu chuộc chúng ta. Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi sự kìm kẹp của tội lỗi.
Ngài đã bắc lại nhịp cầu đa gẫy, nối liền trời với đất. Ngài đã hòa giải chúng
ta với Thiên Chúa. Ngài đã trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa.
Tuy nhiên, sự bình an nội tâm không phải là một quà tặng
từ trời rơi xuống, mà hơn thế nữa, nó còn phải là kết quả của những cố gắng
cộng tác với ơn thánh, những nỗ lực tìm kiến và xây dựng nơi chính bản thân
mình, bởi vì sự bình an chỉ có cho những người thiện tâm mà thôi.
Sự bình an nội tâm này còn là nền tảng để chúng ta vun
trồng một cách tốt đẹp những mối liên hệ với người chung quanh từ gia đình đến
xã hội.
Trước hết là gia đình.
Như chúng đã biết gia đình ngày nay đang lâm vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Nó như một cây đã bị cắt mất rễ, thì làm sao sống nổi.
Gia đình là trái tim nhân loại. Nếu trái tim này mà bị đau yếu, thì làm sao
nhân loại được khỏe mạnh. Gia đình phải là sợi dây liên kết đầy yêu thương,
phải là nơi cho sự bình an ngự trị, bằng cách quên đi va tha thứ, nhường nhịn
và chịu đựng lẫn nhau theo tinh thần Phúc Âm.
Một khi tâm hồn chúng ta đã ổn định qua việc hòa giải với
Chúa, thì chắc chắn gia đình chúng ta cũng sẽ được êm ấm qua việc yêu thương
nhau. Lúc đó sự bình an sẽ chiếu sáng qua mọi biên giới.
Và như vậy chúng ta đã bước vào lãnh vực xã hội.
Các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Phải tu thân, tề gia, rồi sau đó mới trị quốc và bình
thiên hạ.
Cũng trong chiều hướng áy, Đức Hồng Y Feltin đã nói:
- Đây là lúc người tín hữu phải rời bỏ tháp chuông, phải
rời bỏ quốc gia nhỏ bé của mình để hướng tới cộng đồng thế giới, bởi vì tất cả
đều là anh em với nhau, cùng có chung một người cha và cùng được dựng nên theo
hình ảnh Ngài. Như thế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc huynh đệ tương
tàn, anh em sát hại lẫn nhau và làm cho máu Đức Kitô phải đổ ra một lần nữa, vì
chúng ta đều là những chi thể của Ngài.
Thế nhưng ngày nay, viễn ảnh một cuộc chiến tranh thẳm
khốc với những vũ khí tốt tân là như một cơn mộng dữ, luôn ám ảnh và đè nặng
trên con người, cùng với nó là những sự tàn phá khủng khiếp nhất. Những phương
tiện tự nhiên như hòa đàm, thương nghị mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cần
đến những phương tiện siêu nhiên, đó là sụ cầu nguyện và một cuộc sống được đổi
mới theo tinh thần của Chúa.
Có một thi sĩ đã kể lị giấc mơ của mình như sau:
Bấy giờ Thiên Chúa ngự trên tòa và những người quyền thế
nhất trần gian bắt đầu xuất hiện. Ngài hỏi Maisen:
- Con đã trao cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con trao cho họ những giới luật.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã phạm tội.
Ngài hỏi Napoléon, vị vua bách chiến bách thắng:
- Ngươi đem lại cho dân chúng những gì?
- Lạy Chúa, con đem lại cho họ vinh quang.
- Và họ đã làm chi?
- Họ đã bị tủi nhục.
Sau cùng, Ngài hỏi Đức Kitô:
- Con mang đến cho trần gian những gì?
- Con đã mang đến sự bình an.
- Và họ đã làm chi?
Đức Kitô không trả lời. Ngài úp mặt vào lòng bàn tay bị
mang dấu đanh và Ngài đã khóc.
Đó là một giấc mơ, nói lên một sự thật. Ngày nay hơn bao
giờ hết, Chúa Giêsu cũng khóc và giơ hai bàn tay mang những dấu đanh cho chúng
ta chiêm ngưỡng, là như dấu ấn của sự hòa bình mà Ngài đã kiến tạo, đã xây
dựng.
Hãy trở nên những chiến sĩ hòa bình, khởi đi từ tâm hồn
bằng cách tẩy trừ tội lỗi, cho đến gia đình bằng một cuộc sống yêu thương và
tha thứ, để rồi lan rộng ra ngoài xã hội, bằng sự hòa giải và cảm thông, để ở
mọi nơi và trong mọi lúc, con người luôn được hưởng sự bình an mà Chúa Hài nhi
đã đem đến nơi máng cỏ Bêlem.
21. GIÁNG SINH: Nhập thể (Ga 1, 1-18)
"Thiên Chúa là Tình yêu: chính bản chất của Thiên
Chúa là Tình yêu. Khi thời gian đã viên mãn, qua việc sai Con Một Ngài và Thánh
Thần của Tình yêu, Thiên Chúa đã bày tỏ bí mật sâu xa nhất của mình: chính bản
thân Ngài là một sự trao đổi đời đời của tình yêu Cha, Con, Thánh Thần, và Ngài
muốn chúng ta thông phần vào tình yêu này".
Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử
nhân loại: Sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô. Sự Giáng sinh của "Đấng Cứu
Chuộc thế giới là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, và chúng ta
không thể được cứu độ nhờ Danh nào khác dưới gầm trời này".
Sự Nhập Thể đó được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay:
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Theo
tiếng Hy Lạp chữ "cư ngụ giữa chúng ta" có nghĩa là: "Thiên Chúa
cắm lều của Ngài ở giữa chúng ta". Biến cố vĩ đại này của Thiên Chúa đi
vào lịch sử nhân loại trong con người của Hài Nhi Giêsu được gọi là sự Nhập
Thể: Thiên Chúa mang lấy thân xác con người.
Nhà huyền bí Kitô giáo An Độ, Sadhu Sundar Singh, đã diễn
tả mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu Kitô qua câu chuyện được kể lại sau đây:
Xưa kia một ông vua có vị cố vấn, the Vizier, một người
rất hiểu biết và thánh thiện. Đang khi hành hương trên đất thánh ở Palestine,
the Vizier đã bị xúc động sâu xa vì câu chuyện của Chúa Giêsu Kitô. Ông đã xin
trở thành một Kitô hữu, đã tin vào Đấng Cứu Thế, là Đấng đã đến thế gian để cứu
chuộc những con người tội lỗi.
Khi trở về, vua đã thắc mắc và hỏi ông rằng: "Nếu tôi
muốn làm bất cứ điều gì, tôi truyền lệnh cho đầy tớ của tôi thì việc đó được
thi hành ngay lập tức. Vậy tại sao vị vua của các vua có thể cứu nhân loại bởi
một lệnh truyền lại phải đích thân đến trần gian này và nhập thể làm người để
làm gì?" Ông cố vấn xin vua cho một ngày ân huệ trước khi trả lời câu hỏi.
Ông cho mời một người thợ mộc rất tài giỏi vào và yêu cầu phải làm một con búp
bê, rồi mặc quần áo vào giống y đứa con trai một tuổi của nhà vua, và hôm sau
phải mang nó đến cho ông.
Hôm sau, vua và ông cố vấn đang chèo thuyền đi chơi chung
với nhau, vua yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi. Cùng lúc đó, người thợ mộc cũng
đã đến và đứng ở trên bờ sông với con búp bê hình nộm con trai của vua. Đứng
dưới thuyền, vua trông thấy và nghĩ rằng đó là con trai của mình. Theo như
những hướng dẫn đã được ông cố vấn dặn dò trước, người thợ mộc để cho con búp
bê hình nộm rơi xuống nước. Thấy vậy, vua bèn lao xuống để cứu đứa bé đang bị
chết chìm. Sau một lúc, ông có vấn mới nói: "Thưa đức vua, ngài không cần
phải nhẩy xuống nước. Ngài ra lệnh cho quần thần làm không được sao? Tại sao
chính ngài phải đích thân nhẩy xuống vậy?" Vua suy nghĩ một lát rồi trả
lời: "Đó chính là câu trả lời tại sao, để cứu nhân loại, Thiên Chúa toàn
năng đã nhập thể hóa thành con người thay vì thực hiện nó chỉ bằng một lời truyền
mà thôi.
"Ngôi Lời trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng
ta". Giáo Hội dùng từ "Nhập Thể" để nói lên sự kiện Con Thiên
Chúa đã mặc lấy bản tính loài người, để thực hiện ơn cứu độ ngay trong bản tính
đó. "Nơi Chúa Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn
vẹn". "Với sự Nhập Thể của Người, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã
nên một với mọi người". Đó là cách biểu lộ tuyệt hảo tình yêu Thiên Chúa
đối với con người.
22. GIÁNG SINH: Hoà Bình (Ga 1, 1-18)
Với mầu nhiệm xuống thế làm người, Thiên Chúa đã chia sẻ
tất cả nhân tính của chúng ta, để chúng ta cũng được mời gọi tham gia vào thần
tính của Ngài như Công đồng Vatican II quả quyết: "Người bày tỏ cho con
người thấy bản chất đích thực của chính mình và khám phá ra ơn gọi cao cả của
mình".
Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta sống ơn gọi này theo
gương Chúa Giêsu: "Anh chị em hãy có với nhau những tâm tình đã có nơi
Chúa Giêsu Kitô: Ngài, với thân phận thần linh, đã không khư khư giữ lấy bậc
ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã để mình ra hư vô, nhận lấy thân phận
nô lệ và trở thành giống như một người. Và khi cư xử như một người, Ngài còn hạ
mình hơn nữa bằng cách vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá".
"Vương quốc Fanxica là một đất nước thái bình, thịnh
vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử khôi ngô
tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng. Hai vị
hoàng tử này lại thương yêu hòa hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau như hình
với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng là một người cực kỳ nham
hiểm và ác độc. Ông này nuôi mối căm thù với vua Fanxica bằng một mối thù
truyền kiếp. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua Fanxica có hai
hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì không có lấy
một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho bằng được.
Vua độc ác biết hai vị hoàng tử thường hay vào rừng săn
bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử em. Sau khi hay
tin em mình bị mất tích trong rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào
rừng tìm em. Không ngờ chính anh cũng bị vua độc ác giăng bẫy bắt được. Tên vua
độc ác giam hai anh em vào hai ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay
biết gì về người kia.
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp sinh nhật của vua, vua cho
tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để chúng phanh thây xé xác
nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng. Năm nay, thay vì cho ác thú đấu
nhau, nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khỏe mạnh, mỗi người mang một bộ da
sư tử trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi
một trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân lính dẫn hai đấu thủ
mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con người lốt sư tử xông
vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi. Đám đông cổ võ hò la
vang trời dậy đất. Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân
thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy thương tích máu
me... Nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn lực để hạ đối
thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt đời. Chỉ có
chiến thắng hay là chết. Cuối cùng bằng sức mạnh và sự khéo léo, đấu thủ cao
người hơn đã vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ ra
một khuôn mặt rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu trên tay rơi xuống.
Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai anh em ồ lên kinh ngạc. Họ bàng hoàng nhận
ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là anh em ruột thịt. Họ lao vào nhau, ôm chầm
lấy nhau khóc nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho
bằng được lại là người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hòa chung với máu. Hai con người bầm
dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã coi nhau như kẻ thù,
đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau bao vết thương đau.
Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp mắt bàng hoàng kinh
ngạc của mọi người".
Chính ma quỉ thù nghịch của Thiên Chúa đã gây nên mọi thứ
tội lỗi trên trần gian. Ma quỉ đã đeo cho con người đủ thứ mặt nạ ác thú để
chém giết lẫn nhau, và không còn nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa nữa.
Chúa Giêsu Giáng sinh, Nhập Thể xuống trần gian để lột mặt
nạ ác thú ra khỏi con người, để họ nhận ra nhau là con cái Thiên Chúa, là anh
chị em với nhau. Ngài đến để cứu chúng ta thoát khỏi vòng tội lỗi, cạm bẫy gian
tà của ma quỉ, khỏi lòng hận thù oán ghét nhau như Công đồng Vatican II diễn
tả: "Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đã thể hiện trong việc Con Một
Thiên Chúa đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để một khi hóa thân làm người,
Người tái sinh và đoàn tụ toàn thể nhân loại nên một bằng cách cứu chuộc
họ".
Bước vào thế kỷ 21, chúng ta đã chứng
kiến những cuộc khủng bố và chiến tranh tàn bạo với những vũ khí tinh vi và kỹ
thuật cao hơn. Ước gì chúng ta không đầu hàng bạo lực và oán thù. Nhưng sẽ là
những sứ giả của hòa bình và tình yêu. Niềm vui Giáng sinh chính là niềm vui
được giải thoát khỏi sự hận thù do ma quỉ mưu đồ.
23. Bình an dưới thế cho loài người
Chúa thương
Chúng ta vừa nghe thánh Luca thuật lại cuộc giáng sinh của
Chúa Giêsu, chúng ta hãy nhìn vào hang đá thì sẽ thấy được sự khó nghèo của Con
Thiên Chúa giáng trần làm người: chỉ có một vài mục đồng đến viếng thăm, và một
vài con lừa hà hơi sưởi ấm cho hài nhi Giêsu, tất cả chỉ có thế, nghèo nàn khổ
cực hơn cả người cùng cực thế gian, nhưng đó chính là niềm vui của các tâm hồn
thiện chí và là sự cứu độ của toàn thể nhân loại.
Đêm nay, chúng ta hân hoan long trọng mừng Đấng Cứu Độ của
chúng ta là Chúa Giêsu đã giáng trần, đó là một tin vui trọng đại, tin vui cho
muôn người, tin vui này được các sứ thần của Thiên Chúa loan báo cho các mục
đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại,
cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh
em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa".(Lc 2, 10-11)
Đêm nay được gọi là "Đêm Thánh" vì Con Thiên
Chúa là Đấng Thánh đã giáng trần cứu độ nhân loại khỏi tội lỗi; đêm nay cũng
được gọi là "Đêm Bình An" vì chính sự giáng trần của Con Thiên Chúa
là sự bình an cho mọi tâm hồn thiện chí biết xây dựng hòa bình cho anh em.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong ngày Chúa Giêsu
giáng sinh vẫn còn đó, vang lên trong mọi tâm hồn của người tín hữu, và biến
thành lời ca vang chúc bình an trên môi miệng của chúng ta với ước mong rằng,
tất cả mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đem bình an cho tha nhân trong
cuộc sống của mình.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Lời ca chúc mừng này biến chúng ta trở thành những mục
đồng đi đến thăm viếng Chúa Giêsu khó nghèo nơi các trại mồ côi, an ủi những
người bị tù ngục và những tâm hồn đau khổ vì bị bạc đãi trong xã hội này.
Đêm nay, ngoài đường vắng bóng người mặc áo quần lụa là,
vì họ đang quây quần vui vẻ nâng ly rượu với bạn bè trong những nhà hàng sang
trọng; nhưng đây đó dưới gầm cầu, bên góc xó hàng hiên của ngôi nhà to lớn bên
đường có những em bé Giêsu đang nằm co ro vì lạnh vì đói và không nhà để trở về
vì không có hộ khẩu...
Chúa Giêsu đã giáng trần cách đây hơn hai ngàn năm, và hôm
nay, mỗi ngày Ngài đều giáng trần trong tâm hồn của chúng ta, để qua chúng ta,
Ngài được an ủi nơi những người bất hạnh, như sứ điệp hòa bình mà các thiên
thần đã loan báo: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài
người Chúa thương.
Sứ điệp này đang ở trước mặt anh chị em, trong hang đá
lộng lẫy ánh đèn nhấp nháy sáng lóe tia hy vọng, như mời gọi chúng ta hãy tỏa
sáng lên tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc sống của mỗi người, bởi vì Con
Thiên Chúa giáng trần không phải như ánh sao xẹt ngang bầu trời rồi tắt ngúm,
nhưng là "ánh sao sáng vĩnh cửu" đầy hy vọng soi sáng tâm hồn người
thất vọng, chiếu sáng người đang ở trong bóng đêm tội lỗi thấy đường để quay về
với sự thiện vốn có của mình...
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
24. Chiêm ngắm Ngôi Lời
Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta, đó là lời
rao giảng đầy xác tín của thánh Gioan tông đồ mà chúng ta vừa nghe trong bài
tin mừng hôm nay.
Ngôi Lời ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà tối hôm qua
chúng ta long trọng, hân hoan và phấn khởi mừng kỷ niệm ngày Ngài giáng trần và
ở giữa chúng ta, nhưng với đức tin Kitô giáo, chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn
thấy và chiêm ngắm Đấng vì Yêu mà trở thành xác phàm như chúng ta.
1. Chiêm ngắm Ngôi Lời trong hang đá
Không ai thấy được Thiên Chúa cũng như không ai được đưa
tay đụng chạm đến Ngài, nhưng nhờ Ngôi Lời mà chúng ta biết được Thiên Chúa Cha
là Đấng đã yêu thương nhân loại là dường nào.
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm em bé Giêsu nhỏ xíu đang nằm
trong hang đá, em bé Giêsu tội nghiệp ấy chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha
là Đấng vô hình, và là hình ảnh tuyệt đẹp của con người hữu hình. Trẻ Giêsu đang
nằm đó, chúng ta nhìn và suy nghĩ đến hang đá Bêlem xưa kia, trời lạnh cực điểm
mà không có mảnh chiếu che thân, chúng ta tội nghiệp cho Mẹ Maria và thánh cả
Giuse là một gia đình nghèo đáng thương hại.
Đấng tạo dựng đất trời đang nằm trong hang đá đó chính là
Đấng mà muôn dân trông đợi, Ngài đã đến nhưng người nhà không chấp nhận, xua
đuổi Ngài ra nơi chuồng bò, và chỉ có những người vô danh tiểu tốt đến thờ lạy
Ngài là vua vũ trụ...
2. Chiêm ngắm Ngôi Lời nơi Thánh Thể
Ngôi Lời là Thiên Chúa mà chúng ta đang ngắm nơi hang đá
được trang hoàng lộng lẫy đẹp mắt ấy, chút xíu nữa đây trên bàn thờ, trong hình
bánh rượu sẽ trở thành Bánh Thánh Máu Thánh nuôi sống linh hồn chúng ta.
Một Thiên Chúa làm người nằm trong hang đá Bêlem cũng là
Thiên Chúa đang ngự trên bàn thờ nơi bí tích Thánh Thể, đã trở thành tình yêu
dâng hiến và chia sẻ: dâng hiến chức phận Thiên Chúa và chia sẻ thân phận làm
người với nhân loại tội lỗi...
Chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể để nhìn thấy được tình yêu
không bến bờ mà Ngài đã dành cho chúng ta, trong suốt cuộc sống của Ngài ở trần
gian và sau khi về trời, chính tình yêu ấy đã làm cho gia đình hòa thuận yêu
thương, chính tình yêu ấy đã làm cho xa hội phát triễn trong hòa bình, chính
tình yêu ấy là mẫu gương đại đồng nhân loại sống hợp tác và tương trợ lẫn
nhau...
Chúa Giêsu vẫn cứ khiêm tốn và nghèo mãi nơi hang đá Bêlem
cũng như nơi bí tích Thánh Thể, không có hang đá Bêlem nghèo nàn thì cũng không
có đồi Calvê trơ trọi thê lương, nhưng chính cái nghèo khó và thê lương ấy đã
trở nên nguồn sống cho những ai tin vào Ngài nơi bí tích Thánh Thể, đó chính là
mầu nhiệm mà hôm nay chúng ta mừng kính: mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm
người và mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc...
3. Ngắm Chúa Giêsu nơi tha nhân
Mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh là mừng tình yêu cứu độ của
Thiên Chúa dành cho nhân loại qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, ngắm nhìn Hài
Nhi trong hang đá chúng ta nhớ đến những em bé nghèo khó trên khắp thế giới
sống trong cảnh khó nghèo; chúng ta cũng nhớ đến những người phải lìa xa quê hương
ruột thịt để lánh nạn chiến tranh cường hào ác bá; chúng ta cũng suy nghĩ đến
biết bao Giêsu đang bị bạc đãi trên khắp thế giới vì chính kiến, vì hận thù và
vì đức tin...
Ngắm nhìn Chúa Giêsu nơi tha nhân là cốt lõi của tình yêu
và giáo huấn của Ngài để lại cho nhân loại -qua Giáo Hội- bởi vì chúng ta không
thể sống mầu nhiệm tình yêu bằng cách thờ ơ với tha nhân, và chúng ta cũng
không thể trở nên một chứng nhân cho tình yêu nếu tâm hồn chúng ta vắng bóng
Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ giáng sinh rồi cũng qua đi nhưng ơn cứu độ vẫn tồn tại
cho đến tận thế; hang đá lộng lẫy rồi cũng được cất vào kho nhưng những người
nghèo khó bất hạnh vẫn còn đó, trước mắt chúng ta, đó là một thực tại không thể
làm ngơ, là người Kitô hữu chúng ta phải làm gì để Chúa Giêsu tiếp tục mỗi ngày
sinh ra trong tâm hồn những con người bất hạnh ấy, đó chính là sứ điệp giáng
sinh của mỗi người trong chúng ta.
Câu hỏi gợi ý:
- Bạn có thói quen tặng thiệp, quà Noel cho người nghèo
không?
- Mỗi lần Noel đến, bạn có nghĩ rằng bạn sống tốt thêm
Noel năm ngoái không?
- Mỗi lần tặng thiệp, quà Noel cho bạn bè, bạn có nghĩ
rằng mình là một thiên thần đem tin vui cho mọi người không?
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
25. Suy niệm của Lm. Trương Đình Hiền
Có một bài ca Giáng Sinh bất hủ mà mỗi độ Giáng Sinh về
chúng ta đều nghe vọng lại cách thân thương quen thuộc: Bài Đêm Thánh Vô Cùng.
(Silent night, Holy night). Vâng Đêm nay quả thật là Đêm Thánh. Bởi vì đêm nay,
hầu như tất cả mọi người, không phân biệt già trẻ lớn bé, tín ngưỡng hay vô thần,
tin Chúa hay tin Phật...đều đỗ nhau ra đường, tuôn đến các Thánh đường, các tụ
điểm sinh hoạt văn hoá, để chung một niềm vui: Vui Noel, để rạo rực một tâm
tình: tâm tình Giáng Sinh.
Nhưng nếu lễ Noel chỉ đem lại cho mỗi người chúng ta chỉ
một niềm vui thoáng qua, một hạnh phúc chóng tàn, như cái bóng hạnh phúc ảo ảnh
trong ánh lửa của cô bé bán diêm trong câu chuyện "Cô bé bán diêm"
của văn hào Andecxen, để rồi sau đó, đêm Noel qua đi, những bài ca Giáng Sinh
ngừng lại, ánh sáng của sao lạ, hang đá máng cỏ vụt tắt, rồi tất cả lại quay về
với một đời thường tăm tối, đắng cay, thất vọng, khổ sầu...thì việc đón mừng
Giáng Sinh của chúng ta chẳng khác nào tiếp đón một người khách xa lạ, khách đi
rồi mà chẳng để lại nơi tâm hồn ta, nơi mái nhà ta, nơi cuộc sống ta một dư âm
nào, một kỷ niệm nào, và nhất là, một chuyển biến nội tâm nào.
Không, trong phút giây đặc biệt nầy, tôi xin mời gọi ông
bà và anh chị em hãy cùng tôi khám phá những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Giáng
Sinh, để niềm vui đêm nay, ánh sáng đêm nay, âm thanh đêm nay, không chỉ loé
sáng lên để rồi vụt tắt lịm như những que diêm của Cô bé bán diêm xấu số cùng
với cái chết thương tâm của cô giữa trời tuyết lạnh; nhưng phải được nối dài,
phải được vang vọng trên mọi nẽo đường cuộc sống của chúng ta.
I. GIÁNG SINH: MỘT MẦU NHIỆM ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa làm người: Phải chăng đây là một khẳng định táo
bạo, một sự lừa bịp, một tuyên truyền láo khoét? Không, với mỗi người Kitô hữu
chúng ta, "Thiên Chúa làm người" đó là một xác tín cơ bản, một niềm tin
căn cốt đã ăn sâu trong hồn, đã thuộc lòng trên môi miệng và đã được cử hành,
nhắc nhớ trên từng cây số của cuộc sống. Chân lý nầy lại được một lần nữa long
trọng cử hành trong chính đêm nay, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính của
Thánh lễ nầy " Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã
từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong long Trinh
Nữ Maria và đã làm người".
Nhưng với những người không chia sẻ cùng một niềm tin với
chúng ta, thì quả thật "mầu nhiệm Thiên Chúa Làm Người" quả là một
thách đố, nếu không nói là xa lạ và ảo tưởng. Điều nầy cũng đễ cảm thông thôi;
vì, cách đây 2000 năm, cho dù được các Sứ ngôn tiên báo, cho dù được Sách Thánh
thông tin xa gần, dân Do Thái vẫn không hề chấp nhận được "Một Đấng Cứu
Thế" sinh ra trong hang lừa máng cỏ, một Đấng Emmanuel con của gia đình
Bác Thợ Mộc Giuse và Bà Maria ở làng quê Nadarét. Với tâm thức chung của họ lúc
bấy giờ, và cũng là tâm thức của nhiều người trong nhân loại hôm nay, Thiên
Chúa phải là một "Ông Trời" toàn năng trên các tầng mây, một Thượng
Đế uy nghi lẫm liệt trên cõi vĩnh hằng; nếu Ngài có "hạ cố làm
người", thì cũng phải làm người trong cung cách của một vị đế vương oai
hùng lẫm lẫm nơi gác tía lầu son, nơi cung đình tráng lệ, chứ làm gì có một
"Ông Trời sinh ra trong thân phận của một Em Bé khóc oa oa vấn tả nằm
trong máng chiên lừa bao quanh chỉ có mấy chú mục đồng khổ nghèo kiết xác. Cũng
vì quan niệm như thế mà địa chỉ đầu tiên Ba Nhà Đạo Sĩ Phương đông tìm đến để
kiếm tìm Đấng Cứu thế là Thủ đô Giêruxalem nơi cung điện của đại vương Hêrôđê.
Nhưng nơi đó làm gì có Đấng Cứu thế giáng sinh. May mắn, nhờ "Sao Lạ dẫn
đường, các Đạo sĩ đã tìm gặp Đấng Emmanuel nơi hang lừa máng cỏ ngoài đồng vắng
Bêlem, trong thân phận của một em bé nghèo hèn yếu đuối. Vâng, nếu không có
"Anh sao lạ", nếu không có "thiên thần hiện ra loan báo Tin
vui", nghĩa là, nếu không có sự "mặc khải", sự dẫn đưa của Thiên
Chúa, thì loài người chúng ta không ai có thể khám phá, nhận biết được mầu nhiệm
Thiên Chúa làm người. Chúng ta sẽ mãi mãi ngủ vùi trong một giấc ngủ triền miên
của sự lầm lạc, cách xa và mù tối về sự hiện diện của Thiên Chúa làm người.
Thật cần thiết biết bao "ánh sao mặc khải của Thiên Chúa".
II. GIÁNG SINH: VÌ YÊU THIÊN CHÚA CHIA SẺ PHẬN NGƯỜI.
Nhưng làm sao Thiên Chúa lại phải làm người, và làm người
trong thân phận nghèo nàn, tăm tối, thấp hèn?
Để hiểu phần nào chân lý nầy, chúng ta có thể mượn câu ca
dao của Việt Nam:
"Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng".
Một trăm chỗ lệch: Giữa chúng ta, giữa con người với Thiên
Chúa không phải chỉ có "một trăm chỗ lệch" nhưng là cách xa muôn
trùng. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, toàn thiện, toàn mỹ, còn chúng ta
chỉ là thân phận tạo vật do bàn tay Người tác tạo. Sự cách biệt đó càng lớn, càng
sâu, càng cách xa vời vợi khi con người phản bội, chối từ Ngài, mà Lời Chúa
trong Sách Sáng Thế đã nói với chúng ta qua câu chuyện "bi kịch ăn trái
cấm nơi vườn địa đàng".
Tuy nhiên, Thiên Chúa cao xa quyền năng đó, lại là một
"Thiên Chúa nhân từ" và giàu lòng thương xót, một Thiên Chúa luôn nhớ
lại lòng khoan dung. Chính vì tình yêu bao la đó, mà Thiên Chúa đã không đành
bỏ mặc con người trong khoảng cách xa vời vợi, trong thân phận mồ côi lạnh
lùng, trong sự lạc loài cách biệt. Thánh sử Gioan đã nói: "Thiên Chúa đã
yêu thương con người đến đổi đã ban Con Một xuống trần..." (Ga 3,16).
Thiên Chúa làm người để con người được ơn cứu rỗi, hay như
lời một Giáo Phụ: "Thiên Chúa làm người để con người được làm Chúa".
Nói cách khác: Thiên Chúa muốn nâng con người lên, đem con người vào vị trí cao
cả mà ngay từ đầu Thiên Chúa đã muốn tác tạo: đó là giống hình ảnh Người. Đúng
là "một trăm chỗ lệch..."
Vâng, chúng ta chỉ hiểu được, chỉ chấp nhận được mầu nhiệm
Giáng Sinh nầy trong chiều kích TÌNH YÊU, trong ý nghĩa tình yêu.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa hiện thực
trong lịch sử con người.
- Giáng sinh: đó là tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện
cách trọn vẹn và hết mình. Cho nên, mừng mầu nhiệm Giáng Sinh chúng ta mừng hai
ý nghĩa, hai tác động có liên quan mật thiết:
- Thiên Chúa làm người và con người được nâng lên
- Là ngày "chúng ta tái diễn cuộc vào đời của Thiên
Chúa ", là dịp chúng ta ý thức "Hồng ân vĩ đại, cao cả của mỗi người
chúng ta vì chúng ta được mời gọi làm con Thiên Chúa, được chia sẻ vinh quang
thần linh của Thiên Chúa.
III. GIÁNG SINH: THIÊN CHÚA DẪN LỐI ĐƯA ĐƯỜNG
Nhưng khẳng định trên, chân lý trên, có ích gì cho xã hội
hôm nay, cho mỗi người chúng ta hôm nay? Vâng, đã hơn 2000 năm rồi, Thiên Chúa
đã làm người, đã cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết và sự sống lại của
Ngài, bằng chính Giáo Hội mà Ngài thiết lập để qui tụ nhân loại và ban ơn cứu
độ là chính Thánh Thần của Thiên Chúa...thì thế giới vẫn còn nguyên đó với
chiến tranh đầu rơi máu đỗ, với chết chóc hận thù, với bịnh tật khổ đau...Để
hiểu tại sao như thế, chúng ta phải trở về với chính những Lời Chân Lý được
công bố hôm nay:
Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn I-sa-ia đã vang vọng những
lời tuyệt đẹp: "Đoàn người bước đi trong tăm tối, đã nhìn thấy ánh sáng
bao la, ánh sáng bừng lên trên những miền âm u sự chết...vì một Hài nhi đã sinh
ra cho chúng ta, một Người con đã được ban tặng cho chúng ta"
Trong khi đó, bài Tin mừng Luca, với giọng văn lịch sử
mang phong cách Hy lạp, tác giả Luca đã làm bật nổi biến cố Giáng Sinh với
những lời và bối cảnh thật ấn tượng: "Trong vùng ấy có những người chăn
chiên sống ngoài đồng...bổng sứ thần Chúa trong vinh quang sáng láng hiên ra
loan báo rằng: "Anh em đừng sợ. Nầy tôi báo cho anh em một tin mừng trọng
đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: là hôm nay, trong thành vua Đa-vít, Đấng
Cưứ thế đã giáng sinh..."
Vâng, giữa cảnh nô lệ, lưu đày nước mất nhà tan khi đế
quốc Assur thôn tính Ít-ra-en vào khoảng 700 năm trước Công Nguyên, vị tiên tri
thi sĩ I-sa-ia đã tiên báo " một Đấng Emmanuen sẽ được một Trinh nữ sinh
ra"... và 700 năm sau, trong buổi bình minh của thiên niên kỷ đầu tiên của
công nguyên, cũng lại là một đất nước Ít-ra-en tan nát dưới quyền đô hộ của
Rôma, sứ thần đã loan Tin Mừng vĩ đại cho các mục đồng ở Bê-lem: "Đấng Cứu
thế đã giáng sinh".
Với những lời tiên báo đó, với những sứ điệp vui mừng và
hy vọng về một Đấng Cứu thế ra đời đó, quả thật loài người đã có được những gì,
đã chứng kiến được, đã cảm nhận thật sự điều gì đã xảy ra? Có hay không Một
Đấng Cứu thế như lòng họ hằng mơ ước? Có hay chăng một Vị Vua oai hùng lẫm liệt
đăng quang trở về chấp chính để an bang tế thế? Có hay chăng một Đấng Cứu tinh
mang lại no cơm ấm áo, đất đai biên giới mở rộng thênh thang, quyền uy chính
trị trãi trên ngàn dân nước?
Không! Hoàn toàn trái ngược hẳn:
- Thay vì một hoàng tử sinh ra trong gác tía lầu son, Đâng
Cứu Thế lại là một em bé sinh ra trong hang lừa máng cỏ.
- Thay vì một Đế vương chấp chính oai phong trên ngai vàng
lẫm liệt, Đấng Cứu Thế lại được Chúa Cha giới thiệu với loài người đang khi
chen lẫn giữa đám dân đen tụ tập cùng nhau sám hối bên bờ sông Gio-đan.
- Thay vì công bố giữa triều đình oai nghi những đề cương
kinh tế chính trị xã hội bài bản, Đấng Cứu thế lại rao giảng một Tin Mừng
"Tám Mối Phúc Thật" chỉ thích hợp cho những kẻ nghèo khổ bất hạnh.
- Thay vì chinh phạt với vó ngựa, gưom đao để mở rộng cõi
bờ, sát phạt muôn dân, Đấng Cứu thế lại chấp nhận một bản án bất công và chịu
tử hình Thập Giá, một cái chết dành riêng cho hàng nô lệ...
Quả thật, sự xuất hiện và cuộc đời của Chúa Giêsu, Đấng
Cứu thế mãi mãi là một thách đố để chúng ta tin nhận, là một huyền nhiệm để
chúng ta đi tìm. Nếu hôm nay, chúng ta đến đây, chúng ta cử hành mầu nhiệm
Giáng Sinh nầy, chúng ta tìm kiếm một "Ông Giêsu" chỉ với mục đích là
được no cơm ấm áo, chỉ với một ước nguyện là được tiền tài danh vọng và những
bảo đảm vật chất...thì có lẽ chúng ta sẽ ra về trong thất vọng. Bởi vì Tin Mừng
Giáng Sinh, Chân lý của Đức Kitô, con đường nhân sinh của Kitô giáo không đề
nghị cho chúng ta những giải pháp trần tục đó, những hứa hẹn vật chất chóng tàn
đó. Bởi vì Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài tuyệt đối không phải là một ý thức hệ,
một chủ nghĩa, một học thuyết chính trị-kinh tế. Bởi vì Chúa Giêsu hôm qua, hôm
nay và mãi mãi duy nhất là Đấng Cứu Độ, là Đấng, như lời kinh thánh "
trong Bài đọc 2 vừa được công bố hôm nay "đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta
cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta khiến chúng ta
thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện" (BĐ 2), là
Đấng qui tụ nhân loại thành anh em trong gia đình Thiên Chúa để dẫn tất cả vượt
qua kiếp sống trần gian tiến về hạnh phúc vĩnh hằng.
Cũng chính vì lẽ đó, "Hiến chương Nước Trời"
được Ngài vạch ra như nẽo đường dẫn tới cõi phúc chân thật lại là những giá trị
xem ra thật ngược đời, nhưng cũng thật anh hùng và đòi hỏi: Tinh thần khiêm hạ
khó nghèo, hiền lành nhân ái, hy sinh để chia sẻ và cho đi, yêu thương để xây
dựng hòa bình, không ngừng biết khoan dung để tha thứ...
Chính cuộc đời 33 năm trần thế của Ngài, cho dù không để
lại một công trình kiến trúc vĩ đại, không một tác phẩm văn chương uyên bác,
không một sáng chế khoa học diệu kỳ...thì 20 thế kỷ qua vẫn là cột trụ của nhân
loại, là hy vọng của muôn thế hệ, là điểm tựa cho muôn ức triệu tâm hồn. Từ
máng cỏ Bê-lem cho tới đỉnh đồi Núi Sọ, cuộc đời của Chúa Giê-su duy nhât chỉ
là một định nghĩa đúng đắn nhất về tình yêu: Yêu là cho đi và cho đi đến cùng:
Thiên Chúa trở nên nghèo hèn, tự hiến để con người được cứu độ vinh quang;
Thiên Chúa chấp nhận làm "hạt lúa gieo vào trần gian mục nát", để con
người ngẩng cao đầu đứng lên tìm được hạnh phúc vĩnh hằng. Đó cũng chính là ý
nghĩa cuối cùng của mầu nhiệm được cử hành hôm nay: mầu nhiệm Thiên Chúa làm
người, mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mầu nhiệm Nhập thể - Giáng Sinh.
Kết luận: Như vậy, chúng ta đón nhận và sống mầu nhiệm
Giáng Sinh như thế nào đây cho đầy đũ ý nghĩa và mang giá trị hiện thực? Để
thay cho câu trả lời tôi xin kể một câu chuyện nhỏ: "Tiệm tạp hóa bên kia
ngọn đồi"
Khi ánh mặt trời vừa ló dạng, có một chàng thanh niên đứng
đợi trước cửa hàng tạp hóa bên kia ngọn đồi. Chờ mãi mà cửa vẫn chưa mở. Sắp
sửa định bỏ đi, thì bổng có tiêng mở cửa và một thiên thần xuất hiện:
- Anh cần gì? Tôi là chủ ở đây.
- Ở đây Ngài có bán hòa bình không?
- Tôi bán tất cả.
- Con muốn mua hòa bình đem vào nơi chiến tranh, mua an
hòa đem vào nơi tranh chấp, mua chân lý đem vào chốn lỗi lầm...
- Còn mua gì nữa nào?
- Con muốn mua ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm, mua niềm
vui đem vào chốn u sầu...Con muôn mua tất cả những gì để thế giới không còn
khủng bố, chiến tranh, bạo lực, hận thù, ghen ghét, để mọi người hít thở trong
không khí trong lành, huynh đệ yêu thương...Vâng con muốn mua được những liều
thuốc chữa được mọi bệnh tật, mọi người được no cơm ấm áo...
- Thiên thần từ tốn đáp: Nầy anh, ở đây không bán quả.
Thượng Đế giao cho tôi chỉ bán hạt giống thôi...
Thưa ông bà và anh chị em. Sứ điệp Giáng Sinh hôm nay cũng
là "Hạt Giống" Tin mừng được trao gởi cho mỗi người chúng ta. Hạt
giống của Niềm vui và bình an, hạt giống của yêu thương và chia sẻ, hạt giống
của hy sinh và tận hiến, hạt giống của tha thứ và khoan dung, hạt giống của
huynh đệ và đoàn kết...Đó chính là những hạt giống mà Con Thiên Chúa đã trao
tặng khi xuống thế làm người và muốn chúng ta sinh hoa kết trái. Ước gì niềm
vui và ân sủng của Giáng Sinh năm nay sẽ ở lại nơi tâm hồn mỗi người chúng ta
và biến đổi cuộc đời chúng ta thành nhứng chứng nhân của hòa bình và công lý,
của bác ái yêu thương, của khoan dung tha thứ, của phục vụ quên mình. Và như
thế, chiến tranh bạo lục, khủng bố hận thù, ghét ghen tranh chấp, đói khát
nghèo nàn...sẽ bị đẩy lùi để nhường chõ cho một thế giới tốt đẹp hơn, anh bình
hơn, vui tươi và hạnh phúc hơn như lời sấm của Sứ Ngôn I-sa-ia trong bài đọc
thứ nhất hôm nay: "Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng,
mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi làm mồi nuôi lửa. Vì Một Hài đã
sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta".
Giờ phút nầy, lời sấm ngôn đó không còn là một lời tiên
báo nữa, vì chút nữa đây, chúng ta sẽ được chia sẻ chính thịt máu Ngài được ban
tặng cho chúng ta. Chúng ta chỉ biết tri ân và cảm tạ, hân hoan và yêu mến.
Amen.
26. Sức mạnh - Lc 2,1-20
Có một người đi hành hương đất thánh, khi trở về, ông ta
đã mua một bộ tượng sinh nhật gồm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Thế nhưng,
trước khi lên máy bay tại phi trường Tel Aviv, người ta đã kiểm soát từng bức
tượng một, bằng quang tuyến X. Nhân viên hải quan đã xin lỗi và nói:
- Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng không hề có chất nổ
trong những bức tượng này.
Lúc bấy giờ, ông khách hành hương đã thầm nghĩ:
- Phải chăng họ biết được rằng bộ tượng này còn chất chứa
một năng lượng khả dĩ làm nổ tung cả thế giới. Vậy thì nguồn năng lượng ấy là
như thế nào? Đó không phải là nguồn năng lượng vô biên của Thiên Chúa, Đấng đã
tạo dựng nên vũ trụ vật chất này trong thoáng chốc và có thể hủy diệt nó bằng
một cái búng tay. Năng lượng mà ông khách hành hương muốn nói tới, chính là
năng lượng của Tình yêu mà Ngài đem theo khi đến với nhân loại trong đêm Sinh
Nhật đầu tiên tại Bêlem.
Thực vậy, năng lượng ấy được gồm tóm trong Tin Mừng Giáng
Sinh, trong sứ điệp mà Ngài muốn nhắn gửi chúng ta. Tin Mừng ấy, sứ điệp ấy như
thế này:
- Thiên Chúa, mặc dầu là Đấng quyền năng vô song, nhưng
đồng thời Ngài cũng là một người Cha đầy lòng nhân từ và khoan dung, Ngài đã
yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta... Và để giải thoát chúng ta khỏi
sự kìm kẹp của tội lỗi, khỏi án phạt đời đời, Ngài đã sai chính Con Một Ngài
xuống thế để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng ấy, để công bố sứ điệp ấy,
Ngài đã không đến như một ông hoàng với cung điện lộng lẫy, với binh đội hùng
mạnh, nhưng Ngài đã đến như một hài nhi bé bỏng và yếu đuối, con của một gia
đình nghèo nàn và túng thiếu. Ngài đã trở nên một người giống như chúng ta,
cũng bơ vơ lạc lõng, cũng vất vả mệt mỏi, cũng biết đau, biết đói, biết khát...
Cũng đã bị nhạo cười và hất hủi, thậm chí còn phải chịu một cái chết ê chề và
nhục nhã nhất.
Khi đến, Ngài đã không được các vua chúa, các vị lãnh đạo
thế giới chào đón, mà chỉ được các mục đồng, những kẻ thuộc giai cấp thấp hèn
nhất đến viếng thăm. Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo khổ và túng
thiếu, thậm chí ngay cả với những kẻ tội lỗi.
Những điều trên đây khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà
Ngài đem vào thế giới này. Bởi vì tư tưởng và đường nẻo của Ngài không giống
với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Phải chăng đó chính là điểm đặc sắc,
điểm thách đố mà mầu nhiệm Giáng Sinh đã gây nên. Sự thách đố này được diễn tả
qua một bài thơ có nội dung như thế này:
- Khi ánh sao trên trời chợt tắt, khi các mục đồng và ba
nhà đạo sĩ đã ra về, thì công cuộc Giáng Sinh mới thực sự bắt đầu: để tìm lại
những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã rạn vỡ, để dựng lại những gì đã gãy đổ.
Người đói được ăn, kẻ khát được uống, tù nhân được giải phóng và hòa bình thực
sự trở về với mọi người.
Kể từ đêm Giáng Sinh đầu tiên cho tới ngày hôm nay, trải dài
hơn hai ngàn năm, sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi hài nhi
Giêsu, không ngừng làm nổ tung và biến đổi bộ mặt thế giới. Sức mạnh ấy đã san
bằng mọi giai cấp. Sức mạnh ấy đã phá đổ mọi bất công. Sức mạnh ấy đã giành lại
những quyền lợi cho đàn bà và trẻ em. Sức mạnh ấy đã hủy diệt mọi thù oán...Tuy
nhiên điều quan trọng hơn cả, đó là sức mạnh tình yêu của mầu nhiệm Giáng Sinh
đã tác động như thế nào đến bản thân và đến cuộc sống riên tư của mỗi người
chúng ta?
27. Chuẩn bị chỗ cho niềm vui.
Những tình tiết chung quanh sự việc Đức Giêsu Giáng Sinh
là nguồn đề tài cho rất nhiều thiên khảo sát thông thái, là cảm hứng bất tận
cho những suy niệm thiêng liêng và thi ca hướng thượng. Những nhà uyên bác muốn
xem bản văn của thánh Luca như một thiên ký sự trong đó thực tế lịch sử được
thích ứng với một mẫu tín ngưỡng dân gian bắt rễ ở những công thức kinh điển
Cựu Ước. Sự suy–niệm thiêng liêng đã biết nhận ra trong ký sự ảnh hưởng của
thuyết hiện thực lịch sử, vừa nhân bản vừa có tính chất thần linh, khi thuyết
này được áp dụng, để khảo sát sự việc Thiên Chúa đến trong nhân loại. Dù sao,
những công trình khảo cứu bác học và sự suy niệm thiêng liêng cũng gặp nhau ở
điểm cùng xác nhận tính chất chắc chắn của những sự kiện sau đây: bà Maria và
ông Giuse đã đến Bêlem, nơi đây Đức Giêsu Cứu Thế đã Giáng Sinh, cũng tại đây
những kẻ đầu tiên đã tin vào sự loan báo lớn lao này.
Thánh Luca viết bản văn này khoảng thời gian rất lâu sau
biến cố. Lúc ông soạn bộ Phúc âm mang tên ông thì sự kiện Phục sinh và Hiện
xuống đã xảy ra rồi. Giáo Hội sơ khai đặt ra kinh nguyện theo sát kinh nghiệm
thiêng liêng thu thập được. Có thể là Giáo Hội đã tuyển trong khối tài liệu
phong phú về biến cố Giáng Sinh để lựa lấy những điều nào hợp với kinh nghiệm
nhất: Vinh danh dâng lên Thiên Chúa và bình an được ban cho loài người dưới thế
đã được thánh Luca trích ra để dùng từ một kinh nguyện phụng vụ, chính bản kinh
này bắt nguồn ở mầu nhiệm tổng quát Giáng Sinh, Vượt qua và Hiện xuống. Ngày
nay khi chúng ta mừng một biến cố xảy đến trong lịch sử Đức Giêsu, điều lợi ích
cho ta là chớ lãng quên toàn bộ Mầu Nhiệm Đức Kitô, Con Chúa xuống thế làm
người, để nhờ tác động của thần trí Người, Đức Kitô thực hiện trong Giáo Hội sứ
mạng làm vinh danh Chúa Cha và cứu rỗi nhân loại anh em Người. Xin lấy một ví
dụ thực tế để gợi ý. Lĩnh ơn hoà giải qua bí tích giải tội, và tham dự sốt sắng
thánh lễ tạ ơn – đó là những nguồn vui thật sự vào dịp Giáng Sinh. Ngoài ra,
thi vị hoá ngày lễ và nô nức mừng lễ, cả hai chỉ là bộ áo phủ ngoài. Chúng ta
có thể dừng lại ở hai chủ đề suy niệm:
1) Thiên sứ được Chúa sai đến bảo cho những mục đồng biết:
Ta loan báo cho anh em một niềm vui lớn, nó cũng sẽ là niềm vui chung cho toàn
dân. Đây là một niềm vui đáp ứng một hy vọng. Từ bao thế kỷ; não trạng Israel
được duy trì và bồi dưỡng bởi các ngôn sứ, dựa vào niềm trông đợi Đấng Cứu Thế
sẽ đến. Niềm vui này cũng là niềm vui chung cho toàn dân, chỉ có thể xuất phát
từ Đấng Cứu Thế. Sứ điệp thiên thần mang đến cho những ai có tâm hồn như trầm
xuống trong niềm trông đợi Đức Kitô mà Thiên Chúa hứa ban cho trần thế. Điều
này gợi ra một câu hỏi: trong tâm hồn ta, có dọn dẹp chuẩn bị một chỗ cho niềm
vui được Thiên Chúa loan báo không? Chúng ta có những ước vọng nào? chúng hướng
về đâu? Trong chúng ta có hay không một chỗ dành cho sự mong mỏi đợi chờ Chúng
ngự đến để Người tác động mạnh hơn nữa? Thiên Chúa không thể loan báo cho chúng
ta một niềm vui, nếu chúng ta không cần đến Người. Tuy nhiên, nếu nhờ đức tin
mà chúng ta phát hiện và ngẫu nhiên cảm thấy điều sau: chỉ Thiên Chúa mới có
thể ban phát tràn đầy ơn phúc cho chúng ta, thì ta phải hiểu rằng chính đức tin
chuẩn bị chúng ta tiếp nhận những sự loan báo Tin Mừng.
2) Hôm nay một Đấng Cứu Thế được sinh ra cho anh em. Dù
cam phận hay nổi loạn con người bị cưỡng bách phải nhận định điều này: đời sống
cá nhân tiến dần đến cõi chết, đến chỗ tiêu tan bản thể. Cam phận hay nổi loạn,
cả hai đều chứa đựng đau khổ. Đấng đem đến cho nhân loại phương thế hữu hiệu để
vượt thắng chết và sự trầm luân, chúng ta tôn Người là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu
Thế được các thiên thần loan báo không chỉ đến phải cứu con người khỏi định
mệnh phải chết, mà còn ban cho con người sự sống của Thiên Chúa. Não trạng thời
hiện đại hướng tới chỗ xui giục một số người nào đó đành chịu rơi vào cõi chết
– và xô đẩy một số khác nổi loạn cuồng nộ. Là tín đồ của Chúa, ta hãy ý thức
rằng ta cần được cứu rỗi. Hãy từ khước sự can tâm nhận lấy hư vô. Mặt khác ta
hãy đến với Đấng Cứu Thế, trình bày một niềm riêng tư của mình, chứ đừng có vun
tưới cho những sự nổi loạn vô ích và ngu dại. Hãy hiệp thông với hành động của
Chúa Cứu Thế chúng ta.
28. Thiên Chúa làm người vì chúng ta –
Noel Quesson
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người
chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng
Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà,
ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm
nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở
cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay
vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể
vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có
cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con
chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh
đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được
nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con
người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì
thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống
cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những
bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên
Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một
chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo
bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người
đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm
tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có
sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng
Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé
nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá.
Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng
nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như
một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao
giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh
cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người
nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu
hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh.
Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những
người nghèo khó: "Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các
con làm cho Ta".
Thiên thần loan báo một "Tin Vui", một tin vui
cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên
Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng
không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải
theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: "Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong
máng cỏ". Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé
nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con
người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương
Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi
người trong xã hội hôm nay.
29. NOEL: Yêu thương
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời
sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa
Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi
nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để
làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên
khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm
trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời
Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành
mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm
được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong
máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong
máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ,
con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà
gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu,
nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho
Chúa ấm được không? Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy
ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm
lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi
mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã
cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta
ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã
làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ
lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy
kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm
được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn,
cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách
biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,...
bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của
bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu
nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì
đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời,
sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là
Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn!
Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
30. Vinh danh
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương". Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn
thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả
loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang
đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các
thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất... còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa,
còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh
Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ
vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải
làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm
ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng
ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc
phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu
chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số
hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục
vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì
chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội
và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần
làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề "Bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương" thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được
bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố
bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm
không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm
lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm
trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: "Một lương tâm trong sạch là
nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn". Hơn nữa, một tấm lòng trong
sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là
như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết
có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình
không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi
đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh
chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm
chứng, như sách Đại Học viết: "Một con tim không ngay chính, bất an xáo
trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng
tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa".
Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc
nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian
ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa
"Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa
muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được
thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi
tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và
lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không?
Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né?
Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến
tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ
nhau... có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp
danh dự của nhau. Người ta bảo "trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết
oan". "Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non", chúng ta là
những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau
thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong
nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ "bình
an" để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy
cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói "Phúc cho người xây
dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa", xin cho chúng con vào số
chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng
lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân
thật, thì xin cho chung con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo
vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai
sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa
đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp
lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong
bình an của Chúa.
31. Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng Sinh
Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng
sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông
quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh
lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người
ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng Sinh trở thành đêm hội của mọi người.
Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng Sinh không chỉ là lễ của người
có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi
người biết đến.
Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một
cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng
sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời
hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể
bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của
nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: "Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đêm nay
có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu "thiện
tâm" là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn
thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng
Sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho
ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa
sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng
mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết
bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ.
Chúng ta nghĩ đến Palestina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành
phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại
không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai
ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin Mừng được rao giảng cho cả
thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm
Chúa Giêsu sinh ra, Palestin lại chim trong chiến tranh. Người ta đang giết hại
lẫn nhau. Khúc hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm"
không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.
Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất
giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài
hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui
chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái đêm nay ra khỏi nhà để vui đêm
hội giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên
nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá mà
những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô
gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để
đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa?
Nếu đêm Chúa sinh ra - đêm hội Giáng Sinh là dịp để người
lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải
trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của
cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng Sinh làm cho người ta
hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người.
Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng Sinh phải
là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến
của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người,
chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế,
thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm
hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an.
Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí
tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy
tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên
cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn
trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng Sinh, thờ
phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa.
Xin kính chúc các bạn MỘT ĐÊM AN BÌNH, vì chúng ta là
những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: "Vinh danh Thiên Chúa
trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm".
32. Lễ Giáng Sinh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn khám phá ra cha bạn - một người rất giàu có -
đã xếp đặt để mẹ bạn sinh bạn ra trong một chuồng bò hay chuồng heo của nhà ai
đó, bạn sẽ nghĩ thế nào về cha của bạn? Bạn lý giải thế nào về việc Thiên Chúa
đã quan phòng để Đức Giêsu, Con Ngài, ra chào đời trong một chuồng bò?
2. Đặt mình vào địa vị của Đức Maria và thánh Giuse, bạn
sẽ nghĩ và nói thế nào về Thiên Chúa khi hai Ngài phải rời Nagiarét vào Bêlem,
không tìm được chỗ trọ, và phải sinh con trong chuồng bò?
3. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Đức Giêsu phải chịu đau
khổ, nhục nhã từ khi sinh ra đến lúc chết? Thiên Chúa ghét và muốn hành hạ Con
của Ngài chăng? Nếu không, phải lý giải thế nào về sự kiện ấy?
Chia Sẻ
1. Con Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong cảnh tột hèn
kém
Chúng ta thử tưởng tượng xem một vị hoàng đế trần gian nếu
biết trước đứa con mình sinh ra sẽ là vị cứu tinh của trần gian, thì hoàng đế
ấy sẽ chuẩn bị cho người con ấy chào đời như thế nào? Chắc chắn ông sẽ chuẩn bị
cho con mình một nơi thật xứng đáng, với quần áo, tã lót, chăn mền... thật sang
trọng. Và cũng tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho người mẹ sẽ sinh ra con
mình. Chính vì tưởng rằng Thiên Chúa trên trời cũng suy nghĩ như mình, nên
người Do Thái thời Đức Giêsu đã tưởng Đấng Cứu Thế sẽ phải sinh ra trong cung
vàng điện ngọc. Nhưng họ không ngờ Thiên Chúa suy nghĩ khác hẳn với cách nghĩ
của họ!
Theo Tin Mừng, Đức Giêsu đã sinh ra trong hang bò lừa. Đã
là chỗ nuôi và chứa sức vật đương nhiên phải hôi tanh và bẩn thỉu. Chắc chắn
Giuse và Maria phải hết sức ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa đối xử với mình, nhất
là với Đấng Cứu Thế hài nhi như vậy! Nhục nhã thay cho Đấng Cứu Thế! Bất kỳ ai
biết mình chào đời trong một chỗ tối tăm và nhục nhã tận cùng như thế đều không
tránh được mặc cảm cho rằng cuộc đời mình cũng sẽ tối tăm và nhục nhã như thế!?
Trước sự thật phũ phàng trước mắt, chắc hẳn phải có lúc hai ông bà nghi ngờ rằng:
liệu lời thiên sứ nói với mình về đứa trẻ mình sinh ra có thật hay không? Nghi
ngờ để rồi lại tự nhủ, tự an ủi, tự tìm lấy lý do để cố mà tin cho vững hơn!
Thực tế thật phũ phàng, nhưng đó lại chính là thánh ý của Thiên Chúa. Muốn cứu
thế giới khỏi những nhơ nhớp của tội lỗi, Con của Ngài cũng phải nhập thể từ
chốn nhơ nhớp nhất của trần thế! Muốn đưa con người lên thật cao, Thiên Chúa
nhập thể phải xuống cho thật thấp, thấp đến tận cùng!
2. Cách xếp đặt của Thiên Chúa... thật hết sức nghịch lý!
Thật là nghịch lý và không thể hiểu nổi cách Thiên Chúa
đối xử với người Con độc nhất và hết sức yêu quí của Ngài, và với hai người đặc
biệt mà Ngài chọn để hạ sinh, bảo vệ và nuôi dưỡng người Con ấy! Giuse và Maria
đang sống yên lành tại Nagiarét, những tưởng đứa con trong bụng nàng sẽ ra đời
tại nhà mình ở làng ấy. Chắc hẳn chàng và nàng đã mua sắm đồ này vật nọ để
chuẩn bị cho xứng đáng với chức vị cao cả của đứa bé sắp chào đời! Nào ngờ
chiếu chỉ kiểm tra dân số của Hoàng Đế Rô-ma đã đảo lộn tất cả, đã đẩy đôi trai
gái đức hạnh - chỉ biết nghĩ đến thánh ý Thiên Chúa - vào một cuộc phiêu lưu
bất ngờ đầy gian khổ!
Từ làng Nagiarét vùng Galilê thuộc miền Bắc Do Thái, chàng
và nàng phải vượt qua vùng Samari đầy đồi núi của miền Trung để về tận làng
Bêlem vùng Giuđê thuộc miền Nam Do Thái. Đường chim bay đo theo tỷ lệ xích trên
bản đồ cũng phải là 120 cây số, đường ngòng ngoèo trong thực tế hẳn phải trên
150 cây. Thời ấy có lẽ hai người phải dùng một con la để di chuyển. Hành trình
chắc chắn vất vả! Điều nghịch lý nhất nằm ở chỗ Thiên Chúa lại quan phòng cho
ngày phải di chuyển ấy xảy ra khi Maria mang thai đến thời kỳ sinh nở. Sau một
hành trình vất vả như thế, khi tới nơi những tưởng Thiên Chúa sẽ dành cho Con
của Ngài một chỗ để sinh nở tương đối xứng đáng, nhưng khốn thay... tất cả mọi
người mọi nơi đều từ chối! Nếu hai ông bà có tiền, chắc hẳn không đến nỗi! Chưa
sinh ra, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể đã phải đối diện với sự ích kỷ và tính
coi trọng tiền bạc hơn tình nghĩa của con người! Không kiếm được chỗ để trọ và sinh
con, hai ông bà đành trọ và sinh con trong chuồng súc vật!
Kết quả của những nghịch lý ấy là gì? ai phải khổ đây? Cả
gia đình gồm 3 người Giuse, Maria và Giêsu là khổ nhất. Phải chăng Thiên Chúa
ghét và muốn đày đọa gia đình này? Chắc chắn không phải! - Có thể nói đây là
gia đình quan trọng nhất, được Thiên Chúa quan tâm, ưu ái đặc biệt nhất! Vì
thế, nếu đã xảy ra như vậy - đương nhiên là do sự quan phòng vô cùng khôn ngoan
của Thiên Chúa - thì ắt hẳn đây phải là cách có lợi nhất cho đại cuộc cứu chuộc
nhân loại. Như vậy, vì đại cuộc, Thiên Chúa buộc những «người của Ngài» phải hy
sinh, phải chấp nhận nhục nhã, đau khổ hơn những người khác. Nhưng bù lại, Ngài
sẽ ân thưởng cho «người của Ngài» vinh quang, hạnh phúc cao quí nhất!
3. Nghịch lý... nhưng lại rất hợp lý và khôn ngoan
Như vậy ta thấy Thiên Chúa coi hạnh phúc hay đau khổ, vinh
quang hay nhục nhã chóng qua trong hiện tại không quan trọng bằng hạnh phúc hay
đau khổ, vinh quang hay nhục nhã lâu dài trong tương lai. Nếu phải chịu khổ hay
chịu nhục một chút trong hiện tại để rồi được hạnh phúc hay vinh quang lâu dài
trong tương lai, thì ai khôn ngoan cũng đều sẵn sàng chấp nhận. Còn nếu được
hưởng hạnh phúc hay vinh quang thật ngắn ngủi trong hiện tại để rồi phải chịu
đau khổ và nhục nhã lâu dài trong tương lai, thì chỉ có người ngu mới chấp
nhận! Những cha mẹ thật sự yêu thương con cái sẵn sàng chọn lựa để con cái mình
phải đau khổ hay chịu nhục nhã một chút hầu về sau chúng được hạnh phúc và vinh
quang lâu dài. Bạn chưa tin ư? Này nhé, giả như bạn phải chọn lựa cho bạn hoặc
cho con cái bạn giữa ba khả thể sau đây, thì bạn chọn khả thể nào: một là đau
khổ hiện tại 1 mà hạnh phúc tương lai 10, hai là đau khổ hiện tại 2 mà hạnh
phúc tương lai 100, và ba là đau khổ hiện tại 3 mà hạnh phúc tương lai 1.000?
Chắc chắn bạn sẽ chọn khả thể thứ ba. Thiên Chúa cũng chọn lựa cho những người
Ngài đặc biệt yêu thương tương tự như vậy. Chính vì thế, Ngài sẵn sàng để Đức
Giêsu, Người Con độc nhất mà Ngài yêu quý nhất phải chịu đau khổ và nhục nhã
ngay từ khi chào đời đến giây phút cuối cùng của cuộc đời để cứu chuộc nhân
loại, hầu cuối cùng, trong vĩnh cửu, Đức Giêsu trở thành người hạnh phúc và
vinh quang nhất không ai sánh bằng!
Nếu ta biết nhìn bằng con mắt đức tin và khôn ngoan như
thế, thì việc Đức Giêsu phải chịu đau khổ và nhục nhã từ khi sinh ra cho đến
hết cuộc đời sẽ trở thành một sự kiện bảo đảm, một căn cứ để hy vọng, và một
niềm an ủi lớn lao cho ta khi ta gặp phải những đau khổ lớn lao trong cuộc đời.
Khi Thiên Chúa dành cho chúng ta đau khổ hay nhục nhã trong hiện tại, thì điều
đó không có nghĩa là Ngài ghét bỏ ta. Trái lại có thể là Ngài đang dành cho ta
một ưu đãi, một sự yêu thương đặc biệt mà ta có quyền chấp nhận hay từ chối.
Nếu tự nguyện chấp nhận thì hạnh phúc và vinh quang của ta sẽ rất lớn, và lớn
thế nào tùy thuộc vào chất lượng sự tự nguyện của ta và mức độ đau khổ ta sẵn
sàng đón nhận. Nếu từ chối, ta sẽ bỏ lỡ một cơ hội quí báu mà Thiên Chúa vì yêu
thương đã dành cho ta, vì «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được
với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!» (Rm 8,18).
Vậy, người thường hay kẻ không tin kêu ca về nghịch cảnh,
về đau khổ mình phải chịu thì không có gì là lạ. Nhưng người Kitô hữu, người
mang danh theo Chúa, người có lý tưởng tông đồ, người được Chúa chọn, được mang
danh là «người của Ngài», mà lại than vãn khi gặp nghịch cảnh thì quả là... vẫn
còn sống theo tính xác thịt, như thánh Phaolô đã phiền trách: «Tôi không thể
nói với anh em như với những con người sống theo Thần Khí, nhưng như với những
con người sống theo tính xác thịt, như với những trẻ nhỏ trong Đức Kitô. Tôi đã
cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng
bây giờ anh em cũng vẫn còn không chịu nổi, vì anh em còn là những con người
sống theo tính xác thịt» (1Cr 3,1-3).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu sinh ra thật nhục nhã và sống một cuộc
đời đầy đau khổ, nhưng đã sống lại trong vinh quang và trở thành Chúa Tể trời
đất. Qua sự việc ấy con mới hiểu được giá trị của đau khổ. Đúng lý ra khi gặp
đau khổ, nhục nhã, trái ý... con phải vui mừng vì biết khi cho phép xảy ra như
vậy là Cha thương con cùng một cách như Cha đã từng thương Đức Giêsu và bao vị
thánh của Cha. Đúng ra con nên nói «con được đau khổ» chứ không phải «con bị
đau khổ»!
33. Tìm kiếm
Chuyện kể rằng, có hai người bạn chia tay nhau đi tìm điều
quí giá nhất trên đời. Họ hẹn sẽ gặp lại sau khi đã tìm thấy. Người thứ nhất đi
tìm viên ngọc quí. Bất cứ nơi nào bán đá quí, anh đều tìm đến. Cuối cùng, anh
cũng mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc quí, anh trở lại quê hương chờ bạn.
Người thứ hai đi tìm Chúa. Anh đi khắp nơi thọ giáo các
bậc thánh hiền, cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm được Chúa.
Nhiều năm trôi qua, đang lúc tuyệt vọng, anh nhìn dòng
sông lững lờ: một đàn vịt con đang bơi lội tung tăng. Trong khi vịt mẹ tìm con,
thì bày con lại cứ muốn rời mẹ tìm ăn riêng. Vịt mẹ chẳng hề tỏ vẻ giận dữ, cứ
lẽo đẽo theo bày con và gom chúng lại. Thấy cảnh vịt mẹ mải mê tìm con như thế,
anh mỉm cười trở về quê hương.
Khi người bạn hỏi điều quí mà anh đã tìm được là gì, khiến
gương mặt anh rạng rỡ như thế. Lúc đó, con người trở về với hai bàn tay trắng,
nhưng tâm hồn tràn ngập niềm vui mới thốt lên: - Điều quí giá mà tôi đã tìm
thấy, đó là trong khi tôi đi tìm Chúa, thì chính Người đã đi tìm tôi. "Ngôi
Lời đã nhập thể, và cư ngụ giữa chúng ta". Nhiều khi chúng ta tưởng mình
đi tìm Chúa, nhưng thật sự là chính Chúa đi tìm chúng ta trước.
Ngay khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã lên kế
hoạch cứu chuộc. Ngay khi con người phản bội bất trung, Thiên Chúa đã mở lối
cho họ quay bước trở về. Ngay khi con người vô phương cứu lấy chính mình, Thiên
Chúa đã sai Con Một đem thân cứu độ.
Đêm nay là đêm giao duyên đất trời, đêm hội hoa đăng, đêm
đầy ánh sáng, đêm Thiên Chúa viếng thăm con người. Đúng như thông điệp chứa
chan hy vọng của tiên tri Isaia: "Một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta và
một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta".
Con người không thể lên tới Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã
xuống với con người. Chúa xuống trần gian để cho trần gian biết đường về trời.
Chúa mặc lấy bản tính con người để cho con người trở nên con cái Chúa: Thánh
Gioan viết: "Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm con
Thiên Chúa".
Giáng Sinh là mùa tặng quà: "Đức Giêsu là quà tặng
quí giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người". Đến lượt mình, chúng ta
cũng hãy trao tặng cho anh em những gì họ cần thiết nhất, với tất cả lòng yêu
quí, trân trọng như chúng ta đang dâng tặng cho chính Hài nhi Giêsu. Những kẻ
nhỏ bé nhất, những người cô độc nhất, những kẻ chịu nhiều đau khổ nhất lại
chính là những con người cần được tặng quà nhất. Chúng ta cần chứng tỏ rằng họ
đáng kể đối với chúng ta, rằng tên họ chiếm một vị trí trong quả tim chúng ta.
Đó chính là quà tặng mà Hài nhi Giêsu đang mong đợi. Một cách nào đó, khi tặng
quà, chúng ta muốn trao ban vô vị lợi, trao ban không tính toán, trao ban trọn
vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta định nghĩa: "Kitô hữu là người trao ban chính bản
thân mình".
34. Món quà vô giá
Trong sinh hoạt của đời sống thường nhật, mối tương liên
giữa con người được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như lời
nói, thư từ, có khi là một cánh hoa hay là một tặng vật nào đó. Nhưng tất cả dù
thể hiện dưới bất cứ hình thức nào nó cũng đều có chung một mục đích là diễn tả
ý nghĩa của một sứ điệp mà người gởi muốn tỏ bày.
Sứ điệp đó có khi là ước muốn hoà bình của nhân loại trên
thế giới gói ghém trong một viên gạch được lấy từ bức tường ô nhục Bá linh mà
tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng Chủ tịch Gorbachov của Liên Xô trong cuộc
họp thượng đỉnh ngoài khơi đảo Malta vào dịp Giáng Sinh năm 1989.
Sứ điệp đó cũng có khi là một lời mời gọi, một xã hội sống
xa lìa Thiên Chúa hãy trở về với chính nguồn sự sống như quyển Tân Ước mà Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tặng nhà lãnh đạo Liên Xô, Chủ tịch Gorbachov,
cũng vào mùa Giáng Sinh năm 1989. Quyển Tân Ước có ghi hàng chữ: "Ta là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Đó là tất cả những gì mà Đức Thánh Cha
và toàn thể thế giới Công giáo gởi đến cho một xã hội đã từ lâu gạt bỏ Thiên
Chúa ra khỏi cuộc sống.
Trải qua hai ngàn năm, Thiên Chúa luôn tặng ban món quà vô
giá là Người Con rất yêu dấu của Ngài cho xã hội, gia đình và mỗi người chúng
ta.
Đối với xã hội:]
Tiên tri Isaia và Thánh sử Luca cho chúng ta thấy quang
cảnh: Một đoàn dân đang lầm bước trong lầm than, bao cái ác đè lên cổ dân, bao
cái gậy đập xuống vai họ, bao ngọn roi của bọn hà hiếp, Thiên Chúa đến để bẻ
gẫy trong ngày Con Ngài chào đời. Người Con đó đã bao phủ vinh quanh Thiên Chúa
trên các mục đồng đang vất vả thức thâu đêm canh giữ đoàn chiên và tất cả lớp dân
lao động sống trong bóng tối. Người là thủ lãnh của họ và Người sẽ kiến tạo một
xã hội an bình trên nền tảng chính trực, xã hội ấy sẽ tồn tại mãi mãi.
Đối với gia đình:]
Biết bao gia đình cô đơn, nghèo khó đang mang gánh nặng,
chẳng hạn như trường hợp của Đức Mẹ và Thánh cả Giuse, mặc dầu nghèo khó và Đức
Mẹ đã tới ngày "mãn nguyệt khai hoa", vẫn sẵng sàng lên đường về cố
hương để khai sổ kiểm tra dân số theo lệnh của nhà cầm quyền. Nô đơn đến nỗi cố
hương Belem không còn bà con thân thích nào đón nhận. Nghèo túng đến nỗi không
có tiền mướn được một chỗ trú đêm, đành sống thân phận của kẻ hành khất, ra
đồng tìm nương thân nơi hang xúc vật. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người
trong cái gia đình nghèo khó ấy, Ngài không nổi loạn chống đối, chỉ biết vui sống
trong hy sinh như Maria và Giuse, để chia sẻ thân phận nghèo hèn của họ, đưa
lại vinh quang Thiên Chúa và bình an cho họ.
Đối với cá nhân:]
Sống trong một thế giới đầy dẫy những bất công, chỉ lo tìm
hưởng thụ mà lãng quyên hoặc xa lìa Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Con Thiên Chúa
thật là một món quà tuyệt vời; Người là cố vấn kỳ diệu, dạy chúng ta từ bỏ lối
sống vô đạo và ham muốn trần tục, thoát khỏi mọi điều bất chính, thanh luyện
chúng ta tiết độ, công bình và nhân ái ở đời này, nhờ đó chúng ta là dân riêng
của Người. Người là Cha muôn thuở của chúng ta. Người đã tự hiến chịu chết để
cứu chuộc chúng ta, ban cho chúng ta niềm hoan hỷ. Chúng ta sẽ hân hoan trước
nhan Người, như thiên hạ hoan hỷ trong mùa gặt bội thu.
Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã tặng ban món quà vô giá
ấy cho xã hội, gia đình, và từng người chúng ta.
Phần chúng ta, là những người của ngàn năm thứ ba, chúng
ta có thái độ nào khi chiêm ngưỡng Hài Nhi Giêsu trong hang Belem? Chúng ta có
biết đón nhận tặng ân của Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ như các mục đồng năm
xưa, hay chúng ta lại trở thành khách bàng quang, thành những người tôi tớ mà
khi chủ đến thì chẳng thèm tiếp rước (Jn 11). Để rồi chỉ có đêm lạnh lùng băng
giá, chính đêm ấy đã đón tiếp Người đến giữa nhân loại.
Lạy Chúa, Chúa đã trao ban cho chúng con tất cả, nhưng
chúng con biết lấy gì dâng lại cho Chúa và anh em chị em chúng con? Chúng con
xin lấy chính Tình Yêu của Con Chúa mà chia sẻ những thống khổ anh chị em chung
quanh chúng con đang gặp phải. Xin cho chúng con biết lấy Lời Chúa làm quà tặng
cho những ai đang đói khát trong tăm tối tội lỗi, để ánh sáng huy hoàng Giáng
Sinh của Chúa làm cho con tim họ bừng cháy trong an bình và hạnh phúc. Ước chi
niềm vui Giáng Sinh ở cùng chúng con luôn mãi. Amen.
35. Giáng Sinh: Ánh sáng
Vào một đêm kia, nhà văn Anh John Ruskin nhìn thấy những
người thợ thắp đèn đường trong thành phố (lúc đó chưa có điện đường). Họ phải
cầm một ngọn đuốc sáng trong tay, chạy đi thắp từng chiếc đèn này qua chiếc đèn
khác dọc theo các con đường.
Trong đêm tối, Ruskin không thấy được người thắp đèn, ông
chỉ nhìn thấy bó đuốc của người ấy và một vệt dài ánh sáng người ấy để lại đằng
sau mình. Qua hình ảnh đó, cụ già Ruskin đưa ra một nhận định hết sưc thâm thúy
: "Đây là một minh họa tuyệt đẹp về người Kitô hữu. Có thể người ta chẳng
bao giờ nhận biết người ấy, cũng chẳng bao giờ gặp anh, nhưng họ đều biết anh
ta đã đi qua thế giới của họ nhờ vào chuỗi ánh sáng anh để lại phía sau
mình".
Giáng sinh là một biến cố vô cùng trọng đại, một trang sử
mới của nhân loại, đầy huyền nhiệm và linh thánh, nối kết giữa trời và đất,
giao hòa giữa Thiên Chúa và loài người. Vì Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng rạng
ngời, đã chiếu soi trần gian trong đêm u tối, nguồn ánh sáng của tình yêu, chân
lý, và sự sống. Thánh Gioan đã viết : "Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng
đến thế gian và chiếu soi mọi người".
Thiên Chúa là Đấng quyền năng vô hạn, con người là phận
hèn mọn. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muôn loài, con người là vật thụ tạo nhỏ
nhoi. Trớ trêu thay, loài hay chết lại liều mình xúc phạm đến Đấng cao cả. Phận
tôi đòi lại cả dám ngạo mạn Đấng chí tôn. Vậy mà, con người tội lỗi chưa kịp
lên tận trời cao để xin tạ tội, thì Đấng Thánh vô cùng đã vượt lằn ranh vô
biên, đích thân xuống với con người, để tha thứ, để cứu chuộc và yêu thương họ
hơn cả trước khi con người phạm tội. Đứng trước đại hồng ân cao cả ấy, trí khôn
con người chỉ còn biết bàng hoàng sửng sốt. Vâng, chính tình yêu đã làm nên
những điều kỳ diệu. Thánh Gioan viết : "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được
sống muôn đời". Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng tình yêu từ trời xuống, đã
thắp sáng màn đêm tăm tối của trần gian bằng tình yêu cứu thế. Đúng như lời
ngôn sứ Isaia : "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy
hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi".
Mang thân phận tội lỗi, con người chao đảo trong biển đời
u mê lầm lạc, không biết đâu là bến bờ, nói chi đến hiểu biết về Thiên Chúa cao
siêu thiện hảo. Chỉ có Hài Nhi Giêsu, ánh sáng rạng ngời chân lý, mới có thể
chiếu tỏa ánh sáng thần linh của Người vào tâm trí con người để họ nhận biết
Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Đó chính là mục đích hàng đầu của Đức Giêsu
khi xuống trần gian. Thánh Gioan quả quyết : "Không ai thấy Thiên Chúa bao
giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết".
Từ nguyên thủy, Ngôi Lời đã sống trong tương quan độc nhất
với con người. Thật vậy, Người không chỉ là nguồn gốc của muôn loài, mà sự hiện
diện của Người giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông trong sự sống thần
linh.
Anh sáng của Hài Nhi Giêsu khi đem xuống trần gian không
chỉ xóa tan bóng tối của trí khôn, mà còn chiếu tỏa vào linh hồn con người ánh
sáng trọn hảo nhất là chính Thiên Chúa. Người phán : "Tôi là ánh sáng thế
gian, ai theo Tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng
ban sự sống".
Mừng lễ Giáng sinh chính là cảm tạ Hài Nhi Giêsu đã đem
ánh sáng huy hoàng của Người đến trong trần gian, trong tâm hồn chúng ta, và
trong lòng mọi người.
Mừng lễ Giáng sinh chính là bắt chước Gioan, làm chứng cho
ánh sáng : là chiếc đèn soi đường cho thế gian, là ngọn đuốc chỉ lối cho mọi
người đến cùng Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng sinh chính là thực thi những điều thiện hảo,
vì "ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các
việc họ làm khỏi bị chê trách".
36. Bài giảng của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II
(Lc 2,1-14)
HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ
ÐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA
***
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Lời loan
báo Chúa Giáng Sinh vang lên đêm nay, lời loan báo xa xưa và luôn mới mẻ. Lời
loan báo vang lên cho những ai đang tỉnh thức, cho những mục đồng tại Bêlem
cách đây 2,000 năm, nó vang lên cho những ai đang sống theo đòi hỏi của Mùa
Vọng, và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng đón nhận sứ điệp vui mừng
được hát lên trong Thánh Lễ hôm nay: "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh
cho chúng ta".
Dân Kitô đang tỉnh thức, toàn thể thế giới đang tỉnh thức
trong đêm Giáng Sinh này. Trong những ngày này, dường như Giáo Hội không bao
giờ ngừng lặp lại rằng:"Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng Sinh cho chúng
ta". Lời rao giảng này có tích chứa sức mạnh không bao giờ cạn để canh
tân, nó vang dội trong Ðêm Thánh này một cách mạnh mẽ đặc biệt. Ðây là Giáng
Sinh của đại năm thánh, kỷ niệm sống động của hai ngàn năm của Chúa Kitô, kỷ
niệm cuộc sinh hạ kỳ diệu, một biến cố đã ghi dấu điểm khởi đầu mới của lịch
sử. "Ngày hôm nay Ngôi Lời đã làm người và sống giữa chúng ta".
Ngày hôm nay trong đêm cực thánh này, thời gian được mở ra
đến cõi đời đời, bởi vì Ngài, Lạy Chúa Kitô, Ngài đã từ trời cao mà sinh xuống
giữa chúng con. Ngài sinh xuống trần gian từ cung lòng của một người nữ đã được
chúc phúc hơn mọi người nữ. Ngài là con của Ðấng Tối Cao, sự thánh thiện của
Ngài đã thánh hóa thời gian của chúng con một lần vĩnh viễn luôn mãi, những
ngày tháng, những thế kỷ, những ngàn năm. Với sự Giáng Sinh của Ngài, Ngài đã
làm cho thời gian trở thành cái hôm nay của ơn cứu rỗi.
Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã Giáng Sinh cho chúng ta. Ðêm nay
chúng ta cử hành mầu nhiệm Bêlem, mầu nhiệm của một đêm đặc biệt cách nào đó
nằm trong thời gian vừa đồng thời vượt qua thời gian, trong cung lòng của Ðức
Nữ Ðồng Trinh một Con Trẻ đã sinh ra, một máng cỏ đã trở thành cái nôi cho Ðấng
là sự sống đời đời.
Lễ Giáng Sinh là lễ của sự sống, bởi vì Ngài, Lạy Chúa
Giêsu, khi đến trong thế gian như một người trong chúng con, Ngài đã chúc phúc
cho giờ Ngài đã sinh ra, một giờ nói lên cách tượng trưng cho mầu nhiệm của
cuộc sống con người, vừa liên kết những đau khổ của sự sinh hạ với niềm hy
vọng, liên kết đau khổ với niềm vui. Tất cả những điều này đã xảy ra tại Bêlem,
một người mẹ đã sinh con, một con người đã sinh ra trong trần gian, đó là con
người, đó là mầu nhiệm của Bêlem.
Với niềm cảm xúc trong tâm hồn, tôi nghĩ lại những ngày
hành hương năm Thánh của tôi bên Thánh Ðịa, tâm trí tôi trở lại với hang đá nơi
tôi được dịp dừng lại cầu nguyện. Tôi hôn kính trong tinh thần, hôn kính miền
đất được chúc phúc kia nơi phát sinh niềm vui không bao giờ tàn cho thế giới.
Tôi lo âu cho những nơi Thánh và đặc biệt là thành Bêlem nơi mà buồn thay vì
hoàn cảnh chính trị khó khăn không thể nào diễn ra Lễ Nghi Giáng Sinh với sự
long trọng như mọi khi. Tôi mong muốn sao cho trong đêm nay, những cộng đoàn
Kitô tại đó cảm thấy được tình liên đới tràn đầy của toàn thể Giáo Hội đối với
họ.
Thưa anh chị em rất thân mến tại Bêlem,
Chúng tôi gần gũi với anh chị em với lời cầu nguyện thật
sốt sắng. Cùng với anh chị em, chúng tôi rung động vì số phận của toàn vùng
Trung Ðông.
Nguyện xin Thiên Chúa lắng nghe lời chúng ta khẩn cầu. Ước
chi từ quảng trường này, trung tâm của thế giới Công Giáo được vang lên một lần
nữa với sức mạnh được canh tân, vang lên lời loan báo của các thiên thần, của các
mục đồng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao và hòa bình dưới thế cho mọi
người được Chúa yêu thương".
Niềm hy vọng của chúng ta không thể nào bị lung lay, cũng
như không thể nào thiếu đi sự khâm phục những gì chúng ta đang cử hành. Ngày
hôm nay, Ðấng ban hòa bình cho thế gian Giáng Sinh. Hôm nay Ðấng Cứu Thế Giáng
Sinh cho chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, Ngài được gọi là Giêsu,
nghĩa là Thiên Chúa Cứu Rỗi, bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi.
Không phải trong một lâu đài mà Ðấng Cứu Chuộc sinh ra,
Ðấng có sứ mạng thiết lập lại Vương Quốc đời đời và phổ quát. Ngài sinh ra
trong một chuồng loài vật và sống giữa chúng ta, Ngài thắp lên trong thế giới
ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa và ngọn lửa này sẽ không bao giờ tắt. Ước chi ngọn
lửa này cháy lên trong các tâm hồn như một ngọn lửa tình bác ái hữu hiệu, tình
bác ái trở thành sự tiếp đón, nâng đỡ cho biết bao anh chị em bị thử thách bởi
sự nghèo cùng và đau khổ.
Lạy Chúa Giêsu mà chúng con chiêm ngắm trong cảnh nghèo
hèn tại Bêlem, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu
Chúa, của tình yêu đã thôi thúc Ngài cởi bỏ vinh quang của Thiên Chúa để sinh
ra sống giữa con người và chịu chết vì chúng con, xin Ngài hãy đổ vào chúng con
Thánh Thần của Ngài, ngõ hầu ân sủng của mầu nhiệm Nhập Thể khơi dậy nơi mỗi
tín hữu sự dấn thân góp sức cách quảng đại hơn, phù hợp hơn với sự sống mới do
Bí Tích Rửa Tội trao ban. Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm hôm nay sáng hơn ban
ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên
con đường hòa bình.
Ðức Thánh Cha kết thúc bài giảng của Ngài với lời nguyện:
Lạy Chúa, Hoàng Tử của Hòa Bình, Ðấng Cứu Chuộc đã Giáng
Sinh vì chúng con, xin hãy đồng hành với Giáo Hội Chúa trên con đường đang mở
ra dẫn đưa Giáo Hội bước vào ngàn năm mới.
(Bài giảng Lễ Giáng Sinh của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô
II)
37. "Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng
Chúng Ta"
Lễ Noel là lễ của chia sẻ, lễ của bác ái. Chia sẻ không
chỉ cơm bánh, gạo tiền cho anh em nghèo khó mà còn chia sẻ tình người cho anh
em đang sống chung quanh chúng ta. Vì con người sống cần cơm bánh để lớn lên và
cũng rất cần tình thương để tồn tại. Chính vì lẽ đó, mà khi nhập thể làm người
Chúa Giêsu đã không chọn sinh ra trong cung điện nguy nga, trong hoàng thân
quốc thích. Ngài đã sinh ra trong cơ hàn, trong một gia đình lao động bình
thường giữa chúng sinh. Ngài còn đồng hoá mình với những con người nghèo đói cơ
hàn, những con người bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Chính Ngài đã từng nói rằng:
"Hỡi những kẻ được cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Nước Trời là gia nghiệp
đã dành sẵn cho các ngươi, vì khi ta đói, ta khát, ta trần truồng, bị bỏ rơi,
tù đầy, ngược đãi các ngươi đã cho ăn, cho uống và tiếp đón ân cần". Ngài
đã đồng hoá mình với những người khổ đau để con người biết vì Ngài mà biết thương
nhau, biết vì Ngài mà phục vụ lẫn nhau, biết vì Ngài mà hy sinh cho nhau, mà
đón nhận lẫn nhau trong yêu thương và tha thứ.
Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những con
người bị loại trừ, vẫn còn đó những ánh mắt thiếu cảm thông, những cái nhìn tẩy
chay của con người dành cho nhau. Xem ra Thiên Chúa vẫn bị khước từ. Ai cũng
biết rằng Thiên Chúa là Emanuel đang ở cùng chúng ta, nhưng chúng ta vẫn cố
tình loại trừ lẫn nhau, vẫn đang tìm cách xua đuổi anh em của mình một cách bất
khoan dung. Ai cũng biết rằng xúc phạm đến nhau là xúc phạm đến Chúa, thế
nhưng, có mấy ai đã vì Chúa mà nhịn nhục lẫn nhau, đã vì Chúa mà sống khoan
dung, tha thứ cho nhau. Ðôi khi, chính cách đối xử bất khoan dung đó đã khiến
anh em không có cơ hội để sửa đổi và làm lại cuộc đời.
Người ta kể rằng: Trong một xóm đạo nhỏ ở một miền quê hẻo
lánh, có một thanh niên nổi tiếng ăn chơi, trộm cắp được người đời đặt cho biệt
hiệu: "Hiền bụi đời". Với thành tích, trộm cắp và gây mất trật tự
thôn xóm, anh đã bị tập trung cải tạo. Thời gian anh cải tạo là thời gian xóm
làng bình an. Người ta cảm thấy hạnh phúc khi không có anh. Cho đến khi nghe
tin Hiền bụi đời sắp trở về xóm nhỏ này sau thời gian dài trong trại giam.
Người dân xem ra chẳng vui mừng mà còn lo sợ. Lâu lâu người ta lại nghe tiếng
búa, tiếng đục cửa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo để chống trộm. Hôm
ấy, hắn trở với khuân mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới để
cải tà quy chính, một cuộc sống lương thiện như bao người khác. Ðối với hắn,
dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm
hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi của những người dân trong xóm.
Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn
tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười ngượng gạo, cáo lui. Không lâu sau
đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: "Vì muốn
trả thù đời".
Vâng, Hiền bụi đời đã tiếp tục cuộc sống trộm cắp vì sự
loại trừ của đồng loại. Anh không được đón nhận trong cuộc đoàn. Anh bị khước
từ bởi lầm lỗi quá khứ. Chính thái độ bất khoan dung của thôn xóm đã tạo nên
một Hiền bụi đời để trả thù đời.
Hôm nay ngày lễ giáng sinh, là dịp để chúng ta nhắc lại
với nhau, Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Ngài đang cần chúng
ta yêu thương. Ngài đang cần chúng ta giúp đỡ. Ngài đang cần chúng ta đón nhân.
Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài cái nôi đón nhận trong sâu thẳm lòng mình.
Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài những cọng rơm hy sinh của nhịn nhục, của
bác ái vị tha làm ấm áp lòng Ngài. Ngài đang cần chúng ta dành cho Ngài hơi ấm
của tình thương chia sẻ với tấm lòng quảng đại, nhiệt thành như các mục đồng
năm xưa.
Nguyện xin Ðấng Emanuel chúc lành cho những nghĩa cử yêu
thương cùa chúng ta. Nguyện xin Ngài đón nhận những hy sinh nhịn nhục và bác ái
vị tha của chúng ta dành cho nhau như là dành cho chính Ngài. Và cầu chúc cho
mỗi người chúng ta biết đón nhận nhau như là đón nhận Ðấng Emmanuel ở cùng
chúng ta để nhờ đó mà chúng ta biết trao cho nhau những nghĩa cử ấm áp tình
người và chan hoà tình nhân ái bao dung. Amen.
38. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng
sinh
(Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Lễ Giáng sinh có thể nói được là lễ của âm nhạc. Thật thế,
chưa có một cuộc lễ nào trong lịch sử nhân loại đã là nguồn cảm hứng dồi dào
cho âm nhạc cho bằng lễ Giáng sinh, và mãi mãi sẽ còn những bài ca bất hủ về lễ
Giáng sinh. Kỳ thực, lễ Giáng sinh cũng chính là một bản nhạc bất hủ Thiên Chúa
dành cho con người. Nếu như âm nhạc là một sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và
sự thinh lặng, thì mầu nhiệm của Thiên Chúa làm người cũng chính là một thứ âm
nhạc.
Thánh Gioan tông đồ, người đã chiêm ngắm mầu nhiệm ấy,
người đã sống mầu nhiệm ấy, đã diễn tả bằng một câu nói ngắn gọn như sau:
"Và Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể". "Ngôi Lời đã hóa thành nhục
thể" nghĩa là đã hóa thành một người trong chúng ta. Ngài đã sống giữa
chúng ta. Ngài đã nói thứ ngôn ngữ vào thời đại của Ngài. Những lời của Ngài đã
được ghi chép lại và quảng bá khắp cùng thế giới từ 2,000 năm qua. Lời ấy đã
được dịch ra trên 5 ngàn thứ ngôn ngữ và thổ ngữ khác nhau trên khắp thế giới.
Và những lời ấy đã trở thành ánh sáng và lương thực cho tất cả nhân loại.
Thế nhưng trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, trước khi
mở miệng để lại cho chúng ta những lời vàng ngọc, thì Chúa Giêsu đã sống trong
thinh lặng. Thinh lặng của hang đá Bêlem và nhất là thinh lặng trong suốt ba
mươi năm tại Nagiarét. Là Lời hằng sống của Thiên Chúa, là Lời đã hóa thành
nhục thể, Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống bằng sự thinh lặng. Tại sao thế? Thưa,
bởi vì Ngài không những nói với chúng ta bằng lời nói, mà Ngài còn nói với
chúng ta bằng sự thinh lặng nữa. Ngài nói với chúng ta bằng tất cả cuộc sống
của Ngài. Qua sự thinh lặng của cuộc sống ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta
rằng Ngài trở thành một người trong nhân loại, Ngài trở thành thân thiết với
mọi người và mỗi một người sinh ra trong cõi đời này. Ngài muốn nói với chúng
ta rằng sự sống của con người là một giá trị thánh thiêng bất khả nhân nhượng,
bất khả xâm phạm. Ngài muốn nói với chúng ta rằng mỗi con người sinh ra trong
thế gian này dù xấu xa, thấp hèn, mạt rệp đến đâu cũng đều được đóng ấn tình
yêu của Thiên Chúa, cũng đều là hình ảnh của Thiên Chúa, cũng đều là con cái
của Thiên Chúa. Phẩm giá cao cả ấy, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta qua
cuộc sống thinh lặng, lam lũ, nghèo hèn của Ngài, cũng như qua những kết thân
của Ngài với những người bị xã hội đẩy ra bên lề.
Chúa Giêsu đã sinh ra cách đây hơn 2,000 năm. Sự hiện hữu
của Ngài là sự hiện hữu có giới hạn. Giới hạn trong một không gian, một thời
đại, giới hạn trong một cách sống. Chúa Giêsu đã không hề là một người chồng,
Chúa Giêsu không hề là một người cha trong gia đình. Chúa Giêsu cũng chưa từng
sống trong một xã hội thuộc xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, cuộc nhập thể làm người
của Ngài không hề chấm dứt với cái chết của Ngài. Như một bản nhạc bất hủ, mầu
nhiệm Ngôi Lời hóa thành nhục thể vẫn tiếp tục tái diễn trong lịch sử nhân
loại. Lễ Giáng sinh không chỉ đến mỗi năm một lần, nhưng tiếp tục được cử hành
trong từng giây phút của cuộc sống chúng ta.
Thật thế, có lễ Giáng sinh là khi chúng ta để cho Ngài
được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Có lễ Giáng sinh, là khi chúng
ta để cho Lời của Ngài thấm nhập vào cuộc sống của chúng ta và biến đổi chúng
ta. Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta tiếp nhận ra ý nghĩa cuộc đời này cho dẫu
chúng ta phải trãi qua biết bao nhiêu đắng cay, chua xót trong cuộc sống này.
Có lễ Giáng sinh, khi chúng ta nhận ra hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong
mỗi một người anh em của chúng ta. Và có lễ Giáng sinh, khi chúng ta làm một
nghĩa cử cho anh em của chúng ta. Bài thánh ca hát mừng Chúa Giáng sinh đó
không chỉ được cất hát lên mỗi năm một lần, mà phải là khúc hoan ca trong từng
phút giây cuộc sống chúng ta.
Nguyện xin Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể cũng
tiếp tục nhập thể trong từng tâm tư, suy nghĩ, hành động và cư xử của chúng ta
để mỗi người chúng ta bằng lời nói cũng như bằng chứng tá thinh lặng, chúng ta
trở thành lời cho mọi người, chúng ta trở thành âm nhạc cho mọi người.
CHÚ GIẢI
1. Chú giải của William Barclay
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (Lc 2, 1-7)
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ
nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm
nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra
dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm
tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực
hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai
Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông
tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy
chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai
Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân số như vậy cứ 14 năm diễn
ra một lần. Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270
SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở
đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra.
Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri
vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến
7TCN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà
phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình
để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập
như sau: "Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng
đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý
do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể
thi hành lệnh kiểm tra dân số theo quy định, và cũng để có thể chăm lo việc cày
cấy đất ruộng mình". Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là
trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải
về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự
chính xác của Tân Ước.
Con đường từ Nagiarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện
nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương đông thời bấy giờ giống như
từng dãy chuồng ngựa có cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu thức
ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu
nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai
của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã.
Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn băng dài chung
quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó
là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho
những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá.
Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm
được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc 2, 8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết bao lời
báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy
giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả
năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các
nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên,
vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã
đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ
là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên
không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn
và không tì vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên
của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin
là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ.
Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những
người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc
sĩ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu
đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện.
Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên trời thay thế các ca sĩ dưới đất và
các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ
trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến
vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ
rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay
một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triều thần lo
ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông
đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời "Trẫm không thể trị dân nếu
trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì
Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình
thường".
2. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN
CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy,
có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức
Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên
ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan.
Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc
tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa
Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu,
cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của
cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn
về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ
Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra
cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên
vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt,
và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc
7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều
Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm
khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế
giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên
Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các
luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma... nhất là điều
đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm
tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con
trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần
nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn
sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng
ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà
chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em
bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và
điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào
ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy
hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học:
"(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)", ông nói đến con
trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại
sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có
một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn
súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về
chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang
tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud
Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: "Những
mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được". Những người bị
khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói
đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ
mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). "Tác động hướng về máng cỏ
là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến
(B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn
uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở
những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các
vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel,
việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui
lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng
Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ.
Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước
hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi
đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của
Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục
tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin,
nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô
học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc
khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc
nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu
chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với
những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu
chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ
nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các
thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi
ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng,
qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp
và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề
thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ
giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng
từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân.
Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ
không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc.
15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và
cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên
thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân
chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa
Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về,
họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc.
13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó
dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là
Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục
tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng
một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất
cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương
2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con
của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt
bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là
đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải
như vậy.
3. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM
VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không
muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của
từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử
chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng
đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy
diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần.
Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời
Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số
Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể
là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật",
Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch
sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của
Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ".
Chính tại Bêlem " Maria vợ ông đang có thai" sẽ
hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi
về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ
mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong
máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm
bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập
thể": (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca,
đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh
ra đời, này đây "trong vùng lân cận", đêm tối rạng ngời và tiếng hát
vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau,
những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của
thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp
với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin,
chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất
lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân
mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh
chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên
được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ "
(Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó
(4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn
với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến
cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là
tin vui cho "Toàn dân". Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một
hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia
", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải
sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng
Mêsia" (Kitô), "Chúa", ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội
tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv
2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ
sơ sinh, "bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón
nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ
tới. R.Meynet dẫn giải: " Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi
là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ
Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ,
cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không
phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô
hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và
cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan:
phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn "đột nhiên" vang lên. Trên trời,
biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng
lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ
binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên
các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng
vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh
quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong
ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma"
Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài
có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê
Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và
Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những
gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca
sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Từ Bêlem đến Phục Sinh"
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số
10, tr. 6f' 67).
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại
Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo
Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất
định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý
trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của
ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục
sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông
không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài
vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ
đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả
những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến
chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông
tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết
cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên
câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu
nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp
cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức
Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến
chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một
chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta
phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì
Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá
của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những
ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ
rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang.
Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng
hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải
tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được
một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón...
bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang
Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa
nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện
Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để
dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm
Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và
thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà
thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa
nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng
ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội,
trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong
sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
2. "Đã 2000 năm"
(Mgr. F.Favreau trong "Mùa Vọng năm 2000",
Documents " épiscopat, số 14, tháng 10, 1 996).
(Tạm dịch)
Hai ngàn năm đã trôi qua,
Giêsu, Chúa đã sinh ra giữa đời.
Kỷ niệm bất diệt đầy vơi,
Mừng cùng Giáo Hôi khắp nơi, vũ hoàn.
Niềm vui cảm tạ tri ân,
Chúa đã thăm viếng cõi trần chúng con.
Lời xưa Chúa hứa vẫn còn:
Ở cùng nhân loại chúng con mỗi ngày.
Chúng con cảm nghiệm giờ đây,
Chúa đang hiện diện mọi ngày đời con
Ban ơn trông cậy trường tồn,
Một niềm phó thác, con luôn vững bền.
Trên vùng Đất Hứa nửa đêm,
Chúa đến mặc khải êm đềm tình Cha.
Chúa yêu ta, chết vì ta.
Chúa ơi! Xin dẫn con và anh em
Vào trong nguồn suối êm đềm
Của tình yêu Chúa ở trên cõi đời.
Tình Cha bí mật tuyệt vời
Chính là ơn gọi con nơi thế trần.
Tibêriat dừng chân,
Tám mối phúc, Chúa ân cần dạy con.
Biến con thành sử giả luôn
Loan truyền mối phúc cho muôn muôn người.
Thánh Thần xin gởi đầy vơi,
Trên Hội Thánh Chúa ở nơi thế trần:
Ngài ban sức mạnh hồng ân
Giúp con lướt thắng tinh thần cứng tin.
Dắt con vững bước đăng trình,
Anh em, đến với mối tình tri âm.
Biến con thành thợ Phúc Âm.
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM
VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA
(Ga 1,1-18)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng "Gia phả của Đức Giêsu
Kitô, Con vua Đavít, con Apraham". Luca thì bắt đầu "trình thuật về
những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta " (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn
một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới
thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II
Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: "Khởi đầu Tin
Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa".
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới
dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong
cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như
khúc mở đầu một bản hoà tấu - hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết
các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: "Để mở đầu cho Tin Mừng
của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản
nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng
như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi
Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân
thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò
của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự
Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu
việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân
Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô
hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với
Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi
nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, "Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng
Thiên Chúa", " ("L Evangile de Jean", Centurion 1 992,
trang 31).
2. Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên "Khởi đầu" liên kết việc Đức
Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức
Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu
"như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân
huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như
khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người" (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến "Ngôi Lời Thiên
Chúa" (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu,
tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính
của Người: "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên
Chúa".
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo
thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: "Nhờ người vạn vật được tạo
thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành". Đồng thời, Người
trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ
đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là "Sự
Sống" và "Ánh Sáng". Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh
vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông
với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ,
mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
- Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời
Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: "Có một Người..."
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là
Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai
đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô,
ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải
chiếm được tất cả địa vị: "ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để
làm chứng về ánh sáng".
- Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ
chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng,
thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người
mà có, nhưng lại không nhận biết Người".
Còn trớ trêu hơn nữa, là "gia nhân của Người",
dân của Lời hứa, dân của Giao ước, "đã không đón nhận Người".
+ "Còn những ai đón nhận Người - dù là dân Israel hay
dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết "người phàm", theo đúng chữ là
"trở nên xác thịt"; từ "xác thịt" ở đây không có nghĩa đối
nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư
nát.
+ "Người cư ngụ giữa chúng ta" ( theo đúng chữ:
Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền
nghĩ ngay đến "nơi ở" của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện
của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc,
thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi
Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: "Chúa nói về Đền thờ thân xác
Người").
+ "Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của
người" trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được
nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào
quang mạc khải Thiên Chúa.
- Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
"Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con
Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người
đã tỏ cho chúng ta biết".
Jean Perron nhận xét: "Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ
Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng "Con Một ở
nơi cung lòng Chúa Cha": đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu,
cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: "Người bởi Thiên
Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa" (Ga 13,3). Nhưng trong
"tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy
Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: "Để Thầy ở đâu,
anh em cũng ở đó" (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà
Người đã dẫn ta vào: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy"
(14,23)" ("Lire de Bible", số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Một câu không có "động từ " thì không có
nghĩa
("Bible du Dimanche" trang 51 1-512).
(Trong tiếng Pháp, "verbe" vừa nghĩa là động từ,
vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
"Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm". Một từ ngữ,
nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã
nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói
qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu
đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người
rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói
mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa
vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: "Không ai đã được
thấy Thiên Chúa'? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn
vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề
Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều
từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu
Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói "Lời cuối cùng" của Người.
Chỉ có Lời ("động từ") này mới làm cho câu có ý
nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người
không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi
sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có
chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi
khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ
nên hiển nhiên trước mắt chúng ta".
2. Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên
Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại.
(L. Sintas trong "Parole de diệu pour la méditation
ét l'homélte -Năm C", Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi
trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi
thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ
lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến
nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola
trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói
quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật
ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình
mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
- Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức
Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa
phán... và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người
thì chẳng có gì được tạo thành". Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù
bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy
và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa,
bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. "Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa
thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết
Người". Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo
thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên
thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể,
thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước
từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa,
chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không
đồng ý.
Con Thiên Chúa "đã đến nơi nhà Người và gia nhân
Người không đón nhận Người". Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân
loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người
từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố
cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy
bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi
tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý
Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể
gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng
không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. "Nhưng
những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền
trở nên Con Thiên Chúa".
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ
lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho
những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào
nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá
lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn
của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh
sáng sẽ phủ ngợp con người họ".
3. Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược
("Célébrer" số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời;
người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: "Người", "trong
Người", "nhờ người". Qua việc dùng các động từ khác nhau, người
ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người
trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến
trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn
đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về
đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc
tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự
Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên
Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày
kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế
hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa
do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và
giao tiếp với Thiên Chúa...
- Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong
một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng "chúng tôi" để chỉ
cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm
nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: "Điều vẫn có ngay
từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe...? Lần này không còn nói về điều ở
trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một
cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải,
chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự
sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản
được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn
gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược
nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất
vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa
cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự
kiện Nhập Thể - đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành
phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao
ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn
mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn
thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con".
4. Chú giải của Noel Quesson
Lc 2, 1-14
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian.
Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta.
Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một "chiêm niệm" nội tâm
hơn: Trình thuật của ông là một "nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng
của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm
tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm
30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị
viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là
"Sebastos", có nghĩa "xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng
tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn
minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ
sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông
Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống
trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc
kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai
trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân
chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng
trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế,
ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức
Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút
nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng
ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao
cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang
hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang
xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia
tộc của Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời
sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa" mà "một thiếu nữ
Sion phải hạ sinh", "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê",
giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong
"thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác
với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền
năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó,
yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến
Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp
pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà
hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta
không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm
thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu
thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi
mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy
thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy
đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria,
lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả
cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse
và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ" Vậy
mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức
của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ
có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng
sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh
khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê
đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện
khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn
với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ
như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn
đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo "hình
ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái
mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong
manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ
cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử
chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông
bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm
kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ
khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện
diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ
giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó,
Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta
đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta
được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên
Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò
lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng!
Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của
Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên
lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải
cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa.
Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu
trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài
trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên
nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế,
thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu
tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi
thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp". Người ta
coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được
quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt,
họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường
truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp
của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là
người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê
mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn
đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người
"nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một
trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của
Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ "huyền diệu" chỉ khởi sự từ đây trong trình
thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là
một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân
xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta
biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này,
trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh
quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn
nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy" (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật
là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em
đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho
toàn dân".
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng
nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. "Tiếng nói" của họ là
im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi
"Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây
còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ
quát" cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua
Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt"
của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố
"giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước
hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa?
Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong
Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý,
Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa
vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như
một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc.
Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một
sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này
chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp
thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu
độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy
đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn
nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của
"ăn"! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho
bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé
mọn" (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi
khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế
cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp
rước lá (Lc 19,38).
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét