Lời
Chúa: Dnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20
1.
Chúa Ba Ngôi.
Đoạn
Tin Mừng ngắn ngủi vừa nghe đã hé mở cho chúng ta thấy mối quan hệ cũng như vai
trò của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện tình thương
cứu độ đối với con người. Tình thương ấy xuất phát từ Chúa Cha là nguồn gốc và
là Đấng khởi xướng. Tình thương ấy được thực hiện cho con người qua Đức Kitô,
Con Thiên Chúa xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá. Tình thương ấy
được thấm nhập vào trong tâm hồn mỗi người chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Đức
Kitô đã trình bày và giới thiệu Chúa Thánh Thần như là Đấng sẽ tiếp nối sứ vụ của
Ngài bằng cách giúp cho các môn đệ đi sâu vào ý nghĩa của những lời Ngài đã nói
và những việc Ngài đã làm.
Thế
nhưng không phải chỉ có dân chúng mà ngay cả các môn đệ đã không hiểu nổi những
lời Ngài nói và những việc Ngài làm, bởi vì những lời nói và những việc làm ấy
không phải chỉ cao siêu uyên bác mà còn vì chúng diễn tả một trật tự khác với
trật tự các ông đang sống.
Hôm
ấy bên bờ giếng Gacob, sau khi Chúa Giêsu tiếp chuyện một người phụ nữ Samaria thì các môn đệ
mang thức ăn về và mời Ngài dùng. Nhưng Ngài đã bảo họ: Có thứ lương thực Ta phải
ăn mà các con không biết. Các môn đệ bèn nói với nhau: Phải chăng có ai đã đem
thức ăn lạ cho Ngài. Một lần kia, sau khi
nghe Chúa Giêsu giảng về bánh bởi trời, các môn đệ đã phản ứng: Lời chi
mà chướng tai thế. Ai nghe cho nổi. Hay trong bữa tiệc ly, Phêrô đã không hiểu
nổi cử chỉ Chúa Giêsu quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, nên đã ngăn cản Ngài:
Thầy mà lại rửa chân cho con ư? Và Chúa Giêsu đã đáp lại: Điều Ta làm nay con
không hiểu, nhưng sau này con sẽ hiểu.
Phúc
Âm còn ghi lại nhiều bằng chứng của sự không hiểu này. Chẳng hạn sau phép lạ
bánh hoá nhiều lần thứ nhất, thánhMarcô đã ghi nhận: Họ không hiểu gì và lòng họ
ra như chai đá. Còn lần thứ 2 thì chính Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách các
môn đệ: Tại sao các con lo ngại rằng không có bánh. Các con chưa hiểu được hay
sao? Cuối cùng một điều các môn đệ đã không hiểu nổi, đó là cuộc khổ nạn của
Ngài. Theo thánh Marcô thì Chúa Giêsu đã 3 lần thông báo và giải thích và cả ba
lần các ông đều tỏ ra không hiểu gì cả. Lần thứ nhất Phêrô đã lên tiếng can
ngăn và đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời. Còn hai lần kia các ông thinh lặng
nhưng thầm nghĩ rằng Thầy của mình sẽ lên ngôi trị vì và các ông ngấm ngầm
tranh nhau chỗ nhất.
Như
chúng ta đã thấy mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt
qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần
nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào
là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình
thương của Thiên Chúa. Đúng thế mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm
tình thương của Thiên Chúa. Được khởi xướng do Chúa Cha, được thực hiện do Chúa
Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình thương ấy ngày nay vẫn còn được
tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ
bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu
thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống
của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh
trung thực của Chúa Ba Ngôi.
2.
Chúa Ba Ngôi.
Mầu
nhiệm đức tin mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay, đó là chỉ có một Thiên Chúa
duy nhất, nhưng Ngài có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên
Chúa, Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa. Nhưng vì cùng chung một bản tính, nên
chỉ làm nên một Thiên Chúa. Không một trí khôn nào có thể hiểu thấu. Vì vậy
chúng ta hãy khiêm nhường mà thưa lên: Lạy Chúa, chúng con tin và xin giúp đỡ đức
tin nhỏ bé của chúng con.
Thế
nhưng, tại sao chúng ta lại mừng kính vào ngày Chúa nhật hôm nay. Ngày lễ này
chính là ngày lễ kết thúc cho những mầu nhiệm mà chúng ta đã mừng kính, từ đầu
niên lịch phụng vụ cho đến bây giờ. Ba Ngôi cộng tác với nhau trong công trình
cứu độ. Chúa Cha đã sai Con Một Ngài xuống thế như lời thánh Gioan đã viết:
Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nỗi đã trao ban chính Con Một của Ngài. Ngài
đã kêu mời chúng ta bước vào đời sống đức tin. Chúa Con, Đấng cứu độ đã làm người,
đã chịu chết vì chúng ta, để nhờ đó chúng ta được cứu chuộc và trở nên con cái
Thiên Chúa.
Còn
Chúa Thánh Thần, sau khi Chúa Giêsu về trời, Ngài chính là Đấng thủ lãnh, Đấng
hướng dẫn, Đấng an ủi của chúng ta. Vì những lợi ích cao cả ấy, chúng ta hãy cảm
tạ Thiên Chúa. Thực vậy, lễ Chúa Ba Ngôi phải là một lời kinh tạ ơn vang lên
trong Giáo Hội. Nó bao gồm biến cố Giáng Sinh, Hiển Linh, Phục Sinh, Lên Trời
và Hiện Xuống. Sở dĩ Giáo Hội đặt ngày lễ hôm nay vào Chúa nhật đầu tiên sau lễ
Hiện Xuống là vì Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ rằng mỗi ngày Chúa nhật phải
là một ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày thánh hiến
cho Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để chúng ta cảm
tạ Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha đã tạo dựng và kêu mời chúng ta. Chúa Con đã Phục
sinh và cứu chuộc chúng ta. Chúa Thánh Thần đã thánh hóa và biến chúng ta trở
nên đền thờ cho Ngài. Hơn nữa, chính Ngài hiện diện vào ngày thứ nhất mà khai
sinh ra Giáo Hội. Vì thế ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để tôn kính
Chúa Ba Ngôi.
Hơn
thế nữa, nếu chúng ta suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy cuộc đời của chúng ta đã thấm
nhuần biết bao ơn trọng đại của Chúa Ba Ngôi. Các bí tích mà chúng ta đã lãnh
nhận đều được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Với Bí tích Rửa Tội, chúng ta
nghe thấy lời đọc: Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Với Bí tích
Giải tội, chúng ta nghe thấy lời đọc: Vậy Cha tha tội cho con nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần.
Đời
sống người Kitô hữu được bắt đầu và hoàn tất trong Chúa Ba Ngôi. Mỗi khi khởi sự
hay kết thúc một công việc nào đó, chúng ta thường làm dấu và đọc: Nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần.
Phần
nhiều các kinh Giáo Hội đọc, đều được dâng lên cho Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn kinh
Sáng danh. Đây cũng là một lời kinh thường đọc Giáo Hội sử dụng nhiều hơn cả. Mỗi
một giờ kinh đều được bắt đầu bằng kinh Sáng danh, mỗi một thánh vịnh đều được
kết thúc bằng kinh Sáng Danh. Kinh Sáng Danh chính là tiếng chuông vang lên đều
đều nơi nhà Chúa.
Rồi
kinh: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, kinh Tạ ơn, đều là những lời kinh dâng tiến
Chúa Ba Ngôi. Và còn nhiều lời kinh khác nữa, chẳng hạn kinh Tin kính và những
lời đọc trong thánh lễ….
Xem
đó, chúng ta thấy từ sinh hoạt cá nhân đến sinh hoạt Giáo Hội, tất cả đều tuôn
chảy tới Chúa Ba ngôi, ước gì cuộc đời chúng ta cũng sẽ được diễn ra trong tình
thương yêu của Chúa Ba Ngôi, để tất cả chúng ta xứng đáng là con của Chúa Cha,
là em của Chúa Giêsu và là chiến sĩ của Chúa Thánh Thần.
3.
Mầu nhiệm tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu thương.
Từ
đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra
Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha.
Con là chính Cha, nên Đức Giêsu nói: “Ai
thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tất cả cho Con. Nên sau
này Đức Giêsu đã nói: “Tất cả những gì của
Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Tình Cha yêu Con thật lớn lao, kỳ diệu.
Tình Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Những gì Con nhận
được do tình yêu của Cha thì Con dâng lại cho Cha tất cả. Đức Giêsu vì yêu mến
Chúa Cha, nên đã vui lòng xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Trọn cuộc
đời, Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thi hành. Người luôn tâm niệm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai
Thầy” (Ga 4,34). Người từ bỏ hết ý riêng mình để chỉ làm theo ý Chúa Cha.
Người nên một với Đức Chúa Cha trong tâm tình, trong tư tưởng, trong hành động.
“Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”
(Ga 14,10). Trong giờ hấp hối, dù sợ hãi cái chết đến độ mồ hôi máu tuôn ra,
nhưng Đức Giêsu vẫn luôn vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén này. Xin đừng
theo ý Con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Thánh Phaolô đã tóm tắt về
cuộc đời Người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8). Tất cả thái độ
vâng phục nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Tình yêu nối kết Chúa Cha
và Chúa Con là Chúa Thánh Thần.
Ba
Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình
yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của
Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn
từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học
theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí
yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau
trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Hôm
nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức
Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới.
Người mong ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những gọc tối t8am chiến tranh,
chia rẽ. Người mong ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu
vắng tình thương tha thứ. Người muốn cho tình yêu lên ngôi ngự trị trong hết mọi
tâm hồn.
Phần
ta, những môn đệ của Chúa, mỗi khi ta làm dấu Thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi,
ta hãy xin Ba Ngôi Thiên Chúa in tình yêu thánh thiện của Người vào tâm hồn ta.
Xin cho ta được tham dự vào tình yêu vô cùng sung mãn của Người. Xin cho ta trở
nên một đốm lửa trong lò lửa yêu thương của Người. Được cháy trong lò lửa tình
yêu Chúa Ba Ngôi, ta sẽ trở nên giống như Người, luôn biết cho đi, luôn biết
dâng hiến, luôn mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-
Khi
cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa là người
Cha yêu thương và gần gũi không?
2-
Bạn
có mong muốn được tham dự vào luồng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không?
3-
Thiên
Chúa dựng nên bạn giống hình ảnh Người. Bạn đã thực sự là hình ảnh tình yêu
thương của Chúa đối với những người chung quanh chưa?
4. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
"Nếu
bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn
đi thẳng vào cung lòng bạn, bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa."
Nhiều
người đã gặp thấy Ngài nhờ chiêm niệm suy tư. Nhưng con người không thể biết hết
về Thiên Chúa, cũng không thể mô tả cho đủ về Ngài. Có những thiếu sót, vụng về
và đôi khi sai lạc.
Ai
có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường
để gặp gỡ Ngài? Phải là Đấng ở nơi cung lòng Thiên Chúa, Đấng ấy là Đức Giêsu,
Ngôi Lời nhập thể.
Nhờ
Đức Giêsu mà mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một
Thiên Chúa duy nhất trong ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần. Ba Ngôi khác
nhau nhưng là cùng một Thiên Chúa.
Thiên
Chúa là Tình Yêu, Ngài duy nhất nhưng không đơn độc.
"Ta và Cha là một" (Ga 14,10).
"Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta" (Ga 16,15).
Tình yêu khăng khít giữa Cha và Con là
Thánh Thần.Trong niềm hạnh phúc sung mãn, Ba Ngôi đã dựng nên con người giống
hình ảnh mình v à muốn đưa con người đi vào hiệp thông với Thiên Chúa.
"Đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con
và trong Chúa Thánh Thần": đó là hành trình thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của
Ba Ngôi ở trong ta. "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy" (Ga 14,23).
"Cha sẽ ban cho các anh một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các anh luôn
mãi" (Ga 14,16).
Chúng ta cần có tương quan riêng với từng
Ngôi!
· Chúa Cha, Đấng
hằng làm việc để duy trì vũ trụ, con người.
· Chúa Con, Đấng
cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh mạng sống.
· Chúa Thánh
Thần, Đấng thánh hoá và dẫn dắt Giáo Hội.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp
thông và chia sẻ, là ở lại trong Tình Yêu vì "ai ở trong Tình Yêu thì ở lại
trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1Ga 4,16).
Mỗi ngày chúng ta làm dấu nhiều lần
trên thân xác: "Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Ước
gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời ta, trên thế giới chúng
ta đang sống.
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa nhân
danh Chúa Ba Ngôi, nhưng làm Phép Rửa cho muôn dân vẫn còn là ước mơ Đức Giêsu
chờ ta thực hiện.
Gợi
Ý Chia Sẻ
-
Khi
cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Có khi nào trong đời, bạn
thấy Thiên Chúa thật là người Cha nhân từ không? Có khi nào bạn gặp khủng hoảng
đến nỗi mất niềm tin rằng Cha yêu mình không?
-
Một
thi sĩ Pháp - Jacques Prévert - đã viết hai câu thơ ngắn:
"Lạy Cha chúng con ở
trên trời,
xin Cha cứ ở yên trên ấy!"
Theo
bạn, Thiên Chúa có phải là kẻ làm phiền con người không?
Cầu
Nguyện
Giữa
một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa
một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa
một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa
một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy
Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu
chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng
con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho
đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm
lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.
5.
Một định mệnh làm choáng váng mặt mày.
(Trích trong ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Đức
Giêsu tự giới thiệu cho người ta như là Ngôi Con, trên Ngài Chúa Thánh Thần đậu
xuống. Với tư cách là Ngôi Con, Ngài không ngừng quy về Chúa Cha hành động của
Ngài. Ngài là Ngôi Con mạc khải Ngôi Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Tin
vào Đức Giêsu Kitô là dấn thân chấp nhận mầu nhiệm căn bản này. Không phải chỉ
là một sự chấp nhận về tinh thần thôi. Nhưng là một sự tự hiến toàn thể con người
ta vào trong hiệp thông sống động với Thiên Chúa hằng sống, Đấng, với tư cách
là Cha, sẽ làm cho ta trở nên con cái Người, với tư cách là Thánh Thần sẽ thông
báo cho ta sự sống Thiên Chúa.
Niềm
tin này sẽ được thành toàn nhờ phép Rửa tội. Chính phép Rửa tội làm cho con người
đạt tới tình trạng làm con Thiên Chúa –làm anh em với Đức Kitô, là Đền Thờ của
Chúa Thánh Thần. Nhờ niềm tin, con người đáp lại lời mời gọi của Chúa, lời mời
gọi này được truyền đạt nhờ lời rao giảng của Giáo Hội. Nhờ phép Rửa tội, Thiên
Chúa tiếp nhận bước tiến của con người và làm cho con người đi vào mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như
thế, có hai yếu tố chứa đựng trong Lời Đức Giêsu nói: “Hãy đi thâu nạp môn đệ
khắp muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ta có thể
hiểu chữ “môn đệ” bằng hai cách:
a.
việc
chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu, và
b.
việc
đi vào hiệp thông với Thiên Chúa nhờ bí tích Rửa tội.
Như
thế, xuyên qua lời rao giảng của Đức Giêsu và nhờ phép Rửa tội, rõ ràng là con
người tiến đến một định mệnh làm choáng váng mặt mày: con người được tham dự
vào chính đời sống của Thiên Chúa được mạc khải như là Cha, Con, Thánh Thần.
Đâu
là những hiệu quả thực tế của phép rửa chúng ta? Ở đây, chúng ta nêu lên 2 điểm:
1)
Hậu quả thứ nhất được chỉ rõ qua công thức: “Phép rửa nhân danh Đức Giêsu”. Thật vậy, nhiều đoạn Tân Ước nói về
phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Có gì khác với phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba
Ngôi không? Trong bài diễn từ thứ nhất, thánh Phêrô nói: “Mỗi người hãy chịu
phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha thứ tội lỗi, và các người sẽ
được lĩnh ơn Thánh Thần” (Tđcv 2,38). Không thấy nói đến một phép rửa được trao
ban mà không móc nối với Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Như thánh Phaolô thường dạy:
Phép rửa nhân danh Đức Giêsu chỉ rõ hậu quả này: kẻ chịu phép rửa thuộc về Đức
Kitô, được liên kết với Đức Kitô nhờ được tham dự cùng một đời sống và được
liên kết với các người chịu phép rửa khác nhờ được cùng liên kết với Đức Kitô.
Thánh Phaolô cũng nói: “Kẻ chịu Phép Rửa trở nên anh em với Đức Kitô” (Rm
8,29), “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19), “nghĩa tử của Chúa Cha” (Gal
4,6).
2)
Tiếp đến là nhờ Phép Rửa tội, người tín hữu đi vào trong một quá trình đồng hoá
với Đức Kitô. Đức
Giêsu đã chủ tâm muốn hoàn toàn trở nên Người Con ở giữa chúng ta. Ngài mời gọi
chúng ta chỉ mơ ước một điều duy nhất: đến lượt chúng ta cũng hãy cố gắng trở
nên con cái Thiên Chúa. “Được rửa tội trong Đức Kitô” (Gal 3,27). Đối với thánh
Phaolô, mặc lấy Đức Kitô là để cho mình biến hoá thành Đức Kitô. Và đó là công
việc của Chúa Thánh Thần. Có được thế mới là thành công trong vấn đề ơn kêu gọi
làm Con Thiên Chúa. Nhưng điều này không thể thực hiện được mà không có sự cộng
tác của chúng ta. Một cách đơn sơ. Vấn đề đối với chúng ta chẳng phải là: cố gắng
bước chân theo gót Đức Kitô sao?
6.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Noel Quesson.
Trên chuyến xe lửa Lyon-Paris, một thanh
niên sang trọng ngồi bên một ông già ăn mặc thô sơ, có vẻ quê mùa. Thấy cụ già
cầm xâu chuỗi, miệng lẩm bẩm đọc kinh, chàng thanh niên gợi chuyện:
-
Tôi thấy ông vẫn còn tin tưởng ở tập
quán thời trung cổ. Chắc ông cũng tin Đức Mẹ Đồng Trinh và những chuyện ghi
trong sách Thánh, được nhai đi nhai lại trong các nhà thờ chứ gì?
Ông già trả lời:
-
Đúng vậy đó cậu ạ. Còn cậu thì sao?
Chàng thanh niên cười rộ:
-
Tôi mà lại tin theo những chuyện vớ vẩn ấy
à? Tôi đã tìm được sự thật đầy đủ ơ trường Đại học. Ông cũng nên từ bỏ xâu chuỗi,
để có giờ mà đọc các sách khoa học tân tiến.
-
Tôi cũng muốn thế, nhưng sợ không hiểu nổi
khoa học.
-
Được rồi, tôi sẽ gửi biếu ông một số
sách. Ông có biết đọc không?
-
Cám ơn cậu, tôi có biết đọc.
-
Thế thì tốt rồi, nhưng xin ông cho địa
chỉ để tôi gửi sách.
Ông già rút trong túi ra một tấm danh
thiếp, và cậu thanh niên tròn đôi mắt đọc thấy trên đó ghi: Louis Pasteur –Viện
nghiên cứu khoa học–Paris. Đó là người đã viết nhiều sách khoa học mà người
thanh niên say mê nghiền gẫm.
Trong
đạo Công giáo có nhiều mầu nhiệm, cao sâu trên hết là mầu nhiệm Một Chúa Ba
Ngôi. Đã là mầu nhiệm thì trí khôn con người khó mà thấu hiểu được. Nhưng nếu
khiêm tốn cầu nguyện và tìm hiểu, ta vẫn có thể tiếp thu những mầu nhiệm đó mà
không thấy nghịch lý chút nào. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được chính Chúa Giêsu,
một trong Ba Ngôi diễn tả và dạy dỗ chúng ta bằng những lời lẽ minh bạch. Vì thế
mầu nhiệm này đã được mọi người, kể cả những nhà bác học, những người coi trong
lý trí phải suy nghĩ, và tin nhận.
Trong
lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội cho ta đọc lại năm câu cuối cùng của Tin Mừng
theo Thánh Matthêu, đây là những lời kết thúc và tóm gọn toàn bộ giáo lý của
Thánh Matthêu. Thấy Chúa tới, các môn đệ đã sụp lạy suy tôn Người. Đó là thái độ
trước nhan Thiên Chúa, thái độ của những người nhận ra Thiên tính của Đức Giêsu
(Mt 14,33; 2,11; 15,25). Tuy vậy vẫn có một số còn hoài nghi. Giáo Hội Chúa
luôn là tập đoàn tội nhân. Niềm tin các tông đồ cũng như niềm tin của mọi người
chúng ta luôn pha trộn nghi ngờ, hoang mang, một niềm tin trên đường đi tới.
Giáo Hội tiếp đón Chúa, luôn là Giáo Hội “những người chỉ mới có chút ít đức
tin” (Mt 14,31).
Tuy
nhiên Chúa Giêsu vẫn không ngần ngại tiến lại gần họ, như Chúa đã lại đến bên họ
sau cuộc biến hình trên núi (Mt 17,7). Cũng như Chúa vẫn tiến lại gần những người
chưa có thể hoặc chưa muốn tuyên xưng một đức tin toàn vẹn, rõ ràng.
Khi
đã lại gần bên ta, Chúa trao cho ta nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của Người. Nhiệm
vụ đó là biến đổi toàn nhân loại thành môn đệ Chúa để mọi người đều tuyên xưng
cùng một niềm tin. Tin vào Chúa là Cha vì đã tự bỏ mình và trao tặng tất cả cho
Chúa Con. Tin Chúa Con đã tự hủy bỏ và hiến dâng tất cả cho Chúa Cha; Tin Thánh
Thần là tình yêu chuyển thông giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Điều
Chúa muốn là “tập hợp mọi người trong một tình yêu”. Thiên Chúa là một cộng
đồng tình yêu hiệp nhất. Phải tìm bản tính của Giáo Hội nơi bản tính Thiên Chúa
Ba Ngôi.
Kính
lạy Chúa Ba Ngôi cực Thánh, xin kết hiệp chúng con trong tình yêu của Chúa để
chúng con lấy hành động đức tin và cuộc sống bác ái yêu thương, minh chứng mầu
nhiệm Tình Yêu hiệp nhất của Ngài.
7.
Vinh danh Ba Ngôi.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Biến
cố lớn đã được khơi động trong Giáo Hội là mừng năm sinh thứ 2000 của Chúa
Giêsu. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Tông Thư “Tiến đến
Thiên niên kỷ thứ ba”. Chủ đề học hỏi của ba năm chuẩn bị là mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi. Năm 1997 dành cho suy tư về Đức Kitô, Ngôi Lời của Chúa Cha, làm
người do hoạt động của Chúa Thánh Thần (số 40). Năm 1998 dành cho Chúa Thánh Thần…
Đấng đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con, trong mầu nhiệm tuyệt đối của
Thiên Chúa vừa là một vừa là ba, là Ngôi vị tình yêu, tặng phẩm vĩnh hằng, nguồn
mạch vĩnh cửu của mọi ân huệ Chúa ban… (số 44). Năm 1999, năm thứ ba và là năm
cuối cùng, hướng đến Cha trên trời, Đấng đã sai Đức Kitô và là Đấng mà Ngài đã
trở về (x. Ga 16,28. Số 49).
Trong
các Thánh Lễ Chúa Nhật, chúng ta đều tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa
duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Tôi tin kính một Chúa
duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sinh ra trước
muôn thuở muôn đời. Tôi tin kính Chúa Thánh Thần, Người là Chúa và là Đấng ban
sự sống, Người phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”. Đó là lời tuyên xưng đức tin
trong Kinh Tin Kính, một công thức thần học súc tích, mang nặng tính chất lý luận
dài dòng và khó hiểu.
Thế
nhưng, đây là một mầu nhiệm tuyệt đối nhất trong các mầu nhiệm: Mầu nhiệm hiệp thông sự sống và tình yêu.
Thiên
Chúa là tình yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài
đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng
Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương
nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha
hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự
sống này giữa Cha và Con là chính Chúa Thánh Thần.
Tình
yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả ra
ngoài trên khắp vũ trụ và đến nhân loại: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến
nỗi đã ban cho thế gian quà tặng quí giá nhất là Người Con chí ái của Ngài,
nghĩa là chính sự sống của Thiên Chúa”. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng lại trao
ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi người
Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà
chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người
được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không
biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8), còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh
em như Ngài đã yêu thương, “vì Thiên Chúa là Tình yêu”.
Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất. Ước vọng
hiệp nhất và nên một của những người yêu nhau sẽ được thực hiện nơi người con họ
cho nhau. Nó là của chàng và cũng là của nàng. Nó là chúng ta, là tình yêu
chung mà họ có thể thấy được. Tình yêu giữa hai người đã triển nở thành tình
yêu chung trong một ngôi vi thứ ba: Họ trở thành tình yêu chung trong môt ngôi
vị thứ ba: Họ trở thành một gia đình. Hình ảnh gia đình ấy có thể giúp chúng ta
tiếp cận phần nào với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi-gọi là phần nào, bởi vì mọi
hình ảnh đều bất toàn không thể diễn đạt tương xứng được sự khác biệt nhưng lại
duy nhất vô biên nơi Thiên Chúa. Có thể nói Thiên Chúa là một gia đình: Cha,
Con và Thánh Thần. Yêu thương chính là bản tính thần linh chung của Ba Ngôi, là
lời lý giải cho mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tuyên xưng.
Mầu
nhiệm đức tin không bao giờ là một trò chơi và thách đố trí tuệ, nhưng luôn hàm
chứa lời mời gọi sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi là một thực tại sống động trong đời
sống người kitô hữu. Thật vậy, đời sống kitô hữu được khai sinh nhờ bí tích
Thánh Tẩy “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lời cầu nguyện luôn luôn là lời
nguyện “với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Thánh Lễ, trọng
tâm của đời sống kitô hữu, cũng được khai mở và kết thúc trong Danh Chúa Ba
Ngôi. Ba Ngôi đang sống trong lòng mỗi người, đời sống Ba Ngôi đang diễn ra
trong mỗi tâm hồn. Từng giây từng phút, người Kitô hữu được liên kết chặt chẽ với
Chúa Con, đến độ khi được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, người kitô hữu trở
thành con của Cha trên trời. Vì vậy, phúc lành vĩ đại nhất cho kẻ tin là “được
tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp
thông của Chúa Thánh Thần” (1Cv 13,13). Do đó, sự nhận biết Thiên Chúa là tình
yêu và là tình yêu cứu độ phải là sức đẩy cho chúng ta yêu thương mọi người anh
em như Thiên Chúa yêu thương.
Như
nơi Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban, chia sẻ. Thái độ mở
ra, thông ban, chia sẻ nầy đòi hỏi phải ra khỏi bản thân và đi đến với người
khác. Thái độ nầy đòi hỏi rũ bỏ não trạng ích kỷ vốn tiềm tàng ngay trong suy
nghĩ, ước mơ, và tính toán để thực sự biết quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của
người khác, biết nhìn nhận người khác ngay trong cái khác biệt của họ.
Liệu
mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có là nền tảng cho sự hiệp thông trong cộng đoàn
chúng ta không? Mỗi người trong cộng đoàn- từ cộng đoàn họ đạo đến khu phố, gia
đình – có cảm thấy mình “yêu và được yêu” không? Có biết cho và nhận cách khiếm
tốn không? Dấu Thánh Giá được ghi trên người “nhân Danh Chúa Ba Ngôi” có tác động
gì trong đời sống chúng ta không? Có là tấm gương cho chúng ta soi bóng tình
yêu hiến dâng của mình trong quan hệ với tha nhân không?
Tuy
nhiên, không chỉ là tôi mở ra hướng về anh và anh hướng về tôi, để rồi lại tạo
nên một thứ “tôi và chúng ta” khép kín. Tinh thần bè phái và phe nhóm lại chẳng
có mặt trong cuộc sống của chúng ta đó sao? Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thì không
như thế. Tinh yêu đã chẳng tự khép kín trong gia đình Ba Ngôi, nhưng trào vọt
và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ trong lòng mọi người. Cũng vậy, niềm
tin thúc bách tình yêu đi tới, phá đổ mọi bức tường ngăn cản của màu da, chủng
tộc, tôn giáo, ý thức hệ, để tình yêu lan toả khắp nơi. Và tình yêu làm nên hơi
thở của sự sống. Cứu độ là ở đó. Nước Trời cũng là ở đó.
Chúng
ta hãy cầu xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho chúng ta từ bỏ thái độ cô độc
khép kín, cùng nhau xây dựng một thế giới anh em bốn bể một nhà, cho nhân loại
nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa chúng ta như Ngài đã tỏ hiện cho chúng ta
trong Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần muôn đời.
8.
Ba Ngôi cực thánh - Arthur Tone.
Hơn năm mươi năm trước đây, ở Chicago, một
phụ nữ Tin Lành da đen tên là Maria Weaver. Chị là một tín đồ Baptist,
Methodist – Kitô hữu khoa học và Holly Roller. Chị chỉ tin: “Duy nhất một Đức
Kitô”. Một ngày nọ, chị nghe lén bài giáo lý Công giáo ở nhà một người bạn. Đây
là dịp để chị biết người Công giáo tin điều chi, làm điều gì. Rồi chị thấy tức
cười. Chị bắt đầu đọc, đọc lần lần từ ghét đến tò mò, đến ngỡ ngàng, rồi đến ước
muốn học hỏi. Chị thổ lộ: “Nếu đây là những điều Giáo Hội Công giáo dạy thì tôi
muốn làm một người Công giáo”. Maria Weaver đã được rửa tội tại nhà thờ thánh
Elisabeth ngày 11 tháng 12 năm 1938.
Bây giờ, chị hoạt động mạnh mẽ giúp Giáo
Hội Công giáo như trước kia chị đã hoạt động để chống lại.
Một người bạn của chị thuộc phái Holly
Roller đã bày tỏ xúc động trước sự trở lại của chị như sau: “Ôi, Maria chị làm
gì với: Duy một mình Đức Kitô?”. Maria Weaver trả lời: “Tôi vẫn còn Ngài. Bây
giờ tôi tin nhận Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa”.
Khi
Maria Weaver tin nhận Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, có nghĩa là chị đã
tin Chúa Ba Ngôi. Cũng thế, bạn và tôi trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi: Tin nhận Ba
Ngôi bằng việc tin, ca tụng, cảm tạ và yêu mến Thiên Chúa.
Chúng
ta, những người trong Giáo Hội Đức Kitô sáng lập, được gia nhập Giáo Hội bằng
nghi lễ gọi là Bí tích Rửa tội, trong đó sử dụng những lời Chúa Giêsu nói trong
bài Tin Mừng hôm nay: “Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúng
ta biết Chúa Ba Ngôi, vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta nhiều lần. Làm sao lại
có thể Ba Ngôi trong một Chúa? Chúng ta không hiểu. Đây là một mầu nhiệm thâm
sâu nhất trong đạo chúng ta. Chúng ta hy vọng một ngày kia chúng ta sẽ hiểu rõ
hơn chân lý sâu thẳm này.
Hôm
nay, chúng ta tập trung vào lời cảm tạ Chúa Ba Ngôi, vì những gì Chúa Ba Ngôi
đã làm cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa Cha vì yêu thương, đã tạo dựng nên
chúng ta một con người có lý trí và làm cho chúng ta trở nên con cái của Người.
Chúng ta cảm tạ Chúa Con, Đấng đã làm người, sống, lao động, dạy dỗ, chết và sống
lại để chúng ta được phục hồi trong tình thân mật với Chúa Cha. Đấng đã thành lập
Giáo Hội để đem phúc lành thời đại của Người đến với thời đại chúng ta.
Chúng
ta cảm ơn Chúa Thánh Thần; Đấng hằng hiện diện trong Giáo Hội và trong tâm hồn
mỗi người chúng ta để giúp chúng ta yêu mến Chúa Ba Ngôi, dẫn chúng ta đến hạnh
phúc bất diệt.
Chúng
ta tôn kính Ba Ngôi Thiên Chúa trong mỗi Thánh Lễ bằng khởi đầu và kết thúc với
dấu thánh giá. Chúng ta dâng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong, với và qua Chúa
Ba Ngôi. Chúng ta cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi luôn mãi. Lát nữa đây chúng ta sẽ
tuyên xưng đức tin – cùng với nhau, lớn tiếng và mạnh mẽ – trong tất cả Ba
Ngôi.
Vâng,
Thiên Chúa Ba Ngôi đã tiếp nhận chúng ta, đã làm cho chúng ta nên một trong Người.
Cũng như Maria Weaver, tới lượt chúng ta, chúng ta tin nhận Chúa Ba Ngôi trong
Đức tin, trong đời sống.
Xin
Chúa chúc lành cho bạn.
9.
Một Thiên Chúa – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Mừng
trọng thể Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta tôn thờ Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba
Ngôi Vị: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa.
Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người nhận biết về sự
sáng tạo vũ trụ và muôn loài. Con người là loài cao quí nhất được chính Con Một
Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy và cứu độ. Trước khi rời khỏi các tông đồ, Chúa
Giêsu đã trao quyền tái tạo con người qua Bí Tích Rửa Tội. Chúa Giêsu phán: Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (Mt. 28, 19). Chúng ta được lãnh nhận
Bí Tích Thanh Tẩy, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi khi làm
dấu thánh giá, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Thiên
Chúa an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên. Tất cả mọi loài được
Thiên Chúa quan phòng tạo dựng để tiếp nối sự hiện hữu qua việc truyền sinh các
giống nòi. Tác giả sách Đệ Nhị Luật đã viết: Anh em cứ hỏi những thời xa xưa,
thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi
từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế,
hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? (Đnl 4,32). Từ những loài thực vật,
động vật đến loài người đều được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên
Chúa. Một sự di chuyển sống động không ngừng trong vũ trụ giúp chúng ta nhân biết
một quyền năng phi thường.
Từ
xa xưa, khát vọng tâm tư của loài người đã kiếm tìm nguồn cội có uy quyền. Sống
giữa vũ trụ bao la, cha ông tổ tiên đã nhiều lần tìm dựa dẫm và nương nhờ chở
che vào những đối tượng giả. Họ đã tôn thờ mọi thứ thần lạ do trí tưởng tượng của
con người tạo nên. Họ đã phong thần cho tất cả các nguồn sức mạnh tự nhiên như:
Thần sông, thần núi, thần sấm sét, thần mưa, thần gió, thần mặt trời, mặt
trăng, các con vật và con người cũng được phong thần và đi đến thờ đa thần. Con
người tôn thờ những Thần mà họ không hề biết, người Do-thái cũng bị ảnh hưởng bởi
các thần dân ngoại, đã có thời họ đúc bò vàng để thờ lạy. Thiên Chúa đã chọn
riêng dân Do-thái để mạc khải về Thiên Chúa độc thần và chương trình cứu độ.
Từng
bước Thiên Chúa đã mạc khải cho Dân mà Chúa đã chọn tìm về nguồn chính thật để
tôn thờ Một Thiên Chúa. Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều
này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không
có thần nào khác nữa (Đnl 4, 39). Trải qua biết bao thăng trầm và thanh luyện,
lòng người không dễ buông bỏ những sự thờ phượng bụt thần bằng gỗ đá vô hồn.
Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để nhắc nhở, dạy dỗ và hướng dẫn dân quay trở về
với một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.
Mầu
nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm quan trọng trong đạo. Mầu nhiệm cao trọng
nhất nhưng cũng gần gũi với đời sống của các tín hữu. Chúng ta có thể tuyên
xưng mầu nhiệm qua việc làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày. Đã có rất nhiều
suy tư thần học về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng con người vẫn đắm chìm
trong thao thức. Có rất nhiều nhà thần học đã dùng những hình ảnh, tỉ dụ và ẩn
dụ để giải thích một chút về Chúa Ba Ngôi. Giúp chúng ta dễ hiểu qua các biểu
tượng như hình tam giác ba cạnh, ngọn lửa và tia nắng, lá Shamrock, ba thể khí,
lỏng và đặc và nhìn xem cây, cành và lá liên kết…Tất cả những giải thích cũng
chỉ như giọt nước trong đại dương bao la. Trí khôn con người chỉ còn biết chìm
đắm trong nhiệm mầu và qui phục bái lậy tôn thờ.
Khi
chúng ta mở mắt chào đời thì mọi sự đã hiện hữu trong vũ trụ. Chúng ta được hít
thở bầu khí quyển, được nuôi sống bằng của ăn thức uống và được ngắm nhìn vũ trụ
vạn vần đổi thay. Đại đa số con người được sinh ra có đầy đủ giác quan để chiêm
ngắm và thưởng thức tất cả những vẻ tươi đẹp của cuộc đời. Khi chúng ta càng ý
thức và suy tư sâu thẳm, chúng ta sẽ nhận diện có một sự trật tự lạ lùng trong
vũ trụ muôn loài. Từ sự di chuyển của đại vũ trụ tới những chuyển động của tiểu
vũ trụ trong từng tế bào li ti, chúng ta nhận ra có một nguyên nhân đệ nhất.
Có
rất nhiều vấn đề xảy ra trước mắt trong cuộc sống hằng ngày, thế mà các nhà
chuyên môn cũng chưa thể giải đáp thích đáng mọi sự. Đôi khi có người dùng những
sự suy luận hiểu biết thiển cận và mơ hồ để đưa ra những giả thuyết nhằm thách
thức não trạng con người. Bởi thế, những điều gì chưa biết, chưa học và chưa hiểu,
chúng ta không nên chối bỏ, phủ nhận và loại trừ. Chúng ta gắng công suy tư và
học hỏi tìm tòi những bài học hữu dụng trong thiên nhiên. Các môn khoa học mới
chỉ đi những bước đầu khám phá, tìm ra một số những nguyên lý và định luật
chung về sự kết cấu của vũ trụ vật chất bao la. Mầu nhiệm sự sống vẫn còn nhiều
vấn đề sâu thẳm, con người từng bước phát hiện những cái mới và cộng tác vào
công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Dựa
vào nguyên lý nhân qủa, trông qủa thì biết cây. Chúng ta có thể quan sát và
dùng lý trí để tìm ngược về dấu vết của các loài thụ tạo. Chúng ta không thể đi
ngược tới vô tận, phải có một nguyên nhân đệ nhất. Chúng ta có thể gọi nguyên
nhân đó là Thiên, Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Thành, Chủ Tể Vạn Vật, Chúa Trời và
Thiên Chúa. Niềm tin của người tín hữu, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, thiêng
liêng, hằng có đời đời, quyền phép, thánh thiện, tốt lành, nhân từ, công bằng
và chân thật vô cùng. Trong sách Giáo Lý Công Giáo cũ có câu hỏi: Ta làm thế
nào mà biết có Đức Chúa Trời? Thưa: Ta nhìm xem trời đất muôn vật và trật tự lạ
lùng trong vũ trụ, liền biết có Đức Chúa Trời là Đấng tạo thành và an bài mọi sự.
Có
rất nhiều người chưa tìm hiểu vấn đề, đã vội chối từ và phủ nhận nguyên cội. Họ
giống như những chiếc bình gốm tuyệt đẹp nói với chủ nhân rằng tôi không biết
ông là ai. Với một trí khôn hạn hẹp, nông cạn và vô thường, nhiều người tưởng rằng
họ đã nắm bắt được chân lý. Đã có biết bao nhiêu các nhà triết học, thần học,
thần bí và các nhà khoa học đã đang gắng công tìm về nguồn vũ trụ. Trong đó có
những Đạo giáo chỉ tập trung vào đời sống con người mà quên đi nguyên lý của vũ
trụ bao la hiện hữu. Một số người cố gắng chọn con đường tịnh tâm, tu tâm và
luyện tâm để tinh tấn giác ngộ. Những vị này giác ngộ tâm trí nhưng còn rất nhiều
thiếu xót trong chức vị và ơn gọi làm người. Họ đã đặt mình là trung tâm của vũ
trụ và phủ nhận quyền lực sáng tạo.
Qua
quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử. Chúng
ta không còn tinh thần nô lệ sợ hãi mà là con cái: Vì chính Thánh Thần đã làm
chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 16). Ba
Ngôi Thiên Chúa liên kết trong tình yêu. Mỗi khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá
trên mình, là chúng ta đang được kết hợp mật thiết với tình yêu Chúa Ba Ngôi.
Tình yêu hiến thân hy sinh. Tình yêu của sự tha thứ bao dung.
Chúng
ta cùng nguyện rằng: Sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sáng danh
Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Amen.
10. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Christophoro Columbo, người đã khám phá
ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa
Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng
như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba
Ngôi cực thánh".
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết
"Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Đồng
Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời
bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt
các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ
trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần
Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi
hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào
ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc
hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là
"Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong
suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi
Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh
Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình
với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta
dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng
vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm
trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân
danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được
nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi
cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi
nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời
sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt
khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin
kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng
câu: "Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần".
11.
Chúa Ba Ngôi.
Khi
dựng nên Adong, Thiên Chúa đã phán: Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh
chúng ta. Tại sao Thiên Chúa lại bảo: Chúng ta hãy dựng nên. Sở dĩ như vậy là
vì Thiên Chúa có Ba Ngôi cùng nói và làm. Qua đó Ngài đã trao phó cho con người
một công việc cao trọng, đó là chúc tụng Ba Ngôi trong cuộc sống của mình.
Nhưng
con người đã chống lại ý định muôn thuở của Thiên Chúa. Vì sự bất tuân lệnh
truyền mà con người đã phá hủy mất cái hình ảnh Thiên Chúa trong tâm hồn mình.
Nhưng
may thay, Chúa Giêsu đã đến, nhờ việc nhập thể, Ngài đã sửa lại điều sai lỗi của
ông bà nguyên tổ, Vì thế, trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang
ngoài đồng vắng Bêlem: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình dan dưới thế cho
người thiện tâm.
Hơn
thế nữa, Chúa Giêsu còn tô lại hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta
và giúp chúng ta dâng lên Chúa Ba Ngôi lời chúc tụng tôn vinh. Cuộc canh tân nội
tâm, cuộc đổi mới tự bên trong này được thực hiện cho chúng ta, nhờ công nghiệp
Chúa Giêsu, vào lúc chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, dưới tác động của Chúa
Thánh Thần.
Chính
vì thế, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ nói, không phải chỉ ở
trên môi miệng mà còn ở thẳm sâu cõi lòng: Sáng danh Đức Chúa Cha Đức Chúa Con
và Đức Chúa Thánh Thần.
Bởi
đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí
tích Rửa tội, vì nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của
Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hơn
nữa, Bí tích Rửa tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi.
Đây cũng là điều mà dấu thánh giá nhắc nhở cho chúng ta.
Thực
vậy, khi làm dấu thánh giá, chúng ta hãy nhủ thầm: Tôi đã được rửa tội nhân
danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý
Chúa Cha, thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với
sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng
thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi ngày hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và
khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa
Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những
hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành tránh dữ,
trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh.
Tại
sao trong ngày hôm nay chúng ta không cầu xin cho được trung thành với những lời
chúng ta đã đoan hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Nếu chúng ta đã tuân giữ,
thì thật là may mắn vì hạnh phúc nước trời đang chờ đón chúng ta, bằng không,
thì thật là bất hạnh vì án phạt đời đời sẽ đè nặng trên chúng ta. Hãy nhớ lại lời
đoan hứa mà cha mẹ đỡ đầu, thay mặt cho chúng ta đã nói lên trong ngày chúng ta
chịu phép rửa tội. Tôi muốn là người con ngoan của Chúa Cha, người môn đệ trung
thành của Chúa Giêsu, và người học trò nhỏ của Chúa Thánh Thần.
Ngày
hôm nay, chúng ta không có cơ hội lấy máu đào, lấy mạng sống để làm chứng cho
tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Nhưng trong cuộc sống, chúng ta có quá nhiều vấn
vương, qúa nhiều níu kéo, quá nhiều cám dỗ, đòi buộc chúng ta phải thắng vượt,
nếu chúng ta muốn trung thành với Chúa.
Chúng
ta hãy tập cho mình có thói quen làm dấu thánh giá một cách trang nghiêm và sốt
sắng, để tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như mầu nhiệm Ngôi Hai xuống
thế và cứu độ chúng ta. Đồng thời hãy nhớ lại và tuân giữ nghiêm chỉnh những gì
chúng ta đã đoan hứa trong ngày chúng ta chịu phép rửa tội.
Xin
Chúa Cha toàn năng gìn giữ chúng ta. Xin Chúa Con đổ đầy tình yêu của Ngài
trong lòng chúng ta và xin Chúa Thánh Thần luôn luôn soi sáng và hướng dẫn
chúng ta trên đường nẻo dẫn tới quê trời.
12.
Tình yêu.
Giáo
lý về Chúa Ba Ngôi là một phần giáo lý rất cao siêu. Nhưng Kinh Thánh không dạy
một giáo thuyết khi nói về Thiên Chúa. Qua các câu chuyện Kinh Thánh nói cho
chúng ta biết về một Thiên Chúa là Cha nhân từ, nhưng cũng là một Đấng Tạo Hóa
Toàn Năng đã dựng nên trời đất muôn vật. Một vài đoạn Kinh Thánh khác cũng cho
thấy Thiên Chúa như một người mẹ hiền. Thiên Chúa đã trở nên một con người
trong Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, và Ngài cũng là Thiên Chúa như
Chúa Cha. “Người Con” này nói cho chúng ta biết về Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được
Chúa Cha và Chúa Con cử đến.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy công thức mà chúng ta vẫn sử dụng hàng
ngày để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa như một cộng đồng của tình yêu.
Vì
Thiên Chúa là tình yêu nên Thiên Chúa không hiện hữu trong sự cô độc. Chúa Cha
trao ban tất cả cho Chúa Con và Chúa Con Dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Chúa
Thánh Thần là tình yêu nối kết giữa Cha và Con để hình thành một cộng đồng Ba
Ngôi. Trong cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Cha được Chúa
Con đón nhận và dâng hiến trở lại. Tình yêu hỗ tương giữa Cha và Con được trải
rộng nhờ Chúa Thánh Thần để tạo nên một cộng đồng của tình yêu.
Bản
chất của tình yêu là lan tràn. Vì thế, việc tạo dựng vũ trụ được xem như kết quả
của tình yêu tràn trề của Thiên Chúa. Tất cả mọi thụ tạo và đặc biệt là con người
được coi như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Trong tất cả mọi loài thụ tạo,
con người gần gũi với Thiên Chúa hơn cả trong cách sống và tình yêu.
Nhưng
con người vì một phần được tạo nên bởi vật chất, nên không có khả năng mở ra trọn
vẹn cho người khác trong một tình yêu vị tha hoàn hảo được. Vì thế, Thiên Chúa
đã trở nên con người trong Đức Giêsu Kitô để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần
mà cho con người vượt lên, đi vào một tương quan tình yêu tự do và vị tha với
Thiên Chúa và với người khác. Được tái sinh trong phép rửa nhân danh Chúa Cha
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta được trao phó nhiệm vụ là trở nên tấm
gương phản chiếu cộng đồng tình yêu của Chúa Ba Ngôi trong đời sống cá nhân
cũng như cộng đoàn của chúng ta, một trách nhiệm lớn lao.
Lạy
Chúa Ba Ngôi, con cảm tạ Chúa đã lôi kéo con vào trong tình yêu của Chúa. Xin
cho con cũng biết yêu thương như Chúa đã yêu thương.
13.
Hiệp thông.
Sau
khi mùa Phục Sinh chấm dứt với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo hội nhìn
lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận
ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh thần.
Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ
Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội dành riêng để mời gọi người Kitô hữu suy niệm
về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước
hết, chúng ta có thể quả quyết: Chúng ta không thể biết gì về Chúa Ba Ngôi nếu
chính Chúa Giêsu không dạy bảo cho chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không giảng
bài nào, cũng không dùng hình ảnh nào để giải nghĩa cho chúng ta về đời sống hiệp
thông giữa Ba Ngôi, nhưng có những sự việc và hoạt động cụ thể bày tỏ cho chúng
ta biết có ba ngôi, hoạt động của từng ngôi và đời sống hiệp thông giữa ba
ngôi, dựa theo diễn tiến cuộc đời Chúa Giêsu.
Công
việc đầu tiên trong Tin Mừng cho biết về Chúa Ba Ngôi là khi sứ thần Gabriel đến
báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối
Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên
Chúa”. Những lời đó cho chúng ta biết: Đấng tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa
Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Sau
khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giocđan thì trời mở ra, Thánh Thần như chim
bồ câu đậu xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của
Ta”. Chim bồ câu chính Kinh Thánh đã cho biết là Chúa Thánh Thần, còn tiếng từ
trời cao là tiếng Chúa Cha xác nhận và giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Trong
hội đường ở Nagiarét, Chúa Giêsu đọc Kinh Thánh: “Thần Khí của Chúa ngự trên
tôi, sai tôi đi…” Thần Khí là Chúa Thánh Thần, còn tiếng “của Chúa” là Chúa
Cha, cả hai sai Đức Giêsu đi loan báo Tin Mừng.
Khi
72 môn đệ đi truyền giáo về vui mừng báo cáo kết quả, thì Chúa Giêsu được Thánh
Thần tác động, nên phấn khởi thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, là Chúa tể trời đất…”
có đầy đủ ba ngôi.
Trong
bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ
ban cho anh em một Đấng Bào Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin
Chúa Cha ban Đấng Bào Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho
các môn đệ.
Trước
khi về trời, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Rửa tội cho muôn dân nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần”, nghĩa là làm phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, để được
hiệp thông với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngoài
ra, sách Tin Mừng còn nói đến sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha trong
việc cầu nguyện và thi hành ý Chúa Cha, và sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với
Chúa Thánh Thần như: “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần… và Thánh Thần dẫn vào
hoang địa, hoặc Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy
Thánh Thần”.
Qua
những sự việc và hoạt động diễn tả mối hiệp thông giữa ba ngôi như trưng dẫn
trên, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: có ba ngôi, ba ngôi cùng một bản tính, mỗi
ngôi có tương giao khác nhau với hai ngôi kia và có sứ mệnh riêng biệt, nhưng
ba ngôi không tách rời nhau trong bản tính cũng như trong hoạt động, nên ba ngôi
chỉ là một Thiên Chúa duy nhất chứ không phải là ba Chúa. Như vậy, chúng ta tin
chỉ có một Thiên Chúa trong ba ngôi, và ba ngôi chỉ là một Thiên Chúa, và có
cùng một bản tính, nhưng ba ngôi khác biệt nhau thực sự chứ không phải chỉ là
ba danh hiệu. Mỗi ngôi có tương giao với hai ngôi kia cùng thực hiện những công
trình sáng tạo và cứu độ, nhưng Ngôi Con là Đức Giêsu thì nhập thể cứu chuộc,
và ngôi Thánh Thần thì nối tiếp công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, để đem mọi
người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những
điều trên đây là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm về bản tính của Thiên
Chúa và cũng là tâm điểm của đức tin và đời sống người Kitô hữu. Quả thực,
chúng ta đã được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi; tội lỗi chúng ta được tha thứ
nhân danh Chúa Ba Ngôi; vợ chồng kết hôn do sự chúc phúc của Chúa Ba Ngôi; Chúa
Ba Ngôi hiện diện trong hình bánh khi chúng ta rước lễ, vì ở đâu có Chúa Con
thì ở đấy cũng có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; chúng ta đón nhận sức mạnh của
Chúa Ba Ngôi khi chịu phép Thêm sức; linh mục ban phép lành cho chúng ta cũng
nhân danh Chúa Ba Ngôi; trên giường chờ đợi sự chết đến, linh mục phó linh hồn
chúng ta cho Chúa Giêsu. Ngoài ra, Giáo hội còn dạy chúng ta trước khi làm hay
sau khi làm một công việc gì chúng ta hãy làm nhân danh Chúa Ba Ngôi, để cầu
xin, chúc tụng hay cảm tạ Chúa. Vì thế, Giáo hội tập họp chúng ta nhân danh
Chúa Ba Ngôi, Giáo hội khởi đầu và kết thúc mọi kinh nguyện nhân danh Chúa Ba
Ngôi, hoặc như ông Te-tu-liên nói: “Dầu khi thức dậy hay đi ngủ, dầu khi ăn hay
làm một việc gì, anh em hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Dấu thánh giá là biểu
hiệu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bất
cứ điều gì đã gọi là mầu nhiệm, tức là đã khó hiểu rồi, về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi lại càng khó hiểu hơn. Nhưng khó hiểu mà chúng ta vẫn tin, và cũng vì thế
mà mọi việc làm của chúng ta và cả cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và có giá trị.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tin vững chắc mọi điều Chúa và Giáo hội dạy.
14. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Nếu
hiểu rằng mầu nhiệm là những gì chúng ta chưa thể hiểu thấu, thì quả thực đời sống
của chúng ta bị chìm đắn, bị bao phủ bởi biết bao nhiêu mầu nhiệm.
Thực
vậy, chúng ta băn khoăn thắc mắc về tương lai hậu vận, để rồi có người đã đi hỏi
ông thày bói, thế nhưng như tục ngữ đã diễn tả:
- Bói ra ma, quét nhà ra rác.
- Tay cầm tiền quí bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình. Rốt
cuộc cũng chẳng giải quyết được gì. Hậu vận thì vẫn mịt mù, còn tương lai thì vẫn
là một mầu nhiệm.
Chúng ta suy nghĩ về tình yêu, mà rồi
cũng chẳng biết được cái tình là cái chi chi. Bao nhiêu người tôi gặp, bao
nhiêu người tôi quen, mà sao trái tim tôi vẫn lạnh lùng băng giá. Thế rồi tới một
lúc nào đó, trái tim tôi lại “lúc lắc” và chỉ lúc lắc với một người nào đó. Và
tình yêu mãi mãi vẫn còn là một mầu nhiệm. Ngoài ra, còn biết bao mầu nhiệm
khác nữa. Nào là mầu nhiệm về sự sống, mầu nhiệm về sự chết, mầu nhiệm về thiên
nhiên, mầu nhiệm về con người…Chúng ta cố gắng tìm tòi để thỏa mãn phần nào nhu
cầu hiểu biết, cũng như để hạnh phúc cuộc đời được bảo đảm hơn.
Thế nhưng, có một mầu nhiệm rất quan
trọng, khả dĩ có thể đem lại cho chúng ta lời giải đáp về số mệnh, về cuộc sống,
mà chúng ta lại quên lãng, đó chính là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đây quả thực là
một mầu nhiệm tuyệt vời, đến nỗi thánh Phaolô đã phải kêu lên:
-
Ôi thẳm sâu thay sự khôn ngoan và phong phú của Thiên
Chúa. Đường lối của Ngài cao cả lắm thay.
Ngày nay, mặc dù nhiều người không chối
bỏ Thiên Chúa, nhưng lại coi Thiên Chúa như là đã chết, không còn tác động và ảnh
hưởng tới sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Đó chỉ là một vị Thiên Chúa vừa trừu
tượng lại vừa xa lạ, bị đóng băng vào trong những ý niệm mang tính cách triết học.
Nhưng với chúng ta thì khác. Thiên
Chúa vẫn còn mãi và Ngài luôn hiện diện. Ngài đã vén bức màn che phủ để hé mở
cho chúng ta được hiểu biết về Ngài. Việc mạc khải, việc hé mở này được thự hiện
nhờ Đức Kitô.
Thực vậy, nhờ Đức Kitô, chúng ta biết
được rằng có một Thiên Chúa và Ngài có ba ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Đng
đã dựng nên chúng ta. Ngôi thứ hai là Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc chúng ta và
Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa chúng ta. Hơn thế nữa, cũng nhờ
Đức Kitô chúng ta còn biết được rằng Thiên Chúa chính là một người cha hằng yêu
thương, chăm sóc chúng ta cũng như lo lắng đến tương lại của chúng ta.
Phải chăng tâm trạng của chúng ta cũng
giống như tâm trạng của các tông đồ khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
- Xin Thày chỉ
cho chúng con biết Chúa Cha.
Và
Chúa Giêsu đã trả lời:
- Ai thấy Thày
là thấy Cha.
Như
vậy, Thiên Chúa Cha đã tỏ mình ra nơi Đức Kitô. Và cùng với Đức Kitô, chúng ta
có thể mừng vui kêu lên rằng: Abba, cha ơi.
Trong một trận cuồng phong, con thuyền
chao qua đảo lại, khiến mọi hành khách đều khiếp sợ, tuy nhiên có một em nhỏ vẫn
bình tĩnh ngồi chơi trong một xó góc. Người ta hỏi em:
-
Tại sao em không sợ hãi.
Em trả lời:
-
Làm sao cháu có thể sợ hãi khi chính ba
cháu là người đang điều khiển con tàu.
Cũng thế, tại một thành phố nọ đã xảy ra
động đất dữ dội, mọi người đều run sợ kinh hoàng. Thế nhưng, có một bà cụ rất
bình tĩnh đi lại chăm sóc cho các nạn nhân, mặc dù nhà của bà cũng đã bị sụp đổ.
Người ta hỏi bà tại sao, bà trả lời:
-
Không khi nào tôi run sợ, trái lại tôi
luôn bình an, bởi vì Thiên Chúa là Cha của tôi, Ngài có thể lay chuyển cả nền
móng trái đất.
Hãy
xác tín rằng: Thiên Chúa là Cha nân từ. Ngài nắm giữ toàn bộ con người và cuộc
sống của chúng ta trong bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Ngài.
15.
Mầu nhiệm tình yêu.
Mầu
nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một
mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng
của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên
Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học.
Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với
toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số.
Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà
ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn
tệ hơn phủ nhận Ngài.
Vậy
ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy
bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến,
loài người không có một ý niệm nào, dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không
biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng
và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc
khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này.
Ngài
cho biết; Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và
Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài
cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa
Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ
là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là
ba Chúa.
Thiên
Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại
mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải
là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tượng chặn đứng
suy luận và óc tưởng tưởng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết
đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên
Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để
nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con
người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa.
Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ
bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì
yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ
mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Ngài đã sai Thánh Thần đến để
tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình
yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về
sau nữa.
Cho
nên, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội Không chỉ nhắc nhở
chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống
mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa
Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi
thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi
người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người
và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương
và hiệp nhất.
Ngày kia, có một đan viện phụ tìm đến một
thiền sư. Vị đan viện phụ buồn rầu cho biết tình trạng bi đát của tu viện mình
và xin ý kiến. Trước đây, tu viện là một trung tâm hành hương lớn, thu hút
không biết bao nhiêu tâm hồn mộ đạo. Nhưng bây giờ tu viện gần như đã trở thành
ngôi chùa trống vắng. Nghe xong vị thiền sư nói: “Tội đã và đang xảy ra trong cộng
đoàn là tội vô tình. Thiên Chúa đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng
chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”. Khi biết điều đó, trong tu viện, mọi người
đều thắc mắc không biết ai trong số những thành viên của tu viện là Thiên Chúa
đã cải trang. Và từ đó ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa. Không
mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu
viện.
Mạc
khải lớn nhất mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, đó là Thiên Chúa Cha yêu
thương chúng ta vô cùng. Tình yêu của Ngài là một lời mời gọi. Ngài muốn chúng
ta lên đường, nói theo Con Một của Ngài: sống yêu thương nhau, vì tất cả đều là
anh chị em, con cùng một Cha. Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc
sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu
thương, có nghĩa là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho anh em, đừng sống
ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi
chân và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh. Xin Chúa cho chúng ta
luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống
yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy.
16.
Tình yêu.
Thánh
Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Hay nói cách khác Thiên Chúa chính
là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi tình yêu.
Thiên
Chúa là tình yêu có nghĩa là không có nơi nào tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo
cho bằng tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa có thể
giúp ta rút ra được những gương mẫu cho tình yêu loài người.
Vậy
hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa. Tình
yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
1.
Đặc điểm thứ nhất là tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
- Thiên Chúa
không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi yêu
thương nhau.
- Điều đó cho
thấy yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác
mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là
ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là
Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến
nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng,
anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết
đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh
Narcisse.
- Nhưng tại sao
yêu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ,
âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu
thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món
quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao
độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh
nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận
hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2.
Đặc điểm thứ hai của tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp
nhất.
- Chỉ có một
Thiên Chúa nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
- Có câu thơ
“Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Ap
dụng vào tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3
mà 1”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
- Ý nghĩa đó
là: Thiên Chúa có ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là Đấng tạo dựng
vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng thánh
hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà Ba Ngôi không đối nghịch nhau, trái
lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là 1 Thiên Chúa.
- Điều đó có
nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối
nghịch xung khắc với nhau, mà phải hòa hợp với nhau.
Xin
tóm lại những gì đã phân tích được từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi:
-
Yêu thương là cho đi.
-
Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của
nhau.
-
Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hòa hợp với nhau.
17. Suy Niệm của JKN.
Đức Giêsu hiện ra tại Galilê, và sai
môn đệ đi đến với muôn dân
Câu hỏi gợi ý:
1. Ba Ngôi Thiên Chúa khác biệt nhau, hay đồng dạng với
nhau? Nếu bản chất khác biệt nhau, có Ngôi nào muốn bắt các Ngôi kia phải trở
nên giống mình không? Sự hiệp nhất của Ba Ngôi xây dựng trên tinh thần «hiệp nhất
trong đa dạng» hay «thống nhất bằng đồng dạng»?
2. Vũ trụ vạn vật mà Ba Ngôi tạo dựng là đa dạng hay đồng
dạng với nhau? Thiên Chúa có muốn chúng ta biến vạn vật thành đồng dạng không?
Bắt mọi người phải đồng dạng với mình thì có hợp với ý Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý:
1. Hiệp nhất trong
đa dạng nơi Ba Ngôi Thiên Chúa
Thiên Chúa theo quan niệm Kitô giáo là
một Thiên Chúa duy nhất, nhưng lại gồm có ba Ngôi - nói nôm na là ba Đấng, ba Vị
hay ba «Người» - khác biệt nhau. Ba Ngôi nhưng mỗi Ngôi một vẻ, không Ngôi nào
giống Ngôi nào. Ba Ngôi khác biệt nhau, nhưng lại hoàn toàn bình đẳng, và không
Ngôi nào muốn Ngôi kia phải trở nên giống như mình. Chính vì chấp nhận và tôn
trọng sự đa dạng của nhau, mà Ba Ngôi sống hòa bình với nhau, hợp tác chặt chẽ
với nhau, yêu thương nhau, và hiệp nhất với nhau chặt chẽ tới mức độ chỉ còn là
một Thiên Chúa duy nhất.
2. Sự khác biệt và
đa dạng trong vũ trụ vạn vật
Ba Ngôi khác biệt nhau và đa dạng như
vậy, nên đã tạo dựng nên một vũ trụ cũng đầy khác biệt và đa hình đa dạng vô
cùng. Ngài tạo dựng nên muôn loài khác biệt nhau, và loài nào cũng lại phân
chia thành nhiều cấp độ khác nhau với những chủng loại khác nhau. Nhờ đó vũ trụ
trở nên vô cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ. Thật vậy, tinh tú trên trời thì đủ
kiểu đủ loại. Con người người thì đủ mọi chủng tộc, đủ mọi ngôn ngữ, đủ mọi nền
văn hóa khác biệt nhau. Thú vật và thực vật thì lại càng đa hình đa dạng hơn:
loại sống trên trời, loại trên đất, loại dưới nước, loại thật to như đại bàng,
cổ thụ, loại thật nhỏ như vi trùng, vi-rút, loại ăn thịt, loại ăn cỏ… Vạn vật phong phú và đa dạng đến nỗi con
người từ khi biết khám phá đến nay vẫn chỉ thấy mình khám phá được một phần rất
nhỏ. Chỉ riêng loài hoa thôi đã có cả hàng chục ngàn giống khác nhau. Vạn vật tuy
vô cùng đa dạng như thế, nhưng vật nào cũng có cái hay cái đẹp riêng của nó và
trở nên một toàn thể rất hài hòa. Chính vì thế mà vũ trụ mới tươi đẹp huy hoàng
làm sao! Thử tưởng tượng xem nếu Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong đó vạn vật đồng
dạng với nhau, nghĩa là chỉ có một loài duy nhất, loài này cũng chỉ có một chủng
loại duy nhất thì vũ trụ sẽ buồn thảm biết bao! Chỉ cần xét loài hoa: nếu hoa
chỉ có một loại duy nhất - dù là loại được hầu hết mọi người coi là đẹp nhất -
thì thế giới sẽ bớt đẹp, bớt thơ mộng và phong phú đi biết bao!
Riêng
xã hội con người, Thiên Chúa đã gầy dựng trong đó nhiều dân tộc với những nền
văn minh, văn hóa, phong tục, nề nếp suy nghĩ khác nhau. Thiên Chúa cũng cho xuất
hiện nhiều tôn giáo với những nghi thức, tín điều, với những cách gọi tên, cách
quan niệm hay cách nhìn về Thực Tại Tối Hậu khác biệt nhau; v.v… Nói về từng
người, thì mỗi người một vẻ, mỗi người một diện mạo, một tài năng, một tính
tình, một quan niệm, một lối suy nghĩ khác nhau: «bá nhân bá tính». Ngay như khi
cùng nhau nhìn vào một sự vật cụ thể, thì mỗi người lại có một cách nhìn khác
nhau, cách diễn tả về vật ấy cũng khác nhau, thậm chí gọi vật ấy bằng những tên
khác nhau. Một vật cụ thể hữu hạn mà người ta còn có nhiều cách nhìn khác nhau
như vậy, huống gì khi họ suy nghĩ về những thứ vô hình, nhất là những thực tại
không thể quan niệm hay suy nghĩ được, chẳng hạn khi suy nghĩ về tuyệt đối, về
nguồn gốc siêu hình của vũ trụ vạn vật… làm sao mà họ quan niệm và nhìn cách giống
nhau cho được? Thôi thì đủ mọi loại quan niệm, đủ mọi kiểu nhìn, đủ mọi tên gọi
khác nhau cho Thực Tại Tối Hậu duy nhất ấy!
Những
cách nhìn khác nhau ấy - dù là hướng về một vật hết sức cụ thể hay về những thực
tại hết sức trừu tượng - cũng thường bổ túc cho nhau dẫu có mâu thuẫn lẫn nhau,
để - nếu tổng hợp lại - sẽ có được một cái nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn.
Chính nhờ sự khác nhau ấy mà con người mới cần lẫn nhau, mới phải hợp tác với
nhau, mới yêu thương nhau. Chẳng hạn khi xây một căn nhà, người ta cần có đồ họa
của kiến trúc sư, cần khả năng thực hiện tổng quát của nhà thầu khoán, cần sự
khéo léo của đủ loại thợ (mộc, xây, trang trí, điện…), cần những nhà cung cấp vật
tư khác nhau (gạch, xi măng, sắt, gỗ, ống nước, đồ điện…). Ông kiến trúc sư có
tài giỏi đến đâu mà không nhờ thầu khoán thực hiện thì cũng chẳng làm nên trò
trống gì! Ông thầu khoán mà không thuê được thợ thì cũng đành bó tay bất lực!
Thợ khéo léo hay tài giỏi đến đâu mà không có kiến trúc sư hay thầu khoán thì
cũng chẳng biết phải làm gì. Nhờ tài năng khác nhau mà người ta cần lẫn nhau, kết
hợp với nhau, yêu thương nhau! Thiên Chúa của chúng ta - gồm Ba Ngôi khác biệt,
tuy đa dạng nhưng lại hiệp nhất - đã muốn như thế, chúng ta không nên đi ngược
lại đường lối của Ngài!
3.
Khuynh hướng phản đa dạng của con người
Thế
nhưng trên thế giới có biết bao nhiêu con người, bao nhiêu tập thể muốn đi ngược
lại ý muốn của Thiên Chúa, muốn chống lại luật «vạn vật đa dạng» của Ngài. Họ
muốn tất cả mọi người phải nghĩ giống như họ, làm giống như họ, chỉ theo một lập
trường duy nhất là lập trường của họ, vì họ cho rằng chỉ có họ là nghĩ đúng,
làm đúng, lập trường của họ là duy nhất đúng hoặc đúng hơn cả. Ai khác họ là họ
khó chịu, bực bội, kết án, loại trừ. Họ muốn trên thế giới này chỉ có một bè đảng
duy nhất là bè đảng của họ, một ý thức hệ duy nhất là ý thức hệ của họ, một tôn
giáo duy nhất là tôn giáo của họ, một đoàn thể duy nhất là đoàn thể của họ… Và
họ nỗ lực để biến thế giới đa dạng này thành độc dạng hay đồng dạng (uniforme),
thậm chí với tất cả thiện chí hay lòng thành của họ. Biện pháp của họ là loại
trừ tất cả những ai khác với họ. Ai chủ trương khác với họ thì bị coi là đối lập,
là kẻ thù, cần phải tiêu diệt.
Rất
tiếc là trên thế giới này không chỉ có một bè đảng, một tôn giáo, một đoàn thể
duy nhất nghĩ mình là duy nhất đúng hoặc đ¨²ng hơn cả và chủ trương loại trừ những
ai khác với mình, mà có nhiều bè đảng, nhiều tôn giáo, nhiều đoàn thể nghĩ và
chủ trương như vậy. Thế là có chiến tranh: bè đảng này tìm cách diệt bè đảng
kia, tôn giáo này diệt tôn giáo kia, đoàn thể này diệt đoàn thể kia. Bè đảng
nào, tôn giáo nào, đoàn thể nào cũng đều nhân danh sự thiện, sự đúng của mình -
mà họ nghĩ là duy nhất thiện, duy nhất đúng - để tiêu diệt những gì mà họ cho rằng
chắc chắn là sai lầm, xấu xa. Ai cũng có những «vũ khí» riêng của mình để ép buộc
người khác theo mình, trung thành với mình, đồng dạng với mình. Bè đảng thì
dùng vũ lực, âm mưu chính trị. Tôn giáo thì dùng những quyền lực thiêng liêng của
mình. Đoàn thể thì dùng kỷ luật riêng của đoàn thể.
Nhưng
hễ phản lại ý muốn của Thiên Chúa thì chỉ gây rối loạn. Đáng lẽ con người phải
tôn trọng sự khác biệt nhau như một hồng ân Thiên Chúa ban để bổ túc lẫn nhau,
để hợp tác với nhau, và để nhờ đó mà dễ yêu thương nhau, dễ đi đến hiệp nhất.
Hiệp nhất ở đây là thứ hiệp nhất trong đa dạng. Có tôn trọng sự khác biệt của
nhau thì mới có thể hiệp nhất được. Nhưng con người lại coi tình trạng đa dạng
đó như một bất lợi cho «cái tôi tập thể» của mình. «Cái tôi» nào - dù là cá
nhân hay tập thể - thì cũng ích kỷ, muốn đề cao mình và những gì của mình, muốn
mình phải trổi vượt hơn những «cái tôi» khác, và những gì của mình cũng phải trổi
vượt hơn những gì của những «cái tôi» khác. «Cái tôi» nào cũng muốn dùng thế mạnh
của mình để hiếp đáp những «cái tôi» khác yếu thế hơn, bắt những «cái tôi» khác
phải theo mình, phải đồng dạng với mình. Họ muốn «thống nhất bằng đồng dạng».
4.
«Hiệp nhất trong đa dạng» là ý muốn của Thiên Chúa
Ôi,
chính cái ý chí muốn «thống nhất bằng đồng dạng» này đã gây nên biết bao cảnh
«nồi da xáo thịt» trong các quốc gia, cảnh các «bè phái ly khai» trong các tôn
giáo, cảnh chia rẽ nhau trong các đoàn thể. Đúng là chưa phát triển được ra bên
ngoài thì đã bị chia rẽ nội bộ. Thiết tưởng thế giới đã phải đau khổ rất nhiều,
phải chịu biết bao cảnh đau thương tang tóc chỉ vì những tham vọng «thống nhất
bằng đồng dạng» của các bè đảng, tôn giáo, đoàn thể. Nhưng thực tế hiện nay chứng
tỏ rằng tham vọng đó càng ngày càng trở nên phi lý, phản tiến bộ và bất khả
thi. Thật vậy, khuynh hướng của thế giới, của các quốc gia dân tộc càng ngày
càng đòi hỏi phải «đa nguyên chính trị», phải « đa đảng », phải loại trừ độc
tài. Chủ trương «độc đảng», «độc tài» đang dần dần bị đào thải khỏi nhân loại
vì chủ trương này chỉ làm cho quốc gia dân tộc mình bị băng hoại, nghèo khổ và
chậm tiến. Các tôn giáo thì tôn giáo nào cũng muốn trở thành tôn giáo toàn cầu
và đều nỗ lực tối đa để đạt được điều đó; nhưng dường như ngày nay tôn giáo nào
cũng đều đi đến tình trạng «bão hòa», nghĩa là khó có thể phát triển thêm về tỷ
lệ dân số. Vì ai đã theo tôn giáo nào thì khó mà bỏ tôn giáo mình để theo tôn
giáo khác, vì tôn giáo nào cũng có những biện pháp riêng khá hữu hiệu để giữ
tín đồ của tôn giáo mình lại. Tuy vẫn có những người thay đổi tôn giáo, nhưng
khi có những người tôn giáo này bỏ sang tôn giáo kia, thì ngược lại cũng lại có
những người tôn giáo kia bỏ sang tôn giáo này. Cuối cùng vẫn phải chấp nhận một
«thế giới đa nguyên tôn giáo», như một «dấu hiệu của thời đại» (signum
temporum) để nhận ra ý muốn của Thiên Chúa. Các đoàn thể cũng tương tự như thế.
Vì
thế, đã đến lúc các bè đảng, các tôn giáo, các đoàn thể phải nhận ra rằng càng
muốn «thống nhất bằng đồng dạng» thì càng gây nên chia rẽ, xáo trộn, và đau khổ
cho nhân loại, vì điều này chống lại luật tự nhiên của Thiên Chúa. Trái lại,
càng muốn «hiệp nhất trong đa dạng» - nghĩa là đến với nhau trong tinh thần tôn
trọng sự khác biệt và đa dạng - thì càng dễ đoàn kết, càng dễ gắn bó yêu thương
nhau. Vì sự «hiệp nhất trong đa dạng» chính là ý muốn của Thiên Chúa. Và sự hiệp
nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa chính là gương mẫu toàn hảo nhất của sự «hiệp nhất
trong đa dạng» mà chúng ta phải noi theo. Gia đình nào, dân tộc nào, tôn giáo
nào, tập thể nào biết noi gương này thì sẽ càng ngày càng trở nên hạnh phúc, thịnh
vượng và phát triển.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, xin cho con cũng như các Kitô hữu và mọi tín đồ của các tôn giáo biết noi
gương «hiệp nhất trong đa dạng» của Ba Ngôi Thiên Chúa; biết tôn trọng sự khác
biệt và đa dạng mà Cha đã tạo nên nơi mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa,
mỗi quốc gia, mỗi tôn giáo… Xin cho chúng con biết chấp nhận và tôn trọng sự
khác biệt của nhau, đừng ép ai phải giống mình. Để chúng con nhận ra rằng chúng
con cần lẫn nhau, cần đến với nhau, cần tìm hiểu, thông cảm, hợp tác với nhau,
và nhất là cần yêu thương nhau như Cha hằng mong muốn điều đó. Amen.
18. Thiên Chúa đo lường trái tim chúng
ta.
(Suy
niệm của Lm Hữu Độ)
Chuyện kể rằng: một hôm có chàng thanh
niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt anh nằm nghỉ dưới gốc cây đa cổ thụ,
nhìn lên thấy cành lá rườm rà, song qủa đa nhỏ xíu. Anh thầm nghĩ, sao cây thì
khổng lồ mà trái nhỏ xíu vậy tôi mà là Ông Trời thì tôi cho trái nó to như trái
bí và lá nó to như lá chuối như thế mới cân xứng. Đúng là Ông Trời thiếu khôn
ngoan, không biết tính toán gì cả. Thế rồi anh ngủ đi lúc nào không hay. Đang
ngủ say thì một cơn gió lớn thổi mạnh làm một qủa đa rớt vào mặt anh ta. Anh giật
mình thức dậy vừa xoa mặt vừa nghĩ: May quá, nếu trái đa lớn bằng trái bí thì mặt
mình đã dập ra như cái bánh bao rồi. Qủa là Ông Trời khôn ngoan, biết lo liệu
hơn là mình nghĩ.
Thiên
Chúa sáng tạo mọi sự hài hòa và có tính toán của Chúa. Nhìn vào chính thân thể
mình, chúng ta thấy là cả một công trình vừa tỉ mỉ vừa tài khéo không có đầu óc
phàm nhân nào hiểu thấu. Thí dụ như chỉ trong một square inch da của chúng ta
mà thôi thì trong đó có chứa tới 19 triệu tế bào của da, 60 sợi lông, 90 tuyến
mỡ, 19 feet mạch máu, 625 tuyến mồ hôi và 19,000 tế bào cảm giác.
Sách
Giáo Lý Công Giáo số 292 cho chúng ta biết Sáng Tạo là công cuộc của Chúa Ba
Ngôi, "Được ám chỉ trong Cựu Ước, được mạc khải trong Tân Ước, hành động
sáng tạo của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là một và không thể tách rời hành động
sáng tạo của Chúa Cha... Sáng tạo là công cuộc chung của Ba Ngôi Thiên
Chúa."
Ba
Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm vượt trên mọi trí khôn thụ tạo. Mầu nhiệm này
là mầu nhiệm trung tâm của Đức Tin và của sinh hoạt Kitô giáo. Nếu dùng đầu óc
để tìm hiểu mầu nhiệm này thì chắc chắn chúng ta thất vọng. Nhưng may mắn chúng
ta có Trái Tim để cảm nghiệm được một phần nào không phải cái "lý lẽ"
của mầu nhiệm nhưng thứ "tình yêu" bao la mà Thiên Chúa Ba Ngôi dành
cho chúng ta. Nghĩa là vì yêu thương mà Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên chúng ta,
vì yêu thương mà sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc nhưng hy
sinh Người Con duy nhất của Ngài để cứu chuộc chúng ta, rồi cũng vì yêu thương
mà Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta, tức là Chúa Thánh Thần tiếp tục công
trình cứu chuộc của Chúa Con nơi mỗi người cho tới khi thành đạt là được hưởng
Nước Trời.
Bởi
vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên khi đo lường con người thì Chúa đo ở Trái Tim
chứ không ở Cái Đầu. Có nghĩa là Chúa đo mức độ chúng ta mến Chúa và yêu anh chị
em chứ không đo mức độ chúng ta hiểu biết khoa học nhiều hay thông suốt nhiều
ngôn ngữ.
Cứ
trở lại Phúc Âm chúng ta thấy rõ điều đó: để định đoạt số phận đời đời của mỗi
người thì Chúa hỏi chúng ta có làm hay không làm cho những anh chị em nghèo
đói, trần truồng, lao tù, đau yếu? Để xác định chúng ta được tha nhiều hay ít
thì Chúa cũng đo ở tình yêu, "Chị này được tha nhiều bời vì chị yêu mến
nhiều." Để giao trách nhiệm liên quan đến người khác thì Chúa đo lường ở
tình yêu, "Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người này hay không?.. .
hãy chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy." Để xác định chúng ta là môn
đệ Chúa hay không thì Chúa cũng dựa vào tình yêu, "Các con cứ yêu mến nhau
để thiên hạ nhìn thấy mà biết các con là môn đệ Thầy." Như vậy "đồng
phục" của người Công Giáo là Đức Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày
nào đó con người sẽ trở về nguồn gốc của mình là tro bụi. Tất cả những hành trang
chúng ta gom góp và nâng niu như: kiến thức, sức khỏe, sắc đẹp, thông minh, tài
khéo.. . khi chạm tới quan tài đều biến thành con số không. Chỉ có một thứ hành
trang duy nhất chúng ta có thể mang đi với mình là Tình Yêu Thiên Chúa và tha
nhân.
Trong
ngày lễ trọng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta nhắc nhở mình cái chân lý
này: Tôi đã được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nên Ngài dựng thành, cứu chuộc
và thánh hóa. Vậy tôi phải có nghĩa vụ đáp trả lại tình yêu đó. Nợ tình phải trả
bằng tình. Cuối cùng chỉ có Đức Mến là thiên thu.
Đã
nhiều lần tôi trộm nghĩ, nếu bây giờ mình ra khỏi thế gian này, đứng trước tòa
Chúa phán xét thì điều gì tôi hối hận nhất? Tôi không cần suy nghĩ lâu để tìm
ra câu trả lời, "Điều tôi hối hận nhất là khi còn sống trên trần gian này
tôi yêu mến Chúa qúa ít. Từ cái nhược điểm đó nó kéo đi theo bao nhiêu vấn đề xấu
hay tiêu cực khác." Rất may chúng ta còn có thời giờ, chúng ta biết phải
làm gì để bớt hối hận nhiều ở đời sau.
19. Chú giải của Noel Quesson.
Mười một môn đệ đi tới miền Galilê
Riêng
câu này cũng đủ nói cho chúng ta biết “Giáo Hội là ai”. Đó là Hội Thánh của những
quốc gia ngoại giáo. Những môn đệ được chính Chúa Giêsu mời gọi rời bỏ
Giêrusalem (Mt 28,7), cho đến lúc bấy giờ vẫn là trung tâm địa lý của Đức Tin,
nơi Thiên Chúa hiện diện. Theo Thánh Matthêu, không có sự hiện ra “chính thức”
với các tông đồ tại Giêrusalem. Chúa trao phó sứ mạng cho các phụ nữ một cách
riêng tư, Người triệu tập các tông đồ đến “miền Galilê của chư quốc”, một tỉnh
có nhiều dân tứ xứ vãng lai – Hội thánh bắt đầu tại Galilê, vùng này thay thế
cho Giêrusalem và trở thành trung tâm phát triển của cộng đoàn mới. Trong những
chương đầu, Matthêu cho thấy tính cách bí nhiệm của các “Đạo sĩ phương Đông”, họ
đến từ những vùng ngoại giáo, sấp mình thờ lạy Giêsu Hài Nhi, trong khi đó,
Giêrusalem lại không đón tiếp Người.
-
Phải
chăng tôi có quan niệm như thế về Giáo Hội?
-
Một
Giáo Hội mở rộng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới, chứ không đóng kín trong
những bức tường.
Đến những ngọn núi Chúa Giêsu đã hẹn với
các ông
Chữ
“Eklésia”(Giáo Hội) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tập họp những người được
triệu tập”. Kitô hữu là những người được Đức Giêsu Phục Sinh triệu tập. Mỗi
Chúa Nhật khi đến với Bí tích Thánh Thể, tôi có ý thức rằng, không phải tôi có
sáng kiến này, mà Đức Giêsu đã triệu tập tôi. Tôi đáp lại lời mời trước tiên, đức
tin của tôi không phải là một mớ kiến thức, mà là sự đáp trảvới đấng đã kêu gọi
tôi “trên núi”.
Trong
Tin Mừng của Matthêu, người ta không bao giờ nói núi đó là núi nào. Nhưng trái
lại, phải chăng là tình cờ, núi là địa điểm tốt nhất cho sự mạc khải của Thiên
Chúa. Chính ở trên “núi cao”, Đức Giêsu đã tuyên bố diễn văn khai mạc tức là
“Bài giảng trên núi”(Mt 5,1–8,1). Người cũng đã cầu nguyện, hoá bánh ra nhiều
và biến hình trước mặt các tông đồ của người ở trên núi cao.
Tôi để biểu tượng
này in sâu trong tôi.
Tôi để cho Đức
Giêsu triệu tập tôi trên núi cao.
Tôi chấp nhận mở
rộng nhãn giới của tôi. Phong cảnh Đức Giêsu mời gọi tôi thật hùng vĩ. Người ta
thoải mái hít thở không khí ở trên đỉnh cao.
Khi thấy Người các ông sụp lạy
Đó
là cử điệu Phụng vụ mà những người trẻ sẽ thực hiện lại, và dân chúng phương
Đông thường làm một cách tự phát: Nằm dài trên mặt đất hay ít nhất là cúi rạp,
trán chạm đất. Đây là cử chỉ tôn thờ long trọng. Cử điệu cao quí nhất mà con
người có thể làm hiện được. Trong tin mừng Thánh Matthêu, sự sụp lạy này cũng
được các tông đồ thực hiện trong chiếc thuyền, khi thuyền đã được cứu khỏi cơn
phong ba bão táp (Mt 14, 33). Đó cũng là cử điệu của ba nhà Đạo sĩ ngoại giáo
(2,11), của người bệnh phong (8,12), và của một phụ nữ Canaan ,
một người ngoại đạo khác (15,25).
Tôi
có bao giờ thờ lạy như thế không? Nghĩa là thầm lặng suy niệm về sự oai nghi của
đấng đang ở trước mặt tôi chăng?
Nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức
Giêsu đến gần
Giáo
Hội dâng lễ tế để tôn thờ Thiên Chúa vẫn còn là một Giáo Hội của những người tội
lỗi. Đức tin của những con người. Đức tin của những tông đồ đầu tiên (cũng như
đức tin của chúng ta) vẫn còn là một đức tin pha trộn hoài nghi và nước đôi, đó
là một đức tin còn đang di hành. Giáo hội đón tiếp Đức Giêsu vẫn là một Giáo Hội
của những người “yếu đức tin” (Mt 14,31), bị hư mất một người, chỉ còn 11 trong
số 12 người đã được chọn. Đức Giêsu không ngạc nhiên về điều này. Người đến gần
họ như ngày người đã biến hình (Mt 17,7). Lạy Chúa xin hãy đến. Xin Chúa hãy đến
gần hơn. “Maranatha”. Lạy Chúa xin thương xót chúng con và tất cả những người
đã không tuyên xưng Đức tin một cách hoàn toàn và rõ ràng. Xin Chúa thương xót
biết bao bạn trẻ, biết bao con người thời nay “không đạt đến đức tin”. Xin Chúa
thương xót con, vì đôi khi đức tin của con cũng hoài nghi.
Người nói với các ông: “Thầy đã được
trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi đến muôn dân và kết nạp
môn đệ … Dậy họ tuân giữ những điều răn… Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế.
Lời
của Đức Giêsu phục sinh nói trên đây oai nghi biết bao!
Sau
cuộc sống khiêm nhường thành Nagiarét, giờ đây sự thật đã tỏ lộ. Bên ngoài, đây
có vẻ như là tramg cuối của một câu truyện, giai đoạn kết thúc của cuộc sống một
con người, nhưng thực ra đây là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất
trong các thời đại, không thể giải thích được bằng những tiêu chuẩn bình thường
của lịch sử.
Chúng
ta nên lưu ý đến tầm quan trọng của tất cả tĩnh từ “tất cả, toàn thể” đã được lập
lại tới bốn lần. Nhắc lại bốn lần từ “toàn thể”, nhắc lại bốn lần từ “trọn vẹn”
là để biểu lộ hành động của Đức Giêsu. Đó là tính trọn vẹn – toàn diện trong
hành động của Thiên Chúa, Đấng đã chấp nhận thân xác trong toàn diện hành động
của con người, theo suốt dòng thời gian trôi chảy! Nên đọc lại tư tưởng
của Cha Teihard de Chardin. Dưới đây là là một trích đoạn: “xét về mặt vật lý,
Đức Kitô là Đấng choán phủ tất cả: Không có một yếu tố nào trong vũ trụ, vào bất
cứ một giây phút nào của trần gian, chuyển hành mà lại không di chuyển, và
không bao giờ được vận hành ngoài tầm hướng dẫn của Người cả. Không gian và thời
gian đã ngập đầy sự hiện diện của Người. Cũng xét về mặt thể lý, Đức Kitô là Đấng
“tiêu thụ” tất cả: trọn vẹn vũ trụ chỉ được hoàn tất trong một tổng hợp cuối
cùng, mà ở đó có một ý thức siêu việt sẽ biểu lộ trên mọi yếu tố phức tạp cho
dù đã được cấu tạo một cách tuyệt vời. Mọi con người sẽ hội tụ và cùng kết nối
lại với nhau trong Người. Chính Đức Kitô sẽ tạo cho toàn bộ công trình vật chất
và tinh thần độ bền vững mãi.
Anh em hãy
đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.
Chúa Cha chỉ là “Cha”, vì Người quên
mình hoàn toàn, để chuyển trọn vẹn sang Ngôi Con. Chúa Con chỉ là “Con” vì Người
quên mình để trọn vẹn “tự hiến dâng” cho Chúa Cha – Chúa Thánh Thần sẽ không là
gì cả nếu Người không phải là tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, Thiên
Chúa là Tình yêu.
Chương trình lớn lao của Thiên Chúa,
mà Đức Giêsu đã giao cho các tông đồ, cho Giáo Hội, nhằm “nhận dìm” (đấy là
nghĩa chữ Hy Lạp baptizô) nhân loại trong tương quan tình yêu liên kết Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Dấu” rửa tội đúng là dấu Thánh Giá; đó là
“cuộc sống cho tha nhân”. Chúng ta được rửa tội nhân danh tình yêu. Chúng ta được
“nhận dìm” trong nguồn tình yêu đó – Đấy là “chương trình” của Giáo Hội.
Đôi khi người ta tự hỏi Đức Giêsu đã
muốn sáng lập Giáo Hội nào? Chắc chắn, Đức Kitô đã không nghĩ đến nước Vatican,
đến các vị Giám mục đội mão, đến những văn phòng hành chánh, những kiến trúc
tôn giáo hay những nghi lễ trọng thể của Giáo Hội, giống như những triều đình
vua chúa ngày xưa.
Nói điều này để chúng ta đừng đóng
khung Giáo Hội sống động trong những bộ mặt trần thế mà Giáo Hội đã có trong một
số thời đại. Điều Đức Kitô muốn đó là “Tập hợp tất cả mọi người trong tình yêu”
– Chúa là tình yêu – Chúa là cộng đồng những người thương yêu nhau tronh hiệp
nhất của Chúa Thánh Thần – phải tìm điều cốt yếu của Giáo hội trong bản tính của
Chúa Ba Ngôi.
Những người thấy tôi sốt sắng, tôi được
“nhận dìm”, “được rửa tội” trong Chúa Ba Ngôi tình yêu, những người quan sát những
nhóm mà tôi đang sống: Gia đình, nhóm làm việc với tôi, họ có thể cảm thấy “tôi
đã được rửa tội nhân danh ai”?
Anh em hãy
dạy bảo họ giữ những điều Thầy đã dạy cho anh em.
Đức Giêsu đã truyền dạy những điều răn
nào? Đó là giới răn tình thương. “Người ta sẽ nhận các con là môn đệ của Thầy, ở
điều này, nếu các con yêu thương nhau”. Không phải cứ được rửa tội là đủ – phải
tỏ ra là “môn đệ” của Đức Giêsu bằng mọi hành động trong cuộc sống. Đối với Đức
Giêsu, giáo lý không phải là một bài phải học mà là một tập luyện sống “theo
tình thương”
Và đây; Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời hứa “Thầy ở cùng” trên đây rất mạnh
nghĩa. Cũng như trong Tin Mừng Thánh Gioan, ta đoán nhận ra trong lời phát biểu
đó, cung cách của “Giavê”trong Cựu ước. Hơn nữa, theo lối hành văn của người
Sêmít, ở đây ta nhận thấy, để kết thúc Tin mừng của mình, Matthêu đã lập lại tư
tưởng đã đề cập ở đầu sách: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi báo tin
cho Thánh Giuse (Mt 1,23), Thiên sứ đã nói con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel, vậy
mà Thánh Giuse đã đặt tên Chúa là Giêsu: Nhưng trong dòng cuối của Tin Mừng,
Thánh Matthêu đã giải thích bí mật này: Đức Giêsu Phục sinh, chính là “Chúa ở
cùng chúng ta”. “Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa”.
20. Chú giải của Fiches Dominicales.
HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA,
VÀ CHÚA CON, VÀ CHÚA THÁNH THẦN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu:
Đây
là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra.
Thực
vậy, trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ
sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về
"Emmanuel”, "Thiên Chúa với ta" (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo
sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào
Đức Kitô và họ sấp mình thờ lạy người”.
Trong
đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuật
lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ:
"Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền
giáo cho "tất cả các dân tộc", và người long trọng tuyên bố với họ:
"Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
J.
Radermakers chú giải: "Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đọan mở đầu; đó là một
bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch
sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời
gian và không gian" (Au fil de l'évangile selon saint Matthieu, lnstitut
d'etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).
2.
Một đoạn kết dưới hình thức mở ra.
Sau
phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ không phải ở Giêrusalem,
thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là "Galilê" bị
khinh miệt, "nơi qui tụ các dân”. (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới
dân ngoại.
"Cũng
thế Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức
tin, để lên đường đi tới "Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định
nghĩa là Giáo Hội cho trần gian": đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức
Giêsu sẽ định rõ sau này" ("Cahiers-evangile" số 9, trang 6).
Nơi
mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là "ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc
khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh
Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên
Chúa.
Claude
Tassin chú thích: "Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại
ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối
phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời ngọn núi biến hình nơi vinh
quang Con Người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn
Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa"
(Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303).
-
Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng
kính trọng mang màu sắc tôn giáo và phụng vụ như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và
Maria, mẹ Người (2,2-8.1 1), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi
lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25).
Tuy
thờ lạy nhưng họ vẫn còn "hoài nghi', niềm hoài nghi, theo Jean
Radermakers, "là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động".
-
Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ ("Đức Giêsu đến gần và các môn đệ sấp mình
thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển được tôn vinh, được trao quyền tối thượng
xét xử toàn thế giới (Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho
Ta"), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền
này trở thành hiện thực.
Những
lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn trong sứ mệnh của người; một
sứ mệnh từ nay Người tiếp tục Giáo Hội.
] "Hãy
đi...! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động
công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các "chiên lạc nhà Israel ". Từ
nay, Người phá huỷ biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã
có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo
khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh
người" (Mt 12, 18 -21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của
sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn kết, Tin
Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát
ấy cho Giáo Hội của Người.
Claude
Tassin nhận xét: "Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một
sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không
phân biệt. Vì Đức Giêsu có "mọi quyền năng", nên mọi người được mời gọi
đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì?
Các môn đệ hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; nhũng ai cảm thấy giáo huấn của Đức
Giêsu biến đổi cuộc đời mình. Hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác,
"dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn" của Đức Giêsu gồm tóm trong luật
duy nhất: tình yêu" (O.C., trang 304).
]
"Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha: và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức
hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng
đoàn những người, nhờ bí tích rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ
đâm rễ sâu vào một gắn bó chung "nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa
Thánh Thần”. Tạp chí "Célébrer" số 269 nói: ."Công thức nhân
danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân ước. Những bản văn khác nói về phép rửa
"nhân danh Đức Giêsu" hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần". Tuy
không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có
lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh
Matthêu phụ trách. Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người
lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa:
]
"Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào
việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích
rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J.
Radermakers nhận xét: "Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn
bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí
tích Rửa tội và về phương diện nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng
ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý không gì khác hơn là Tin Mừng
biến thành hành động" (Sđd, trang 365).
]
“Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên
bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn ở đoạn kết Tin Mừng,
Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm
nơi Đức Giêsu: "Tên người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.
J.
Potel kết luận: "Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô
hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội ở mọi nơi, cho đến tận cùng thời
gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối
cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: "Thầy sẽ ở với
anh mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: khi có hai ba người tụ họp
nhân danh Thầy, Thầy sẽ ờ giữa họ, (Mt 18,20). Phục Sinh không ở lại trên núi
Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian"
("Đức Giêsu, lịch sử đích thực", Centúrion, 1994, trang 516).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội
(Mgr. L.Daloz, "Nước
Thiên Chúa đã đến gần", Centurion-duculot, tr. 385).
Hình
thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: "Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của
Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ
tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba
khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu
nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những
lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội.
Không có ba yếu tố đó sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba
có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả
các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức
Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa:
nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông
đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua:
"Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu
Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với ta".
2. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho
ta biết Người ở “với ta”.
(Báo Fêtes et Saisons số 496, "Ba Ngôi Thánh", trang 31).
Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự
đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người
sáng tạo, hay đúng hơn từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu
nhiệm như thế - Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế
giới mà người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi
lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên
Chúa Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba
Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người
đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế.
Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô
vàn khác biệt và siêu việt dường nào.
Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho
ta biết Người ở "với ta". Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở
trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có
ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa ta trần gian. Như cuộc đời
Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần
gian và với anh em ta; hình ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với
những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.
3. Được mời
gọi đến khám phá Thiên Chúa hàng sống và chân thật. (Thư các Đức Giám Mục gởi
người Công giáo Pháp, Cerf trang 50-52).
Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng
can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng
ta. Nếu ta có đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người,
cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống được yêu như những người
con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ
biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con
riêng của Người. Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu
ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống
và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã
khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và
tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con" (Rm 8,22), nhưng vẫn
"giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư
nát" (Rm 8,20-21).
Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời,
qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và
tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải
thoát khỏi sự dừ và sự chết (x. Rm 8, 22-23) .
Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của
Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các
tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm
nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và
lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu đó .
Đứng trước mạc khải về chiều sâu của
Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường
xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức
nhưng yếu tố cơ bản của kinh “Credo" là không đủ. Tất cả chúng ta đều được
mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Người, nhận
biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô.
Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều
cần đến Giáo Hội nhu cầu nơi để đọc chăm lo bú mớm, nơi cảm nghĩ đức tin bén rễ.
Thực vậy, Giáo Hội không ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không
chỉ là một nhóm các bạn hữu Đức Kitô hoặc hiệp hội nhưng người tưởng nhớ đến
Người.
Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là
"bí tích trong Đức Kitô. Nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp
kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại"
(Lumen Gentium 1).
Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân
tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để
được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh
Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với
họ.
21.
Chú giải mục vụ của Claude Tassin.
CHÚA GIÊSU GẶP GỠ
VÀ SAI PHÁI CÁC MÔN ĐỆ NGÀI
Các
phụ nữ đã chuyển giao hoàn thành xong sứ điệp bởi vì hiện giờ các môn đệ đang tụ
họp cho cuộc gặp gỡ tối hậu đầy trang trọng. Chúng ta hãy cố gắng hiểu cho được
tình cảnh của Matthêu khi ông đặt bút soạn thảo chương kết này. Các truyền thống
mà Matthêu cậy dựa đều phù hợp với nhau về sự kiện Đức Giêsu đã hiện ra ở
Galilê; tuy nhiên không một truyền thống nào đã bảo tồn các trình thuật về những
cuộc hiện ra ở Galilê này. Bỏ qua một bên mọi tưởng tượng, tác giả Phúc Âm phải
xây dựng sứ điệp mình dựa trên các mô
hình Kinh Thánh về việc soạn thảo (a) và trên các chất liệu được Giáo Hội ông nhận biết (b).
1) Ở đây Matthêu sử dụng nhiều mô hình, tuy nhiên lược đồ nền
tảng là lược đồ các sắc chỉ vương triều
được xây dựng như sau:
Ta
đã nhận lãnh quyền hành như thế. Vậy Ta truyền… Như vậy các lời nói của Đấng Phục
Sinh được soạn lại như sau:
a) “Mọi quyền
hành đã được ban cho Ta” (c.18)
b) Vậy, các con
hãy đi… (c.19-20a)
Sự
lựa chọn này không phải là ngẫu nhiên: Kinh Thánh Hy Bá Lai mà tác giả Phúc Âm
sử dụng đã kết thúc chính xác (2Sb 36,23) bằng một sắc chỉ vương triều giống thế,
sắc chỉ của vua Cyrus. Hình bóng của Đấng Mêsia trong truyền thống Do thái thời
xưa (x. Is 45,1). Như thế, Matthêu đã mở đầu tác phẩm của mình bằng cách nói về
“Sách Sáng Thế” (1,1) và kết thúc bằng lời ám chỉ đến câu cuối cùng trong Cựu Ước:
Lịch sử Chúa Giêsu hoàn tất tất cả lịch sử Thánh Kinh.
2) Về mặt chất liệu, hầu như ở mỗi lời trong 5 câu này, đều
thấy có can dự đến một bản mục lục gồm những chủ đề lớn được Matthêu khơi động
dọc suốt Phúc Âm của ông. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong một Giáo Hội đầy sợ
hãi, nơi mà các thành viên gốc Do Thái vẫn còn nghĩ rằng phải tập trung chú tâm
mình “các con chiên lạc nhà Israel”, có thể là các Kitô hữu khác, dày dạn hơn,
tự nuôi sống mình bằng khẩu hiệu này “kêu gọi dân ngoại (bất cứ ai) trở thành
môn đệ; tháp nhập họ (ngay cả nhóm người của Gioan Tẩy Giả) bằng phép Rửa tội
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chia sẻ cho họ tất cả những gì Chúa Giêsu
đã dạy cho chúng ta” (c. 19-20). Đây chính là chương trình của Giáo Hội! Trong
đoạn kết, Nhân Danh Chúa Kitô, Matthêu đã đưa ra lý do bênh vực cho sự bảo trợ
chí nguyện này và hun đúc lại lòng can đảm của những kẻ đang co rúm lại. Tuy
nhiên, để kết thúc, cần phải nhớ lại chính bản văn của tác giả Phúc Âm, bản văn
ấy còn sung mãn hơn cả những nỗ lực làm sáng tỏ này.
Các
câu 16-17 cung cấp bức khung những lời cuối cùng của Đấng Phục Sinh. Như Luca
thì hẳn đã diễn tả rằng nhóm tông đồ bây giờ là nhóm Mười Một (tông đồ). Đang
khi đó, trung thành với chính mình, Matthêu lại nói đến mười một môn đệ: vào
lúc được Chúa sai phái, họ vẫn luôn luôn là các “học trò”, đây quả là một ý tưởng
quan trọng đối với các khái niệm thừa sai của tác giả Phúc Âm.
Galilê
biểu tượng thế giới dân ngoại, mặc lấy trọn vẹn ý nghĩa của nó qua việc Chúa
sai phái các môn đệ đi toàn thế giới, điều này sắp sửa dội vang. Tuy nhiên,
chính xác hơn cuộc gặp gỡ đã xảy ra ở “trên núi”. Tựa như một chuỗi nối tiếp
quyện vào nhau, người ta thấy lại ngọn núi nơi trước đây ma quỷ đã phô bày cho
Chúa Giêsu mọi vương quốc của trái đất, ngọn núi “Bát Phúc” nơi Chúa Giêsu đã
công bố Hiến Chương Nước Trời và ngọn núi “biến hình” nơi vinh quang của Con
Người từng toả sáng, và trên tất cả những thứ đó là bóng hình ngọn núi Nêbô
(Đnl 34) nơi Môsê nói lời vĩnh biệt khi dân tộc ông sắp bước vào miền đất hứa.
Quang
cảnh cuối cùng trước đây các môn đệ để lại là quang cảnh họ bỏ trốn chạy
(26,56); còn giờ đây họ đang phủ phục trước Chúa Giêsu; “Tuy nhiên, vài người vẫn
còn hồ nghi” nên vẫn chưa thực hiện được hành trình đức tin dẫn họ đến niềm vui
không pha tạp (x. 28,8). Mô hình ngờ vực là một yếu tố truyền thống thường thấy
trong các trình thuật Chúa Phục Sinh hiện ra, yếu tố này lẽ ra buộc Đấng Phục
Sinh phải giúp các môn đệ nhận ra Ngài cũng như Ngài phải trấn an họ, tuy nhiên
ở đây Chúa Giêsu đã không hề làm như thế. Ngày xưa Ngài đã từng nói với Phêrô
“Hỡi kẻ kém lòng tin, tại sao ngươi lại nghi ngờ?” (14,31). Đức tin vẫn mãi mãi
đòi ta phải liều và chính trong ‘hành động’ thừa sai (c.19-20) các môn đệ mới
có thể chiến thắng nổi những ngờ vực của họ.
Ở
câu 18, người ta nhớ lại vào cuối Kinh Thánh Hy Bá Lai, vua Cyrus đã tuyên bố:
“Chúa là Thiên Chúa, Ngài đã ban cho tôi tất cả vương quốc trên mặt đất” (2Sb
36,23). Và lớn lao hơn chính quyền năng trên trời được thông ban cho Con Người
mầu nhiệm trong sách Daniel: “Người được Thiên Chúa ban cho mọi quyền hành… mọi
dân tộc sẽ phụng sự Người… quyền hành muôn thuở” (Dn 7,14). Ở đây không hề thấy
một quang cảnh hùng vĩ, tuy nhiên qua bức tranh cuộc phán xét cuối cùng (25,31)
được gợi lại Chúa Giêsu quả quyết rằng kể từ nay Thiên Chúa đã trao ban cho
Ngài vương quyền hoàn vũ này.
“Vậy”
(c.19) “các ngươi hãy đi chiêu mộ môn đồ từ mọi dân tộc”. Chúa Giêsu không nhấn
mạnh đến từ “Đi” cũng không nhấn mạnh đến sứ mệnh chinh phục mặt địa lý mà nhấn
mạnh đến việc mở lòng đón nhận tất cả mọi nhóm người không phân biệt. Bởi
vì Chúa Giêsu nắm trọn quyền hành, cho nên mọi người đều được mời gọi sống dưới
quyền hành của Người. Đối với Matthêu, sứ mệnh là gì? Là các môn đệ đi chiêu mộ
kẻ khác trở thành môn đệ, là mọi người nam cũng như nữ sau khi cảm nghiệm rằng
lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc hiện sinh của họ sẽ đem chia sẻ
kinh nghiệm đó với kẻ khác “dạy cho họ giữ tất cả mọi huấn lệnh của Chúa Giêsu”
được tóm gọn lại trong chỉ một lề luật yêu thương.
Tuy
nhiên sứ mệnh đó không phải là sự triển khai một ý thức hệ, dù rằng cao đẹp mấy
đi nữa. Nó không ngừng đòi hỏi phải tạo ra một cộng đoàn, gồm những người; qua
nghi thức Rửa Tội, muốn ghim chặt mối dây liên đới với nhau trong một tuỳ thuộc
chung: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (c.19). Đây là công thức mầu nhiệm
Ba Ngôi duy nhất trong Tân Ước nói về phép Rửa Tội “Nhân danh Chúa Giêsu” hay
“Trong Thánh Linh”. Danh xưng Ba Ngôi ở câu 19 chắc chắn phát xuất từ Phụng Vụ
Thánh Tẩy đang thịnh hành trong Giáo Hội của Matthêu. Tác giả Phúc Âm sẵn sàng
chấp nhận danh xưng này và qua đó ông đưa độc giả mình về lại với tất cả những
gì họ đã học biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh suốt những trang
Phúc Âm của ông.
Trong
một cách thức nào đó, Đấng Phục Sinh đã kết luận như sau: “Các ngươi còn ngờ vực”,
vậy hãy liều thân đi phục vụ mọi người. Khi thấy họ quay về với đức tin bấy giờ
các ngươi sẽ khám phá rằng thực sự “mọi quyền hành đã được ban cho Ta” và nhất
là các ngươi sẽ khám phá ra rằng chính Ta, Ta luôn ở cùng các ngươi mọi ngày
cho đến tận thế (c.20). Suốt dòng lịch sử, Đấng Phục Sinh vẫn luôn mãi là Đấng
Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23): Như thế phần đầu và phần cuối
Phúc Âm đã phúc đáp cho nhau, ngoài ra dòng Phúc Âm đầu tiên (1,1) ghi nhận:
“Các nguồn gốc”; sự khởi nguyên còn dòng Phúc Âm cuối cùng nhắc đến “Thế mạt”
(28,20): Bản thân Chúa Giêsu thâu tóm toàn lịch sử nhân loại; Tuy nhiên kể từ
“ngày đầu tiên trong tuần” (28,1) tức buổi sáng Phục Sinh, lịch sử này đã tháp
nhập vào đó sự dấn thân và chứng ngôn của Kitô hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét