CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - A
1. Củng cố đức tin.
Kết thúc đoạn Tin Mừng sáng hôm nay,
Chúa Giêsu đã lên tiếng ca ngợi đức tin của một người đàn bà Canaan .
Còn đức tin của chúng ta lúc này thì sao? Mạnh mẽ hay yếu kém? Nếu như đức tin
của chúng ta lúc này đang yếu kém, thì có cách nào để củng cố, để gia tăng hay
không?
Đức tin có thể được sánh ví như một
bắp thịt. Nếu không chịu khó tập luyện thì bắp thịt ấy sẽ suy yếu dần. Trái
lại, càng luyện tập, thì bắp thịt ấy càng trở nên mạnh mẽ. Đức tin cũng vậy, nó
cần phải được tập luyện. Trong phạm vi này, chúng ta có nhiều cách để tập luyện
để củng cố cho đức tin nên mạnh mẽ.
Trước hết, chúng ta có thể học hỏi lời
Chúa, tìm hiểu Phúc Âm như chúng ta đang làm trong giây phút này. Chúng ta có
thể tham dự thánh lễ một cách sốt sắng. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng tư một
cách có ý thức, để kín múc nguồn sinh lực thiêng liêng cho đức tin của mình. Tuy
nhiên có một phương cách luyện tập đức tin rất hữu hiệu.
Trong tác phẩm “Anh em nhà Karamaốp”,
Dostoevski, kể lại rằng: Một bà già bị khủng hoảng về đức tin, đến hỏi ý kiến
một vị linh mục. Cuối cùng vị linh mục đã đưa ra một phương cách để giúp bà củng
cố niềm tin của mình, đó là bằng tình yêu. Vị linh mục nói: Hãy cố gắng yêu
thương láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà chắc chắn hơn về sự
hiện hữu của Chúa và đời sống mai hậu sau khi chết. Càng yêu thương, đức tin
của bà càng lớn lên và những nỗi ngờ vực sẽ bị tiêu tan.
Từ lời khuyên này, chúng ta nhận thấy
đức tin và đức mến luôn đi đôi với nhau, không khác gì hai thanh sắt của đường
rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm được cái kia. Đức tin và đức mến liên
kết với nhau mật thiết như xác với hồn. Chúng ta có muốn thực sự tin vào Chúa
hay không? Nếu muốn, thì chúng ta phải làm một điều gì đó cho Ngài. Giữa thời
buổi đầy ngờ vực này, thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà chúng ta
cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần trụi được mặc, thì lúc đó chúng
ta sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm những điều ấy cho Ngài.
Chúa sẽ tỏ lộ chính Ngài cho chúng ta
như thể Ngài là một người vẫn còn sống. Và điều này dẫn chúng ta trở lại với
người phụ nữ Canaan của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bà đến với Chúa là vì kẻ khác chớ không vì mình. Bà đến với Chúa vì tình yêu,
với tư cách của một người mẹ, một người mẹ đầy yêu thương đối với đứa con của
mình. Cuối cùng Chúa đã lên tiếng ca ngợi đức tin của bà.
Trong phạm vi đức tin, có những ngày
tươi sáng và hứng khởi, nhưng cũng có những ngày ảm đạm và khủng hoảng. Nếu như
lúc này đức tin chúng ta đang suy yếu, ngoài việc học hỏi và cầu nguyện chúng
ta hãy thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó chúng ta sẽ gặp được Chúa
nơi những người anh em của chúng ta.
Sau thế chiến thứ II ít lâu, người ta
thu dọn những đổ vỡ và người ta thấy trên một bức tường nhỏ, có hàng chữ sau
đây của một người Do Thái đang trên đường trốn tránh bọn Đức quốc xã. Người Do
Thái ấy đã viết như thế này: Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu
sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc nó vắng bóng. Tôi tin vào Thiên Chúa
ngay cả khi Ngài yên lặng.
2. Lòng tin của bà mạnh thật.
Suy Niệm
Một người mẹ có đứa con gái bị quỷ ám.
Bà là dân ngoại, còn Đức Giêsu là người Do thái. Ít khi Ngài đến vùng đất quê
hương của bà. Không rõ nhờ đâu mà bà biết được Đức Giêsu. Khi thấy Ngài, bà tin
rằng cơ may đã đến, con bà hoàn toàn có hy vọng khỏi bệnh.
Đức Giêsu khen bà là người có lòng tin
lớn lao. Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy điều đó. Lòng tin lớn
lao biết kiên trì khi Chúa thinh lặng.
Bà xin Ngài nhìn đến nỗi đau của người
mẹ, đau vì nỗi đau của đứa con. Nhưng Đức Giêsu không đáp lại một lời. Phải
chăng Ngài lạnh lùng trước nỗi đau, lãnh đạm trước điều Ngài có thể làm được?
Lắm khi chúng ta cũng gặp sự thinh lặng như thế. Chúng ta khắc khoải tự hỏi:
Chúa có nghe gì không? Chúa có thấy gì không?
Lòng tin lớn lao biết kiên trì khi bị từ
chối.
Bà chẳng ngã lòng trước sự thinh lặng
của Đức Giêsu. Bà cứ đi sau mà kêu, kêu hoài, kêu mãi. Rồi bà trực tiếp giáp
mặt Ngài, và nài xin Ngài cứu giúp. Kết quả là một lời từ chối không khoan
nhượng: "Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con." Bà có bị
sốc không khi Đức Giêsu ví dân ngoại với chó con nuôi trong nhà không đáng được
hưởng phần bánh của con dân Israel ?
Chắc chắn bà đã chẳng thất vọng trước lời từ chối này.
Lòng tin lớn lao là lòng tin khiêm tốn.
Bà chấp nhận lối so sánh của Đức
Giêsu. Bà chấp nhận mình chỉ là chó con, chỉ dám trông chờ những vụn bánh từ
bàn rơi xuống. Bà không dám mong được phần ăn của các con. Sức mạnh của lòng
tin ở nơi sự khiêm tốn.
Tin không phải là đòi hỏi. Tin là chờ
đợi tất cả từ tay Chúa, và đón lấy tất cả như hồng ân nhưng không.
Đức Giêsu từ chối giúp người phụ nữ
dân ngoại vì Ngài thấy rõ sứ vụ Cha giao cho Ngài: Ngài chỉ được Cha sai đến
với người Israel
thôi. Nhưng Đức Giêsu không cứng nhắc trong nguyên tắc. Ngài tin Cha vẫn nói
với Ngài qua mọi cảnh ngộ, nên Ngài cứ để cho trái tim Ngài được tự do mở ra,
ngỡ ngàng và ngây ngất trước lòng tin của người phụ nữ. Ngài để cho mình bị
chinh phục và chấp nhận thay đổi quyết định ban đầu.
Thay đổi không phải là phản bội hay
thiếu ý chí. Thay đổi là trung thành và uyển chuyển để có thể nắm bắt được ý
Cha mới hé lộ cho ta.
Ước gì chúng ta để Cha dẫn đi từng
ngày, và mở chúng ta ra trước những chân trời mới.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Lòng tin lớn lao của người phụ nữ dân ngoại
đã khiến Đức Giêsu đổi ý. Ngài đổi ý vì Ngài nghe thấy một lời mời gọi mới của
Cha. Bạn là người uyển chuyển hay là người có tính nguyên tắc? Làm sao để uyển
chuyển không trở thành thiếu kiên định, và tính nguyên tắc không trở thành cứng
nhắc?
·
Bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn hiện nay? Bạn
có còn tin vào Thiên Chúa không? Theo bạn, tin là gì?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho
con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng con đã nhận được nhiều
ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì Cha
không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết
không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn
hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
3. Lòng tin của bà lớn thật.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức
Giêsu chữa bệnh từ xa, tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan
trọng lắm. Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan .
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo,
khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít. Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái
dùng để chỉ Đấng Mêsia. Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
YYY
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu
và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ
hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng
cách chữa lành cho cô con gái. Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người
không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và
kêu to. Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội. Khi
không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu. “Xin Thầy cho bà ấy đi
đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.” Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà
và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại
giữa bà và Đức Giêsu. Người phụ nữ vẫn là người độc thoại. Nhưng Đức Giêsu vẫn
chưa muốn nói chuyện với bà. Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của
mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên
lạc nhà Israel
thôi.” Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát. Nó như đặt một dấu
chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ. Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô
ích. Chị không phải là chiên của nhà Israel . Dân ngoại lúc này không
phải là sứ vụ của tôi, vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
YYY
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách
đến tột độ. Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,và sự từ chối
cương quyết của Đức Giêsu. Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà
làm thế. Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà
tiếp tục nài xin: “Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25); khác với lúc nãy: “Lạy
Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22). Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con,
dù có vẻ bà chỉ xin cho bà. Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt
quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với
hạnh phúc của con, vì tình yêu nối kết cả hai nên một. Tuy vậy lời nài xin này
của trái tim người mẹ dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu. Người
đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn
thương nghiêm trọng: “Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó” Con ở đây
là dân Israel ,
là người trong nhà, có quyền hành. Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong
nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt
phẳng.Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái. Họ tự hào
về tính ưu việt của mình Trong tư cách là Dân riêng của Chúa. Nói chung họ cho
rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
YYY
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn
của Đức Giêsu Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi. Trái lại, bà
đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế. Nhưng chó con
cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.” Bà chấp nhận mình chỉ là
chó con nuôi trong nhà, không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn. Bà tin rằng
dù mình không đủ tư cách để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do
Thái, bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ
chối thẳng thừng. Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
YYY
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của
bà. Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.” Đức Giêsu từng ngỡ ngàng
trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11). Giờ đây Người đối diện với lòng
tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho
lòng tin, khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối. Lòng
tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng. Lòng tin mạnh mẽ
và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu, và cuối cùng đã chạm được vào
trái tim của Người. Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
YYY
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện
với bà: “Này bà…” Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm. Người sẽ
đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bàch ỉ bằng một lời nói từ xa cho một
cô bé chưa hề gặp mặt: “Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
YYY
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó. Mẹ
cô đã được thương xót và trợ giúp. Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ
vụ Cha giao. Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại
lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha. Ý Cha
vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục. Ngoại lệ hôm nay sẽ
mở đường cho sứ vụ ngày mai: “Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn
đệ,” để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
YYY
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ
khổ vì con mình bị ám. Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại. Các bà mẹ
thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa. Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không
nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ
Dân ngoại, tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng và biết mình có thể
chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
YYY
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt
cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao
hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa
xưa nay.
YYY
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người
nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha
nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của
Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của
nó.
YYY
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
YYY
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng
cáp
qua những cọ xát đau thương của phận
người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC
MẸ
Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn.
Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người
phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do
Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách
càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến
với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối
bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy
chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn
nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất
ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu
trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn
những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin
tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.
Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ
nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai
phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà
không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết
nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị
coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc
tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con
nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng
thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt
người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên
rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc
trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên
cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công
hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi
cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.
Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái
độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh
Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà
đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả
mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được
những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn
vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực
chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà
được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là
tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà
đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận
dân ngoại vào Nước Chúa.
Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền
từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh
phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu
Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã
cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm
bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu
rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần,
được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.
Không những ban cho ta tấm bánh cứu
độ, Đức
Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu
trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã
hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.
Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của
Chúa.
Như xưa tại tiệc cưới Cana , Mẹ đã bảo các gia
nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ
cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì
Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và
rượu trở nên Thịt Máu Người.
Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh
Thể
như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.
Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như
xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm
hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.
Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa
Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh
Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy
ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa
Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.
Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo
được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia
nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy
chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự
tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không
ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong
những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về
tình thương của Mẹ.
Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một
cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ
nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về
đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh
phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi
gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự
tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.
Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con.
Amen.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo
đạt được ước nguyện?
2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương
cầu nguyện cho ta thế nào?
3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu
thế nào trong cuộc đời?
5. Ơn Cứu Độ phổ quát.
Tại một làng
bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện
cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi
vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân
chúng.
Khi nhà đạo
sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một
người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến
cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.
Người này
nói với Chúa:
-
Lạy Chúa,
Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa
không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thiên Chúa
đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu
nguyện.
Khi người
này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm
được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu
nguyện trong rừng.
Ông bèn thưa
với Chúa:
-
Lạy Chúa,
con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa.
Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.
Thiên Chúa
cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.
Thế nhưng
đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một
người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng
chẳng thuộc lời cầu nguyện.
Ông đã thưa
Chúa:
-
Lạy Chúa,
con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống
khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.
Thế là một
lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau
khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối
cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ
biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:
-
Lạy Chúa,
Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu
cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.
Nói xong ông
quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của
ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.
Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu
thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng
tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải
những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt
yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn
vẹn.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy
Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan ,
vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố
xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa
Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền
năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà
Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh.
Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin
Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được
sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”xem ra ăn khớp với
yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel
có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong
dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay
người kia.
Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát,
người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến
đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho
con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy,
nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà
ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà
đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con”trong
nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được
khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên
về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của
bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Thưa anh chị em,
Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con
người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì
bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ
của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức
Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là
Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ
hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu
độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để
đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong
Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.
Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của
Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua
Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương
đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi
dân tộc trên thế giới.
6. Đức Kitô không để người nào ở ngoài.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ của – Charles E. Miller)
Đôi khi có vẻ như thời đại này có
nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công giáo tranh cãi
với nhau về nhiều điều và phương tiện truyền thông đại chúng giống như thế gian
tin rằng nước Mỹ chống lại mọi điều Đức Thánh Cha đã nói. Khi những cuộc tranh
cãi kết thúc trong oán ghét và chia rẽ, chúng ta biết rằng chúng thật tai hại.
Thật sự là không có gì trong Giáo Hội
hiện nay của chúng ta có thể so sánh với sự tai hại và cay đắng trong cuộc
tranh cãi nơi Giáo Hội tiên khởi giữa người Do thái và dân ngoại trở lại với
đức tin. Những người Kitô hữu Do thái, những người được gọi là “những người
nhiệt thành” tin rằng những người dân ngoại muốn trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu, họ phải được cắt bì và theo luật Môisen. Nói cách khác, họ phải trở
thành người Do thái trước đã. Những người dân ngoại thì nhấn mạnh là Chúa Giêsu
đã thực hiện mọi việc mới rồi. Người đã mở rộng sự mời gọi cho tất cả mọi
người, không phân biệt chủng tộc để thân mật với Thiên Chúa của Israel ,
Đấng là Thiên Chúa thật.
Sự mời gọi của Người đã được tiên báo
trong sách tiên tri Isaia. Bài đọc chúa nhật hôm nay được lấy từ phần thứ ba
trong sách tiên tri Isaia. Đoạn văn ấy nói về những người Do thái trở về sau
cuộc lưu đày ở Babylon ,
họ thấy quê nhà của họ đã bị những người ngoại quốc xâm chiếm và họ rất phẫn
nộ. Những người Do thái trở về luôn bị cám dỗ phải đánh đuổi những người ngoại
quốc hoặc họ phải nghe theo lời giảng dạy của tiên tri isaia, lời ấy nói rằng
những người ngoại quốc ấy có thể hợp làm một với họ và đáng được Thiên Chúa
chấp nhận. Chúa nói qua miệng tiên tri rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu
nguyện cho mọi dân nước”.
Chủ nghĩa đại kết là một bài học khó
nhai đối với người Do thái. Đó là lý do vì sao vào thời Chúa Giêsu và ngay sau
đó diễn ra một cuộc tranh cãi mạnh mẽ về chỗ của người dân ngoại. Người đàn bà
xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay không phải
là người Do thái, bà ta là người dân ngoại. Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn
Người đừng làm gì cho bà ta và muốn đuổi bà ấy đi. Khi người đàn bà cự lại và
xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái bà, Chúa Giêsu đáp: “Không lý gì lại lấy
thức ăn của con cái mà ném cho chó”. Tại sao Chúa Giêsu lại nói nặng lời như
thế và điều đó có ý nghĩa gì? Thật ra những lời của Người chỉ là tiếng vang của
những người Giuđa không muốn Người làm gì cho dân ngoại và coi dân ngoại như
chó vậy. Thánh Mathêu khi viết Phúc Âm, ngài đã hy vọng rằng khi nghe những lời
nặng nề khó nghe trên môi miệng của Chúa Giêsu sẽ làm cho những người nghe bị
sốc vì sự loại bỏ dân ngoại đến cỡ nào. Người đàn bà với đức tin của mình đã
chiếm được ân sủng nơi Chúa Giêsu.
Ngày nay, chúng ta không nghĩ rằng mọi
người phải trở thành người Do thái trước khi trở thành người Công giáo nữa.
Nhưng chúng ta có thể thực hành những hình thức khác của sự loại trừ. Trong một
số vai trò hình thức cũ đã trở lại “chống chủ nghĩa Semit” ngày nay đã thay thế
“chủ nghĩa bài dân ngoại” của thế kỷ Kitô giáo đầu tiên. Chủ nghĩa chủng tộc là
một vấn đề nghiêm trọng nơi xã hội của chúng ta ngày hôm nay. Oán ghét dân nhập
cư, nhiều người trong những phong trào đó, mang danh là người công giáo, đã
được gán cho một từ rất lạ, chủ nghĩa “bài ngoại”.
Từ mà chúng ta sẽ tập trung chú ý là
“người Công giáo”. Từ đó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo Hội toàn
cầu, bao gồm cả thế giới, Giáo Hội thân thiết với mọi dân tộc. Mọi nhà thờ công
giáo đều là nhà cầu nguyện cho tất cả mọi người. Ở đó Thiên Chúa đã tự hiến vì
tất cả chúng ta, không phải là những bánh vụn rơi từ bàn ăn nhưng là Thịt và
Máu Chúa. Chúa đã đến với chúng ta trong Bánh Thánh, là Chúa của mọi dân tộc.
Trở nên tín hữu của Người là chấp nhận tất cả mọi người không loại trừ một ai
hết.
7. Hỡi người đàn bà kia, đức tin của ngươi rất mạnh!
Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ.
Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người mẹ. Ngài không quở mắng bao
nhiêu mẹ của Giacôbê và của Gioan khi bà xin cho họ làm bộ trưởng (Mt 20, 20).
Ngài âu yếm chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô. Ngài bối rối do bà goá thành Naim
vừa mất đứa con trai của mình. Tôi nghĩ rằng điều này làm ta hiểu rõ hơn điều
sắp xảy ra giữa Chúa Giêsu và người mẹ xứ Canan.
Ngài là người Do thái đứng trước người
phụ nữ ngoại đạo, Ngài không muốn có chuyện rắc rối với bà. Thật là khổ sở,
nhất là đối với những người trẻ không chịu đựng nổi những câu chuyện giữa các
chủng tộc và những tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa có được dành cho tất cả mọi
người hay không?
Sự phổ quát của Chúa, rất cảm động,
vẫn có nguy cơ chỉ là lý thuyết. Chúng ta không thể dễ dàng lấn sang những khác
biệt đến thế. Phải thoả hiệp dần dần. Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi thứ của thân
phận con người, kể cả những giới hạn, và việc tìm kiếm ý của Chúa Cha đôi khi
rất là khó.
Chúng ta xét đoán Thiên Chúa rất
nhanh: Tại sao lại có một dân tộc được chọn? Tại sao Chúa Giêsu muốn bỏ rơi
người đàn bà Canan? Bởi vì, là người Do thái, Chúa Giêsu đi vào trong chương
trình cứu độ như Ngài biết chương trình đó qua Thánh Kinh của dân tộc Ngài, và
chương trình cứu độ bao gồm hai dữ kiện rất rõ ràng: 1/ Thiên Chúa muốn cứu
chuộc tất cả mọi người; 2/ Qua dân Do thái. Vào lúc này đây, Chúa Giêsu chỉ
nghĩ Ngài được phái đến “vì các con chiên lạc nhà Israel” mà thôi.
Tuy nhiên có người mẹ này đây. Một số
người đã nghĩ rằng Ngài tỏ ra dửng dưng (“thậm chí Ngài không trả lời”) để làm
cho đức tin của người đàn bà Canan này tăng lên! Nói như thế là chối bỏ mầu
nhiệm Nhập thể. Chúa Giêsu là một con người và đơn giản là Ngài bối rối giống
như một con người. Xua đuổi bà ta sao? Thoả mãn bà ấy để cho bà ấy về như các
môn đệ gợi ý hay sao? Các môn đệ khó chịu và khinh khi hơn là quan tâm đến các
chương trình của Thiên Chúa.
Đây là một bà mẹ, Chúa Giêsu bắt đầu
khuất phục và ít ra là cho bà ấy điều mà Ngài có thể cho: sự tử tế của một cuộc
đối thoại. Trước tiên hãy để cho con cái ăn no nê đã. Đừng quá vội vàng mang ơn
cứu độ đến cho những người không được chuẩn bị, những con chó con.
Người đàn bà Canan hoàn toàn nắm được
nét thân hữu trong những lời của Chúa Giêsu: người ta rất yêu quí những con chó
nhỏ nuôi trong nhà. Bà thật sắc sảo, bà là mẹ, bà quyết tâm đến với người có
thể cứu con gái của bà: “Những con chó nhỏ cũng được ăn những mảnh vụn”.
Lời nói tin tưởng này mở lòng Chúa
Giêsu. Người đàn bà Canan vừa xoá bỏ một lằn ranh nơi Ngài. Với một đức tin
khiêm hạ và sâu sắc đến nỗi bà không nói với Ngài: “Thầy hãy làm trái lại”. Bà
đã hiểu. Bà cùng Ngài đi vào trong những dự định của Chúa Cha: “Phải, lạy Chúa,
xin Ngài trước tiên hãy nghĩ đến con cái, nhưng xin đừng chậm trễ nghĩ đến
những con chó con có thể còn tin tưởng nơi Chúa nhiều hơn nữa”.
Thế là Chúa Giêsu làm một cử chỉ đánh
dấu tính hoàn toàn ưu việt của đức tin. Điều xảy ra với người đàn bà Canan
chứng tỏ rằng từ nay tất cả đều tùy thuộc vào đức tin. Người Do thái có sự ưu
tiên, người đàn bà Canan là một người mẹ làm xáo trộn tất cả, nhưng đã có một
điều duy nhất đáng kể, từ nay sẽ có một điều đáng kể mà thôi: “Hỡi đàn bà kia,
đức tin của bà rất mạnh”
8. Nỗi lòng người mẹ.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn
chia sẻ về tình thương của một người mẹ.
Người đàn bà xứ Canaan
hẳn đã đau khổ rất nhiều, khi đứa con của mình bị quỉ ám. Nghe đồn về Chúa
Giêsu, ngày hôm nay bà đã tìm đến gặp Ngài để xin Ngài cứu chữa đứa con yêu dấu
của bà. Bà nói:
-
Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi
bởi vì đứa con gái của tôi bị quỉ ám khốn cực lắm.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã yên lặng,
khiến cho các môn đệ cũng phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà lại kêu cầu:
-
Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp tôi.
Thái độ của Chúa Giêsu khiến cho chúng
ta cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ngài bảo:
-
Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.
Nếu như chúng ta, rất có thể chúng ta
đã bực bội tức tối vì cho rằng lời nói đó có tính cách mỉa mai và hạ nhục.
Nhưng người phụ nữ ngoại giáo này, chắc hẳn lúc bấy giờ đã nghĩ tới nỗi khốn
cùng của đứa con, nên bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà thưa cùng Chúa Giêsu:
-
Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những
mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.
Tới lúc này chúng ta có thể nói:
Niềm tin cậy trông và tình thương của
một người mẹ đã thắng, bởi vì Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ca ngợi bà và làm
phép lạ như lòng bà mong ước.
Ngài phán:
-
Này bà, bà có một lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn
sao thì được như vậy.
Và đoạn Tin Mừng đã kết luận: Ngay lúc
đó, con gái bà đã được chữa lành. Chắc hẳn lúc bấy giờ bà đã vui mừng hớn hở,
bà đã quì xuống cảm tạ Chúa rồi vội vã trở về với đứa con của mình đã được chữa
khỏi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ
đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín
tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm
nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người
mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.
Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy
luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương
lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người
mẹ.
Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý
khi ca tụng tình thương ấy:
-
Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào.
Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an
toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim
của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo
đáp công ơn của người mẹ hiền.
Một ngày kia, khi người mẹ không còn
nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc
bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.
Bởi đó, để kết luận tôi xin nhắc lại
nơi đây câu ca dao của người Việt Nam chúng ta:
Công cha như
núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như
nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ
mẹ kính cha,
Cho tròn chữ
hiếu mới là đạo con.
9. Một đức tin mới mẻ và mãnh liệt – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần
đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân chúng ở đây là người Do
thái sinh sống tại vùng này, vì thế dân ngoại cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về
phương diện hiểu biết lề luật của Chúa nên chúng ta không ngạc nhiên mấy nếu
một vài người ngoại đạo lại biết vài đoạn Kinh Thánh nho nhỏ. Điều này giải
thích danh từ ‘con vua Đavít’ mà người phụ nữ Canaan
đã dùng để thưa với Chúa. Tại sao Chúa Giêsu lại đi lên tới vùng này? Có lẽ là
để đi xa xứ Galilêa một ít vì nơi đây tính cách đại chúng của Người có thể lam
cho nhiều tâm hồn nghĩ lầm về một Đấng Cứu Thế trần gian. Cũng có lẽ Người lên
đây là để đào tạo các môn đệ cách thong thả hơn. Nhất là qua cách Người cư xử
với người phụ nữ Canaan Người muốn dậy các môn đệ một bài học thường thức. Họ
sẽ nhớ lại khi đặt vấn đề người ngoại giáo gia nhập Giáo Hội, gia nhập Nước
Trời và họ sẽ biết là không thể nào từ chối không cho người ngoại giáo gia nhập
được. Nói chung thì đoạn Tin Mừng này tuy bề ngoài có vẻ cứng cỏi, nhưng cho
thấy rõ là Chúa Giêsu quan tâm đến người ngoại giáo cách sâu xa và Người hằng
yêu mến họ. Nó cũng chứng tỏ người ngoại giáo có một khả năng mới mẻ và mãnh
liệt để đón nhận đức tin. Đức tin của người phụ nữ Canaan
đánh động chúng ta ở những điểm nào?
1) Đây là
một đức tin khiêm tốn. Người phụ nữ bất hạnh có người con gái bị
ốm, đau khổ đến nỗi kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà ta không có vẻ
hiếu thắng. Bà ta không ý thức là đang nêu ra một quyền lợi. Trái lại khi nghe
Chúa bảo là tình thế muốn Ngài hoạt động ở Israel chứ không phải nơi người
ngoại giáo, bà ta đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ của lời cầu
xin. Bà ta cầu xin và bà đặt mình ngang hàng với đàn chó con sống bằng những
mụn bánh dư thừa từ bàn ăn rơi xuống. Người phụ nữ Canaan
đã gắn bó cho đức tin cái tính chất khiêm nhượng, khiến Chúa phải xiêu lòng.
Đức tin vẫn là một tiếng kêu hồn nhiên. Nếu phải phân tích ta sẽ thấy trong đó
dấu hiệu của một sự đau khổ lớn lao, một sự choáng váng vì trông cậy đột ngột
và kẻ đó là một sự an tâm đầy tin tưởng. Hình như người phụ nữ Canaan khi được Chúa trả lời và như thế là được Người
quan tâm đến, đã nắm chắc phần thắng. Một cách chắc chắn, bà ta cảm thấy là
Chúa sẽ chữa lành cô con gái của bà.
2) Đây là
một đức tin nài nỉ. Đức tin dừng lại cách mạnh mẽ ở một điểm rõ ràng: Chúa
Giêsu có thể chữa lành đứa bé đang bị ốm. Trước mặt Chúa, người phụ nữ Canaan đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào
quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà ta bị xua đuổi một cách cứng
rắn, nhưng bà ta vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố, cái ngoan cố đặc biệt của bà
mẹ. Trên bình diện tâm lý đức tin này có tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh
nghiệm đau khổ và từ hy vọng sẽ được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng sâu
xa, người ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn người phụ nữ Canaan một ơn riêng (một ơn huệ) để bà bám chắc lấy Chúa
và tin tưởng vào Người.
3) Đây là
một đức tin mới mẻ và vươn xa. Đức tin không vướng mắc bởi các vấn đề,
những vấn đề từ nơi khác tới. Từ các tông đồ khi các Ngài cho rằng cách làm của
người phụ nữ Canaan chỉ nỗi quấy rầy và từ nơi Chúa Giêsu khi Người nêu ra vấn
đề quyền ưu tiên của dân Israel .
Đức tin của người phụ nữ Canaan lật đổ các vấn
đề để đi thẳng tới đối tượng, điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, từ
lâu chúng ta thường được nuôi dưỡng bằng rất nhiều ơn huệ của Chúa trong vụ trụ
đức tin. Tuy thế đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự
khiêm tốn mà nó phải giữ hay không? Phải chăng chúng ta bị vướng mắc bởi những
vấn đề thường làm suy yếu đức tin của chúng ta?
10. Lời cầu xin của bà được toại
nguyện
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục trình
bày việc Chúa Giêsu vượt qua biên giới để tiến vào vùng đất của dân ngoại, và
một người trong dân là người đàn bà xứ Canaan sắp sửa được dự phần vào tác vụ
của Ngài, đó là được lãnh nhận hồng ân như những người Do Thái. Đây là điểm
khởi đầu, một dấu chỉ mời gọi để rồi sau này các tông đồ được Chúa Thánh Thần
soi sáng vượt qua ranh giới hạn hẹp của quốc gia để đi đến tận cùng bờ cõi trái
đất rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc.
Khi bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu
gặp những lời kêu van của người đàn bà đang bị thử thách: "Lạy Con Vua
David, xin dủ lòng thương tôi, đứa con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm".
Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời nào, và trước lời khẩn cầu tha thiết như
vậy lại sao Chúa Giêsu không đáp lại
Lời cầu nguyện của người đàn bà thật
cảm động, thật chân thành, thế mà lại sao Chúa lại không đáp trả. Chúa là Đấng
nhân từ trước những người cùng khổ chạy đến kêu cầu Ngài. Hơn nữa, Ngài đã dạy
cho các đồ đệ cầu nguyện rằng: “Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho, hãy xin thì sẽ
được", thế mà lại sao trong lúc này Chúa tặng thinh không trả lời người
đàn bà, hẳn phải có lý do nào đó mà Ngài không trả lời.
Thật vậy, các tông đồ không thể hiểu
được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy, nên nói với Thầy mình:
"Xin Thầy bảo bà ấy về đi, kẻo bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu xin
mãi". Các đô đệ hiểu tầm thái độ im tặng của Chúa như một sự chối từ nên
các ông cũng muốn phủi tay: “Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho rảnh, đừng để bà ấy
quấy rầy nữa". Không những Chúa im tặng mà Ngài còn lên tiếng chối từ lời
van xin của người đàn bà trong cơn thử thách: "Ta chỉ được sai đến với
chiên lạc của nhà Israel ".
Đứng trước một thách thức về lòng tin
như vậy, người đàn bà xứ Canaan đã không ngã lòng trước lời từ chối của Chúa,
bà đến sụp Lạy dưới chân và thưa với Ngài rằng; "Lạy Ngài, xin thương giúp
tôi". Bà không thắc mắc, không giận dỗi hay trách móc Chúa thế này thế nọ,
nhưng bà khiêm tốn hạ mình hơn nữa. Bà không những van xin bằng lời nói mà còn
van xin bằng cả con người, bà sụp Lạy trước Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài
thương cứu giúp tôi". Sự im tặng của Chúa, sự chối từ của Ngài là một thử
thácho Thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện, Ngài muốn thử
thách người đàn bà van xin nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho
con cái mà ném cho con chó". Lời nói cứng cỏi này xem ra không phù hợp với
một con người nhân từ đầy yêu thương như Chúa. Và rồi thử thách đã đến mức độ
cuối cùng, ai có thể vượt qua được, nhưng người đàn bà dân ngoại này đã vượt
qua, bà đã thưa với Chúa Giêsu như sau: "Thưa Ngài đúng tắm, nhưng các chó
con cũng được ăn những vụn bánh từ nơi bàn ăn của chủ rơi xuống". Tâm hồn
khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong
đức tin. Giờ đây Chúa Giêsu mới trả lời: "Này bà, đức tin của bà đã được
chấp nhận, bà muốn sao thì được vậy". Người đàn bà đã xin được Chúa Giêsu
cho con mình khỏi bị quỉ ám.
Thái độ của Chúa Giêsu từ im tặng đến
chối từ đã hướng dẫn bà đến mức độ trưởng thành của lòng tin: "Lòng tin
của bà vững mạnh, bà muốn sao thì được như vậy". Sự thử thách đã đến lúc
chấm dứt, và cuối đoạn đường gian nan, khi nhìn lại xem ra như Chúa im tặng hay
từ chối trước lời ta cầu xin, nhưng giây phút đó là những giây phút quí báu vô
cùng, vì những phút im tặng và chối từ ấy giúp lòng tin của ta được trưởng
thành. Như vậy, vào cuối đoạn đường gian nan ta mới hiểu được phần nào chương
trình của Chúa cho cuộc đời của mình. Nhưng liệu ta có đủ sức để đi đến cuối
con đường, đến nơi mà Chúa muốn chúng ta trưởng thành trong đức Tin hay không?
Đó là một đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
11. Đau khổ.
Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con
đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu xin, nhưng Ngài đã thinh
lặng khiến các môn đệ phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà kêu xin, thì bị
Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn
không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó
cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã
phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.
Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được
một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian
nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết:
đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt
sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã
gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta
vốn thường cho rằng đời là nơi khổ ải, nơi khóc lóc, đời là thung lũng nước
mắt. Đứng trước những khổ đau và thử thách, người thì can đảm chấp nhận, không
kêu ca, không oán trách, kẻ thì hậm hực tức tối, khóc lóc than van, dường như ở
trên đời này chỉ mình họ là khổ đau mà thôi. Nếu có dịp, chúng ta hãy ghé thăm
những bệnh viện và chúng ta sẽ thấy những khổ đau chúng ta đang phải chịu,
chẳng thấm tháp vào đâu so với những khổ đau của người khác.
Ngày kia đức
Khổng Tử gặp Vĩnh Khải Kỳ, tay cầm đèn, vừa đi vừa hát một cách vui vẻ. Khổng
Tử bèn hỏi: Hôm nay có chi mà tiên sinh mừng vui thế. Vĩnh Khải Kỳ trả lời:
Trời sinh ra muôn vật, mà loài người là loài trọng nhất, bỉ nhân đây là loài
người, thì làm sao chẳng vui cho được. Trong loài người thì đàn ông hơn đàn bà.
Bỉ nhân đây được may mắn là đàn ông, thì làm sao chẳng vui cho được. Sinh ra có
kẻ mù lòa câm điếc hay què quặt, bỉ nhân đây không mù lòa, không câm điếc cũng
chẳng què quặt, thì làm sao chẳng vui cho được. Còn nếu như nghèo nàn, bệnh tật
và chết chóc là số phận chung của mọi người, không ai có thể tránh thì việc gì
mà phải buồn phiền lo lắng.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với
chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau
chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một
ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng
như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc
sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những
việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Vì thế, chúng ta
phải cố gắng biến những khổ đau chúng ta gặp phải trở thành nguồn ơn phúc, đem
lại lợi ích cho chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: Được chịu gông
cùm vì Chúa, tôi lấy làm hãnh diện hơn là ngồi trên 12 tòa các tông đồ mà xét
xử muôn dân. Tại sao thế? Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là
đường về vinh quang và thập giá là đường tiến tới Phục sinh.
12. Vững vàng tin tưởng.
Có một giai
thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh
mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thoả chí mạo
hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm.
May quá, anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh
cây kia, anh thở phào một cái, tuy nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như
thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước
mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh nghĩ chỉ
còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa
con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống:
“Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn con có thực sự tin Ta có
thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là
Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được,
nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh
niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng
nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”. Giả sử
chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không?
Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch
cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng
ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em
bé trong câu truyện sau:
Cách đây ít
lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cáy bùng lên
tại một ngôi nhà trong khi ngọn lửa đang phừng phừng bốc lên, người ta trông
thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu
nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra mình thiếu đứa con nhỏ nhất, một
đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng
sợ lùi lại rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể liều lĩnh đi
vào trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa
trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy
nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khóí lửa mịt mù, nhưng nó
nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó
lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào
vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy
lại không phải là hìng ảnh diễn tả người Ki-tô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa
sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng
vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời:
“Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có
bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như
Chúa đi đâu vắng lúc chúng ta cần đến Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay,một lần nữa, nhắn
nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược
được tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được
những việc quá sức tự nhiên của mình. Ngưòi phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã
có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị
quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương cứu trị, tức là tình cảnh của bà
đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà đã tin Chúa có thể cứu chữa được con
bà, nên bà đã đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn hết
lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chưã
con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội
trưởng ở Caphácnaum thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Canaan này, là
người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là
tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu
xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên
nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.
13. Lòng tin.
Trước Công đồng Vatican II, những
người tín hữu có đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không chịu ăn năn trở
lại, khi chết thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất trong nghĩa trang của
nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo là phần đất đã được thánh hiến, chỉ dành cho
những người tín hữu có đời sống xứng đáng mà thôi.
Có một ông
cụ già sống bê bối về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở
ra lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài hàng rào của nghĩa trang trong
xứ. Sau nhiều năm, cha sở đã đổi đi nơi khác, người con gái của ông già trở về
nhà thờ cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở
bên ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người
trông coi nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi
nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào
nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại dời mộ của thân phụ tôi?”
Người trông coi nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi đã không dời mộ của
ông cụ, nhưng vì bên trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất nữa, nên phải
mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.
Đây là điều Chúa Giêsu đã làm trong
bài Phúc Âm hôm nay, khi chữa bệnh cho con gái của người đàn bà xứ Canaan . Người đàn bà Canaan
đến với Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới do sự kỳ thị phân
biệt của xã hội.
Đối với những người Do thái, sự trong
sạch và nhơ bẩn được phân định rõ ràng. Nếu là người Do Thái và biểu tỏ đức tin
qua việc giữ luật Do Thái, người đó được coi là trong sạch. Nếu là ngoại kiều,
hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái, đó là người dơ bẩn. Sự phân
định ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!
Có hai điều làm cho người đàn bà xứ Canaan bị loại trừ trong bậc thang phân định giá trị của
người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu,
người đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu hoá bánh
ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê, “không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và
trẻ con không được kể đến, coi như không có giá trị. Hôm nay một lần nữa, thánh
Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan , mà
không nhắc đến tên của bà. Điều này có ý nghĩa. Chắc chắn bà phải có tên. Nhưng
không được nhắc đến tên chứng tỏ bà đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại trừ.
Điểm thứ hai, bà là người dân ngoại xứ
Canaan . Đối với người Do Thái, dân ngoại là
xấu. Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn
nữa. “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng
phong tục và lối nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh những người dân
ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng chiều và quý trọng chó
như xã hội tây phương thời nay. Gọi ai bằng chó là một điều sỉ nhục. Vì chó
liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh truyền nhiễm như trong câu chuyện người
phú hộ và ông Ladarô.
Theo William Barclay, bởi lòng kiêu
căng, người Do Thái đã gọi dân ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những con
chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những người theo Kitô giáo là “những con chó
Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi,
vị thánh của người Ấn Độ giáo, ông kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh,
ông đã đọc Phúc Âm và nhìn thấy trong những lời giảng dạy của Chúa Giêsu câu
trả lời cho vấn nạn lớn lao của người dân Ấn Độ phải giải quyết với chế độ đẳng
cấp. Đang khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một buổi
sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ với ý định sẽ bàn thảo với mục sư về tư
tưởng của mình. Tuy nhiên, vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn chỗ ngồi đã từ
khước không tìm chỗ và đề nghị ông nên bước ra ngoài đi đến nhà thờ dành riêng
cho giai cấp của ông. Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ trở lại nữa. Sau
này ông nói: “Nếu những người Kitô hữu cũng có những đẳng cấp khác nhau, thì
tốt hơn tôi nên ở lại với Ấn Độ giáo”. Vì sự kỳ thị và phân biệt mà người đàn
bà Canaan và ông Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng
Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy rằng ân sủng và tình yêu của
Thiên Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới của con người dựng nên.
14. Lòng tin.
Người ta kể
về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà
đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một
cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui
trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi
với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại
cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả”.
Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng
kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui
đùa trên bãi biển.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu,
chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện
bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ
thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức
tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên
trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát:
“Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay
đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo,
trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo,
Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu
Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với
một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người
với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết
với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa
đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ
thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.
Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị
hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ
với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và
Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương
dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như
những người con một Cha trên trời”.
Đối với những người Kitô hữu, trong
tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả
mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào
công cuộc hiệp nhất”.
Đối với những anh chị em ly khai, Công
đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng
những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm
thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô
và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm
chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là
chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc
Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.
Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan , chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong
đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang
đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn
bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình
yêu là động lực dẫn đến đức tin.
Trong cuốn
truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang
bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với
linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự
hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.
Linh mục
Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ
ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn
bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình.
Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên
Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên
mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có
kết quả.
Linh mục Mark Link S.J., trong bài
giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không
khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và
tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền
giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính
trọng Cuộc Sống” như sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không?
Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho
Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì
Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này
Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy
rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài
cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.
Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy
bắt chước người đàn bà Canaan , đến với Chúa
Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm
nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để
chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn
hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
15. Mỉm cười.
Chuyện kể
rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người
bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng
nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã
xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở
nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo.
Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
-
Cháu hãy bốc
cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm
cười đáp:
-
Vậy ông hãy
bốc kẹo giùm con.
Người bán
hàng ngạc nhiên hỏi:
-
Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm
trả lời:
-
Tại vì bàn
tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của
mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn
bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn
“những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay
lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả,
là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám. Đó chính là thái độ cần phải có khi
cầu nguyện.
Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình
là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót
Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao
giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những
lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã
chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ
được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel ”, thậm chí Người còn nặng
lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà
Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật,
bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác,
Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà
được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước
các môn đệ.
Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen
ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu
gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà
cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội,
mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người. Có thể nói, đức tin là một hồng ân
nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói:
“Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là
tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy
trông một mình Người mà thôi.
16. Người nghèo.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ
lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một
người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan
không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp
những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta
tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.
Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về
miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để
nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy
Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.
Phản ứng của chúng ta thế nào, khi
chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ
chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp
người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết
là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa
giẫm, ỷ lại.
Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một
niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản
ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan
là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng
nhanh càng tốt.
Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm
chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối
bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và
không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời
cầu xin của bà.
Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng
ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh
nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong
chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương
xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về
mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người
nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.
Gặp gỡ một người nghèo có thể là một
kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo
nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo
nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta
nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương
xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.
Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo
có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo,
chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng
ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho
mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm
sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.
Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và
bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương
xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu
thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng
ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có
thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.
Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt
Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể
với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu
nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng
ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của
Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác
qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn
như một người hành khất”.
17. Những bia đá niềm tin.
Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc
Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy
những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên
thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.
Tại sao vậy?
Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu
trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có lẽ
Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.
Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm
chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.
Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính
xác: “Lòng
tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được
khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có
lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin,
không xứng đáng nhận được ơn Chúa.
Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như
Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn
giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi
sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng
như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45).
Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh
sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công
Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận”
hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy,
của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn
dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn.
Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó
cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người... “Ta
sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của
Ta…” (Bài I - Is. 56, 6-7).
Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ
nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã
tuyên bố rõ ràng.
Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói
ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II: “Trước kia anh em không
vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương... để cho chính họ cũng được xót
thương” (Rm. 15, 30- 31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có
lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã
có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin,
nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là
một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân
ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh
mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.
Lòng tin mạnh thật của bà thế nào?.
Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức
Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người
Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế
khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến
thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21, 9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng
Cứu thế đến “Đem Tin Mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người
đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc.
4, 18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên
tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.
Như vậy lòng tin của bà vào lòng
thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như
David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót
của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với
Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc
nhà Israel.
Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ
ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ
không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không
xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được,
đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi
họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà
đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi
xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con
lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai
trong dân Israel
hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã
sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật,
bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương
lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan . Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa,
đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin
mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn
nhân hiền từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.
18. Người ngoại ở cửa bên cạnh.
Glady bị mù
từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô có thể tìm đường đi bất
cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai giúp đỡ, trừ khi cô đi vội
vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen
như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và va chạm ở những dãy hành lang.
Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô sống trong bóng tối luôn mãi
nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn đi mọi chỗ họ muốn tới.
Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.
Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà
khác gặp cản trở và đã hình thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là người Do thái. Bà ấy thuộc
về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ lâu còn là địch thù của dân
được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài xin cứu chữa con bà bị quỉ
ám.
Bà mẹ ở Canaan
này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa
thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những phép lạ của Chúa Giêsu, bà
lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không
tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường
và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn
Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất
vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa
mãn với những mảnh bánh vụn chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa
Giêsu khen ngợi lòng tin của bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.
Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này
trên thế giới. Ngay ở Hoa Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa
mà chỉ 50% chính thức lưu tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm
đến hàng triệu người không được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về
cá nhân, như bà mẹ ở Canaan, họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như
bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.
Mỗi người chúng ta biết một vài người
hay gia đình, một người láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen
thuộc, xem ra họ ít hay không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người
xấu đâu. Thực vậy, họ có thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân
thật, sự ân cần. Nhưng họ là nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều
cho họ, chân thành và đều đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn
hãy dâng thánh lễ này, hãy nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu
cho họ những sách báo công giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt
như lễ Giáng sinh, phục sinh, nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa
Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với
họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các
tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
19. "Này bà, bà có lòng mạnh tin".
(Suy niệm của Lương
Văn Liêm – Don Bosco)
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma,
Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng
không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại
họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những
gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ
Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã
nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính
Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu
và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và
vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa
kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ
thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ
đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử
hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà
đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe,
bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều
đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập
địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi
người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu
mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối
vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria
cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ
Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của
Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc
vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em”
Nói về người đàn bà xứ Ca-na-an trong
Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà
dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái
của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ
cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin
cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ
thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho
con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm,
đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ
Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất
khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái,
khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu
đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con
chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà
đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách
tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Ca-na-an: Lần đầu bà van xin, Chúa
như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp
lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel
mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp
lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho
chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa
hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa
rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin
cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người
và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều
mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã
thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái
bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã
ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu
tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà
lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những
cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe
qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm
Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối
cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu
nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng
con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.
20. Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên.
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà
muốn sao thì sẽ được vậy."
1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân
Ngoại:
Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine . Trình thuật
hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: "Ra khỏi đó, Đức Giêsu
lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra,
kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con
gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Người đàn bà Canaan
này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái
khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân
Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng
cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn
đệ thưa với Ngài: "Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta
mà xin mãi!" Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: "Thầy
chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi."
So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một
thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu
lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người
phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với
Chúa Giêsu:
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng:
-
"Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!"
Người đáp:
-
"Không nên lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho lũ chó con."
Bà ấy nói:
-
"Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó
con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."
2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp
của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng
"lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." Tuy
Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện
các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn
dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc,
nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: "Này bà, lòng tin
của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được
khỏi.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt
tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng
ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
-
Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua
đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng
ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.
21. Chú giải theo Fiches Dominicales.
ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ CANAAN
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1) Một cử
chỉ tượng trưng xảy ra ở ngoài biên giới…
Đám đông dân chúng theo Chúa trong
hoang địa Đức Giêsu đã nhân 5 ổ bánh và 2 con cá lên nhiều đến dư dật (Chúa
nhật thứ l8). Rồi Người bắt buộc các môn đệ lên thuyền và chèo sang bờ bên kia
trước. Trong khi đó Người rút lui lên núi cầu nguyện một mình. Rồi sau đó Người
đã đến nhập bọn với họ, bằng cách đi trên mặt biển, lúc thuyền của họ đang bị
sóng gió dập vùi (Chúa nhận 19). Giờ đây, các biệt phái và ký lục đến từ
Giêrusalem chất vấn Người về chuyện các môn đệ Chúa không giữ luật thanh sạch,
pbá tục lệ của tổ tiên. Đức Giêsu đặt lại các lề thói của tổ tiên vào đúng chỗ,
nghĩa là các tục lệ đó phải phục vụ các giới răn của Thiên Chúa. Đức Giêsu quả
quyết rằng sự thanh sạch của một người không lệ thuộc vào những thực hành, cho
dù nó hợp pháp và theo truyền thống đến đâu chăng nữa, nhưng chỉ lệ thuộc vào
hành động, phản ảnh nội tâm sâu xa nhất của người đó, phản ánh con tin của họ.
Điều đó dẫn đến việc gặp gỡ người đàn bà Canaan
ngoài giáo.
Sau cuộc tranh luận về chuyện
"sạch" và "dơ", Đức Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon , ngày nay thuộc miền
nam Liban, đó là miền giáp ranh với đất của dân ngoại. Một phụ nữ từ miền đó
tiến đến gặp Chúa. Một phụ nữ mà tác giả Matthêu đã cố ý gọi là người đàn bà Canaan , để chỉ rõ ý nghĩa cái hố sâu không thể vượt qua
giữa họ và thế giới Do Thái. Địa danh cổ kính này dùng để chỉ miền đất mà dân
Hipri đã đánh chiếm làm lãnh thổ của mình. Người phụ nữ ấy thuộc về "kẻ
ngoại" những kẻ “dơ", những dân mà dân Do Thái coi khinh như những
"con chó". Còn tệ hơn nữa, bà thuộc một dân tộc mà người Do thái
chính thống tránh xa hơn các dân khác, mà từ thời cha ông họ đã thề nguyền giữ
mối thù truyền kiếp. “Lạy Chúa, xin thương xót tôi" bà ấy van xin, trong
khi kêu Đức Giêsu bằng danh hiệu "con vua Đavit". Trước hết Đức Giêsu
làm thinh. Nhưng rồi bị các môn đệ nài ép đuổi người đàn bà vẫn đeo đẳng kêu
van ấy Người nhắc đến sứ mạng của Người là chỉ được sai đến với những
"chiên lạc của nhà Israel" mà thôi. J. Radmakers giải thích:
"Câu đáp của Đức Giêsu am hạp hoàn toàn với bài diễn từ khai mạc sứ mạng
của Người (câu 10,6). Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử
và địa lý trước, sau đó mới tới toàn thể các dân nước và lan rộng ra tới tận
cùng thế giới" ("Au fil de Evangile selon St Matthieu", trang
211).
"Lạy Ngài, xin hãy đền cứu
giúp" người phụ nữ một lần nữa sấp mình trước mặt Chúa và kêu cầu theo lời
kinh phụng vụ. Đức Giêsu bấy giờ nói trắng ra rằng: Người không thể lấy bánh
của con cái - là của dân Do Thái, dân của Lời hứa - để ném cho con chó nhỏ. Tuy
câu nói "chó nhỏ" thì đã nhẹ bớt ý khinh dể, nhưng câu nói vẫn còn
mang vẻ sỗ sàng. Người phụ nữ không phật lòng trước câu nói đó, bà còn dùng
chính lời đó để đáp lại Chúa một cách tinh tế. "Đúng vậy thưa Ngài, nhưng
những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn của
chủ”. Cl. Tassin giải thích: Bà ấy nhìn nhận rằng dân Israel theo lịch sử thánh
được ưu tiên, họ là "chủ”, còn bà là dân ngoại, bà chỉ cầu được những
"miếng bánh vụn" trong sự tuyển chọn mầu nhiệm của Thiên Chúa
(L'evangile de Matthieu Centurion, trang 167).
Đức tin mãnh liệt ấy đã gây nên sự ngỡ
ngàng nơi Đức Giêsu. “Bánh” Lời Chúa bị người Do Thái khước từ, vậy mà người
đàn bà này, một người ngoại giáo, một người xa lạ, một người "dơ" đối
với con mắt Do Thái, đã chấp nhận và chấp nhận với đức tin vững vàng. Chúa liền
kết luận "Hỡi bà, đức tin của bà thật to lớn bà muốn sao thì được vậy. Đức
Giêsu đả phá mọi cấm cản, dẹp tan mọi loại trừ để ban cho bà điều bà ta xin, đó
là con bà được lành.
2) Báo hiệu
một Tin Mừng không biên giới
Tác giả Matthêu thuật lại câu truyện
người đàn bà Canaan này có ý nhắm những người
Kitô hữu gốc Do Thái. Những người này tuy bị người đồng bào ruồng rẫy, nhưng họ
cũng vẫn cảm thấy lòng nghi kỵ mãnh liệt đối với những Kitô hữu gốc dân ngoại,
những người đón nhận Tin Mừng và gia nhập Hội Thánh ngày càng đông.
Đặt cuộc gặp gỡ này vào trong khung
cảnh "bẻ bánh", tác giả như muốn làm sáng tỏ giáo lý Tin Mừng về sự
cách biệt giữa người "sạch" và người "dơ" từ nay không còn
nữa. Từ nay điều kiện duy nhất để được ngồi vào bàn tiệc Hội Thánh đề ra cho
dân ngoại, và nhận "bánh của con cái" là lòng tin vào Đức Giêsu.
Từ một thái độ ban đầu của Đức Giêsu
xem ra Ngài chỉ chịu chết để cứu chuộc những người thuộc dân tộc tuyển chọn,
Matthêu đà dẫn đến bài học về phái độ cởi mở trong truyền giáo. Cl. Tassin
viết: "Đức Giêsu thật đã thi hành sứ vụ cứu thế đối với dân Israel cách
trung thành, tuy nhiên Người đã mềm lòng trước lòng tin mạnh mẽ của người phụ
nữ ngoại đạo... Ngày nay, nếu những người ngoại giáo cũng chứng tỏ một đức tin
mạnh mẽ như thế đối với Đấng Cứu Thế, lẽ nào Hội Thánh lại có thể đóng cửa
không cho họ vào. Lẽ nào Hội Thánh lại có thể đặt giới hạn cho Đức Kitô, ngăn
cản người chiếu sáng cho dân ngoại." (sđd trang 167-168).
Cuộc tranh luận giữa nhưng Kitô hữu
gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại đã tắt từ lâu. Nhưng trong Hội Thánh vẫn
còn âm ỉ cơn cám dỗ đối nghịch giữa những người thuộc các chủng tộc khấc nhau:
cám dỗ giả điếc làm ngơ trước những kêu gọi đến từ những nước xa xôi; cám dỗ
cuộn tròn trong vỏ ốc của mình; cám dỗ trốn tránh mạo hiểm và khước từ mở rộng
cửa để đón những cơ may. Do đọc lại đoạn Tin Mừng Matthêu hôm nay câu truyện
người phụ nữ Canaan mời gọi Hội Thánh hãy tìm
ra trong lịch sử của mình niềm hứng khởi và sức mạnh cần thiết để trung thành
với sứ mạng toàn cầu và liên tục tự vượt thắng chính mình.
BÀI ĐỌC
THÊM:
1/ “Đức tin phá đổ mọi rào cản”.
Người ta không biết tên bà, người ta
gọi bà là "người phụ nữ Canaan ”. Tuy
nhiên bà giữ một vai trò độc đáo Đức Giêsu và các môn đệ vừa vượt ranh giới,
bởi vì tình hình căng thẳng ở Galilê: Dĩ đào vi thượng mà. Họ đi về hướng Bắc,
đến Tyr và Sidon ,
ngày nay là miền nam Liban. Đã từ nhiều thập kỷ, người Do Thái giừ một khoảng
cách đối với dân chúng miền này, tôn giáo của người Canaan bị người dân trung
thành với Thiên Chúa Israel
khinh miệt. Một phụ nữ của xứ này đến kêu xin Đức Giêsu chữa con gái bà. Chúa
làm thinh. Khi các môn đệ nài xin Chúa ban phép lạ để thoát khỏi người đàn bà
quấy rầy, thì Chúa trả lời rằng Người chỉ được sai đến kiếm những chiên lạc nhà
Israel .
Rồi khi người đàn bà sấp mình dưới chân Chúa, thì Người còn tỏ ra cứng cỏi hơn:
"Không nên lấy bánh của con cái là ném cho chó con. Và đây chính là lúc sự
việc diễn ra. Một người phụ nữ chộp lấy cách gọi khinh bỉ đó và đối đáp lại
bằng câu ví: "Thât đúng vậy, nhưng chó con được ăn những miếng bánh vụn từ
bàn ăn của chủ rơi xuống. Bà ấy không phản đối, không chống lại. Bà chỉ kêu mời
Đức Giêsu đi tới cùng. Đức Giêsu ngạc nhiên: "lòng tin của bà quá lớn...”.
Và đứa con được lành bệnh. Đức Giêsu vừa bước qua một ranh giới, ranh giới nội
tâm. Chúa mở rộng tâm hồn cách quyết liệt. Câu đối đáp của người phụ nữ ngoại
này có chiều kích nhân đạo và tôn giáo vô hạn. Đối với các Kitô hữu đến từ các
dân tộc và tôn giáo khác - người ta thường kêu là "dân ngoại" - đoạn
Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu đến với người ngoại quốc, được coi là quý
hoá. Bởi vì họ có thể đồng hoá với viên đại đội trưởng, với người phụ nữ Canaan . Khi có cuộc tranh luận xem có cần phải theo đạo
Do Thái để theo chân Đức Giêsu không, thì người ta nhắc lại kỷ niệm này. Tại
sao Đức Giêsu khen ngợi người phụ nữ Canaan ?
Chính là vì đức tin kiên trì của bà. Nhìn bà, chúng ta cùng khám phá ra rằng
chúng ta cần phải học hỏi người khác, đôi khi cần chúng ta phải bỏ đi cái nhìn
hẹp hòi của ta, và nhận ra rằng Thiên Chúa Cha đến từ nơi khác.
2/ “Đức tin của môt người phụ nữ ngoại
Người phụ nữ Canaan
tuy biết rằng những người Do Thái mà bà đang khẩn cầu này nhìn bà cách kinh tởm
vẫn cứ nài nỉ dai dẳng. Các môn đệ, những người rất tôn trọng truyền thống, gợi
ý với Thầy mình: Xin Thầy làm phép lạ cho bà ấy đi, để chúng ta được yên. Đây
là cuộc gặp gỡ do Chúa quan phòng xếp đặt. Vì lòng kiên trì của người phụ nữ sẽ
thắng thái độ thinh lặng "theo luật" của Đức Giêsu. Nào Người sẽ giữ
thái độ khép kín trong bốn bức tường định kiến của dân tộc Người chăng? Nhưng
vị tiên tri Nagiarét đã phản ứng một cách bất ngờ và gây sốc biết bao. Bằng chỉ
một lời, Đức Giêsu đã quét sạch mọi cấm kỵ, mọi luật lệ, mọi quy ước do những
con người nhỏ nhen tạo ra, và bắt đầu một cuộc đổi đời mà sẽ trở thành cuộc
hiệp thông giữa mọi người.
Đứng trước nhóm biệt phái tức tối và
nhóm môn đệ bàng hoàng, Đức Giêsu đã trân trọng lời của một phụ nữ, trân trọng
đức tin của một người ngoại đạo, thái độ chứng tỏ cho mọi người thấy tâm hồn
cao thượng và lòng tin tương sâu xa của bà. Bà nhận được phép lạ như lòng mong
ước, đồng thời nhận được tình bạn của vị tôn sư, điều mà bà không dám nghĩ tới.
Giờ đây, người "dơ" trở nên
mẫu mực cho người "sạch". Người mà dáng lẽ phải bị ruồng bỏ giờ đây
được đón tiếp, người đáng lẽ bị nguyền rủa giờ đây được chúc mừng. Người phụ nữ
Canaan bị các môn đệ khinh bỉ, giờ đây được sư
phụ của họ tôn vinh. Người khách lạ trở nên người thân thuộc, và "con chó
nhỏ" được ngồi vào bàn ăn của Chúa. Sát bên Người. Chúng ta cũng có những
phụ nữ Canaan , những con chó nhỏ. Tinh thần
Ghetto (pháo đài) về giai cấp, địa vị luôn rình rập ta. Tính tự cao tự đại
khiến ta nghi kỵ ra mặt, khinh bỉ người khác không giấu giếm, hoặc kiêu căng
nghĩ mình là trên hết. Nhưng nhiều khi những "con chó nhỏ" giúp ta
nhảy qua rào cản của bè phái để mở ra đón nhận sự phong phú từ người khác, và
mở ra đón nhận tình huynh đệ toàn cầu. Đâu là những "người khách lạ"
khi chúng ta tham dự tiệc Thánh Thể?
22. Chú giải của Noel Quesson.
RA KHỎI ĐÓ, ĐỨC GIÊSU LUI VỀ
Chúng ta đã nhận
thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu "rút lui", "lánh
mặt" ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao,
đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu
cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ
mạng thật của Người.
Từ nay, Người
tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người
trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người
cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về
miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên
rằng...
Vậy để được yên
tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển
tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung
Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ
ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm
xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và
Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương
mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên
giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là "người đàn bà
Canaan" để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến
vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên...
“Lạy Ngài là con
vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!"
Theo thói quen
thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn
"phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi" dịch chính xác ra tiếng
Hy-lạp là: "Kyrie éléisòn mé". Về chữ "Con vua Đa-vít" đây
rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một
nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên
đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và
chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức
tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân
thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ
được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt 7,7).
Nhưng Người không
đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu,
tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh
khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài "cứu
con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi
chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng
con yêu mến?
Tạm thời trong
lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ
lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn
bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình
thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn
làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức
Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những "dấu
chỉ". Nhưng mọi “dấu chỉ" đều mơ hồ và đều phải được giải thích.
Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho
rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)... còn với các đám
đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy
pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường
cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại
gần xin với Người rằng: "Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng
ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là
một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại
đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên
tĩnh.
Chúng ta cũng
thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối
cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy
chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu
không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao
vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên,
chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt
9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng,
trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết
được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể
nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy
thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức:
"Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà
thôi". Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của
Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ
chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian
và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không
tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã
giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành
trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước
của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn
chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có
chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời
sống khác... đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức
Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người
ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những
người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp
thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời
tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này,
Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ "nhỏ bé"
giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm
tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử
Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31).
Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng
không?
Bà ấy đến bái lạy
mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời
khẩn nài tuyệt diệu! Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải
là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách
của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh
luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực.
Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên
trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ
chối, một sự bỏ rơi... nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của
hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng
như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự
dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta?
Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để
chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết "nâng cấp" mối
quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của
người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp:
"Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc
nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ
mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần
cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa
Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ
rơi xuống".
Không để cho mình
chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh
lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà
ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa
nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú
nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con
cái.
Đức Giêsu đáp:
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Từ
giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là
chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin
Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường
giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy
rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta
phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức
tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn "bánh của con cái Thiên
Chúa"? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông
nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn
của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa
chọn "một số người", chính là để sai họ đi đến với mọi người khác.
Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự
trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích
sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi
các ngươi là một vương quốc tư tế"... cho những người khác (Xh 19,5-6).
23. Chú giải của Lm Vũ Phan Long.
NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
1.- Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau
khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu
đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng
không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người
Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá
nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị
nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới
giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn
giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn
của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người
Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là
người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là
một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như
đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung
cảnh này mà ta đọc được truyện "Người phụ nữ Canaan ".
Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu
của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự
chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu
đã quyết định bỏ mạc Israel
mà quay sang hẳn với người ngoại?
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn
đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:
*
Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1)
Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2)
Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3)
Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4)
Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm
chú giải
- Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi
chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp
xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ "Tia và Xiđôn" thường
được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina;
nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là "dân
Canaan", và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
- ở vùng ấy đi ra (22): Giải
thích như BJ (1998) rằng "ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người
phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel", hay như Bd CGKPV
(2004): "Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo
biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân
ngoại và chỉ trong đất Ít-ra-en bà mới được Chúa thi ân" dường như có phần
ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel
để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân
tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ
"đi ra" (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến
xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch
là "... thì này có một người đàn bà Canaan
của vùng ấy...". Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB
(1994) dịch là "này đây một người đàn bà Canaan
đến từ đó...".
- Con vua Đavít (23): Vì
danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người.
Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng
Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy
nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ
đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
- Thầy chỉ được sai đến với những con chiên
lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi (24): "Chỉ được sai đến" là
một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với...).
Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một
ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt
cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có
vai trò tái lập Israel
thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi
họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân
trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai
đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của
Người là Mêsia. Về chú giải, "những con chiên lạc nhà Israel " (ta probata... oikou Israêl) cũng
có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là
"những con chiên lạc là nhà Israel ".
- Chó con (26): Từ Hy
Lạp kynarion ("chó con") là dạng giảm nhẹ của từ kyôn
("chó"). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là "chó"
(Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính
khinh bỉ trong từ "chó"? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê
(bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2)
Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với "chó con". Do đó, hẳn
là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ' (chó) để gọi Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ
mạc Israel
mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta
rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp
nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực
chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu:
"Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi" (c. 22). Khi
nói" Xin rủ lòng thương tôi", bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ
các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là
ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. "Ngài/Chúa, kyrie", là danh hiệu
các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi
Người là "Con vua Đavít", cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho
thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel , Đấng đã chữa lành nhiều
người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con
cái Israel ;
độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu
Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các
ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu
tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà,
mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của
Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: "Thầy chỉ được sai đến với những con
chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi" (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước
mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng
tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x.
10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho
thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền
dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự
thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. "Các con chiên lạc của
nhà Israel" không phải chỉ là "các con chiên đen" tại Israel,
nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả
lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm
nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18).
Một lần nữa, bà gọi Người là "Ngài/Chúa, kyrie", và một lần nữa, bày
nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9;
108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: "Không nên
lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con" (c. 26). Người muốn nói
rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho "con cái", tức là dân tộc
Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu
được ý này, khi bà trả lời: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng
được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống" (c. 27). Có lẽ phải nói
rằng bà tự gọi mình là "chó" không phải là một sự khiêm nhường, nhưng
là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những
mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không
nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều
kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục,
là "lòng/đức tin" (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta
không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện
kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi
nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu
của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do
Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên
Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển
chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan , bà đã
đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ
đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như
là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng
ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc
18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà
cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy
"lòng tin của bà mạnh thật" (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn
vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ
sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này
càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu
thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi
"con chó" ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là "Con vua
Đavít" (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua
Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa
hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân
riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương
trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan
để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng
duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác
giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn
luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao
giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Bản văn hôm
nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là
một quyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này
thật ra là một ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề
bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con
người cả. Ngài vẫn đang thấy có "lòng tin mạnh thật" nơi những người mà
chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan
này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục
riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được
các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn
khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế,
trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu
đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng
trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ.
Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà
hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được
cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế
nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối
được.
3. Không biết
là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu
chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là
bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy
là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh
cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ
gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi
biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để
thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã
xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin
ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng
Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như
tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín
mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi
không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi
của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi
kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường
như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy
đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm... Có khi chỉ
nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt,
chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan
này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay
chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành,
nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để
phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
5. Hội Thánh
sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu
không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel , nhưng đã để chính mình được
đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách
khỏi Israel ,
giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một
vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
24. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHỮA LÀNH CON GÁI MỘT PHỤ NỮ CANAAN
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
"Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền
Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ
ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định
vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương
dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ
Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới
bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự
gọi mình là người Canaan , và Cựu ước lẫn Tân
ước cũng kêu họ như vậy.
"Một phụ nữ Canaan...": Thành ra
bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như
phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của
Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên
khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3, 8 danh tiếng Người đã
vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu,
không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã
nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán
phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn
ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền
ưu tiên được cứu rỗi của Israel.
"Ra khỏi vùng đó... ": BJ dịch ra
như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm:
"ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được
ban trong đất Israel ".
Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo
mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê , Syria
và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa)
với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra
có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: "Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó...". Cách dịch này ăn khớp hẳn với
câu trước vậy (c. 21).
“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel
thôi". Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là
chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu
hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10, 44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc
tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động
tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy
nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các
mục tử giả nhà Israel
để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó
đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy
nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo
Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới
được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình
cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia.
Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.
"Chó con": Hy ngữ
kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số
các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh
miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó"
chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:
Không chắc
hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;
Ngôn ngữ Aram
không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con"; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là
chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).
"Lòng tin của bà lớn thật": người đàn
bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt
động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên
Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển
dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như
vậy làm nên đức tin của bà.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì
bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được
tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ
ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy
hiện ra một dân Israel
mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước
đó cũng thế (8, 10. 13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các "viên
đá" thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một
Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân;
Chúa Giêsu còn trở về Israel
(c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều
trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới
trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn
cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công
giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con "chó " ở ngoài,
nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai
thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên
Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp
“một lòng tin lớn" ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin,
thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một
lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh
nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được
nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói
khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin
của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã
không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là "con cái
Abraham"!.
2) Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả
điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan , nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn
kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân
thật vậy.
3) Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng
Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn
trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ
bàn ăn gia đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét