ĐỨC GH. PHANXICO & TỔNG THÔNG NGA |
ĐHY. QUỐC VỤ KHANH PIETRO PẢOLIN |
CHẦU THÁNH
THỂ BẢO HÀ
|
HÒA GIẢI VỚI THIÊN CHÚA |
ĐỨC GH. PHANXICÔ SẼ THĂM NGA - BÉ ANTÔN THIÊN AN GIA NHẬP ĐẠO - CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG
NIÊN - A
1. Nhận ra Đức Kitô
Khi nhìn vào hiện tình của thế giới
hôm nay, chúng ta không khỏi đau lòng mà nhận ra rằng: con số những người chưa
nhận biết Đức Kitô dường như càng ngày càng gia tăng. Vì thế Giáo Hội cần phải
cấp bách đổi mới lòng nhiệt thành và hoạt động truyền giáo của mình. Tuy nhiên,
muốn làm chứng về Chúa, muốn rao giảng Ngài một cách hiệu quả, thì chúng ta cần
phải nhìn lại chính mình: Đối với tôi, Đức Kitô là ai?
Câu hỏi nòng cốt này dẫn chúng ta vào
việc kiểm điểm toàn diện niềm tin và cách sống của mình. Có thật chúng ta tin
nhận Ngài là Đức Kitô, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và vạch cho
chúng ta con đường sống hay không? Nếu tin nhận như thế, thì cuộc sống cá nhân,
gia đình và xã hội của chúng ta phải chuyển biến phù hợp và kịp thời chưa? Hay
là chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, làm như niềm tin và cuộc sống là
hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.
Đức Giám mục Josef Cordes trong buổi
nói chuyện với 17.000 đại biểu của phong trào Canh Tân, đã nói: Trong viễn
tượng năm 2000, sẽ có nhiều thách đố mới đặt ra cho Giáo Hội. Trong Giáo Hội
nhiều triệu người công giáo vẫn chưa sống mối quan hệ cá vị với Đức Kitô. Nhiều
triệu người khác vẫn không sống theo Đức Kitô và không vâng phục Ngài... Cho dù
họ vẫn tự xưng mình là người công giáo và vẫn tham dự vào phụng vụ của Giáo
Hội.
Có thể nói được rằng, đối với một số
không nhỏ trong chúng ta thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ
nhạt. Vì thế, trả lời được cho câu hỏi: Đức Kitô là ai đối với tôi? Không phải
chỉ là chuyện kiến thức, sách vở lặp lại những gì được nghe trong các lớp giáo
lý hay trong các bài giảng, mà còn là câu chuyện của chính cuộc sống, của sự
chọn lựa cá nhân cũng như của sự dấn thân.
Hơn bao gờ hết xã hội thời mở cửa, đón
nhận những trào lưu tư tưởng mới, càng đòi hỏi mỗi người chúng ta phải chuẩn bị
cho mình một tư thế sẵn sàng để trả lời cho câu hỏi ngàn đời nêu trên. Bằng
việc đem hết khả năng của mình để đóng góp vào việc thăng tiến con người, lành
mạnh hoá xã hội và làm cho quê hương thêm giàu mạnh, người công giáo Việt Nam trả lời
thoả đáng cho câu hỏi: Đức Kitô là ai?
Niềm tin Kitô giáo mặc dầu bắt nguồn
từ một cuộc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô nhưng lại có một âm vang rộng lớn trên
toàn bộ đời sống xã hội và văn hoá của những người có lòng tin.
2. Trên tảng đá này
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong cộng đoàn Hội Thánh, Simon là
khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai. Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên
theo Đức Giêsu, và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong
Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả
nhóm (x. Mt 19,27).
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông
trước tiên (1Cr 15,5), và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga
21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa. Bất chấp những yếu đuối và
giới hạn của Simon, Đức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai, và làm nền
tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là
Phêrô, tiếng Aram
gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Đá. Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Đức Giêsu là ai. Ông đã tin tưởng đón
nhận mạc khải ấy. "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Đó
là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin
của mình, ông còn tuyên xưng tình yêu nữa: "Lạy Thầy, Thầy biết con yêu
mến Thầy."
Với niềm tin-yêu vào Đức Giêsu, Phêrô
sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài, sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.Quả
thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu, đã theo Thầy và đến nơi mình
không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng
của Đức Giêsu. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài, dù ông chỉ là
một ngư phủ bình thường, ít học.
-
Chỉ mình Đức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr
2,4-5), nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
-
Chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh
3,7), nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn, quyền
thánh hoá và quản trị Hội Thánh, thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn
trong dòng lịch sử. Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn là
những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế
gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn
không ít, khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin; khi ơn gọi giảm sút ở nhiều
nơi; khi Đức Thánh Cha bị công kích.
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu
mến Hội Thánh, cải tổ và canh tân Hội Thánh bằng việc canh tân chính bản thân
mình.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Khuôn mặt Hội Thánh vẫn còn nhiều vết nhăn,
và trở nên khó coi trước mặt mọi người. Theo ý bạn, đâu là điều cần phải sửa
trước hết, để Hội Thánh trở nên đáng tin hơn?
·
Bạn có khi nào cầu nguyện cho Đức Thánh Cha
không? Bạn có cảm được gánh nặng trách nhiệm và nỗi âu lo của Đức Thánh Cha
trước những vấn đề của Hội Thánh và của thế giới không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn
Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu
tiên của Giáo Hội. Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy
ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo
Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng
con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi
xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh
của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau
Chúa. Amen.
3. Hội Thánh của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
“Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức
thiết lập Hội Thánh. Lời Chúa cho ta thấy những đặc tính của Hội Thánh.
Đó là một
Hội Thánh cho con người.
Chúa Giêsu xây dựng Hội Thánh trên nền
đá Phêrô. Phêrô vốn là một người yếu đuối. Đời ông nhiều thất bại hơn thành
công, nhiều yếu đuối hơn mạnh mẽ. Đã từng ra khơi suốt đêm để sáng sớm trở về
tay trắng. Đã từng chìm xuống khi muốn đi trên mặt nước. Đã từng ngủ mê khi
phải canh thức với Thầy trước giờ tử nạn. Và tệ hại nhất là đã từng chối Thầy
ba lần khi Thầy chịu khổ nạn. Nền tảng tượng trưng cho cả toà nhà. Nền tảng
Phêrô là một con người yếu đuối cũng như cả Hội Thánh gồm những con người mỏng
giòn. Những thất bại của Phêrô thường diễn ra trong bóng đêm. Đánh cả suốt đêm
không được gì. Chìm xuống mặt nước lúc ban đêm. Ngủ gật trong vườn Cây Dầu khi
trời tối. Chối Thầy trong bóng đêm. Đó là hình ảnh Hội Thánh còn phải lần mò đi
trong đêm tối thử thách của thế giới với những yếu đuối của con người. Chúa
dùng người yếu đuối để qui tụ những con người yếu đuối. Chúa sử dụng những
phương tiện của con người để nâng đỡ con người.
Đó là một
Hội Thánh của Thiên Chúa.
Tuy Hội Thánh dành cho con người, gồm
những con người yếu đuối, nhưng đó lại là Hội Thánh của Thiên Chúa. Hội Thánh
của Thiên Chúa vì chính Thiên Chúa thiết lập. Chúa Giêsu xác định đây là “Hội
Thánh của Thầy”. Hội Thánh của Thiên Chúa nên sống bằng sức sống của
Thiên Chúa chứ không bằng sức sống của con người. Thật vậy, Hội Thánh rất yếu
đuối. Có những yếu đuối khi phải đương đầu với những khó khăn thử thách bên
ngoài. Biết bao vua chúa đã muốn triệt hạ Hội Thánh khi Hội Thánh chỉ là một
nhóm những người bé nhỏ nghèo hèn. Có những yếu đuối từ trong nội bộ. Biết bao
lần chia rẽ, phân ly. Biết bao lỗi lầm tai hại tưởng như khiến Hội Thánh đổ nát
tan tành. Nhưng Hội Thánh vẫn đứng vững với thời gian. Vì đó là Hội Thánh của
Thiên Chúa.
Hiểu biết như thế, ta phải có thái độ
thích hợp.
Vì Hội Thánh là chính chúng ta, những con
người mỏng giòn, nên ta cần khiêm nhường. Khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối.
Khiêm nhường nhận biết Hội Thánh còn chưa thánh thiện. Khiêm nhường như thánh
Phêrô suốt đời cầu xin lòng thương xót của Chúa. Khiêm nhường như Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II công khai lên tiếng xin lỗi về những sai sót của Hội Thánh. Ta
không chỉ khiêm nhường khi đấm ngực chuẩn bị dâng thánh lễ, mà còn phải khiêm
nhường trong đời sống hằng ngày.
Vì Hội Thánh là cho con người nên ta cần có
thái độ cảm thông. Biết mình yếu đuối, tôi sẽ dễ cảm thông với
những yếu đuối của anh em. Cảm thông không phải để mặc anh em chìm xuống, những
để giúp anh em vượt lên. Như lời Chúa dạy Phêrô: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy
làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32)
Vì Hội Thánh là của Chúa nên ta phải hoàn
toàn tin tưởng vào Chúa. Biết mình u mê, ta sẽ phó thác cho Chúa
hướng dẫn cuộc đời. Biết mình yếu đuối, ta sẽ không còn cậy dựa vào sức riêng,
nhưng hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Như thánh
Phêrô giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Chính Chúa là sức mạnh của Hội Thánh.
Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa
nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà.
Lạy Chúa, xin thánh hoá Hội Thánh
Chúa. Amen.
4. Đối Với Bạn, Đức Giêsu Kitô Là Ai?
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giêsu, một nhân vật lịch sử đã
chết và sống lại gần 2000 năm rồi. Thế mà nhân loại ngày nay, trước ngưỡng cửa
của thiên niên kỷ thứ ba, vẫn còn đặt lại câu hỏi đã được đặt từ lúc Đức Giêsu
giáng sinh: “Đức Giêsu Kitô là ai?”
Ngài đã trở thành “siêu sao” (Jesus,
Super Star) trong các tác phẩm văn chương, âm nhạc cũng như trên màn ảnh, cả
đối với các tác giả không chia sẻ niềm tin vào Đức Giêsu nữa. Nhà văn Aimatov
trong tác phẩm “Đoạn đầu đài” đã nói lên những cảm nghĩ và trăn trở của mình về
Đức Giêsu và về cây thập tự của Ngài. Dumbatze trong tác phẩm “Quy luật muôn
đời” hay Abuladze trong phim “Sám hối”và Nikos Kazantzakis trong tác phẩm “Chúa
lại bị đóng đinh”hay trong “Cám dỗ cuối cùng của Chúa”, cuốn tiểu thuyết được
dựng thành phim đã gây nhiều phẫn nộ trong giới Kitô giáo. Tất cả đều đặt vấn đề
về Đức Giêsu.
Tuy nhiên, những Đức Giêsu mang tính
thời sự đó, dẫu có hay và lôi cuốn, vẫn chưa phải là Đức Giêsu đích thực của
lịch sử, cũng không phải là đức Giêsu của lòng tin, Đức Giêsu của Tin Mừng.
Chẳng qua các tác giả đó chỉ mượn dung mạo của Đức Giêsu để ký thác một điều gì
trong thâm tâm mình. Cùng lắm, đối với họ, Đức Giêsu cũng chỉ là một bậc thầy
rất có thế giá của quá khứ, hay một con người đáng nguyền rủa, nhục mạ của hiện
tại.
Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng
thế. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Người ta bảo Thầy là ai?” các ông cho biết:
có những người đánh giá rất cao, họ coi Ngài như một Ngôn sứ có tầm cỡ, như
Êlia hay Giêrêmia là những ngôn sứ nổi danh bậc nhất trong lịch sử Do Thái.
Trái lại, có những đối thủ lại coi Ngài như một người Samari lạc đạo, như một
người bị quỷ nhập, như một tên phỉnh gạt hay một tay xách động dân chúng… Riêng
đối với các môn đệ thân tín bên Chúa Giêsu, chắc hẳn các ông đã biết rõ Ngài
hơn. Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định nhận thức của họ về Ngài. Dân chúng
thì nghĩ về Thầy như thế, “còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?” Simon Phêrô đã
nói lên nhận xét của các môn đệ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Lời tuyên xưng đức tin này chúng ta đã
gặp trong giai thoại của Chúa Giêsu cứu Phêrô khỏi chết chìm và khiến sóng gió
im lặng. Khi Ngài bước lên thuyền, những người ở trong thuyền, tức là các môn
đệ, sấp mình dưới chân Ngài mà nói: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa”. Ở đây, Chúa
Giêsu khẳng định lời tuyên xưng này là hiệu quả của ơn mạc khải “do Thiên Chúa
Cha của Ngài trên trời”, càng cho chúng ta có quyền nghĩ rằng Phêrô đã thấy
được một số nét đặc biệt siêu phàm trong con người của Thầy mình. Chúa Giêsu
còn mạc khải thêm cho Phêrô một điều khác cũng quan trọng đặc biệt không kém
đối với bản thân ông: “Này, anh tên là Đá, trên Tảng Đá này Thầy sẽ xây dựng
Giáo Hội của Thầy, và các quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Chúa Giêsu còn
trao cho Phêrô trách nhiệm giữ “chìa khóa Nước Trời”, trách nhiệm “cầm buộc hay
tháo gỡ”được cả trên trời dưới đất đều chấp hành.
Trao chìa khóa nhà mình cho ai, có
nghĩa là tín nhiệm và nhờ cậy người ấy coi sóc nhà mình. Người được trao chìa
khóa có quyền đóng mở, ra vào, mà không bị coi là kẻ trộm, đồng thời cũng phải
chịu trách nhiệm nặng nề canh chừng kẻ xấu, người gian. Chọn lựa, trao gởi
trách nhiệm vẫn làđường lối của Chúa đối với Giáo Hội, đối với chúng ta. Tiêu
chuẩn để được chọn lựa, tín nhiệm trao gởi trách nhiệm không phải là sự trổi
trang về tài năng hay đức độ, mà là lòng tin. Không phải là một Phêrô yếu đuối
tầm thường nữa, nhưng là một Phêrô Đá Tảng, người có lòng tin, có sức nâng đỡ
cả Giáo Hội của Chúa Kitô. Phêrô đã tuyên xưng lòng tin vào Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống, không chỉ một lần bằng lời tuyên xưng ấy mà thôi, mà bằng cả
một cuộc đời không ngừng tuyên xưng lòng tin cho đến lúc tuyên xưng quyết liệt
cuối cùng bằng cái chết đóng đinh thập giá như Thầy mình.
“Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai?”.
Câu hỏi Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ không ngừng vang dội suốt 20 thế kỷ nay
đến chúng ta. Nó chất vấn mỗi người chúng ta hôm nay hơn bao giờ hết. Phải, đối
với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Phản ứng đầu tiên là im lặng, suy nghĩ, có khi
với niềm vui, có khi có một sự ngại ngùng vì câu hỏi mang nặng hậu quả. Câu hỏi
chạm đến tận cõi thâm sâu của cuộc đời tôi. Nó buộc tôi phải chọn, một chọn lựa
kéo theo nhiều việc khác nữa. Nhưng vì là câu hỏi hệ trọng nhất, nên tôi không
thể lẫn tránh được. Chúng ta không thể chỉ tuyên xưng bằng hành động, bằng việc
làm cụ thể. Lắm khi sự tuyên xưng chân chính còn đòi buộc chúng ta phải trả giá
bằng chính mạng sống của mình. Phải, một khi chúng ta đã thực sự tin Đức Giêsu
rồi, thì đời ta sẽ phải gắn chặt vào Ngài cho đến chết thôi. Và chết cũng chưa
hết, còn cả cuộc sống đời đời nữa.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một
thế giới thực nghiệm và duy vật chất. Lời nói trên lý thuyết có hay ho cao siêu
đến mấy, nếu không được chứng minh bằng đời sống cụ thể, thì thiên hạ sẽ chẳng
ai tin chúng ta. Đức Giêsu Kitô là ai? Chúng ta có giảng giải cặn kẽ về nguồn
gốc và thân thế của Ngài, người ta có lắng nghe, có theo dõi, nhưng điều người
ta theo dõi nhất là coi những người tin theo Đức Giêsu sống ra sao, ăn ở như
thế nào, có thái độ thế nào với những công việc mưu cầu lợi ích chung, hạnh
phúc chung của mọi người. Và từ đó, người ta sẽ suy nghĩ coi Chúa Giêsu của
chúng ta là ai. Việc sống đạo của chúng ta, những người tin Chúa Giêsu, là phải
chứng tỏ rằng, Chúa Giêsu thật là Chúa cuộc đời chúng ta, ngay trong chính cách
chúng ta sống Tin Mừng yêu thương, phục vụ của Chúa Giêsu.
Đức Giêsu Kitô là
ai?
Thưa anh chị em,
Ước gì cuộc đời mỗi người chúng ta trở thành một câu trả lời sống động cho Chúa
Giêsu, cho anh chị em và cùng với anh chị em, trả lời cho cả xã hội ngày nay
rằng: Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa làm người đang sống ở giữa chúng ta.
5. Phêrô tuyên tín – R. Veritas
(Trích
trong ‘Sống Tin Mừng’)
Câu hỏi của Chúa Giêsu đặt ra cho các
môn đệ vẫn còn vang dội tới ngày hôm nay, và trong giây phút này dường như Chúa
Giêsu hiện diện giữa chúng ta, Ngài cũng đặt câu hỏi với từng người, trước hết
là câu: "Người ta và những kẻ khác, theo quan niệm trần tục của con người
thì họ nghĩ Thầy là ai?".
Chúa Giêsu Kitô là một thực tại, một
con người lịch sử đã sống thật trên mặt đất này tại vùng Palestina cách đây hơn
2.000 năm. Đây là một thực tại đầy mầu nhiệm, những kẻ sống đồng thời với Ngài,
họ cũng nhìn thấy những việc lạ Chúa đã thực hiện, trước đó là phép lạ Chúa hóa
bánh ra nhiều, nhưng họ không thể nhìn nhận ra thực tại Thần Linh của Chúa là
Con Thiên Chúa Hằng Sống. Họ nhìn vào Chúa Giêsu như một tiên tri, một E?lia,
một Gioan Tẩy Giả, một người chuẩn bị nhân loại cho Thiên Chúa, nhưng chưa phải
là Thiên Chúa. Những kẻ khác thời Chúa Giêsu, trên quan điểm trần tục không
được Thiên Chúa soi sáng, như Phêrô đã không nhận ra Chúa Giêsu Kitô là ai? Và
các Tông Đồ đã kể lại cho Chúa nghe về các nhận xét của dân chúng xung quanh.
Nhưng những kẻ khác, những kẻ ngoại chưa tin Chúa, không nhận ra Chúa, điều đó
cũng chưa quan trọng đối với Ngài cho bằng chính những người mang tên là người
đồ đệ của Chúa, là người Kitô mà lại không nhận ra Ngài.
Câu hỏi thứ nhất: "Người ta nghĩ
Thầy là ai?", chỉ là một câu hỏi phụ, câu hỏi nhập đề để gợi ý thức nơi
các đồ đệ. Câu hỏi thứ hai quan trọng hơn: "Phần các con, các con bảo Thầy
là ai?". Mỗi người phải trực tiếp trả lời câu hỏi này bằng đức tin của
mình đối với Chúa. Điều Chúa muốn không phải là một câu trả lời suông, ngoài
môi miệng như một học trò trả bài giáo lý cho thầy giáo trong lớp: "Chúa
Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế muôn dân". Câu trả lời suông ngoài
môi miệng như câu trả lời thuộc lòng bài giáo lý thì tương đối dễ, nhưng điều
Chúa nhắm đến là lòng xác tín bên trong. Đức tin chân thật như là hồng ân từ
Thiên Chúa Cha trao ban cho, ví như câu trả lời được ơn Thiên Chúa soi sáng hướng
dẫn Phêrô đã mạnh mẽ trả lời với sự linh ứng của Thiên Chúa Cha: "Thầy là
Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống".
Chúa Giêsu xác nhận không phải xác
thịt nhưng là Cha trên trời đã ban cho con, đã soi sáng cho con. Chính thái độ
xác tín đức tin này là điều Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Thái độ xác tín
đức tin đó là hồng ân của Chúa Cha ban cho: "Không ai đến được với Thầy,
nếu không được ơn Thiên Chúa Cha soi sáng và lôi kéo họ đến" (Jn 6,43.45).
Chính thái độ xác tín đức tin này là khởi đầu và nền tảng của mọi sứ mạng Kitô.
Thánh Phêrô đã nhận được sứ mạng: "Thầy trao cho con chìa khóa Nước Trời,
con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy". Phêrô đã nhận được
sứ mạng đó sau khi đã tuân phục ơn soi sáng của Thiên Chúa Cha và mạnh mẽ tuyên
xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa".
Mỗi người chúng ta đều cần có niềm xác
tín này để có thể chu toàn sứ mệnh mà Thiên Chúa trao phó cho, là làm chứng cho
Chúa trên trần gian này giữa anh chị em xung quanh. Sứ mạng đã khó nhưng niềm
tin xác tín nơi mỗi người lại khó hơn hết, vì nơi mỗi người cũng có thể nói là
có hai con người, một con người trần tục và một con người mới. Con người mới
này được ân sủng thánh hóa, soi sáng hướng dẫn. Con người cũ có những thói hư
tật xấu, suy tưởng theo những lý luận trần tục, xa rời chương trình của Thiên
Chúa, khó mà tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa, khó mà trung thành với đức tin
tuyên xưng này.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được kinh
nghiệm đức tin này nơi chính bản thân, nên đã thốt lên: "Tôi không làm
điều tốt mà tôi ưa thích, nhưng lại làm điều xấu mà tôi không muốn". Cuộc
giằng co giữa ân sủng và tội lỗi, giữa tin và không tin đã làm cho ngài đôi khi
mệt mỏi và xin Chúa hãy can thiệp cất đi điều ngài không muốn. Nhưng Chúa Giêsu
đã nâng đỡ Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi, đừng lo". Chính vì thế hơn ai
hết, thánh Phaolô Tông Đồ đã trình bày cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một
chiến đấu, một cuộc chạy đua, một cố gắng không ngừng cộng tác với ân sủng Chúa
để mặc lấy con người mới, từ bỏ con người cũ để tuyên xưng đức tin, để trung
thành với đức tin.
Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, chúng
ta nhận thấy thêm một điều nữa là, mặc dầu Phaolô đã có đôi lần sống theo con
người cũ, con người trần tục, nhưng Chúa Giêsu không thay đổi chương trình,
Ngài đã chọn Phaolô: "Ơn Ta đủ cho ngươi". Ơn Chúa luôn luôn ban
xuống tràn đầy, Chúa không hủy bỏ chương trình Ngài muốn thực hiện nhờ qua mỗi
người, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng ân sủng của Chúa. Chúa
muốn nhắn nhủ Phêrô, nhắn nhủ mỗi người "khi nào con trở lại hãy nâng đỡ củng
cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô hãy biết thông cảm nâng đỡ
cho anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ và nâng đỡ.
Thêm một bài học nữa cho mỗi người
chúng ta là hãy cố gắng sống thánh thiện nơi chính bản thân mình và nâng đỡ
những bất toàn, những sa ngã, những tội lỗi của anh em, xin Chúa gìn giữ chúng
con trong đức tin và trung thành với Tin Mừng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên
Chúa Hằng Sống".
6. Sống đức tin
Trong câu chuyện trao đổi giữa Thầy và
trò, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo Thầy là ai?
Các môn đệ liền
đúc kết các dư luận quần chúng:
- Người thì bảo Thầy là Êlia, là Giêrêmia, là Gioan Tiền hô
hay là một tiên tri nào đó.
Có lẽ lúc bấy giờ
Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đưa ra một câu hỏi cân não:
- Còn các con, các con bảo Thầy là
ai?
Giữa lúc các bạn
còn lúng túng, phân vân, suy nghĩ, thì Phêrô đã mạnh dạn thưa:
- Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa
hằng sống.
Lời tuyên xưng
của Phêrô thật đáng ca ngợi. Thế nhưng, nguyên một lời tuyên xưng mà thôi, thì
chưa đủ để bảo đảm phẩm chất của một đức tin, bởi vì còn phải đợi xem đức tin
ấy sẽ trải qua những thử thách nào và được tôi luyện trong thực tế ra làm sao?
Khi tuyên xưng đức tin, hẳn Phêrô chưa thấy hết được những khó khăn sẽ gặp phải
trên con đường tin sau này.
Thực vậy, khi
Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn sắp tới của Ngài, thì Phêrô đã phản ứng một
cách dữ dội, ông đã quyết liệt can ngăn Ngài. Thử thách đức tin lớn nhất Phêrô
đã trải qua chính là cuộc thương khó. Tại vườn Cây Dầu, ông đã hung hăng chém
đứt tai người lính để bảo vệ Thầy, nhưng rồi sau đó, ông cũng đã chạy trốn.
Tiếp đến, khi bị người tớ gái nhận mặt và chất vấn, ông đã chối Thầy tới ba
lần. Rồi khi được tin báo Chúa Giêsu đã sống lại, thì cũng như các tông đồ
khác, Phêrô vẫn chưa chịu tin ngay.
Chỉ khi nhận lãnh
Chúa Thánh Thần, đức tin của Phêrô mới thực sự trưởng thành và trở nên kiên
vững. Lúc đó đức tin biến thành một xác tín và người tin trở thành một chứng
nhân, tuyên xưng niềm tin của mình không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm,
bằng chính cuộc sống của mình.
Con đường Phêrô
đã đi qua cho chúng ta thấy: Từ chỗ chấp nhận chân lý đức tin đến chỗ sống đức
tin của mình là cả một chặng đường dài, đầy cam go. Con đường dài này là một
cuộc thử lửa, một cuộc kiểm tra chất lượng.
Như một sản phẩm,
trước khi được tung ra thị trường, cần phải được đưa qua khâu kiểm tra chất
lượng để đo độ bền, độ cứng, độ dẻo, sức chịu nhiệt, chịu ẩm… Cũng vậy, chất
lượng đức tin của chúng ta cũng cần phải được kiểm tra. Chính cuộc sống mỗi
ngày sẽ kiểm tra chất lượng và định đoạt số phận đức tin của chúng ta. Nếu
chúng ta sống hợp với điều chúng ta tin, nếu trong gian nan thử thách lòng tin
của chúng ta vẫn không bị nao núng, nếu vì đức tin mà dám chịu thiệt thòi… thì
quả thực đức tin đó đã được tôi luyện và đã trưởng thành. Đức tin đó không chỉ
còn là một thái độ của trí tuệ mà đã trở thành một nếp sống.
Ban đầu đức tin
của Phêrô còn non nớt, bởi vì Phêrô mới chỉ tuyên xưng bằng lời nói. Dần dần
qua những khó khăn, những thất bại, những cố gắng, những phấn đấu, đức tin đó
đã lớn lên và được tuyên xưng bằng chính cuộc sống. Và đó là một sự trưởng
thành cần thiết.
Hãy cầu xin cho
đức tin của mỗi người chúng ta cũng lớn lên, cũng trưởng thành theo nhịp độ của
cuộc sống, giữa những gian nguy thử thách chúng ta gặp phải.
7. Một ngôi nhà
xây trên đá cứng
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’)
Một vị tiểu quân
vương là Philipphê, chư hầu của La Mã đã cho xây cất một thành phố nhỏ với cái
tên là Césarea, nhân danh hoàng đế Césaré-Augustô. Do đó có cái tên là thành
Césarea của quân vương Philipphê. Nó không cách xa nguồn của sông Hòa Giang là
bao, chỉ độ 40 cây số về phía bắc hồ Tibêriát. Vùng này đa số là ngoại giáo
nhưng cũng hiếu khách. Chúa Giêsu dừng chân tại đây để tránh những lời phản đối
của người Do Thái và Người cũng lưu tâm đến việc huấn luyện các tông đồ về
chiều sâu. Người đi đến chỗ đặt cái câu hỏi đầy tin tưởng: “Đối với chúng con,
Thầy là ai?”. Trước hết Chúa Giêsu hỏi xem người ta nghĩ gì về con người của
Người. Dân chúng có thói quen suy nghĩ theo những mẫu mực mà tập quán đã đặt
sẵn vào trong trí óc. Do đó có những ý kiến liên quan đến những quan niệm đang
được truyền tụng. Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại hay Êlia, hay Giêrêmia,
hay là một trong các tiên tri. Chúa Giêsu muốn mở mắt cho các môn đệ thấy sự
mới lạ chưa hề được tiết lộ về bản thể và con người của Ngài. Ngài biết rằng
lời giảng dạy bên ngoài của Ngài nối liền với tác động bên trong của Chúa Cha
trong tâm hồn. Biết chắc là có sự đồng quy ấy nên Ngài long trọng nêu ra một
câu hỏi to tát, đồng thời cũng là trung tâm của Tin Mừng theo thánh Matthêu:
Đối với chúng con, Thầy là ai? Chính Simon-Phêrô đã trả lời và tự đặt mình làm
phát ngôn viên của mọi người: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Nên
lưu ý là Matthêu đã ghi: Simon-Phêrô, Simon là cái tên riêng cho phép nhận ra
danh tánh của con người, còn Phêrô là tên chính thức gán ghép cho con người một
chức vụ. Simon-Phêrô có ý chỉ con người của Phêrô với tư cách là người đứng đầu
Hội Thánh. Không để đi lạc vào trong những điều bàn cãi của khoa chú giải Kinh
Thánh, ở đây chúng tôi muốn gán cho câu trả lời của Phêrô cái ý nghĩa minh bạch
do đức tin gợi ra. Cần minh định một vài điểm:
1) Phêrô được tuyên bố là nền tảng của Giáo Hội.
Thực ra nền tảng
căn bản của Giáo Hội là Chúa Kitô, nhưng Phêrô làm thành cái nền tảng bên
ngoài, có thể xem thấy được của Giáo Hội. Chính bản thân Ngài là nền tảng và
với tư cách là người được ký thác đức tin. Hơn thế nữa, Giáo Hội, các dân tộc
tụ họp theo ý muốn của Thiên Chúa, xét về thời gian, còn đi xa hơn cuộc sống
của con người Phêrô. Giáo Hội cũng dựa trên các Đấng kế vị Phêrô. Đức tin của
chúng ta ngày nay nhìn thấy trong lời nói của Chúa sự khai mào của một trong
những tổ chức căn bản của ‘xã hội’ Giáo Hội, các xã hội xét về mặt huyền nhiệm,
là cộng đoàn của các tín hữu mà thánh Phaolô gọi là thân thể của Chúa Kitô.
2) Danh từ ‘cửa hỏa ngục’ có ý nghĩa gì?
Bên Đông phương
người ta có thói quen triệu tập các thân hào nhân sĩ ở các đô thị ngay nơi các
cửa thành, khi họ thảo luận với nhau về vấn đề trị an hay phân xử dân chúng.
Kết quả là danh từ ‘cửa thành’ mang ý nghĩa quyền hành pháp hay uy quyền. ‘Cửa
hỏa ngục’ có ý nghĩa là những quyền lực tối tăm ở bên kia thế giới vật chất.
Những quyền lực này sẽ tấn công Giáo Hội nhưng không bao giờ thắng nổi.
3) Ta sẽ giao cho con chìa khóa Nước Trời.
Chìa khóa tượng
trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh
Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm quản gia của nhà vua hay của vị
thủ tướng. Trong trường hợp hiện thời, Chúa Giêsu trao cho Phêrô trách nhiệm
cai quản Hội Thánh trên bình diện đức tin, trong sự tham gia vào các bí tích và
trong luật sống của cộng đoàn. Những danh từ ‘buộc tội’, ‘tha tội’, liên quan
đến quyền hạn của Phêrô, có thể được hiểu theo nghĩa là ‘cấm đoán’ hay ‘tha
phép’ hiểu theo nghĩa mạnh. Điều này có nghĩa là hễ ai cấm đoán hay cho phép
đều đã được trao quyền và chính cái quyền hành đó cưỡng bách chúng ta.
8. Các bạn nói
Chúa Giêsu là ai? – Charles E. Miller
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Khi vị tổng
thống Hoa Kỳ làm một cuộc họp báo, các phóng viên sẽ đưa ra một số lớn câu hỏi.
Hầu như mọi điều do Tổng thống nói đều là những tin tức đáng giá không phải vì
lời của Tổng thống sâu xa hay sẽ thay đổi các biến cố trên thế giới nhưng đơn
giản chỉ vì ông ta là Tổng thống. Ngay sau khi ông xuống khỏi chức vụ, ông sẽ
chẳng còn hấp dẫn mấy với những phương tiện truyền thông đại chúng nữa.
Một con người là ai sẽ làm cho mọi
chuyện ra khác lắm. Đó là lý do vì sao Chúa Giêsu đặt câu hỏi về chính mình khi
Người hỏi các môn đệ, phần các con bảo Thầy là ai? Phêrô hành động như một vị
phát ngôn cho tất cả các tông đồ, ông không mắc phải sai lầm như những người
khác nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả hay một tiên tri nào khác đã trở lại trái
đất này. Phêrô đã tuyên bố cách trang trọng: “Thầy là Đấng Mêsia, Con Thiên
Chúa hằng sống”.
Tuyên bố của thánh Phêrô có hai phần:
trước hết, ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia. Câu trả lời này là sự xác
tín của các môn đệ. Niềm hy vọng một Đấng Mêsia đã trở nên nồng cháy và rõ ràng
trong suốt thời cai trị của vua Đavít, đặc biệt là qua tiên tri Nathan vào thế
kỷ thứ X trước công nguyên. Niềm hy vọng này đã lớn lên cách mạnh mẽ vào thời
Chúa Giêsu, một số người đã trông đợi Đấng Mêsia xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Bây
giờ các tông đồ đặt trọng tâm niềm hy vọng của mình vào Chúa Giêsu.
Nhưng phần hai lời tuyên bố của thánh
Phêrô đã làm kinh ngạc mọi người có mặt ở đấy. Thánh Phêrô tuyên bố rằng Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, không phải bằng cảm giác mà người ta có thể xác
định được đức tin của một người nào, nhưng chỉ có một cách duy nhất người ta có
thể áp dụng vào một mình Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhấn mạnh không phải do con
người đã tỏ lộ cho Phêrô biết điều này, nhưng Người không bằng lòng với cách
nói đơn giản: “Thiên Chúa đã mạc khải điều đó”. Người tuyên bố cách rõ ràng:
“Chính Cha Thầy ở trên trời đã mạc khải điều này”.
Kiểu ngôn ngữ này làm cho các tông đồ
kinh ngạc, Chúa Giêsu đặt nền tảng cho sự thật đáng sợ Thiên Chúa là Cha của
Người, rằng Người thật sự là Con Thiên Chúa, không thể mơ hồ hay phân tích cách
nào khác nhưng chỉ có một ý nghĩa được chuyển trao cho trí hiểu của cả nhân
loại.
Trong việc đáp lại sự diễn tả đức tin
của Phêrô, Chúa Giêsu đã nói những lời nổi tiếng này: “Con là Đá trên Đá này, Thầy sẽ xây
Hội Thánh của Thầy”. Sự nối kết giữa chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa và Giáo hội được đặt nền tảng trên đá thì không có gì làm thay đổi được.
Đúng hơn nó trở thành một sứ vụ chắc chắn của Giáo hội để làm rõ ràng, để dạy
dỗ và sống theo chân lý Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa.
Ý nghĩa này đã được các công đồng sơ
khai của Giáo hội (mà Công đồng Vaticano II là Công đồng thứ 21) đã xác định
cách rõ ràng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua những thế kỷ, Giáo hội vẫn tiếp
tục giảng dạy cho mỗi thế hệ người công giáo mới, để làm cho lời tuyên xưng đức
tin của thánh Phêrô trở nên chính họ, như chúng ta cũng phải làm cho lời tuyên
xưng ấy trở nên chính chúng ta vậy. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Mêsia đại
diện của Thiên Chúa. Chúa Giêsu thật sự là Người Con duy nhất của Thiên Chúa,
ngang với Đức Chúa Cha trong mọi sự. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu là
những gì làm cho những lời của Người trở nên quý giá cho chúng ta và những hành
động của Người thì vô giá. Sự đồng nhất thật sự này của Chúa Giêsu cũng là
những gì làm cho mọi sự Người đã làm, làm đẹp lòng Cha người và mang lại ơn cứu
độ cho chúng ta. Mọi sự nơi Chúa Giêsu tuôn trào từ sự đồng nhất thật sự này.
Ôi, sự khôn ngoan và hiểu biết của Thiên Chúa sâu xa biết bao, đã mạc khải cho
chúng ta sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Đây là chân lý được củng cố trên thế gian
và còn tiếp tục trên thiên đàng cho đến đời đời.
9. Thầy là Đức Kitô
Hiệp nhau trong Thánh lễ này, chúng ta
xin Chúa ban mọi ơn lành cho cuộc sống của chúng ta, nhưng đồng thời chúng ta
cũng xin Chúa tha thứ những lỗi tầm vì đã nhiều lần chúng ta không cộng tác với
ơn Chúa, đã không dùng ơn Chúa cho nên. Xin Chúa tiếp tục thương đổ muôn ơn
lành xuống trên cuộc đời của chúng ta, giúp chúng ta canh tân đời sống để mỗi
ngày được trở nên giống Chúa hơn.
Đoạn Tin Mừng hôm nay được suy niệm
hai lần: một vào dịp lễ kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, và một trong Chúa
Nhật 21 Thường niên hôm nay. Biến cố được nhắc đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay
làm nổi bật hai đặc điểm về hai con người nơi thánh Phêrô: Đó là một con người của ân sủng,
biết cộng tác với ơn soi sáng của Chúa để tuyên xưng đức tin chân thật: “Thầy
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Và một là con người yếu đuối trần
tục suy tưởng theo cách thức trần gian, bị giới hạn trong cái nhìn vụ
lợi không chấp nhận, không hiểu chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa thực hiện
qua mầu nhiệm Thập giá, qua cái chết và sống lại của Chúa Kitô, đến độ thánh
nhân đã bị Chúa quở trách: "Hỡi Sa tan, hãy lui ra khỏi Ta, vì con suy
tưởng theo lý luận của con người, chứ không theo tư tưởng của Thiên Chúa. Vì
con biết những sự thuộc về loài người, mà chẳng hiểu biết những sự thuộc về
Thiên Chúa".
Nơi mỗi người chúng ta, những đồ đệ
của Chúa, dù ở bậc nào đi nữa, chắc chắn chúng ta cũng có hai con người này:
một con người được ân sủng thánh luyện, thánh hoá, soi sáng và hướng dẫn. Đây
là con người mới theo cách nói của thánh Phaolô tông đồ. Và một con người cũ có
thói quen tật xấu, suy tư theo những lý luận trần tục xa rời chương trình của
Thiên Chúa.
Hơn ai hết, thánh Phaolô tông đồ đã
cảm nghiệm được kinh nghiệm sống này nơi chính bản thân, nên có lần ngài đã
thốt lên: "Tôi không làm điều tốt mà tôi ưa thích, tôi lại làm điều xấu mà
tôi không muốn". Cuộc giằng co giữa ân sủng và tội lỗi này đã làm cho ngài
đôi khi mệt mỏi, nên đã phải xin Chúa can thiệp để cất đi điều ngài không muốn.
Nhưng Chúa Giêsu đã nâng đỡ thánh Phaolô: "Ơn Ta đủ cho con. Đừng sợ!”.
Chính vì thế mà hơn ai hết, thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cuộc sống với
Chúa Kitô, cuộc sống trong ơn nghĩa Chúa như là một cuộc chiến đấu, một cuộc
chạy đua, một cố gắng không ngừng để cộng tác với ân sủng của Chúa, để mặc lấy
con người mới và từ bỏ con người cũ của mình.
Trở lại bài Phúc âm hôm nay, chúng ta
có thể nhận thấy thêm một điểm nữa là mặc dù Phêrô đã nhiều lần, chứ không phải
chỉ một lần mà thôi, là ngài đã nhiều lần sống theo con người cũ, con người
trần tục. Nhưng Chúa Giêsu, Ngài đã không thay đổi chương trình Ngài đã chọn,
đã sắp xếp cho Phêrô: "Ơn Ta đủ cho con". Chúa đã muốn xây dựng Giáo Hội
của Ngài trên con người của Phêrô, trên con người được ơn Thiên Chúa soi sáng:
"Phêrô con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa hỏa
ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời". Ơn
Chúa luôn ban xuống tràn đầy, Ngài không muốn bỏ chương trình Ngài đã thực hiện
qua mỗi người chúng ta, mặc dù đôi khi chúng ta không đáp lại hết lòng mình về
ân sủng của Chúa, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ Phêrô: "Khi nào con trở lại, hãy
nâng đỡ và củng cố anh em con". Lời nhắn nhủ của Chúa cho Phêrô là hãy
biết thông cảm nâng đỡ anh em, vì chính ông cũng đã được Chúa thương tha thứ,
nâng đỡ thông cảm khi ông lỗi lầm.
Thêm một bài học nữa cho mỗi người và
cho cộng đoàn chúng ta đang sống cũng như cộng đoàn các tông đồ sống quanh Chúa
Giêsu ngày xưa, tất cả các cộng đoàn ấy cũng gồm những con người vừa tốt, vừa
xấu, vừa thánh thiện vừa tội lỗi, vừa muốn làm điều tốt mà mình không làm được,
nhưng lại làm điều xấu mà mình không muốn, vừa cộng tác với ơn Chúa, nhưng đôi
khi cũng chối bỏ Ngài.
Chúng ta hãy cố gắng phát triển con
người mới, con người được ân sủng Chúa thánh hoá để luôn giữ vững đức tin của
mình mà tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và chấp nhận đi trên con
đường mà Chúa đã đi qua, con đường cứu rỗi nhân loại qua cái chết và sống lại
của Ngài trên Thập giá: "Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác Thập giá mình
hằng ngày mà theo Ta".
Chúng ta hãy cố gắng phát triển con
người mới nơi cuộc sống của mình và đồng thời biết thông cảm nâng đỡ với những
bất toàn tội lỗi của anh em xung quanh. Dù sao đi nữa, chương trình của Thiên
Chúa không bị hư đi vì những tội lỗi của con người hay vì những lầm lỗi sai
trái của Phêrô, nhưng chỉ vì yêu mà Thiên Chúa luôn thực hiện chương trình cứu
rỗi nhân loại. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được vững mạnh trong đức tin mà
giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
10. Khúc rẽ quyết định
Xa khỏi mọi người, dưới chân núi
Hermon, một mình trong thanh vắng bên sông Giođan, Đức Kitô nêu lên cho các môn
đệ một vấn nạn quan trọng: “Các con nói thầy là ai? Nói chung những người khác
không nhận biết Ngài, và bây giờ, các môn đệ phải phát biểu ý kiến về Ngài.
1) Vấn nạn
Đức Kitô không hỏi: Các con tin gì? Các con coi điều gì là phải? Nhưng Ngài hỏi cách trực
tiếp: “Các con nói Thầy là ai?” Đức tin Công giáo trước hết không phải là một
vấn đề lý thuyết, một tổng số chân lý siêu hình, hay chỉ là một tín điều. Đối
tượng của đức tin Công giáo là chính Đức Giêsu Kitô. Trong Ngài, Thiên Chúa đã
nhập thể, Ngài là hành động quyết định, là biến cố chủ yếu. Con người chỉ có
thể có một thái độ duy nhất là nhận biết hay không nhận biết Ngài. Lập trường
đối với Chúa Giêsu là yếu tố quyết định để phân biệt ai là Công giáo, ai là
lương dân. Vậy luân lý không phải là yếu tố cốt yếu nhưng chính là đức tin. Nếu
có người nhờ đức tin hiểu được Chúa Giêsu là ai, tự nhiên họ sẽ lãnh nhận lời
Ngài, và nhất thiết đáp ứng những đòi hỏi của Ngài. Đức tin vào Đức Giêsu Kitô
là tất cả! Kitô giáo là thái độ chấp nhận Đức Kitô.
2) Lời đáp trả
“Thầy là Đức Kitô
con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng
ấy của Thánh Phêrô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cao trọng biết bao trong chức
vụ của Ngài. Ngài là tiên tri được Chúa thánh hiến. Ngài là vua, là chánh tế.
Ngài còn hơn tất cả những tước hiệu ấy, vì Ngài là chính con Thiên Chúa hằng
sống. Vậy phải biết vượt qua các tước hiệu bên ngoài để tìm tới chính Ngôi vị
thâm sâu của Đức Kitô. Đó là tất cả ý nghĩ cao xa của đức tin: Đức tin là cuộc
gặp gỡ trực tiếp với Con Thiên Chúa. Câu trả lời của Thánh Phêrô dựa trên hai
lý do vững chắc. Trước hết, nhờ suy tư và tác động đức tin của Phêrô: Người là
kẻ từng chứng kiến lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Tất cả những gì xẩy ra
trước kia nay đều đem lại hậu quả mong muốn nơi Ngài: Nào những lần được thấy
Chúa chữa bệnh, hai lần hoá bánh ra nhiều, nào những lần chứng kiến Chúa đi
trên mặt biển và trở giúp Phêrô bị lao đao trên sóng nước. Phêrô đã hiểu các
dấu hiệu, rồi từ đó đạt tới tác nhân của các dấu hiệu. Ngoài ra để tuyên xưng
Đức Kitô là con Thiên Chúa hằng sống, người còn được thêm ánh sáng Chúa Thánh
Thần soi dẫn bên trong “Không phải huyết nhục cho con biết điều ấy, nhưng chính
Cha ta ở trên trời đã tỏ lộ cho con! Đức tin quả thật đã hợp nhất hai yếu tố tự
nhiên và siêu nhiên.
3) Kết quả
Câu trả lời này
đã hình thành một thái độ chọn lựa quyết liệt, đưa tới một khúc rẽ lớn lao
trong toàn thể lịch sử: đó là bước tiến từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Do Thái xác
thịt sang Do Thái thiêng liêng, từ giảng đường đến Giáo Hội, từ việc tuyển chọn
một dân tộc đến tiếng gọi gửi đến muôn dân. Vì thế, sau lời tuyên xưng của
Phêrô, Đức Kitô hứa xây dựng Giáo Hội. Đây là sự chọn lựa vĩnh viễn. Không gì
có thể chiến thắng Giáo Hội kể cả quyền lực ma quỷ. Còn một lối chú giải khác
về câu “Cửa hoả ngục không thể nổi lên chống lại”, theo lối chú giải đó, thì
câu này có nghĩa là Giáo Hội có quyền mở cả cửa Thiên đàng và hoả ngục, cả hai
lối chú giải trên đều làm sáng tỏ một ý nghĩa sâu xa, nhằm mô tả tính chất vĩ
đại siêu nhiên và thần linh của Giáo Hội.
Tính chất vĩ đại
ấy dựa trên hai cột trụ: tinh thần và định chế. Tinh thần chính là đức tin vì
nhờ đức tin Phêrô được khen ngợi là diễm phúc. Do đó, chỉ có ai tin mới thuộc
về Giáo Hội này. Đức tin là nền tảng và là cội rễ. Cột trụ thứ hai là định chế.
Vị tông đồ đầu tiên khi tuyên xưng đức tin, đã được Đức Kitô trao cho chức vụ
thủ lãnh: “Ta trao cho con chìa khóa nước trời, và tất cả những gì con cầm buộc
dưới đất, trên trời cũng sẽ cầm buộc, những gì con tha dưới đất, trên trời cũng
sẽ tha”. Simon con Giona được nâng lên cao khỏi chính bản thân hèn yếu
của mình, được Con Thiên Chúa trao phó sứ mệnh, lãnh nhận quyền cai trị tối
cao, tượng trưng bằng chìa khóa rồi nhờ danh Chúa, Người thực hiện quyền cầm
buộc và tha thứ.
Một Giáo Hội hoàn
toàn thiêng liêng không phải là Giáo Hội Đức Kitô, Giáo Hội Chúa cũng không
phải là hoàn toàn định chế. Giáo Hội Đức Kitô chỉ hiện diện trong sự hoà hợp
thâm sâu giữa tinh thần và định chế, giữa đức tin và uy quyền.
Tất cả đoạn văn thánh này đã toát ra
niềm hân hoan của Chúa Giêsu. Từ nay, những lời giảng và phép lạ của Ngài đã
làm chứng. Như thế, đoạn văn này vừa cho thấy một tính chất khởi thuỷ, lại vừa
biểu lộ một trạng thái đạt đích: đoạn văn có phác hoạ một khúc rẽ trung thực,
một thái độ đoạn tuyệt và chấp nhận: được lời Chúa khai mào, các phép lạ hỗ
trợ, con người đi tới chỗ lãnh nhận đức tin. Vậy chính ngôn ngữ và hành động
thần linh đã đặt nền móng Giáo Hội.
11. Suy niệm của JKN
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC GIÊSU LÀ CON THIÊN CHÚA
Câu hỏi gợi
ý:
1)
Khi Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu,
ông có thật sự tin ở bên trong, hay chỉ tuyên xưng ngoài miệng mà thôi? Xét lại
những tuyên xưng của chúng ta, chúng ta có xác tín đích thực bên trong rồi mới
tuyên xưng ra bên ngoài? hay chỉ là tuyên xưng ngoài miệng mà thôi?
2)
Câu Đức Giêsu nói với Phêrô cần được hiểu thế
nào? Đó có thể là một lời mời gọi mọi Kitô hữu ý thức hãy trở nên đá tảng làm
nền móng Giáo Hội không?
Suy tư gợi
ý:
1) Phêrô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu
Phêrô là một trong ba môn đệ được Đức
Giêsu yêu quí nhất -hai người kia là Gioan và Giacôbê- vì ông là một con người
thuần thành, chân thật và nhiệt tình, mặc dù có chút ít sốp nổi, bốc đồng. Điều
đáng quí nhất là tư tưởng, lời nói và hành động của ông là một, không bất nhất,
không mâu thuẫn nhau.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, thì đích thực ông nghĩ như vậy, ông sống như
vậy, và ông hành động đúng như vậy. Vì thế, ông đã tuyên bố những điều phát
xuất từ trái tim ông như: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây
cũng chẳng bao giờ vấp ngã (…) Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối
Thầy” (Mt 26,33.35). Tuy nhiên, ông không ngờ được sự yếu đuối, hèn nhát vẫn là
mẫu số chung của con người, trong đó có ông. Khi nói những điều ấy, ông không
ngờ được là có ngày ông bị Đức Giêsu trách: “Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi
một giờ sao?” (Mc 14,37), hoặc ông không ngờ lời báo trước của Đức Giêsu lại có
thể ứng nghiệm được đối với ông: “Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy
đến ba lần” (Mc 14,72).
2) Việc tuyên xưng của chúng ta thì sao?
Phêrô cả đời chỉ tuyên xưng và sống
hết mình với niềm tin đó, và ông cũng chết vì niềm tin đó. Ông không kết án
những ai không tuyên xưng hoặc tuyên xưng khác với mình. Còn chúng ta thì sao?
Có lẽ có nhiều người trong chúng ta
tuyên xưng đức tin rất mạnh, rất lớn tiếng, trong những nghi thức rất long
trọng, trước mặt rất nhiều người. Và chúng ta sẵn sàng kết án hoặc tỏ ra khó
chịu với những ai không tuyên xưng như chúng ta, hoặc tuyên xưng khác với chúng
ta. Nhưng cuộc sống của chúng ta thì lại xem ra khá độc lập với việc tuyên xưng
ấy. Chúng ta tuyên xưng một đằng, nhưng sống và hành động một đằng khác. Tại
sao thế?
·
Vì nhờ tuyên xưng mà chúng ta được lên chức,
được gia nhập một cộng đoàn, một tổ chức, một hội nào đấy, rất có thể có lợi
cho cuộc sống hay sự thăng tiến của chúng ta. Mà tuyên xưng thì rất dễ, chẳng
mất một giọt mồ hôi nào, cho dù có tuyên xưng mạnh mẽ, lớn tiếng hay trọng thể
đến đâu. Còn sống theo lời tuyên xưng ấy là cả một vấn đề gay go, phải «đổ mồ
hôi, xót con mắt», hoặc phải «trầy da tróc vẩy», phải đau đớn, thậm chí phải
chết. Vì thế, rất nhiều người tuyên xưng mà không sống lời tuyên xưng ấy.
·
Vì tự
bản chất của vấn đề, việc suy nghĩ trong thâm tâm và việc tuyên xưng ra bên
ngoài có thể độc lập với nhau hoặc mâu thuẫn nhau, nhất là nơi những người
thiếu thành thật. Câu «khẩu Phật, tâm xà» nói lên sự mâu thuẫn ấy có thể xảy
ra. Còn việc suy nghĩ và việc hành động lại thường đi đôi với nhau, người ta
suy nghĩ thế nào thì họ hành động như vậy: tư tưởng hướng dẫn hành động. Chỉ
với những người thành thật và có sức mạnh nội tâm, thì việc suy nghĩ bên trong,
tuyên xưng bên ngoài, và hành động hay cách xử sự luôn luôn nhất quán, trùng
hợp nhau. Tuy nhiên, với những người ý chí yếu đuối, dù rất thành thật, thì
hành động đôi khi đi ngược lại với suy nghĩ và lời nói, vì «lực bất tòng tâm»,
như trường hợp Phêrô chối Chúa chẳng hạn.
3) Linh đạo «tuyên xưng» và linh đạo «sống»
Trong đời sống Giáo Hội, việc tuyên
xưng ra ngoài miệng đóng vai trò quan trọng. Một số bí tích quan trọng đòi buộc
phải có hành vi tuyên xưng như một điều kiện quan trọng không thể thiếu, như
rửa tội, truyền chức và hôn phối. Một số nghi thức tôn giáo để gia nhập một
cộng đoàn nào đó cũng vậy: khấn dòng, tuyên hứa hay cam kết để gia nhập hội
đoàn. Trong thánh lễ, ta tuyên xưng đức tin trong kinh tin kính, trong lời tung
hô sau truyền phép. Việc tuyên xưng ấy rất cần thiết, nhưng rất có thể vẫn có
nhiều trường hợp người ta tuyên xưng một đằng, mà nghĩ, hành động, hay sống lại
một đằng khác. Vì người Kitô hữu chúng ta rất thường xuyên tuyên xưng điều này
điều kia, nên đôi khi chúng ta tuyên xưng một cách vô ý thức, rất máy móc, và
quên không cố gắng sống cho phù hợp với những tuyên xưng ấy. Vô tình hay hữu ý
chúng ta có thể trở thành những kẻ «ngôn hành bất nhất», trái với mệnh lệnh của
Đức Giêsu: «Hễ "có" thì phải nói "có", "không"
thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ» (Mt 5,37). Muốn
biết chúng ta có phải là loại người như thế hay không, hãy thử xét xem ta sống
có khác với những người không tuyên xưng như ta hay không, nếu khác thì khác
như thế nào, và ở mức độ nào. Lẽ ra người tuyên xưng và kẻ không tuyên xưng
phải sống khác xa nhau lắm!
Đối với con người - vốn không đọc được
những suy nghĩ bên trong người khác - thì việc tuyên xưng ra bên ngoài là quan
trọng. Nhưng đối với Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn người ta, thì việc ta
sống đúng theo suy nghĩ hay quyết tâm của ta mới là quan trọng. Vì thế, người
sống đạo nội tâm không nên đặt quá nặng việc tuyên xưng. Có những người tự hứa
hay tự khấn với Thiên Chúa điều gì, chỉ mình và Thiên Chúa biết với nhau, và họ
cố gắng giữ thật trọn vẹn lời khấn hứa ấy. Những người này có giá trị rất lớn
lao trước mặt Thiên Chúa, hơn rất nhiều những người tuyên khấn thật trọng thể -
trước vô số người tham dự, trong đó có cả những nhân vật cao cấp trong Giáo Hội
nghe và nhận lời tuyên khấn ấy - nhưng lại không giữ lời tuyên khấn ấy. Thế
nhưng lắm người coi việc làm cho thật trọng thể lời tuyên khấn còn quan trọng
hơn cả việc sống trung thực lời tuyên khấn ấy. Họ tuyên khấn thật trọng thể chỉ
để khuyên người khác giữ, còn chính họ không thèm giữ!
Thiết tưởng thái độ nội tâm khi tuyên
xưng mới là quan trọng, người Kitô hữu cần nhấn mạnh đến thái độ đó hơn cả
chính việc tuyên xưng ra ngoài! Sự xác tín ở bên trong phải có trước đã, còn
việc tuyên xưng tuy cần thiết về mặt xã hội hoặc Giáo Hội, nhưng chỉ là phụ
thuộc! Xác tín bên trong không có, mà lại tuyên xưng bên ngoài thì thật là giả
dối!
4) Những người xác tín thật sự bên trong rồi
mới tuyên xưng ra bên ngoài là những viên đá nền tảng của Giáo Hội
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, một
đức tin có thật bên trong, một đức tin mà ông sẵn sàng sống chết với nó, thì
Đức Giêsu tuyên bố: «Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ
xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi». Điều đó cho
thấy những ai có đức tin mãnh liệt thật sự, và chứng tỏ đức tin ấy bằng cuộc
sống, bằng những hành động phù hợp, thì Đức Giêsu muốn những người ấy là đá
tảng của Giáo Hội. Quả thật Giáo Hội rất cần những Kitô hữu như thế, cho dù họ
là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân! Chức vụ hay phẩm trật
của họ trong Giáo Hội không phải là chuyện quan trọng cho bằng phẩm chất Kitô
hữu của họ! Càng thiếu phẩm chất Kitô hữu mà càng giữ những chức vụ cao trong
Giáo Hội, thì càng làm hại Giáo Hội, càng làm Giáo Hội suy yếu, chứ chẳng phải
là làm nền tảng cho Giáo Hội đâu! Thật vậy, Giáo Hội đã phải nhiều phen điêu
đứng và bị lung lay vì những ông giáo hoàng hay giám mục kém phẩm chất! Những
vị này chỉ tuyên xưng đức tin ra bên ngoài để được phong chức, mà không có niềm
xác tín đích thực bên trong! Những vị ấy dù có là giáo hoàng cũng không thể là
đá tảng của Giáo Hội được!
Qua việc tuyên xưng đức tin của Phêrô
và lời tuyên bố tín nhiệm của Đức Giêsu, ta thấy mọi Kitô hữu - không trừ ai -
đều được kêu gọi trở nên đá tảng của Giáo Hội bằng một đức tin có thật, sâu xa,
mãnh liệt, và được tuyên xưng ra bên ngoài không chỉ bằng lời nói, mà chủ yếu
bằng hành động, bằng chính đời sống dấn thân của mình. Giáo Hội mà thiếu những
Kitô hữu như thế - dù họ chỉ là giáo dân - thì đã bị đào thải và sụp đổ từ lâu
rồi. Giáo Hội mà có thật nhiều Kitô hữu như thế thì «quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi», và sẽ là một nhịp cầu chắc chắn nối liền thế giới với Thiên Chúa.
Một Giáo Hội như thế sẽ là một hồng phúc cho cả nhân loại.
Cầu nguyện
Lạy Cha, từ trước đến nay, lời Đức
Giêsu nói với thánh Phêrô con cứ nghĩ là Ngài chỉ nói với những vị mà Ngài chọn
làm giáo hoàng mà thôi. Nhưng nghĩ sâu xa và phổ quát hơn, con nhận ra Ngài nói
với tất cả mọi Kitô hữu, Ngài mời gọi họ trở nên đá tảng của Giáo Hội, bằng
cách bắt chước Phêrô: thật sự xác tín về Thiên Chúa và Đức Giêsu ở bên trong,
rồi sau đó tuyên xưng ra bên ngoài bằng chính đời sống của mình. Xin giúp con
biết quảng đại đáp lại lời mời gọi ấy. Amen.
12. Người Kitô hữu
Trong những
dòng cuối của sứ điệp: “Hoà bình dưới thế”, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, được
mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định
nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi một tín hữu trong
thế giới của chúng ta là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một
thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn
vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.
Sống trọn những cam kết trên, quả thật
người Kitô luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối
với mọi người. Một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ
thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất
hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy lên cả khối bột. Một thể hiện yêu
thương, dù nhẹ nhàng đơn giản, cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay
cảm hoá bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người tín hữu luôn có
sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống
đúng danh nghĩa người Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc
nhở chúng ta về cuộc sống ấy. Trong những việc làm của mình, và nhất là cuộc
sống của mình, Chúa Giêsu đã không ngừng là một câu hỏi cho tất cả chúng ta:
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Câu hỏi đó Chúa không ngừng đặt ra cho
chúng ta và yêu cầu chúng ta sống đúng với niềm tin của mình. Ai trong chúng ta
cũng phải trả lời được Chúa Giêsu là ai? Là Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến trần
gian để dạy bảo Tin Mừng, để cứu chuộc chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta, qua
cuộc sống của mình, chúng ta cũng luôn là câu hỏi cho những người chung quanh.
Dù âm thầm ẩn dật đến đâu, dù bé nhỏ vô danh đến đâu, sự hiện diện của chúng ta
cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh. Nghĩa là nhìn vào đời
sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?
Thực vậy, giữa một xã hội đầy giành
giật, đầy bon chen, lấy tiền bạc làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô sẽ vẫn
là một câu hỏi, nếu chúng ta sống trong tinh thần khó nghèo, chấp nhận thua
thiệt, mất mát hơn là bán đứng lương tâm để chạy theo điều phi pháp. Có một số
người lấy hận thù, ăn miếng trả miếng làm luật sống, người Kitô sẽ mãi mãi là
một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn yêu thương với mọi người, sẵn sàng tha thứ và
theo Chúa cho đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi, thất
vọng, người Kitô vẫn mãi mãi là một câu hỏi, nếu chúng ta biết sống lạc quan,
tin tưởng vào một Đấng có tình yêu trong lịch sử con người. Giữa xã hội mà sự
thành thật với nhau đã trở thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô sẽ mãi mãi là
một câu hỏi, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sống thành thật, sống tử tế, tốt đẹp với
mọi người, ngay cả đối với chính kẻ thù của mình… Sống như thế quả là không dễ,
là một đòi hỏi cam go, nhưng Chúa đòi chúng ta phải cố gắng sống được như thế
nếu chúng ta muốn là một Kitô hữu đúng danh, nếu chúng ta muốn làm chứng cho
Chúa.
Trong tiểu
sử của thánh Sác đơ Phu-cô kể rằng: sau khi từ Ma-rốc trở về, anh say sưa kể
lại cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm đầy kỳ thú của anh qua những khu
rừng Phi Châu, người chăm chú theo dõi câu chuyện hơn cả là một cô cháu gái
chưa đầy 10 tuổi. Khi anh vừa kể xong, bất ngờ cô bé hỏi: “Thưa cậu, cháu thấy
cậu làm được nhiều việc rất hay, thế cậu đã làm được gì cho Chúa Giêsu chưa?”.
Câu hỏi ấy như một luồng điện giật làm Sác đơ Phu-cô bất động. Từ bao lâu nay
chưa ai đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế: anh đã làm được gì cho Chúa
Giêsu? Anh lục soát tâm hồn mình, anh chỉ thấy một lỗ hổng không đáy, anh đã
phí phạm tất cả thời giờ và tuổi thanh xuân cho những cuộc ăn chơi truỵ lạc và
những danh vọng thấp hèn, mắt anh bỗng mở ra để thấy nỗi khốn khổ, nghèo hèn
của mình.
Ngày hôm
sau, anh tìm đến xưng tội với một linh mục. Anh vào dòng khổ tu, ít lâu sau,
anh xin đến Nagiarét để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu. Một ngày kia, khi đang
cầu nguyện sốt sắng trong phòng, bỗng anh nghe thấy từ căn nhà bên cạnh tiếng
rên rỉ của một người Hồi giáo, nhớ lại gương bác ái của Chúa Giêsu, anh tự hỏi:
tôi có thể giam mình cầu nguyện trong phòng trong lúc có những anh chị em chung
quanh đang khốn khổ thất vọng chăng? Thế là anh quyết định đến sống giữa họ,
trở thành người anh em của họ, nhất là của những người cô đơn, lạc lõng, nghèo
hèn. Những năm cuối đời, anh sống giữa sa mạc Sa-ha-ra, chia sẻ hoàn toàn cuộc
sống cho những người cùng khổ, và chia sẻ đến giọt máu cuối cùng khi phát súng
oan nghiệt của kẻ sát nhân bắn gục anh giữa lúc đang cầu nguyện.
Mọi Kitô hữu chân chính đều phải tự
hỏi mình: tôi đã làm được gì cho Chúa Giêsu? Chúng ta cũng tự hỏi mình như thế.
Qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời, qua bao nhiêu nhiệm vụ lớn nhỏ đã hoặc đang
đảm trách, qua bao nhiêu hồng ân đã lãnh nhận, tôi đã làm được gì cho Chúa
Giêsu? Không phải là cho Chúa Giêsu mãi đâu trên trời, nhưng là cho Chúa Giêsu
đang tiếp tục ngự đến, đang tiếp tục hiện diện trong cuộc đời tôi, trong tâm
hồn tôi, nơi những người anh em tôi, cũng là anh em của Ngài, nhất là những ai
thấp hèn, cùng khổ. Tôi tự hỏi mình, mà chính Chúa Giêsu cũng hỏi tôi mỗi ngày:
“Con đã làm được gì cho Cha?”, cũng có nghĩa là “Con đã làm được gì cho những
người anh em bé mọn nhất của Cha?”. Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và trả lời.
13. Thầy là ai?
Rembrandt vẽ
Đức Giêsu rất con người với tất cả ánh sáng và bóng tối. El Greco trình bày một
Đức Giêsu đòi hỏi và hoang dã, hơi gầy và tình cảm. Còn Angelico miêu tả một
Đức Giêsu ngọt ngào giống như thiên thần. Có những hình vẽ Đức Giêsu là Chúa
Chiên Lành, hiền từ và yêu thương, ôm lấy những con chiên hay bế trẻ thơ trong
cánh tay. Có hình vẽ Đức Giêsu là quan án, nghiêm khắc, ngồi trên ngai, đang
nhìn thấu suốt tâm tư của con người.
Điều không ai nghi ngờ là, con người
được miêu tả nhiều nhất trong nghệ thuật trải qua bao thế kỷ, là Đức Giêsu
Kitô. Ngày xưa cũng như ngày nay, người ta vẫn tiếp tục vẽ ra hình ảnh của
Ngài. Bài Phúc âm hôm nay, nói đến sự kiện Chúa Giêsu rút về vùng Caesarea
Philippi và hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Con Người là ai?” Họ trả lời: “Người
thì bảo là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là Elia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay
một tiên tri nào đó”. Ngài hỏi thẳng các môn đệ: “Phần các con, các con bảo
Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
William Barclay đã nêu lên những lý do
rất hợp lý giải thích tại sao Chúa Giêsu lại rút về vùng Caesarea Philippi để
dạy cho các môn đệ biết Ngài là ai. Vào thời điểm này, Chúa Giêsu phải đối diện
với một vấn đề rất gay go. Cuộc đời trần thế của Ngài quá ngắn ngủi, đã có ai
thực sự hiểu và nhận biết Ngài là ai chưa? Vì thế, Chúa đã chọn lựa rất kỹ
lưỡng địa danh này để đặt câu hỏi “Thầy là ai?”
Theo William Barclay, vùng Caesarea
Philippi cách biển Galilêa 25 dặm về phía đông bắc, ngoài vùng đất cai trị của
vua Hêrôđê, đa số dân chúng không phải là Do Thái, chịu ảnh hưởng của những
thần ngoại đạo, với nhiều đền thờ cổ thờ thần Baal của người Syrian. Vùng này
lại có nhiều hang động nằm sâu trong núi. Một trong những hang này được tin
tưởng là nơi sinh ra của vị thần Pan, thần của vũ trụ. Những huyền thoại về các
thần của người Hy Lạp đã được gom góp lại trên phần đất này. Xa hơn nữa, hang
này đã được truyền tụng là nơi xuất phát ra những nguồn suối nước tạo nên dòng
sông Giođan. Nhưng quan trọng hơn hết, có một đền thờ vĩ đại bằng cẩm thạch
trắng để thờ vị thần của hoàng đế Caesar.
Đang khi nhóm người Do Thái chính
thống âm mưu giết Ngài như một kẻ rối đạo, Ngài đi đến một vùng đất thiêng
thánh nhất của dân ngoại để mạc khải sự thật của Ngài. Đây là một bối cảnh có ý
nghĩa sâu xa và có lẽ cũng là nơi an toàn để Chúa Giêsu cùng với 12 môn đệ
tuyên xưng niềm tin. Qua lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên
Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu mạc khải về thần tính của Ngài ở địa vị tối thượng
trên hết mọi thần linh.
Câu trả lời của thánh Phêrô là kết quả
của những ngày tháng gặp gỡ chính con người Đức Kitô. Ông đã quan sát đời sống
hằng ngày của Ngài khi giảng dạy, làm phép lạ, chữa lành bệnh nhân, kêu gọi dân
chúng thay đổi đời sống, tiếp xúc với những người tội lỗi, phụ nữ và trẻ em, ăn
uống, gần gũi và yêu thương những người bị bỏ rơi… Khi sống chung với Đức Giêsu
Kitô, sự nhận thức của Phêrô về Ngài được mở ra dần dần. Ông nhìn thấy khuôn
mặt của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Lời tuyên xưng phát xuất từ sự gặp gỡ chân
thành trong tâm hồn của Phêrô.
Đức Tổng giám mục Oscar Romero của El
Salvador, người đã bị bắn chết đang lúc dâng thánh lễ, đã phát biểu một cách
hùng hồn rằng: “Kitô giáo không phải là một bộ sưu tập những sự thật để tin,
những luật lệ phải tuân giữ… Kitô giáo là một con người… Kitô giáo là Chúa
Kitô”.
Chính sự kết hợp mật thiết và gắn bó
với Chúa Giêsu mà Phêrô đã được đặt làm thủ lãnh của Giáo Hội: “Con là Đá, trên
đá nầy Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
14. Thầy là ai?
Năm 1958 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII
được chọn trong cơn khủng hoảng của Giáo Hội về các vấn đề liên hệ đến chức
linh mục, đời sống tu trì, hôn nhân và đức tin. Đức Giáo Hoàng đã phải làm việc
vất vả nhiều giờ để cố gắng giải quyết những vấn đề này. Vào một buổi tối, sau
một ngày làm việc mệt mỏi trong văn phòng, ngài đi đến nhà nguyện để làm Giờ
Thánh theo thông lệ hằng ngày trước khi đi ngủ. Vì ngài quá kiệt sức và căng
thẳng tới nỗi không thể tập trung tinh thần để cầu nguyện được nữa. Sau một vài
phút cố gắng nhưng vô ích, ngài đứng dậy và nói: “Lạy Chúa Giêsu, Giáo Hội thuộc
về Chúa. Con đi ngủ đây”. Chính những khó khăn đã đưa dẫn Đức Giáo Hoàng tới
việc nhận thức rằng Giáo Hội thuộc về Chúa Kitô.
Nếu hôm nay Chúa Giêsu cũng hỏi chúng
ta: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Câu trả lời của chúng ta là gì? Hầu
hết những câu trả lời của chúng ta đã được nghe và đặt thành những tước hiệu về
Chúa Giêsu: Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, Ngôi thứ hai của Ba Ngôi
Thiên Chúa, Chúa Chiên Lành, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống… Những câu trả
lời này có thể là của suy luận thần học và thánh Kinh, nhưng chưa phải là câu
trả lời phát xuất từ đáy tâm hồn ta!
Chúa Giêsu đang mong đợi những câu trả
lời cá nhân của chúng ta. Những câu trả lời do sự liên hệ gặp gỡ thân mật giữa
ta với Ngài.
Người đàn bà
nhận được điện thoại của người giữ trẻ. Con bé gái của bà ngã bệnh, đang bị sốt
cao độ. “Tôi sẽ trở về nhà ngay”, bà nói với người coi trẻ, “nhưng trước hết,
tôi sẽ ghé qua tiệm thuốc mua ít viên aspirin cho trẻ con. Phải làm cho nó bớt
sốt cái đã”. Bà phóng xe đến tiệm thuốc. Khi trở lại xe với những viên aspirin
trong tay, bà nhận ra rằng trong lúc vội vã đã khoá cửa xe mà chìa khóa vẫn còn
ở trong xe. “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con”, bà thành tâm cầu nguyện, “con gái
con đang đau, con phải mang thuốc về cho nó”. Sau đó bà nhớ ra rằng một cái móc
áo có thể được dùng để mở cửa xe hơi. Nhìn xuống mặt đất xung quanh đó, có một
cái móc áo đã bị rỉ sét, lượm lên bà băn khoăn tự hỏi, làm thế nào mà mở cửa xe
bây giờ. Lần thứ hai bà lại thành tâm cầu khẩn, “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con,
xin gửi đến cho con người nào biết dùng cái móc áo này”.
Ngay sau lời
cầu nguyện có chiếc môtô gầm lên vang trời phóng tới và đậu lại ngay đó. Chàng
thanh niên lái xe môtô mặc chiếc áo khoác bằng da đen, cùng với y phục trang
sức hiện đại: giày đen, bao tay đen, mũ da đen, mắt kiếng đen, tóc dài với bộ
râu quai nón rậm rạp. “Ôi, lạy Chúa Giêsu, Ngài đã nhận lời con cầu nguyện rồi
hay sao?” Bà tự nghĩ. Rồi bà giải thích câu chuyện cho chàng lái xe môtô. Con
nhỏ bị bệnh, cần đưa thuốc về, chìa khóa xe bên trong. “Đây là cái móc áo rỉ
sét”, bà quơ cái móc áo qua lại trước mặt hắn. “Anh có thể giúp tôi được
không?” “Được mà”, anh nói. Anh cầm cái móc áo trong tay, chỉ trong 5 giây, đã
mở được cửa xe. Vô cùng biết ơn, bà đưa tay ôm choàng lấy gã lái xe môtô, trong
cơn xúc động bà nói, “Cám ơn anh hết sức. Anh tốt quá đi!” “Không, tôi không…”
gã lái xe môtô nói. “Tôi vừa mới ra khỏi nhà tù hôm nay. Tôi đã bị tù vì tội ăn
cắp xe hơi, và vừa mới được thả ra khỏi tù chừng một tiếng đồng hồ thôi”. Người
đàn bà đưa mắt lên trời cao thì thầm, “Cám ơn Chúa Giêsu, vì đã gửi đến cho con
một tay rất chuyên nghiệp!”
Đây là câu chuyện vui, nhưng đã nói
lên điểm chính yếu của bài Phúc âm hôm nay. Vì nếu Chúa Giêsu hỏi người đàn bà
đó rằng “Phần con, con bảo Thầy là ai?” Câu trả lời của bà ấy sẽ là: “Thầy là
người săn sóc cho con trong cuộc đời, một người yêu con và giúp đỡ con, một
người lúc nào cũng sẵn sàng cho con”. Đây là câu trả lời phát xuất từ con tim
mà thánh Phaolô đã gọi là “tài trực giác siêu nhiên” sẽ làm Chúa Giêsu vui
lòng.
Điều này rất quan trọng, vì một cảm
nghiệm xuất phát từ trái tim chính là một sự khám phá thứ hai: Chúa Giêsu hiện
diện trong chúng ta, và dùng chúng ta để tiếp tục sự hiện diện của Ngài trong
thế giới này.
15. Các con bảo Thầy là ai?
Lời chất vấn
Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các
môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Hôm nay Ngài cũng đặt ra cho mỗi
người chúng ta.
Có thể trả lời hai cách.
Hoặc trả lời như Phêrô: "Thầy là
Con Thiên Chúa hằng sống". Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng đó
là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học
trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản
thân.
Cách thứ hai là trả lời theo kinh
nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều
gì thì nói lên trung thực như vậy.
Theo cách này thì trả lời không dễ và
mỗi người có câu trả lời riêng của mình.
Bạn sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi,
tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền
toái cho người khác, là một gương mẫu không thế theo nổi nên dễ làm nản lòng...
nhưng đồng thời Thầy là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời
con.
Một người
gây phiền toái
Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái
cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và
những điều Ngài đòi hỏi thường đại ngược lại với bản năng của con người. Ngài
mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi
hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân.
Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước
những lựa chọn rất nghiêm trọng và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi
phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu,
gia đình, sự nghiệp, tương lai.... Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ
nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.
Có không ít những lời bộc lộ tâm tình
thành thực rất đáng được thông cảm. Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo
lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được!
Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời
sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh. Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không
phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có
gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.
Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều
hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối...
làm nhiều người đau khổ.
Một gương
mẫu dễ làm nản lòng
Người tín hữu phải theo gương Chúa
Giêsu. Nhưng gương tuyệt hảo, cao siêu của Ngài dễ làm người ta choáng váng.
Chúa Giêsu không chấp nhận một lối sống tầm thường. Ngài không muốn chúng ta
thánh thiện nửa vời. Ngài chỉ cho thấy một lý tưởng cao vút: hãy nên toàn thiện
như Chúa Cha trên trời. Ngài vạch ra một con đường khó đi: hãy sống như Ngài,
theo gương Ngài.
Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi.
Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo
càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc tránh được cơn cám dỗ ác hại
nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.
Người mà ta
cần đến nhất
Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là
người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời
sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.
Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có
nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Nhận định và ý nghĩa về mỗi sự việc tùy
thuộc vào vị trí chúng ta đứng mà nhìn.
Nếu ngừng lại ở tầng lớp nông cạn bên
trên thì chỉ gặp nơi con người toàn những khát vọng, ưu tư, toan tính về cuộc
sống thường ngày, cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt. Những khát vọng, ưu tư
này dầu có thiết thân đến đâu thì cũng vẫn chỉ có tính giai đoạn, ngắn hạn,
nghĩa là tương đối. Về mặt này thì có lẽ Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều
cho chúng ta.
Nhưng càng đại xuống tầng lớp sâu hơn
thì càng dễ khám phá ra những ước mơ thầm kín, thâm sâu của con người. Chúng
luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu... nhiều khi chính mình cũng không thế ý thức
được hết. Những ước mơ này liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống.
Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ, cái gì chân thật hoàn
hảo, vĩnh cửu, nghĩa là mơ ước chân lý, sự toàn thiện,
Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được
những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó?
Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới
thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: "Ta là Đường, là Sự thật và là Sự
sống".
Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối
hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận.... trong khi sự sống thân xác chỉ là
một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngắm trong đêm dài bất tận. Ngài còn
là Đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn
vẹn.
Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng
ta cần đến nhất, một người không thế thiếu... mặc dầu sự hiện diện của Ngài có
gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản
lòng.
Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô
còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Thầy,
bỏ Thầy con biết đi theo ai".
16. “Con Thiên Chúa hằng sống”
Trong những giờ chầu Thánh Thể, ta vẫn
hát: “Này con là Đá...”, để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha. Lời hát như vang vọng
tiếp nối một truyền thống thật xa lên đến giờ phút ở Xêđarê Philipphê khi Chúa
Giêsu lập Giáo Hội với một nhóm nhỏ còn lang thang dong ruổi hành trình rao
giảng Nước Trời, chưa hình thành một cơ cấu chặt chẽ và ổn định.
Không biết mỗi lần hát chúng ta có đủ
lắng sâu để chiêm ngấm biến cố lạ lùng khi Chúa Giêsu quyết định đặt một con
người mỏng manh đến thế để làm đầu Giáo Hội và làm đá tảng để Ngài xây dựng
Giáo Hội của Ngài trên đó. Ngay chính khi vào giờ đó Phêrô cũng chưa mường
tượng ra được Giáo Hội mà ông được trao phó cho trách nhiệm thánh thiêng và cao
quý ngần ấy sẽ như thế nào và sẽ thành hình ra sao?
1. Một quyết
định dựa trên mạc khải
Ở một địa điểm xa với những sinh hoạt
chính trị và tôn giáo, Đức Giêsu đã muốn cho các môn đệ của mình có dịp đào sâu
mối tương quan thân tình và sâu đậm với Ngài để rồi đến một lúc nào đó khi ân
sủng đã đầy tràn, đã tác động nơi những con người mỏng dòn và nhỏ bé này thì
Ngài đặt ra cho họ một câu hỏi trở nên căn bản cho mọi thời: “Còn các con, các
con bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu là ai đối với các môn đệ quả
thật là hệ trọng vì nó xác định mối tương quan thật sự giữa họ và Thầy mình.
Điều nầy đã trở nên cốt thiết đến nỗi nó sẽ chi phối toàn thể cung cách sống và
hoạt động của họ.
Nếu người ta không gặp và biết Đức
Giêsu là ai. Thực sự là ai thì mọi nỗ lực xây dựng đều không có nền móng vững
chắc. Chỉ cần một khủng hoảng, một biến động nào đó của hoàn cảnh đủ làm sụp đổ
toàn bộ những kiến tạo vừa mới được thiết lập. Người ta có thể theo Chúa Giêsu
một khoảng thời gian nào dó để rồi sẽ hối tiếc vì mình đã lầm tưởng và không
thể đáp trả trước một đòi hỏi cho là quá lớn của một Đấng, mà mình chưa coi là
số một của đời mình. Chúng ta thường thấy Chúa Giêsu nói câu này: “Lòng tin của
con đã cứu chữa con” Ngài luôn muốn nối một cây cầu gặp gỡ với những ai lãnh
nhận ơn lành của Ngài. Như vậy Ngài không chỉ bằng lòng với việc họ đã nhận
được điều nầy điều nọ mà Ngài phải là ai đối với họ.
"Đức Giêsu thực sự là ai? "
Câu trả lời chính xác vẫn không nằm
trong tầm tay của ta mà chỉ có ân sủng mới cho ta lời giải đáp trọn vẹn. Lời
tuyên tín của Phêrô không phải là thành quả của việc tổng kết các lời nói việc
làm của Đức Giêsu dẫn Phêrô đến chỗ khám phá ra chân tính của Đức Giêsu mà là
một tác động thần linh đã soi tỏ cho Phêrô biết.
"Anh thật có phúc vì không phải
phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy mà là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời (Mt
16,17)
Bởi vì những gì thuộc về máu thịt, trí
tuệ cùng lắm chỉ là một tiên tri hay tệ hơn chỉ là một vĩ nhân dù đó là vĩ nhãn
số một của nhân loại. Nhưng hơn thế nữa: “Ngài là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
Hằng Sống”. Để nghiệm được điều đó, đón nhận được mầu nhiệm ấy, không chỉ cần
khiêm tốn của trí tuệ mà cần nhận được mặc khải từ nơi Thiên Chúa.
Lời tuyên tín của Phêrô tỏ cho thấy
ông được Chúa Cha mặc khải cho mầu nhiệm cơ bản của Nước Trời và là dấu sự chọn
lựa của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng đã đến lúc Ngài có thể khởi đầu việc
đặt nền móng xây dựng một tòa nhà kiên cố liên quan đến toàn bộ chiều dài của
lịch sử? “Trên táng đá nàyThầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” Một quyết định thật
bất ngờ nhưng lai dựa trên ý định của Cha nơi mặc khải cua Ngài.
2. Hội thánh
trên tảng đá sống
Khi thoáng nhìn một con thuyền nhỏ bé
lênh đênh trên biển cả bao la, ta chợt có ý tưởng nghi ngại: một con thuyền như
vậy liệu có thể vượt đại dương đầy sóng gió hãi hùng, đầy bão tố hiểm nguy để
về đến bến bình yên không.
Cũng như vậy, tự nhiên ta sẽ nghĩ về
Phêrô: ông cũng chỉ là một con người với vô vàn khuyết điểm, yếu đuối mà ta đã
thấu rõ chất người của ông lúc ông sợ hãi can ngăn Chúa Giêsu lên Giêrusalem,
khi ông nhát đảm chối bỏ Thầy trong dinh thượng tế. Thế mà ông lại được chọn để
làm nền cho Giáo Hội và mọi quyền lực âm phủ không lay chuyển nổi.
Sự an toàn không ở nơi tảng đá sống đó
mà ở nơi lời tác tạo của Đức Giêsu, lời bảo đảm cho công trình của Ngài. Chỉ có
lời của Đức Giêsu làm nền tảng thực sự cho Giáo Hội vừa được chính thức thiết
lập.
Phêrô - người và những đấng kế vị mãi
là những viên đá sống động nên không thiếu những yếu hèn và khuyết điểm. Nhưng
Thiên Chúa thì mạnh mẽ và trung tín với lời hứa của Ngài. Nhờ đó chúng ta sẽ
không nao núng, hay thất vọng trước những yếu kém nào đó của những con người
trong Giáo Hội. Chính Chúa sẽ thi thố quyền năng, giữ gìn và bảo vệ công trình
tay Ngài dựng nên.
3. Cộng tác
với ân sủng và khiêm tốn đón nhận
Chúa Giêsu đã không khen Phêrô có công
trong lời tuyên tín chuẩn mực của ông. Tất cả đều là ơn nhưng không của Thiên
Chúa, nhưng Phêrô diễm phúc vì đã để cho mặc khải của Thiên Chúa được tự do
hành động trong con người của mình. Mặc khải đã đến trong tâm hồn, trí tuệ và
lời nói của Phêrô đã bật ra thành lời tuyên xưng. Ông đã không cản trở tác động
của ơn thánh mà cộng tác để làm lộ ra mặc khải Thiên Chúa ông đã nhận được nơi
bản thân. Điều nầy có vẻ là một thái độ thụ động, nhưng thật ra đây cũng là một
thái độ cần thiết đòi hỏi nỗ lực đón nhận và tự do ưng thuận. Thiên Chúa luôn
để cho ta được tự do đáp trả điều Ngài muốn làm nơi ta, vì thế sẵn sàng mở cửa
cho ơn thánh cũng là một thái độ cộng tác với ơn của Thiên Chúa. Ngài muốn dùng
ta như trung gian ân huệ Thiên Chúa.
4. Câu hỏi
dành cho mỗi người: “Đức Giêsu là ai đối với bạn?"
Câu hỏi ấy vẫn mãi vang lên trong Hội
Thánh và giữa nhân loại. Không biết Đức Giêsu và không biết Ngài là ai đối với
mình thì mọi chức vụ đều vô nghĩa. Người ta không thể phục vụ mà lại không biết
rõ người sai gởi mình. Chính trong mối tương quan với đức Giêsu mà sau ngày
Phục Sinh Đức Giêsu lại tiếp tục hỏi Phêrô về lòng yêu mến. Có biết đức Giêsu
và yêu mến Ngài người ta mới có thể sống tận cùng sự phục vụ và yêu mến tha
nhân.
Để biết Đức Giêsu, người ta sẽ phải
tìm kiếm Ngài, hiểu biết Ngài và nhất là gặp gỡ Ngài. Nhờ những giờ phút gần
gũi, những khoảnh khắc lắng nghe Lời Ngài, những thời gian sống cho Ngài, người
ta sẽ có được một kinh nghiệm, một tương quan cá vị, và điều này sẽ giúp tăng
tiến mối quan hệ với đức Giêsu.
"Đức Giêsu là ai đối với tôi? "
Câu hỏi ấy dành cho chính tôi - Tôi sẽ
trả lời thế nào? Không thể lấy lại những gì tôi đã nghe người khác nói về Ngài.
Còn bản thân thì chưa biết Ngài như một em bé học giáo lý đã phải khóc thốt nên
rằng "Sao ai cũng nói về một người tên là Giêsu, nhưng con chẳng biết ông
là ai? Con chưa bao giờ gặp ông ấy!”
Tệ hơn nữa có khi ta vẫn cứ tuyên
xưng: Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống mà thực sự ta chẳng hề tin, chẳng
hề hiểu và chẳng hề sống lòng tin của mình.
Có lẽ chính chúng ta sẽ phải đi tại
hành trình khám phá Đức Giêsu: nhìn lại những sợi dây nối kết chúng ta với đức
Giêsu hơn là bằng lòng với những gì người khác nói cho ta về Ngài.
Lời Chúc phúc cho Phêrô hôm nay cũng
sẽ là Lời chúc phúc cho tất cả những ai nhận thực Đức Giêsu là Con Thiên Chúa,
để rồi thể hiện rõ nét trong đời sống mình tuyên xưng mà chúng ta vẫn đọc trong
Kinh Tin Kính: "Tôi tin kính Đức Giêsu Kitô Con một Thiên Chúa...”
17. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
PHÊRÔ TUYÊN TÍN VÀ NHẬN QUYỀN TỐI CAO
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
"Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy
giả, nhóm khác: Elia": Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập
vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này
đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh
Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với
lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của
Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử
của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ", xin xem chú thích
của BJ).
“Ta là ai ": Đừng mặc
cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn
các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của
Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác
quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần
gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
"Con Thiên Chúa hằng sống": Câu thêm
này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem
đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích
của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ
nhất dựa trên các lý do như sau:
1/ Trong lúc các chỗ khác trong
Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" (Fils de Dieu)
(4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể
siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là "Người Con của Thiên
Chúa" (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc
thần linh của Người.
2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận
lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính
về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa
nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại
đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ
trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng
lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.
3/ Có một trường hợp duy nhất khác
trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils
de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).
4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc
khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của
Chúa Giêsu thôi (c.17).
5/ Người ta không bao giờ minh chứng
thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó
đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không
phải thần tính của Chúa Giêsu.
Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh
vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.
Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như
sau:
1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào
não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn
ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến
thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu
thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy
trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của
Gioan.
2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính
của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ
chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?
3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá
nhiều ý nghĩa cho mạo từ "Người" (Lc) trong thành ngữ "Người Con
của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô
học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.
4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm
thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de
Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu
Thiên Chúa với tư cách là "Chúa" của Tv 110, và với tư cách là nhân
vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x.
chú thích của BJ); v.v...
Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và
vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có
thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh),
nhưng sau đấy "được đọc lại" dưới ánh sáng Phục sinh và được giải
thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là
không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến
triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng
trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một
viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến
cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan
trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói
‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa
Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì
rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và
thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng
tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề
này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.
"Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây
Hội Thánh của Ta": Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong
Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và
petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ
képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng
không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp
một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros
trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương
nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng
của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một
chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).
Đổi tên như vậy là một chuyện thường
xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và
kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds
13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá
móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.
Các thành ngữ tảng đá móng và xây,
theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng
đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham
là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô
hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là
nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai "Ta sẽ xây"
có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.
"Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng
nổi". Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các
người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục)
sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai;
đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử
của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G
38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)
Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã
luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với
ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một
chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói
đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và
Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28,
20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng
tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu
truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ
đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.
“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói
cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc
tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc
gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá
bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực
hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù
đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.
KẾT LUẬN
Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý
nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu
Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách
khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng
hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô
quyền “cầm buộc" và “tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại
trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên
quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong
sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con
Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin
của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Chắc chắn
Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô,
vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền
tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với
nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến
về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi
hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần
tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ
mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.
2) Sau khi
nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể
đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu
nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần
Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là
tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa
Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.
3) Giáo Hội
không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả
kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn
giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được
thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế
giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn
giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng
sống.
4) Dù khuôn
mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương
xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử
dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả
người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ
nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự
trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong
khắp cả thế gian.
5) Giáo Hội là
thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so
với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ
và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại
cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực
tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh
trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.
6) Dù Giáo Hội
còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng
trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.
18. Phêrô tuyên xưng đức tin - Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1) Phêrô tuyên xưng đức tin
Phải luôn lẩn tránh những địch thù
quấy nhiễu Ngài, Đức Giêsu dẫn dắt môn đệ của Người đi vào một chỗ những cuộc
tĩnh tâm liên tiếp. Nó đặt cột mốc -vừa về địa lý, vừa về tinh thần- trên chặng
đường tìm hiểu căn tính thực của Ngài.
Vừa trải qua cuộc tranh luận với Biệt
phái, những kẻ xin Người làm một dấu lạ, này đây Đức Giêsu và các môn đệ sang
miền đất dân ngoại, phía nguồn sông Giođan. Césarée Philipphe là thành phố mới
được xây dựng do kinh phí của hoàng tử Philipphe, con của vua Hêrôđê Cả, có ý
tôn vinh hoàng đế Rôma, nên đã đặt tên là Césarée. C. Tassin chú giải: Dân ở
đây là người Siri gốc Hy Lạp, họ thờ cúng thần Pan và thần Nymphe, tạo nên một
khung cảnh gần giống với môi trường mà Matthêu đang sống (L'Evange le de
Matthieu” (Centurion, trang 173).
Chính tại đây, trước khi khởi hành đi
Giêrusalem trong cuộc hành trình cuối cùng mà Đức Giêsu đặt câu hỏi quan trọng
mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay.
Con Người- Đức Giêsu
hỏi, người ta bảo Con Người là ai?
· Chúa đã dùng
hình ảnh “Con Người”, một hình ảnh mầu nhiệm (xem Danien 7,13) mà Matthêu nhắc
lại tới 30 lần trong chính Tin Mừng của ông, để nói về chính mình và sứ mạng
của Người: một con người thực thụ có tương quan với Thiên Chúa Đấng Cứu độ.
· Để đáp lại
câu hỏi, các môn đệ đã nêu ra một loạt các ý kiến về Người. Mọi ý kiến đều coi
Người là một nhân vật đóng vai trò quan trọng, như là Gioan Tẩy Giả đã sống lại
từ cõi kẻ chết, như ngôn sứ Êlia mà dân chúng trông đợi trở lại để loan báo
Chúa Cứu thế đến, như ngôn sứ Giêrêmia, một vị ngôn sứ phản kháng vì bị phản
kháng, như một ngôn sứ nào đó.
Còn
anh em,
Đức Giêsu hỏi thẳng ý kiến các ông, anh em bảo Thầy là ai? - Simon Phêrô trả
lời, tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng
sống”. Lúc này ông không những là phát ngôn viên của nhóm môn đệ, nhưng
còn là gương mẫu cho việc tuyên xưng đức tin Kitô hữu.
Lời đáp của Phêrô, theo C. Tassin,
nhắc lại một mẩu tuyên tín phụng vụ của Hội Thánh thời Matthêu (sđd). Trong đó
người Kitô hữu tuyên xưng đức tin cách toàn vẹn.
· “Thầy là
Đấng Messia” (tiếng Hy Lạp Christos) nghĩa là Đấng được xức dầu mà
các ngôn sứ đã tiên báo; Đấng đáp ứng lòng mong đợi bao thế kỷ của Israel, Đấng
thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa nói với dân Người.
· “Con” nghĩa là
Đấng liên kết với Thiên Chúa bằng một dây liên hệ có một không hai.
· “Của Thiên Chúa hằng sống” nghĩa là,
theo truyền thống Kinh Thánh, là Thiên Chúa ban sự sống, còn theo quan niệm
Kitô giáo, là Thiên Chúa, Đấng làm cho Đức Giêsu từ trong cõi kẻ chết sống lại.
“Con có phúc”, Đức Giêsu
đã thốt lên câu đó, cũng là dạng thức Kinh Thánh của “Bát phúc” để chào mừng
“con của Giona”, là người vừa nhìn nhận Người như “con của Thiên Chúa hằng
sống”. Bởi vì Simon Phêrô không có thể công bố lời tuyên xưng này phát xuất từ
thịt và máu, nghĩa là phát xuất từ bản tính nhân loại yếu giòn, nhưng chỉ có
thể phát xuất từ cuộc mạc khải thần thiêng. “Bản văn không đề xuất cho Phêrô
công lao đặc biệt nào, cũng không đề cao ông như một anh hùng của đức tin. Tác
giả chỉ nhấn mạnh tính chính xác của đức tin nơi Phêrô, bởi vì nó đến từ một
mạc khải thần thiêng” (C. Tassin).
2) Sứ mạng “đá” nền tảng của Phêrô.
Những lời long trọng mà Đức Giêsu phán
chỉ về Simon Phêrô chỉ có trong Tin Mừng Matthêu.
“Anh là đá, trên đá này...”.
·
Trong Kinh Thánh sự thay tên đổi họ thường
chỉ rằng sứ mạng Thiên Chúa trao làm cho người nhận thành một người mới. Cũng
như Abram, khi được đổi thành Abraham thì thấy mình được giao sứ mạng trở nên
“tảng đá duy nhất”, từ đó phát xuất cả một dân tộc (Is 51,1-2).
·
Trong ngôn ngữ Aramê “Kê-pha” “Đá” không phải
là một tên riêng, nhưng chỉ là một danh từ. Đặt cho ông cái tên mới này, nó sẽ
thay thế hẳn tên cũ, Đức Giêsu tỏ cho thấy Người giao cho ông một sứ mạng: ông
sẽ là đá nền, đá tảng, đá sẽ bảo đảm cho toà nhà mà Người sẽ xây dựng được vững
chắc.
“Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy...”.
·
Trong Kinh Thánh, từ “Hội Thánh” (nguyên ngữ
mang ý nghĩa mời dự hội) chỉ cộng đoàn tôn giáo của Israel, cộng đoàn mà Thiên
Chúa đã quy tụ giữa loài người để trở thành dân của Giao ước, dân -dấu chỉ lòng
thương xót và tình thương của Thiên Chúa-.
·
Từ ngữ này được dùng ở đây, lần đầu tiên
trong Tin Mừng Matthêu, ở trên đất ngoại giáo, để chỉ cộng đồng những người mà
Đức Giêsu quy tụ, giữa các dân tộc tràn qua mọi biên giới để làm nên một dân
của Giao ước mới, dân -dấu chỉ ơn cứu độ cho mọi người-.
Nếu cộng đồng này đứng trên tảng đá
Phêrô thì quyền lực của sự chết cũng không thể phá đổ được.
“Thầy ban cho con chìa khá Nước Trời”.
·
Không nên nghĩ đến những chiếc chìa khóa hiện
đại thời chúng ta, mà phải nghĩ đến những chìa khóa của những thành phố cổ,
những lâu đài vua chúa. Loại chìa khóa giống như những thanh sắt khổng lồ mà
người ta mang trên vai. Trao chìa khóa cho ai là trao cho người đó nhiệm vụ thủ
tướng.
·
Trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, Đức Giêsu
làm cho Phêrô thành thủ tướng. Người trao cho ông quyền lực chính Người nắm
giữ, như sách Khải Huyền diễn tả: “Đấng Chân Thật, Đấng Thánh, Đấng giữ chìa
khóa của Đavit. Người mở ra thì không ai đóng lại được. Người đóng lại thì
không ai mở ra được” (đoạn văn có liên quan với 22 trong bài đọc I).
Chức vụ trao cho ông ở đây là ở dưới
đất; ông không phải người canh giữ cửa thiên đàng (C.Tassin): Phêrô là người
bảo lãnh, là thông dịch viên của sứ điệp cứu rỗi của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
hằng sống.
“Sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng
cởi mở”.
‘Cầm buộc’, ‘Cởi mở’ là những thuật
ngữ vùng Palestine chỉ ý nghĩa đại khái: toàn bộ quyền lực, như thiết lập luật
pháp, như loại trừ một ai ra khỏi cộng đoàn hoặc cho phép một ai gia nhập cộng
đoàn.
·
Trong Mt 18,18 quyền cầm buộc cởi mở được hứa
ban cho các môn đệ (ở số nhiều) như vậy không chỉ dành riêng cho Phêrô, nhưng
Phêrô chia sẻ quyền đó với những người phụ trách khác.
·
Dặn dò giữ im lặng
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kết thúc
bằng một lời khuyến dụ ngược đời: “đừng nói với ai Người là Đấng Messia”.
Tại sao có lời khuyến cáo này sau cuộc tuyên xưng đức tin cảm động như vậy?
Chắc hẳn danh xưng “Messia” còn mang ý nghĩa mơ hồ, còn mang nhiều trông đợi có
tính dân tộc quá khích, đi ngược lại sứ mạng mà Người nhận được từ Chúa Cha -
phản ứng của Phêrô mà ta sẽ đọc trong Chúa nhật tới minh chứng điều đó.
Chỉ những ai mở tâm hồn đón nhận mạc
khải thập giá mới hiểu chính xác danh xưng ấy. Thật vậy, chỉ dưới ánh sáng của
cuộc Khổ nạn - Phục sinh, danh xưng Messia mới tìm thấy ý nghĩa đích thực, và
mọi ngộ nhận sẽ vĩnh viễn bị dẹp tan.
BÀI ĐỌC
THÊM:
1) “Thầy là Đấng Messia, Con Thiên Chúa hằng
sống”
(Mgr. Daloz, trong cuốn “Le règne de Dieu est
approché” Desclée de Brouwer 1993, trang 237-238).
Đức Giêsu không chỉ là một tôn sư khởi
xướng một trào lưu tâm linh; Người không phải một ngôn sứ được sai đến để cảnh
tỉnh hoặc kêu gọi người ta trưởng thành với giao ước. Sự nhận biết Đức Giêsu
vượt quá điều đó. Với những kẻ Chúa gọi và đã đi theo Người, Chúa đặt câu hỏi:
Còn anh em, anh em nghĩ Thầy là ai? Người cũng hỏi chúng ta câu đó. Người muốn
chúng ta tiến tới, phát huy trong việc khám phá ra bản ngã đích thực của Người.
Ta không thể tự thoả mãn khoác cho Người những mong ước của ta, hoặc phóng lên
Người những ước vọng của ta. Cần phải đi xa hơn những ý kiến của những con
người, cần lột bỏ những ấn tượng hời hợt, cần chấp nhận rằng không thể nắm bắt
và không thể tóm gọn Người vào những ý tưởng và những ước muốn của ta. Như ta
đã thấy đó, có một hiểu biết về Đức Giêsu theo cách loài người “Người ta bảo
Thầy là ai?”. Từ thời Thượng cổ, trải qua giai đoạn lịch sử đã có rất nhiều câu
giải đáp. Những giải đáp ấy vừa không vô nghĩa, vừa không đáng coi thường.
Nhưng sự hiểu biết đích thực không chỉ của loài người đâu - Nó là do Thiên Chúa
ban cho: “Không ai có thể biết Chúa Con chỉ trừ Chúa Cha” (11,27). Bởi vậy Đức
Giêsu nói cho Phêrô biết do đâu ông có sức lực nhận biết và tuyên xưng đức tin
của ông: “Simon con Giona, phúc cho con, vì không phải xác thịt hay máu huyết
mạc khải cho con điều đó, nhưng là chính Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Một con
người, con người rặt, chính miệng Simon con ông Giona, nhận quyền do Thiên
Chúa; quyền kêu đích danh xác thật của Đức Giêsu - Lời tuyên xưng của ông đã
trở thành tiêu chuẩn cho các môn đệ Chúa mọi thời đại. Nhưng lời tuyên xưng nó
đã không tránh cho ông chối Chúa 3 lần. Ông vẫn còn là con người phàm tục - còn
mang tính người với những ưu và khuyết điểm của con người. Tuy nhiên ông được
chọn để đáp câu hỏi của Đức Giêsu và để làm điều đó ông nhận được mạc khải do
Chúa Cha ban - Từ đó ông trở nên tiêu chuẩn về sự chính xác cho mọi lời tuyên
xưng đức tin và cho sự nhận biết chính xác về Thiên Chúa. Nhờ ông mà người tín
hữu có thể vượt xa ngoài tầm vóc những lời người ta dư luận. Đức tin của ông
nâng đỡ đức tin của chúng ta”.
2) “Con là Đá” (J.Potin trong cuốn “Jésus, l'histoire vraie”, Centurion,
1994, trang 322).
Hội Thánh của Đức Giêsu, ở đây Người
kêu là “Hội Thánh của Người”, được xây dựng trên nền tảng là đức tin vào thiên
tính của Người. Hội Thánh đó chỉ một mảng dân Israel chấp nhận đi vào giao ước
mới. Simon, do việc tuyên xưng, đã trở nên viên đá tảng, trên đó Đức Giêsu xây
“Hội Thánh của Người” bởi vì Hội Thánh đó là cộng đoàn những kẻ tin rằng Đức
Giêsu là Thiên Chúa. Ông nhận được tên mới: Kêpha, Đá - Quyền lực của tử thần
(dịch theo chữ: quyền lực hoả ngục), nghĩa là mọi thế lực nhằm chống lại sự
thiết lập vương quốc, không có sức phá đổ Hội Thánh đó. Mà ngược lại, Đức Giêsu
sẽ ban cho Hội Thánh của Người quyền và thế mà Ngài thi hành ở trong tay Người.
Thiên Chúa công nhận Hội Thánh của Con của Người chính thức là dụng cụ đặc
trưng để điều hành vương quốc của Người giữa loài người. Những phát quyết và
nghị định của Hội Thánh này được Thiên Chúa công nhận là do Chúa ban hành.
Phải chăng Đức Giêsu phán những lời
này trong khi đi đường lên Giêrusalem? Có nhiều nhà chú giải đặt những lời này
sau biến cố Phục sinh, trong một cuộc hiện ra. Thật vậy, trước khi Chúa chết,
từ “Hội Thánh chỉ thấy xuất hiện có một lần duy nhất ở Mt 18,17 nói về đời sống
của cộng đồng Kitô hữu.
Lời tuyên bố với Phêrô xem ra diễn tả
cách Hội Thánh sơ khai hiểu về chính mình: Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu
là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Simon Phêrô đã là phát ngôn viên của lời tuyên
xưng. Lời tuyên bố cũng có liên hệ với việc đổi tên Simon ra Kêpha: Đá. Trong
tiếng Aramê, Đá không phải là một tên riêng. Tên mới này chí tính cách vững bền
của đá tảng mà người ta có thể xây an tâm trên đó... Phêrô là đá tảng mà Đức
Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người. Do đó Người sẽ trao ông địa vị ưu tiên trên
nhóm Mười Hai. Ông được Hội Thánh nhìn nhận dưới cái tên mới và coi như quên
hẳn cái tên cũ kia”.
19. Suy niệm của Noel Quesson
Khi Đức
Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…
Đây là những vùng phụ cận của Tia và
Xiđon trên bờ biển xứ Liban... Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến
chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những
suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng
chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay
là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn
vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn
toàn mới: Xêsarê!
Ngày nay, thành phố này không còn lạ
gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ "tảng đá" dưới chân núi.
Người hỏi các món đệ rằng: "Người
ta nói Con Người là ai?"
Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo
trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một
câu hỏi về "căn tính" của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà
mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân
cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được
với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.
Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm
sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?
Các ông
thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người
lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Dư luận của dân chúng khác nhau trong
khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người
bình thường?... ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo
phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.
NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại
đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch
sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.
Đức Giêsu
lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người
nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có
một thái độ của bản thân.
Còn bạn, Huy Phương... Bạn, Duyên....
Bạn, Minh Hạnh... Bạn Hằng... Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu
là ai?
Ông Simon
Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức
mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của
bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là
không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về
mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời
gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ
V Tuy nhiên, người ta không có quyền "làm giảm nhẹ" lời tuyên xưng
đức tin" của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên
Chúa", "ben Elohim". Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được
áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel
(Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 - 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).
Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không
chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì
cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là "một
ngôn sứ" nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến... nhưng
là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con... và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ
thuộc về một mình Đức Giêsu.
Đức Giêsu
nói với ông: "Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì
không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự
trên trời…”
“Phàm nhân"... từ ngữ rất lâu đời
này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói... một công thức đẹp
được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho
ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ
nói: "Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều
đó!".
Để đạt đến những thực tại thánh thiêng
thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự "mạc khải".
Trí tuệ con người dứt khoát không thể
định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài
thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: "Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi
sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn
ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí
sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể
diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra... Chúa là cùng đích
của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào...
Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất
mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó
là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?"
Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn
giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính
của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. "Không ai biết rõ người Con,
trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người
Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực
của con người khi nói về "Thiên Chúa": "Thiên Chúa đã dành riêng
tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người
đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con
của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên"
(Gl 1,15-16).
“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh
vừa nói!" Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được
vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố "thật có phúc” (đây là một
mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.
Còn Thầy,
Thầy bảo cho anh biết: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy"
Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của
Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là
người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về
những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô,
đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ
ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.
Thật vậy từ "Tảng Đá" (tiếng
Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có
một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái
hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời
mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời
hứa này:
1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững
chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa...
2/ Giáo Hội: có nghĩa là "cộng
đoàn", được Thiên Chúa triệu tập.
3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức
mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại...
4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền
bính.
5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng
cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.
Những trích dẫn trong Kinh Thánh để
khẳng định rằng Thiên Chúa là "Tảng Đá". Chúng ta, chỉ cần trích dẫn:
"Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi" (Tv 71,3). Chúng ta
đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường
thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng
một cách vững chắc như thế!
Từ "Giáo Hội" dịch chữ
"Qahal" trong tiếng Do Thái có nghĩa là "Cộng đoàn", điều
Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một "Cộng đoàn” những người đàn ông và
đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó.
Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có
tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu "lẻ loi". Không
thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không
chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.
Và quyền lực
tử thần sẽ không thắng nổi...
Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình
ảnh: "Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi". Nếu chúng ta
hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững
chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết…
nhưng còn có khả năng tấn công vào "ngục tù của sự chết" để lôi con
người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy
Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ
hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người
trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự
tính điều đó: Một "cộng đoàn" những người sống lại với Người?
Thầy sẽ trao
cho anh chìa khóa Nước Trời.
Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa,
dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà,
người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.
Dưới đất anh
cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi
điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.
Ngày nay, người ta thấy có nhiều người
sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không...". Sau một thời
kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng
bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những "cộng đoàn nhỏ sống động và
nhiệt thành" mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa
những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan.
Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn
mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo
sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát
ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.