BA TÂN TÒNG LÃNH BÍ TICH KHAI TÂM |
HOÃN ĐÁM CƯỚI MỜI NGƯƠI VÔ GIA CƯ ĂN TIỆC CƯỚI |
CÔ DÂU & CHÚ RỂ HOÃN ĐÁM CƯỚI MỜI NGƯƠI VÔ GIA CƯ ĂN TIỆC CƯỚI |
TỔNG THÔNG MỚI CỦA PHÁP |
KẾT THÚC KHÓA HỌC HÈ |
M
ĐÀN SĨ VĂN BÀN NẬM XÉ |
LỚP ĐÀN SĨ BẢO HÀ |
Thêm chú thích |
CHÚA NHẬT 17
THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: 1V. 3,
5.7-12; Rm. 8, 28-30; Mt. 13, 44-52
MỤC LỤC
1. Kho báu
2. Thế vận
hội
3. Hạnh phúc
trong tầm tay – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
4. Suy niệm của
Lm. Ignatiô Hồ Thông
5. Suy niệm của
Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
6. Kho báu -
Viên ngọc quý
7. Ăn xin – Lm
Vũ Đình Tường
8. Kho báu ẩn
dấu và viên ngọc quý
9. Hãy làm mọi
sự để có được Nước Trời
10. Kho báu Nước
Trời là Đức Kitô
11. Khôn ngoan
đích thực – Lm Đam Trần Văn Điều
12. Nước Trời
giống như kho báu
13. Nước Trời –
Lm– Đam. Lê Đức Thiện Giuse Trần Việt Hùng
14. Nước Trời
quý giá
15. Bán tất cả
để mua viên ngọc quý – Đỗ Lực
16. Vui mừng bán
tất cả
17. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
18. Kho báu Nước
Trời
19. Viên
ngọc
20. Kho báu và
ngọc quý – R. Veritas
21. Kho
tàng
22. Kho
tàng
23. Kho
báu
24. Tìm kiếm kho
tàng hạnh phúc – Lm Trần Ngà
25. Phải dấn
thân để chiếm đoạt Nước Trời
26. Giá trị vô
song – Lm. PX. Vũ Phan Long
1. Kho báu
Có một vị đạo sĩ Ấn Độ
đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu sang đến xin làm đệ
tử. Ông rón rén đến bên vị đạo sĩ và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc
quý nhất để làm lễ ra mắt. Vị đạo sĩ không cần nhìn kỹ vào món quà, cầm lấy một
viên ngọc và ném xuống dòng sông. Vì tiếc của, người đàn ông bèn lặn xuống để
tìm lại cho bằng được viên ngọc. Nhưng lặn suốt cả một ngày mà cũng không tài
nào tìm thấy.
Chiều đến, vừa mệt mỏi
vừa chán chường, người đàn ông mon men đến gần vị đạo sĩ và năn nỉ: Ngài là
người ném viên ngọc xuống dòng sông, xin ngài hãy chỉ cho biết chỗ nào để tôi
lặn xuống hầu tìm lại. Vị đạo sĩ liền cầm lấy viên ngọc thứ hai và ném xuống
dòng sông rồi nói: Đó, ta ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm.
Cử chỉ của vị đạo sĩ
biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ
phải từ bỏ tất cả. Chúa Giêsu cũng đòi hỏi chúng ta một sự từ bỏ như vậy. Và
chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi gương Ngài mà bắt chước. Con
đường Ngài đi cũng là con đường của chúng ta, những người muốn bước theo Ngài.
Chỉ có con đường ấy, chỉ có cuộc sống ấy và chỉ có cái chết ấy mới dẫn chúng ta
tới cõi phúc trường sinh. Tất cả những ý tưởng trên đã được Ngài gói ghém qua
đoạn Tin Mừng hôm nay với hai hình ảnh: kho tàng, viên ngọc. Hai hình ảnh trên
có chung một kết luận, đó là anh lái buôn và bác nông phu, cả hai đều bán mọi
sự mình có để mua thửa ruộng và viên ngọc.
Người đón nhận Nước Trời
cũng cần phải từ bỏ nếp sống cũ để sống đời sống mới trong sự kết hợp với Chúa,
cũng cần phải dấn thân để chiếm lấy Nước Trời, bởi vì được lời lãi cả thế gian
mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Còn đối với chúng ta thì sao. Liệu chúng ta
có dám liều, dám hy sinh tất cả để chiếm lấy Nước Trời? Hay chúng ta lại phản
ứng như chàng thanh niên giàu có: chần chừ, so đo tính toán rồi lầm lũi cúi mặt
bỏ đi. Anh không dám bán những gì anh sở hữu mà làm phúc bố thí cho người nghèo
rồi bước theo Chúa. Anh không dám từ bỏ sự ổn định của cuộc sống hiện tại để đi
theo Đấng mà không có lấy được một chỗ tựa đầu. Một cuộc phiêu lưu mạo hiểm
hoàn toàn bấp bênh và vô định. Anh sợ rằng mình sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn
lẫn lãi.
Làm sao chúng ta có thể
tin rằng Nước Trời là kho báu, là viên ngọc quý khi chúng ta vẫn còn bị giam
hãm trong cái thế giới vật chất này, khi chúng ta còn quá quyến luyến và mắc
míu vào tiền bạc, địa vị và lạc thú. Làm sao chúng ta có thể thoát ra khỏi cái
cách thức đánh giá của người đời để cảm nghiệm được sự quý giá và siêu việt của
Nước Trời.
2. Thế vận hội
Giả như Chúa Giêsu sống
vào thời buổi hiện giờ, thì có lẽ đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã có những hình
ảnh khác. Thay vì nói về tay lái buôn đã hy sinh tất cả để mua cho được viên
ngọc quý, hay bác nông dân bán cả gia sản để mua miếng đất cất giấu kho tàng,
thì Ngài sẽ nói về một lực sĩ bơi lội, đang tham dự thế vận hội, bởi vì anh ta
cũng đã phải sẵn sàng hy sinh tất cả, chấp nhận một chế độ kiêng khem và tập
luyện nghiêm khắc, với hy vọng chiếm được tấm huy chương vàng.
Tại sao tôi đưa ra hình
ảnh của anh chàng lực sĩ, bởi vì anh ta cũng có một điểm chung với tay buôn
ngọc hay bác nông dân; đó là cả ba đã sẵn sàng hy sinh tất cả cho một mục đích
mà họ đã đặt ra ở phía trước.
Điểm chung này dẫn chúng
ta tới ý muốn của Chúa. Đó là muốn trở nên công dân Nước Trời, chúng ta phải
dấn thân triệt để, chứ không thể thực hiện mục đích ấy như một việc ngoài giờ,
như một việc phụ thuộc hay như một việc có tính cách tiêu khiển. Chúng ta phải
đầu tư, phải dấn thân vào đó 100%, phải xem đó như nỗi ưu tư số một của cuộc
đời chúng ta. Người Kitô hữu phải giống như tay buôn ngọc, bác nông dân hay anh
chàng lực sĩ, bởi vì nó đòi hỏi một sự dấn thân trọn vẹn.
Tuy nhiên, có một điểm
khác biệt giữa người Kitô hữu và ba người kia, như thánh Phaolô đã diễn tả: Một
vận động viên trong thời kỳ tập luyện phải tuân theo kỷ luật nghiêm khắc, chỉ
để được khoác lên đầu một vòng hoa vinh quang chóng tàn lụi, còn chúng ta chịu
gian khổ là để đoạt được vinh quang tồn tại muôn đời. Đó là điểm khác biệt
chính yếu.
Viên ngọc của tay lái
buôn, kho tàng của bác nông dân, tấm huy chương của anh chàng lực sĩ, chỉ có
giá trị trong một thời gian ngắn, bởi vì khi giờ chết đến, tất cả sẽ chẳng còn
giá trị gì nữa. Có chăng thì chỉ là một phần di sản, một vật lưu niệm cho người
còn sống. Nhưng chúng ta, những Kitô hữu thì khác, khi chết đi thì cửa Nước
Trời sẽ mở rộng để chờ đón chúng ta.
Như thế, chủ đích của
đoạn Tin Mừng hôm nay thật là quan trọng, bởi vì không gì trên thế gian có thể
chiếm vai trò ưu tiên hơn Nước Chúa và sự theo đuổi của chúng ta để đạt cho
được nước ấy. Bởi vì khi chết, thì điều đáng kể không phải là chúng ta đã mua
sắm được những gì khi còn sống, mà là chúng ta đã trở nên một con người như thế
nào. Chúng ta đã yêu thương nhau chưa? Chúng ta đã tha thứ cho nhau chưa? Chúng
ta đã giúp đỡ kẻ túng thiếu chưa. Chúng ta đã an ủi kẻ đau khổ chưa? Chúng ta
đã dấn thân và trung thành với Chúa và với nhau hay chưa? Với sự trợ giúp của
ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều ấy. Bởi vì nếu không làm được điều
ấy, chúng ta sẽ làm cho Chúa, cho gia đình và những người thân yêu thất vọng.
Còn bản thân chúng ta kể như đã thất bại, đã thua lỗ trắng tay mất rồi.
3. Hạnh phúc trong tầm
tay – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người ta kể rằng khi thư
viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển
sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường
như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới,
vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến
đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách
cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ
Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong
khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông
dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán
tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên
bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào
là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng
một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm
được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một
năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn
tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để
ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế
người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi
tay ông.
Có một lúc nào đó chúng
ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ
câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia
tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng
giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi tìm hạnh
phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất cả tiền
tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất
vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.
Hạnh phúc chính là viên
ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải
bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ nó mãi trong cuộc đời của mình.
Nhưng kho tàng hạnh phúc
đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi
người ta có lắm của nhiều tiền. Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh,
sự nghiệp. Điều đó đúng không sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh
sự nghiệp mình bán rẻ lương tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có
hạnh phúc hay không? Nếu phải chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc
vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?
Có những người vì chỉ
muốn có tiền nên gian tham, trộm cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng
tiền bất chính nhưng liệu rằng niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?
Có những người vì tình
mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng
vói nhân phẩm của một con người hay không?
Có những người vì địa vị
mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình
hay đầy lo âu sợ hãi?
Hôm nay Chúa mời gọi
chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn
lựa trần gian mau qua hay nước trời vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không
nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là
nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia
tài, những gì mình có để mua lấy nước trời. Như trường hợp người thanh niên
giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo anh: "Hãy bán hết của cải mà cho
người nghèo, rồi đi theo tôi". Chọn lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã
từng hỏi: "Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì?".
Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai ngã về không. Đem bán hết gia tài
để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại, nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc
nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn việc làm, mất cả địa vị xã hội
mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài danh vọng chỉ là của đồng lần,
nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình, và mình cũng không chiếm hữu nó
trọn đời.
Thế nên, người Kitô hữu
phải có sự khôn ngoan như Salômôn. Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng
để đánh bại quân thù. Ông xin sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên
Chúa. Không phải là khôn ngoan thế gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý
Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động
theo đúng với luân thường đạo lý, đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con
người là "nhân linh hơn vạn vật". Một con người có lý trí, ý chí, tự
do chứ không phải hành động theo bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của
mình.
Xin Chúa cho chúng ta sự
khôn ngoan để chúng ta đi tìm Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá,
chúng ta phải bằng mọi cách để đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc
quý, chúng ta phải trân trọng và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho
chúng ta luôn biết chọn lựa gia tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải
trần gian mau qua. Vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào
được ích gì? Amen.
4. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Hồ Thông
Từ thuở đời đời, vì yêu
thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.
Chúng ta có thể dựa vào
lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời
Chúa hôm nay: xin ban cho con "một tâm hồn biết lắng nghe" và
"biết biệt phân phải trái" để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì
yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của
Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.
1V 3: 5, 7-12
Để có đủ sức cai trị dân
Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được "một tâm hồn
biết lắng nghe" và "biết biệt phân phải trái".
Rm 8: 28-30
Trong thư gởi tín hữu
Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ
trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích
cho những ai yêu mến Ngài.
Mt 13: 44-52
Trong Tin Mừng, Đức
Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời
và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.
BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12
Vào năm 970 trước Công
Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là
"một thanh niên bé nhỏ", như chính ông thân thưa với Chúa về mình
trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua
Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi
mười hai.
1. Giấc mộng của vua
Sa-lô-mon:
Vua đến thánh địa
Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên
Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao
trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.
Giấc mộng đóng một vai
trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền
Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các
tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ
thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần
linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy
trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng
cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào
lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ
muộn thời hơn.
2. Lời khẩn nguyện của
vua Sa-lô-mon:
Sa-lô-mon bày tỏ một sự
khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu
sang hay được quyền lực, nhưng "một tâm hồn biết lắng nghe" và
"biết biệt phân phải trái" để vua có đủ sức cai trị dân Ngài,
"một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi".
Như người cày thuê gặp
được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin
Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa
đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn
ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua
không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban
cho vua những điều đó.
3. Tính chất thần học
của chuyện tích:
Chuyện tích không có
tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua
đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời
gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần
học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh
quan trọng.
Trước tiên, chuyện tích
này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này
thuộc trật tự "ân sủng". Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu
không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một
mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể
chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là
vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân
Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon
không nói "dân của tôi", nhưng "dân của Ngài". Về vấn đề
này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc
Thiên Chúa trao quyền.
Thứ nữa, tước vị con vua
Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang
của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều
đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy,
khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử
Thánh.
BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30
Đoạn văn này là phần kết
của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về
tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy
luận thần học về tiền định.
1. Vấn đề:
Phải hiểu những lời này
của thánh Phaolô: "Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định
cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm
trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc" như thế nào?
Trước tiên, chúng ta nên
đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh
Phaolô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và
trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của
thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ "ý định"
(prothesis) luôn luôn được thánh Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn
định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng
khác, về phía Thiên Chúa, Ngài "biết trước", còn về phía con người,
họ có "ơn gọi"; giữa Thiên Chúa và con người, có "sự tự
do". Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có
bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.
2. Tình yêu của Thiên
Chúa:
Đây là đề tài chủ đạo.
Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả
tiếng gọi của Ngài, tức là "những ai yêu mến Người", sẽ thấy rằng
"Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ". Ơn ích hiển nhiên
là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời
hiện tại. Từ ngữ "mọi sự", đối lập với "ơn ích", chỉ những
thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải
chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài,
đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.
Ngay cả khái niệm yêu
mến ở nơi những lời: "Những ai Người đã biết từ trước" luôn luôn có
một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết
từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời
gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.
3. Nên đồng hình đồng
dạng với Con của Ngài:
Một lần nữa, thánh
Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô
hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên
đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với
Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô, con người được "phục hồi hình ảnh và
họa ảnh nguyên thủy" của mình.
Tiếp đó, thánh Phaolô
trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại
những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ
đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt
vinh quang tương lai ở thì quá khứ: "Người đã cho hưởng vinh quang"
để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc
chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng
Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giêsu nói: "Tất cả những gì anh em cầu
xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý" (Mc 11: 24).
Vì thế, theo thánh
Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta
từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ
chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh
quang, đó là cho Con của Ngài trở nên "trưởng tử giữa một đoàn em đông
đúc".
TIN MỪNG Mt 13: 44-52
Vào Chúa Nhật này, chúng
ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giêsu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay
thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống
nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ
lùng.
1. Dụ ngôn kho báu và dụ
ngôn ngọc quý:
Hai dụ ngôn này được
biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến
việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu
là thể văn "miêu tả". Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là
những "lời khuyến dụ" được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn
trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa
mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn
chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc,
không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều
cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước
Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta.
Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn
lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.
2. Dụ ngôn chiếc lưới:
Dụ ngôn chiếc lưới mô tả
rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại
những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ
Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả
chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng.
Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào
giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu
những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các
Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các
ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận
dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ
ngôn cỏ lùng.
Để kết luận, thánh
Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến
thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo
mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng
Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.
5. Suy niệm của Lm.
Gioan B. Phan Kế Sự
"Rồi vui mừng đi
bán tất cả những gì mình có" (Mt 13,44-52)
"Anh em có hiểu tất
cả những điều ấy không?"
"Nước Trời giống
như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc
quý và cũng giống như chuyện chiếc lưới cá thả xuống biển... Và đến ngày tận
thế, cũng sẽ xảy ra như vậy."Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng
ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như
những chuyện đời thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu
hay không.
Nhiều người "thưa
hiểu" nhưng thực sự chẳng hiểu, chẳng biết cái gì cả...
Vì họ cũng chỉ trả lời
như cái máy, "theo phong trào", cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi
cách sống của họ là cái vỏ bề ngoài, là cái hình thức hấp dẫn "không đụng
hàng" chứ không cần cái nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng
chẳng qua là cho nó "có" với chúng bạn.
Vì họ hiểu theo
"kiểu của họ": Chúa phải là người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ
và Chúa trở thành "con rối"của lòng tham.Rốt cục "họ nói hiểu mà
thực chất chẳng hiểu gì!".
Vì họ chỉ hiểu theo
"nghĩa đen" và cuộc đời của họ là những chuyện quanh quẩn của những
hành động "vơ, vét, vào": là mong đạt được những gía trị trần thế,là
có được của cải mối mọt xông đến được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng
và trở thành "kẻ bị loại trừ".
Nhiều người "thưa
hiểu" và quả thực họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước
Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn
tại của mình. Người đời vẫn thường dạy "có gan thì làm giàu".Họ vui
mừng ra về và bán hết tất cả những gì mình có để được Nước Trời.
Khôn ngoan của người
hiểu biết là sự chọn lựa giữa những cái vô gía và cái "có giới hạn".
Khôn ngoan của người
thương gia là dám can đảm bán hết tất cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho
báu.
Khôn ngoan của người
hiền lành là biết đứng về phía cá tốt để "được chọn lựa" và
"không bị vứt ra ngoài" trong ngày tận thế.
"Và đến ngày tận
thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.... Họ đáp lại: thưa hiểu"
Chẳng ai dại mà nhặt cá
xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược lại.
Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ
xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính.
Như chủ nhà lấy ra từ
kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để lọai trừ.
Và sẽ chẳng bao giờ có
cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai và cho cả chính chúng ta.
Người đời vẫn thường nói
"Khôn chết, dại chết, biết sống". Qủa thế,người hiểu biết là người
khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết,
vì mọi người phải tự quyết định đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai
được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra
biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả. Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi
người phải chịu trách nhiệm về chính sự tự do của mình.
Họ đáp "thưa
hiểu" và Chúa đã dạy "hãy biết tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho
của mình" để đầu tư cho sự chọn lựa của chính đời mình. Cái khôn của người
hiểu biết là can đảm "bán hết tất cả" để có được cái vĩnh cửu,cái đời
đời, không mối mọt và hư họai.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng
con biết sáng suốt chọn lựa cứu cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con
"biết liều" với sự chọn lựa đúng đắn để trở thành "cá tốt"
được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với
chính sự chọn lựa của mình trong tin tưởng, tín thác vào tình thương Chúa.
Amen.
6. Kho báu - Viên ngọc
quý
(Suy niệm của Lm.
Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Một hôm, có một người
kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: "Xin ông
cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông". Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi
"Viên ngọc quý nào?". Ông ta nói: "Đêm qua tôi nằm mơ thấy có
ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm
nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý
đó". Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: "Có phải cái này
không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu
ông".
Người ấy sung sướng cầm
lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: "Từ
nay mình sẽ là người giàu có, không phải vất vả gì nữa". Thế nhưng tối hôm
ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng
hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang
ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói:
"Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên
ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho
tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót".
Viên ngọc quý thực sự
của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giàu
sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong
bài Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin Mừng là hai dụ
ngôn "kho báu" và "viên ngọc quý". Kho báu và viên ngọc quý
ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đứng
vậy, cả hai dụ ngôn đều muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không
của cải nào sánh bằng. Cao quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi
giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh "kho
báu" và "viên ngọc quý" vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ
ai biết gía trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không
biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia
có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên
ngọc quý giá kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất
kho báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng
giống như câu chuyện "Ông già xứ Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn
lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng
ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng
vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng
không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách
rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại
nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó.
Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương
kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta
cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc
nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không
phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng
là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cữu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời
đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước
trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm
hữu. Quả thực, mọi người Kitô chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời.
Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong
một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì
nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời
quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc
sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể
mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng
đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu
hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước
trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi
chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để
chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong.
Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy
mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay
trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự
sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao
nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang
sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta
phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống...đó là điều chính đáng,
nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra giá trị
vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là một dịp
tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết định
phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống vĩnh
cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của người
tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
7. Ăn xin – Lm Vũ Đình
Tường
Ngay từ nhỏ những dịp đi
xa, mỗi lần xe đậu tại bến xe đò, bến phà hay ga tầu hoả, nhiều lần được nghe
câu.
Ông bà cô bác làm ơn cho
xin đồng tiền, bát gạo.
Người ăn xin bao giờ
cũng nhắm đến xin người giầu có hơn mình, không xin người nghèo khổ hơn. Thực
ra xin người nghèo khó hơn mình họ có gì để cho. Vì thế câu xin nhắm đến đối
tượng ông bà, cô bác. Đây là bậc trưởng thượng trong xã hội, mới có dư giả để
cho. Họ cũng xin rõ ràng mạch lạc. Không xin gì khác ngoài đồng tiền, bát gạo.
Thực ra mấy ai đi đường mang theo gạo để sẵn có gạo mà cho. Vì thế hầu hết
người ta cho tiền để người ăn xin tự đi mua gạo và nhu yếu phẩm cần thiết cho
cuộc sống. Người làm việc bác ái dọc đường không cần biết người ăn xin tiêu
tiền như thế nào, với mục đích gì. Họ đáp lại theo yêu cầu xin cho cơm ăn, áo
mặc của kẻ nghèo khó. Người ăn xin hoàn toàn tự do chi tiêu số tiền đó theo
hoàn cảnh riêng từng người.
Nên nhớ không phải tất
cả những người xin ăn đều phung phí, tay trắng cả đâu. Họ cũng biết tích trữ
chứ. Người ăn xin không nhà cửa ngoại trừ chỗ ngủ qua đêm, tránh mưa gió. Hẳn
nhiên chỗ đó không an toàn nên có lẽ tiền xin dư hay để dành được họ phải tìm
cách chôn giấu quanh đâu đó. Chỗ giấu hay nhất chính là chôn dưới đất. Chẳng
may người đó mất đi nếu chủ ruộng tìm được, đương nhiên hưởng gia tài chôn dấu
đó.
Phúc âm nhắc đến dụ ngôn
người tìm được kho tàng chôn dấu anh ta bán hết mọi sự tìm mua thửa ruộng đó.
Kho tàng đây không phải của người mù chôn dấu. Kho tàng Đức Kitô muốn nói tới
là kho tàng ai cũng nhìn thấy nhưng người tham của cải thế gian sẽ mù quáng
không nhận ra. Chỉ những ai dám bán hết gia tài để mua mới nhận ra. Bán hết gia
tài để được giầu hơn. Nghe có vẻ nghịch lí. Người ngoài nhận xét anh là chủ
ruộng nghèo vì đã bán hết mọi sự. Ngoài ruộng ra anh còn chi. Thực tế anh giầu
hơn không phải vì đất ruộng tăng giá. Anh giầu hơn vì anh có thửa ruộng cộng
thêm kho tàng chôn dấu trong ruộng.
Người xưa dùng hình ảnh
viên ngọc quí và hình ảnh chủ ruộng là hình ảnh của khôn ngoan. Chỉ người khôn
ngoan mới có khả năng tậu viên ngọc và có tiền làm chủ ruộng. Đại đa số đều làm
thuê, công nhân. Viên ngọc quí và kho tàng chôn trong ruộng là hai hình ảnh Đức
Kitô dùng chỉ về nước trời. Người giầu có là người có Lời Chúa làm chủ cuộc
đời. Người khôn ngoan là người được Lời Chúa soi sáng trong đời. Muốn được Lời
Chúa làm chủ cuộc đời người đó cần bán bỏ tất cả những chủ khác để chọn một chủ
duy nhất. Chọn như thế anh sẽ một lòng trung thành với chủ. Đầy tớ trung thành
với chủ là đầy tớ khôn ngoan. Khôn ngoan không phải do anh học được mà do giáo
huấn chủ giáo dục, hướng dẫn biến anh trở thành người đầy tớ khôn ngoan. Nói
cách khác khôn ngoan anh có được là do chủ ban cho. Anh giầu có không phải vì
miếng ruộng, mảnh vườn. Anh giầu có vì gia tài anh có không bị mối mọt đục
khoét, không hư hao, mất giá vì thời gian.
Chọn Chúa là Đấng duy
nhất làm chủ đời mình và chọn lời Chúa làm kim chỉ nam soi đường là người sống
có mục đích, biết rõ con đường mình đang đi tới, mục đích mình muốn đạt. Từ đó
mọi suy nghĩ hành động đều qui hướng về mục đích cao cả đó. Đây chính là trường
hợp của vua Salomon trong bài đọc một hôm nay.
Cựu ước ghi lại ơn khôn
ngoan của vua Salomon khi ông biết ông non dại, thiếu kinh nghiệm lãnh đạo,
không thể làm tròn trách nhiệm Chúa trao nên ông xin.
Chúa khiến tôi tớ Chúa
cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết
đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn.... Vậy xin Chúa
ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành
dữ... 1V3,7-12
Chúa ban cho điều
Salomon xin và còn cho hơn cả những điều ông không biết để xin. Lý do nào Chúa
làm thế? Vì Salomon không xin lợi riêng cho mình nhưng xin ơn làm tròn sứ vụ
Chúa trao. Vì thế Chúa ban cho dư đầy. Xin như thế là xin Chúa làm chủ đời mình
nên Chúa ban cho Solomon nhiều sự lành. Ngài cho ông trở nên công chính và khôn
ngoan. Người lãnh đạo khôn ngoan và công chính mang lợi ích cho muôn dân, làm
sáng Danh Thánh Chúa.
Muốn trở nên giầu có
phải biết học cho đi. Muốn trở nên khôn ngoan phải biết học khôn từ lời Chúa.
8. Kho báu ẩn dấu và
viên ngọc quý
(Suy niệm của Lm. Pietro
Nguyễn Hương)
Sống là một hành trình
tìm kiếm và chọn lựa liên lỉ. Tìm kiếm chân thiện mỹ, chọn lựa tốt xấu, lành
dữ.
Trong tác phẩm nổi tiếng
"la Pensées", Pascal (triết gia Công Giáo Pháp) cho rằng có ba thứ
bậc của sự cao trọng. Bậc thứ nhất liên quan đến vật chất hay con người: nó đề
cao những ai giàu có, những ai có sức khoẻ hay dung nhan xinh đẹp. Bậc này có một
giá trị không thể xem thường, nhưng nó chỉ ở cấp thứ nhất.
Bậc thứ hai cao trọng
hơn là bậc của tài năng siêu việt mà các triết gia, khoa học gia, nghệ sĩ và
các nhà thơ nắm giữ. Đây là một bậc có một phẩm chất khác. Giàu hay nghèo, đẹp
hay xấu, không thêm không bớt điều gì từ những thiên tài. Trước họ chúng ta
phải ngưỡng mộ, nhưng nó chưa phải là bậc cao nhất.
Còn có một thứ bậc cao
hơn, đó là thứ bậc của tình yêu, của lòng tốt mà Pascal gọi đó là thứ bậc của
thánh thiện và ơn sủng. Gounod cho rằng: "Một giọt thánh thiện đáng giá
hơn một đại dương tài năng". Đẹp hay xấu, học thức hay dốt nát không thêm
hay bớt đi điều gì khỏi một người thánh thiện, một vị thánh. Sự cao cả của ngài
thuộc về một thứ bậc khác, vượt trên cả hai bậc kia. Điều này rất phù hợp với
quan niệm của người Việt Nam: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
(Nguyễn Du, Truyện Kiều).
Có thể nói rằng đức tin
Kitô giáo thuộc về bậc thứ ba này, bởi lẽ cốt lõi của Đạo chúng ta là Tình Yêu,
và mời gọi đạt tới sự Thánh Thiện. Hay nói đúng hơn, những ai đã được rửa tội,
là kitô hữu đều được mời gọi sống cho Tình Yêu và sự Thánh Thiện này, ngay
trong chính đời sống của mình.
Lời Chúa hôm nay cũng
nói tới sự cao cả và lời mời gọi này: Vua Salômon trong bài đọc I không xin
Chúa cho được giàu có, sống lâu, nhưng ông chỉ xin cho tâm hồn khôn ngoan để
lãnh đạo dân Chúa và phân biệt lành dữ. Điều ông xin đẹp lòng Chúa và Chúa ban
cho ông được khôn ngoan và có tất cả.
Dụ ngôn "kho báu
giấu ở thửa ruộng" và "viên ngọc quí" diễn tả sự cao trọng, sự
vô giá của Nước Trời, mà không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào
sánh được. "Kho báo" và 'viên ngọc quý" ở đây là chính Đức Giêsu
Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta tìm
kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn, bởi được tìm biết Đức Kitô, có Ngài chúng
ta có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta
"những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh", trở nên
giống với hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên
thánh chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô.
Khủng hoảng lớn nhất của
con người hôm nay là khủng hoảng về các giá trị, các bậc sống bị đảo lộn. Tiền
bạc lên ngôi, trở thành tiên, thành phật; sự thánh thiện và tình yêu trở thành
một thứ secondhand, "hàng ế"! Thiên Chúa bị loại ra khỏi đời sống.
Đức Giáo Hoàng Benedetto XVI nói rất chính xác rằng: "Trong lòng nhiều
người sống trong xã hội chúng ta, bên cạnh sự thịnh vượng vật chất là sự lan
rộng của sa mạc tâm linh, một sự trống rỗng nội tâm, nỗi sợ không tên, và một
cảm thức lặng lẽ của tuyệt vọng" (Bài giảng ở Sydney 2008). Nếu cuộc sống
chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không được tìm kiếm và quy chiếu
như sự thiện tuyệt đối, như là mục đích tối hậu của đời người, thì chúng ta sẽ
bị vong thân, cuộc sống đánh mất nền tảng căn bản.
Như hai người trong Tin
Mừng tìm kiếm kho báu và viên ngọc quí, tất cả chúng ta đều được mời gọi tìm
kiếm Thiên Chúa như là kho báu, là viên ngọc quí, là mục đích tối hậu trong
cuộc đời mình. Trong gia đình, chúng ta đừng đánh giá nhau chỉ dựa trên tiền
bạc của cải. Các bạn trẻ đừng bao giờ nghĩ rằng, tình dục là tất cả để tìm
kiếm, để hưởng thụ. Có một sự bận tâm cao hơn đó là "tiên vàn hãy tìm kiếm
Nước Trời"; có những giá trị còn lơn lao hơn, đó là hãy sống thánh thiện
và tìm kiếm Thiên Chúa là chân thiện mỹ của đời ta. Amen!
9. Hãy làm mọi sự để có
được Nước Trời
(Suy niệm của Lm. Antôn
Nguyễn Văn Độ)
Một điều vô tiền khoáng
hậu như thế được ký kết trong một giấc mộng tại Gabaon giữa một bên là Thiên
Chúa, bên kia là Salomon, Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho ngươi điều
ngươi xin ... đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không
có ai bằng ngươi" (1V 3, 12).
Thiên Chúa muốn thông
ban người vinh quang đã có tự đời đời cho con người. Vinh quang này được sánh
như một kho báu hay một viên ngọc quí trong Tin Mừng hôm nay. Con người luôn
luôn tìm kiếm hạnh phúc, và Đấng là nguồn mạch mọi ơn phúc. Thiên Chúa muốn
chia sẻ vinh quang ấy cho con người. Chính con người cũng không biết mình được
dựng nên để vui hưởng vinh quang với Thiên Chúa. Theo thánh Phaolô thì Thiên
Chúa biết chúng ta từ thủa đời đời; khi được tạo thành, Ngài đã gọi tên ta.
Theo nghĩa Thánh Kinh, Thiên Chúa biết chúng ta bằng cả tấm lòng, Ngài cưu mang
chúng ta trong lòng Ngài, như một người mẹ biết con mình khi cưu mang con trong
dạ.
Kế hoạch của Thiên Chúa
là Ngài muốn chúng ta trở nên giống hình ảnh của Chúa Giêsu, Con Ngài, vì Chúa
Giêsu là hình của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu nói với Philiphê "Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Nói cách khác, Thiên Chúa muốn chúng ta
là một thành viên trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một đại ân huệ
Thiên Chúa dành cho chúng ta! Nên Ngài mời gọi chúng ta trở nên hình ảnh của
Con Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, nhất là mang trên mình danh
hiệu là Kitô hữu "Đức Giêsu Kitô: làm sao giàu có như Ngài, mà vì anh em,
Ngài đã nên nghèo khó, ngõ hầu anh em được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của
Ngài " (2Cr 8,9).
Nếu chúng ta nghe và đáp
lời Chúa, Thiên Chúa sẽ biện hộ cho chúng ta; Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên
thánh thiện, hoan lạc, hạnh phúc và chiếu tỏa rạng ngời vinh quang Chúa phù hợp
với Thiên Chúa. Vì kế hoạch của Thiên Chúa là " Những kẻ Chúa đã biết
trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở
nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người
cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính;
mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh
quang " (Rm 8, 29-30).
Trong khi đó, kế hoạch
của con người, là đi tìm hạnh phúc. Việc tìm kiếm này đòi phải phân định. Như
chiếc lưới kéo lên tất cả các loại cá, nên hạnh phúc cũng có tất cả các loại.
Có những thứ hạnh phúc đích thực, có những thứ hạnh phúc rẻ tiền, hão huyền,
trống rỗng và giả dối.
Vua Solomon đã xin Chúa
ban cho một "tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành
dữ" (1V 3, 9).
Để có hạnh phúc thực sự,
cần phải cầu xin Chúa như Salomon: cho được ơn làm chủ bản thân, biết phân biệt
tốt xấu, chọn lựa điều tốt, bỏ điều xấu. Vì tất cả những gì chúng ta hài lòng
chưa hẳn đã là tốt.
Có ơn phân định, để nhận
ra tiếng Chúa, làm theo kế hoạch của Chúa, như tác giả Thánh Vịnh đã hát:
" Bởi thế nên con yêu quý chỉ thị Ngài hơn vàng, và hơn cả vàng ròng tinh
khiết. Bởi thế nên con tự chọn tất cả huấn lệnh của Ngài; hết thảy đường lối
gian tà con đều ghét bỏ " (118, 127-128). Cần phải có tâm hồn tỉnh thức,
sẵn sàng không hời hợt, bốc đồng.
Tỉnh thức, thì dễ vâng
phục và lắng nghe Chúa hơn, như thế mới có hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây chính là
điều Chúa Giêsu áp dụng cho Nước Trời, khi Người sánh ví như một kho báu hay
một thương gia đi tìm ngọc quí.
Nước Trời, là chủ để
hạnh phúc chúng ta tìm kiếm, đôi khi có thể được tìm thấy một cách tình cờ, như
người kia tìm được kho tàng khi cày ruộng. Nó cũng có thể là kết quả của cuộc
tìm kiếm lâu dài, như người buôn nọ đi tìm ngọc quý (Mt 13, 45). Và khi đã tìm
được kho tàng, hay viên ngọc quý rồi, điều trước tiên như Chúa Giêsu nói là bán
hết những gì đang có, để mua bằng được kho tàng và viên ngọc.
Kho tàng hay viên ngọc
quí ấy là chính Đức Kitô, là tình yêu của Người. Tiên vàn hãy tìm kiếm Chúa
Kitô trước đã. Ôi thật là khó, vì chung quanh chúng ta có quá nhiều ràng buộc,
ngăn cản chúng ta gắn bó với Đức Kitô. Chúa Giêsu hỏi chúng ta dành cho Người
tình yêu trên hết, chúng ta phải là kitô hữu 100%.
Chúa Giêsu tuyên bố:
"Không ai có thể làm tôi hai chủ" (Mt 6,24). Chỉ có "kho tàng
trên trời" chúng ta mới có thể lựa chọn để gửi gắm lòng mình: "Vì kho
tàng ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6, 20s). Thánh Phaolô nói
rõ: "Nước quê ta là trời cao" (Ph 3,20).
Để có Đức Kitô, hay để
có được Nước Trời cần phải dứt bỏ tất cả như Chúa Giêsu gọi mời: "Nếu ai
muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy
theo Ta" (Mt 16,24)... Và chỗ khác Người nói: "Nếu ngươi muốn được
trọn lành, thì hãy đi bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó", sau cùng Người
thêm: "đoạn hãy đến theo" (Mt 19,21). Không những thế còn phải phấn
đấu, "giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý,
anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy". Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta
rằng không thể có được Nước Trời, nếu chúng ta không từ bỏ tất cả những gì
chúng ta đang có: vinh quang, giầu có, địa vị và tất cả những sự tìm kiếm khác.
Qua dụ ngôn chiếc lưới
thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, (Mt 13, 47) Chúa Giêsu cảnh báo. Đừng có
lựa chọn và hành động nửa vời: cần phải hoán cải và tách mình ra khỏi tội lỗi
là những thứ ngăn cản chúng ta với Thiên Chúa và Nước Trời.
Chúng ta hãy nài xin
Chúa Giêsu, nhờ lời Đức Mẹ, dủ lòng thương xót, để mỗi người chúng ta có nghị
lực vứt bỏ tội lỗi, như chúng ta vẫn tuyên xưng vào Đêm Vọng Phục Sinh, và cam
kết chọn Chúa Giêsu là lẽ sống của chúng ta. Amen.
10. Kho báu Nước Trời là
Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Hữu An)
Xuyên suốt trong các
Chúa Nhật vừa qua, hình ảnh nổi bật trong các bài Tin mừng là ruộng đất. Từ hạt
lúa gieo trên ruộng đồng đến lúa tốt và cỏ lùng chen vai mọc lên trên ruộng
đất, và Chúa nhật hôm nay là kho báu chôn giấu trong ruộng lúa.
Palestine là miền đất có
nhiều tranh chấp và nguy hiểm rình rập: chiến tranh, bệnh tật, nạn dịch, đói
khát, cướp bóc, nô lệ...hay bất cứ một sự bất hạnh nào cũng có thể lấy mất tài
sản và cuộc sống của người dân. Nhiều người đã chôn giấu của cải dưới đất, hy
vọng rằng một ngày nào đó sẽ trở lại, nhưng có nhiều người ra đi vĩnh viễn. Do
đó, người ta thường tìm thấy kho tàng.
Dụ ngôn "Kho báu
chôn dấu trong thửa ruộng" là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân
chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích
tương tự như thế.
Ngày hôm ấy, Abba Giuđa
đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã qụy
và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt
những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên. Đột nhiên, Đức
Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong
cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: - Chính vì chú bò này mà mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một
ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh.
Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ
đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì anh ta chỉ là một nông
dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua
được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú,
bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh ta cũng làm chủ
tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy
chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.
Ý nghĩa của dụ ngôn,
chính là thái độ của người nông dân: tìm được kho tàng, anh ta rất vui mừng,
vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc vay
mượn bà con lối xóm, để có đủ tiền mua thửa ruộng ấy. Hành động của anh ta thật
khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả vì kho
tàng quí giá ấy.
Dụ ngôn "Viên ngọc
quý": thương gia khi đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì
mình có để mua cho được viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và
khích lệ.
Dụ ngôn "Kho báu
chôn trong ruộng" và "Viên ngọc quí" diễn tả sự cao trọng, sự vô
giá của Nước Trời, không có cái gì, không có vàng bạc hay tài năng nào sánh
được. "Kho báu" và "Viên ngọc quý" ở đây, là chính Đức
Giêsu Kitô, Ngài là đối tượng lớn nhất, là niềm vui, là hạnh phúc để chúng ta
tìm kiếm và sở hữu. Không có gì đẹp hơn là tìm biết Đức Kitô. Có Ngài, chúng ta
có tất cả! Nói như Thánh Phaolô hôm nay là: trong Người, chúng ta "những
người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh", trở nên giống với
hình ảnh Chúa Con, trở nên giống Đức Kitô. Như thế, lời mời gọi nên thánh,
chính là trở nên giống Đức Kitô, sống theo Đức Kitô, là đạt đến Nước Trời.
1. Nước Trời có một giá
trị tối thượng
Chúa Giêsu nói về kho
báu và viên ngọc mà người cày ruộng và thương gia dám bán tất cả những gì họ có
để mua lấy. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc
đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự
trên trần gian để có nó (GLCG # 546).
Tính chất cao quý nầy
được các bài đọc Sách Thánh hôm nay làm nổi bật bằng cách đưa ra những so sánh
ví von.
Cao quý như sự khôn
ngoan được vua Salômon coi trọng hơn phúc lộc thọ của ngai vàng (bài đọc 1).
Salômon kế vị Vua cha là Đavít. Salômon nhận rõ mình "trẻ người non
dạ" và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Salômon được
Thiên Chúa yêu thương, ân ban cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Salômon
không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Salômon
xin ơn khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của
Chúa. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhậm lời. Salômon trở
nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra
khỏi biên giới Israel. Trước ông, không ai như ông và sau ông, không ai bằng
ông.
Cao quý như lề luật được
Dân Chúa coi trọng tựa Nguồn Sáng dẫn lối (bài đọc 2). Cao quý như "Kho
báu chôn trong ruộng" như "Viên ngọc quý".
Nước Trời là một ân ban
cao quý Thiên Chúa dành cho mọi kẻ kiếm tìm.
2. Chọn lựa và quyết
định.
Sau khi đã nhận ra kho
báu, người cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì quan trọng, họ phải
chọn lựa và đi đến một quyết định.
Là Kitô hữu, môn đệ Chúa
Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì?
Chúa Giêsu mời gọi chúng
ta phải biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: 'Vì thế, anh em
đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó,
dân ngoại vẫn tìm kiếm...Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho." (Mt
6,31-33).
Sách Giáo lý Công giáo
cũng khuyên dạy: "Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua những bài
dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các dụ ngôn
này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người
ta một sự chọn lựa triệt để: để được nước Trời, người ta phải cho tất cả, và
lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi" (GLCG # 546).
Nước Trời đòi buộc phải
hy sinh, một khi đã khám phá ra, phải bán tất cả những gì mình có. Đây là một
chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu, chính
là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí
của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông
dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho báu; vị thương gia bán tất cả
tài sản để mua cho bằng được viên ngọc qu, là hình ảnh nói lên việc phải dứt
khoát chọn lựa Nước Trời.
3.Tìm được Nước Trời là
niềm vui cuộc đời
Người nông dân, vị
thương gia, đều vui mừng khi tìm được kho báu hay viên ngọc quí. Cũng vậy, thái
độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống, là thái độ
hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng
dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ, tất cả những gì trước nay ta cho là quí
giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có
tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường
tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm
kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt, thì sẽ không bao giờ khám phá được
niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ
bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu, chính là thái độ
chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa, mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống,
nơi Chúa, mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc.
Thái độ "vui mừng
bán tất cả", không phải ai cũng dễ dàng có được. Câu chuyện Phúc âm
"Người thanh niên giàu có" là một ví dụ. Anh ta đã sụ mặt xuống và
quay đi vì anh ta có nhiều của cải khi nghe Chúa Giêsu bảo: "Anh hãy về
bán hết của cải, phân chia cho người nghèo, rồi hãy đến theo Ta...".
Làm sao bán hết Chúa ơi
khi con đã một đời vất vả tảo tần để có được cơ nghiệp như ngày hôm nay? Làm
sao vui mừng để từ chối một mối tình vụng trộm mà con mới cất công xây nên? Làm
sao con từ bỏ một thói đã đem lại cho con nhiều thích thú và thỏa mãn sự biếng
lười? Làm sao con có thể bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền chỉ để giữ luật Ngày Chúa
Nhật? Làm sao con có thể bố thí nhiều đến thế, cho dù con sẵn sàng bỏ ra gấp
trăm ngàn lần để nhậu nhẹt mua vui? Làm sao con có thể hạ mình xuống trong khi
con là đấng bậc vị vọng? Làm sao con có thể bỏ học thêm để dành cho việc học
giáo lý?...Và cuối cùng, chắc con cũng sẽ sụ mặt xuống quay đi, vì con có quá
nhiều tham vọng và của cải...
Cuộc đời vẫn luôn có
những "chàng thu thuế Lêvi" sẵn sàng bỏ cả địa vị hái ra tiền để đi
theo Đấng không có viên đá gối đầu. Vẫn còn những Giakêu, sẵn sàng chia nửa gia
tài cho kẻ nghèo và đền gấp bốn những ai bị thiệt hại. Vẫn còn những Phanxicô
Xaviê, Phanxicô Asissi, vẫn còn những Têrêxa Calcutta... bỏ cả cuộc đời để ra
đi rao giảng Tin Mừng và phục vụ người nghèo; vẫn còn những Maximilien Kolbe,
Anrê Phú Yên dám bỏ cả mạng sống để đáp đền mạng sống...
Điều quan nhất, là phải
biết khám phá, trong bản thân mình, ai cũng có một kho báu quí giá. Kho báu ấy
được Kinh Thánh mạc khải: Con người là "hình ảnh của Thiên Chúa",
được dựng nên "giống Thiên Chúa" (St 1,26.27; 9,6), là "con cái
Thiên Chúa" (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10),
"được thông phần bản tính Thiên Chúa" (2 Pr 1,4).
Ý thức và xác tín những
điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá con người hết sức cao quí. Đó là niềm vui và là
hạnh phúc. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần
gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần
thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian
này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.
Trong Đức Kitô, sự khôn
ngoan Thiên Chúa đã được tỏ bày qua sự yếu đuối nhân loại.
Ai chân thành với Đức
Kitô, sẽ gặp thấy Ngài chính là kho báu.
Ai trung thành làm theo
lời Đức Kitô, sẽ sở hữu trọn vẹn kho báu ấy.
Ai nhiệt thành gắn bó
với Đức Kitô, sẽ được chia sẽ cùng Ngài kho báu hạnh phúc Thiên đàng.
11. Khôn ngoan đích thực
– Lm Đam Trần Văn Điều
Saigon sau biến cố 1975,
có nhiều chuyện bất ngờ xảy ra:
* Thập niên 1990, nền
kinh tế thị trường nở rộ, dân miền quê ùn ùn kéo về thành phố với hy vọng mưu
sinh kiếm sống bớt cơ cực hơn. Vành đai thành phố Saigon được quy hoạch lại,
chính phủ quyết định mở rộng thành phố đến vùng Thủ Đức, Củ Chi, Duyên Hải, Cần
Giờ. Các nhà đầu tư liền bỏ tiền mua đất ruộng khu vực Giồng Ông Tố, ngã ba Cát
Lái, xây nhiều biệt thự cao tầng. Giá đất tăng lên vùn vụt, các nông gia phút
chốc trở thành những triệu phú bất đắc dĩ nhờ việc sở hữu chủ đất vàng,
"kho tàng" thửa ruộng mình.
* Sau đó một thời gian,
nghe nói có dự án chính phủ sẽ xây dựng một phi trường quốc tế rộng lớn ở vùng
lân cận Saigon, khu Long Thành: nhằm thay thế phi trường Tân Sơn Nhất hiện tại
vốn quá nhỏ bé, chỉ đáp ứng giải quyết được các chuyến bay quốc nội. Thế là giá
đất đai từ ngã ba Vũng Tàu đi về Bà Rịa đột ngột tăng cao. Nhiều cư dân sống
trong vòng đai qui hoạch của phi trường mới, vô tình chiếm hữu được "viên
ngọc qúi" ngay trên thổ cư bất động sản của mình.
Ngày 10/3/2008, báo chí
quốc tế lại đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước
Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie's, bất
ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu.
Người phụ nữ một con thật sự ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất
ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được "viên ngọc qúi"
vô tình ấy.
Những câu chuyện thời sự
trên giúp ta liên tưởng đến hình ảnh người nông gia tìm thấy kho tàng được chôn
giấu trong ruộng và hình ảnh người lái buôn nhận ra giá trị viên ngọc qúi trong
Phúc âm hôm nay. Họ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để mua cho được
viên ngọc hoặc làm chủ được thửa đất ấy. Đầu óc khôn ngoan tính toán "một
vốn bốn lời" khiến họ nhạy bén được vấn đề, nhận thức được giá trị vô cùng
to lớn của những sản phẩm đó.
A. Óc khôn ngoan của
người đời:
1. Sách Các Vua quyển
thứ nhất (1V.3:5.7-12) cho ta thấy: Salomon lên nối nghiệp Cha là David làm Vua
dân Israel. Trẻ người, non kinh nghiệm, cai trị một vương quốc rộng lớn bao
quát cả 12 chi tộc, Salomon đã cầu khẩn Giavê Thiên Chúa trợ giúp mình. Chúa
hứa Vua muốn xin gì, Ngài sẽ ban cho.
Salomon không xin Chúa
ban cho vợ đẹp con khôn, tiền rừng bạc biển, danh vọng nhiều năm, sống lâu trăm
tuổi... vốn là những ước mơ chung con người. Ông chỉ xin Chúa một điều cần
thiết là Ơn Khôn Ngoan để biết phân biệt phải trái, đúng sai, tội phúc...mà
hành xử dân Chúa cách hợp lý.
Quả thật, điều ông xin
rất đẹp lòng Chúa. Chúa đã ban cho Salomon một trí khôn ngoan minh mẫn, phân xử
chính xác trong vụ án Con Của Ai (1V. 3,16-28). Vua lại xây một đền thờ
Giêrusalem lộng lẫy để kính Chúa, tiếc rằng nó bị sụp đổ thời Israel lưu đày.
2. Tài liệu lịch sử cũng
ghi lại: Từ Hi Thái Hậu vốn là người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu
đá qúi. Năm 1895, bà đã khôn ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở
Đông Lăng, thuộc thành phố Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo
cất tất cả vàng bạc châu báu vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng
vẫn thuộc quyền sở hữu của bà. Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được
hoàn tất: điều độc đáo là 4 ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74
tuổi. Mọi vòng vàng được chôn theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng
được ẩn giấu mãi với thời gian.
Nào ngờ 10 năm sau đó,
tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của Quốc Dân Đảng đã
dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi nắp quan tài được
mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy dẫy. Cấp lớn đua
nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu to, thậm chí Tôn
Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu trên người bà.
Tin đồn binh lính Tôn
Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng Giới Thạch.
Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp trên đi đêm
với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật, trong đó
có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu. Tôn Điện
Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng nhiều báu
vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình an vô sự
thoát khỏi án phạt hình sự.
Có người dùng khôn ngoan
để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như Vua Salomon, nhưng cũng
không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn gian lận, chiếm hữu
như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ binh Quốc Dân Đảng
Trung Hoa.
B. Những khôn ngoan ấy
có giá trị lâu dài chăng?
1. Salomon nổi tiếng là
vị Vua khôn ngoan hơn các Vua trước ông và sau ông (1V. 3,12). Qủa thật, suốt
triều đại Ngài, vương quốc Israel được thanh bình, thịnh vượng. Nữ hoàng Saba
từ phương Nam tìm đến Saolomon để học hỏi. Vua xây dựng đền thờ cho Chúa ngự
trị giữa muôn dân. Óc khôn ngoan giúp Saolomon lãnh đạo thành công trong việc
trị nước.
Thế nhưng sử liệu còn
ghi: lúc về già, nhà vua yêu nhiều phụ nữ ngoại bang, nghe theo họ mà thờ các
thần ngoại, mất lòng chung thủy với Chúa (1V.11:1-8). Rõ là khôn ba năm dại một
giờ. Óc khôn ngoan sáng suốt thời trai tráng nay đã nên mê muội lúc xế chiều.
Salomon đã chết trong sự dại khờ say đắm, lòng Vua xa rời Chúa.
2. Người nông dân khéo
thăm dò địa chất tốt, biết rõ kho tàng chôn giấu trong ruộng. Bằng mọi cách,
ông khôn ngoan thuyết phục chủ ruộng bán lại cho ông mảnh đất vàng đó. Có được
kho tàng trong tay, ông nghĩ rằng cuộc đời ông từ nay sẽ giàu có, sung sướng
lâu dài.
Thế nhưng cái chết đến
bất thình lình, ông ra đi với hai bàn tay trắng, kho tàng ông chiếm hữu nay
cũng xa lìa ông. Óc khôn ngoan tính toán đã chịu thua lưỡi hái tử thần.
3. Người thương gia biết
thẩm định giá trị viên ngọc chính xác, ông sẵn sàng hy sinh mọi của cải đang
có, để mua cho được viên ngọc qúi báu. Óc khôn ngoan định mức giúp ông tự tin,
luôn cho rằng mình đang đầu tư một món hàng chắc chắn sẽ có lời sau này.
Thế nhưng phải đến ngày
ông từ bỏ cuộc chơi thế trần, viên ngọc qúi mà ông trân trọng gìn giữ lâu nay
bây giờ cũng trở nên vô nghĩa. Cái chết đã chấm dứt mọi lo toan.
4. Salomon, người nông
dân và anh lái buôn: có lẽ cả 3 đều nghĩ rằng mình đã khôn ngoan đắc thủ được
món quà giá trị nhất (sự thông minh sáng suốt, kho tàng vô giá, viên ngọc qúi
báu).
Thực tế, những chiếm hữu
ấy đều tạm thời vì họ chỉ sở hữu chúng một thời gian. Và như thế, óc khôn ngoan
mà họ đã suy tính đâu có mang lại cho họ một giá trị vĩnh cửu.
C. Đâu là sự khôn ngoan
đích thực?
Thiên Chúa, Đấng tạo
dựng muôn loài, là nguồn mọi sự hiểu biết, là nền tảng mọi thông minh thượng
trí. Giữa mọi nghiên cứu thiên văn, nhà khoa học Isaac Newton đã khiêm nhường
xác tín: "Tôi nhận ra Thiên Chúa ngay trên đầu viễn vọng kính của
tôi". Như thế, Thiên Chúa là nguồn mọi khôn ngoan. Đi tìm sự khôn ngoan
đích thực chỉ có ở nơi Ngài và trong Ngài.
1. Chính Thiên Chúa đã
ban cho ta thửa ruộng vàng, đất vàng, có kho tàng cao qúi ẩn giấu trong đó.
* Thửa ruộng vàng, đất
vàng ấy chính là Nước Trời.
* Trong Nước Trời ấy có
kho tàng cao qúi là Đức Tin Công Giáo, là Giáo Hội.
Chúa Giêsu phán với các
bệnh nhân: "Đức tin của con đã cứu chữa con". Trong đức Tin, ta học
hỏi Giáo Lý Giáo Hội, sống tuân giữ giới răn Chúa, nuôi dưỡng ta nên tốt lành,
xứng đáng hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Trong Giáo Hội, ta nhận
được Ơn Cứu Rỗi, được kín múc Ơn Thánh Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua việc
lãnh nhận các Bí tích...là những hành trang đưa ta vào Nước Trời.
2. Chính Thiên Chúa cũng
đã ban cho ta một viên ngọc qúi là chính Đức Giêsu Kitô.
* Qua bí tích Thánh Thể,
ta có được Đức Giêsu ở trong mình.
* Chúa Giêsu phải là
viên ngọc qúy giá nhất mà ta luôn trân trọng bảo trì tốt.
"Có Chúa đi với
con, con nào sợ thiếu thốn chi? Có Chúa ở bên con, con nào lo lắng gì?"
"Có Chúa trong
lòng, địch thù tan nát hết. Chúa trong lòng ta, lo lắng gì hồn tôi ơi!"
Lạy Chúa! Xin cho con
biết Chúa, xin cho con biết con.
biết Chúa là viên ngọc
qúy thật sang giàu,
biết con chỉ là thụ tạo
thấp bé, thật nghèo hèn,
để suốt đời, con chỉ say
sưa đi tìm Chúa là hạnh phúc đích thực đời con. Amen.
12. Nước Trời giống như
kho báu
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Thể Hiện)
Tiếp nối bài Tin Mừng
của Chúa Nhật trước, bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,44-52) gồm ba dụ ngôn về Nước
Trời: dụ ngôn kho báu (c.44), dụ ngôn viên ngọc (cc.45-46) và dụ ngôn chiếc
lưới (cc. 47-50). Kết thúc là một lời kết luận chung về các dụ ngôn (cc.51-52).
1. Hai dụ ngôn kho báu
và viên ngọc quý (cc.44-46)
"Nước Trời giống
như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn
giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được
một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc
ấy" (cc.44-46).
Hai dụ ngôn kho báu và
viên ngọc có chung một điểm nhấn quan trọng về nội dung giáo huấn: Nước Trời
không phải chỉ là chuyện của ước muốn hay ý chí, mà chính yếu là niềm vui của
một cuộc tìm kiếm thành công bất ngờ ngoài sự mong đợi, và đặc biệt, là kết quả
của một cuộc dấn thân đòi phải dám phiêu lưu. Sự từ bỏ tất cả những gì mình
đang có không phải là một hành động tu đức, hy sinh hay hãm mình, mà là một
chọn lựa tự nguyện cùng với niềm vui lớn lao.
Sứ điệp và trải nghiệm
về mầu nhiệm Nước Trời làm cho mọi giá trị đã được biết từ trước tới nay bỗng
trở nên tương đối. Tất nhiên những thực tại tốt lành khác vẫn là những thực tại
có giá trị, như sức khoẻ, gia đình, nghề nghiệp, danh dự, học vấn, sự thành
công, tình bạn, tình yêu đôi lứa... Nhưng chúng sẽ là tương đối trong so sánh
với mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa ẩn mình
nơi những sứ điệp và hoạt động của Chúa Giêsu. Ai hiểu những sứ điệp và mầu
nhiệm đó sẽ khám phá nơi chúng những giá trị tuyệt đối, quý hơn tất cả những gì
khác trong cuộc đời. Người đó sẽ dám bỏ đi tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống
mình, vì Nước Thiên Chúa, bởi lẽ anh ta đã biết rằng đó là kho tàng quý giá duy
nhất có khả năng làm cho sự sống của anh ta trở nên thực chất và giàu có vô
cùng. Đó cũng là kinh nghiệm của Thánh Phaolô: "Những gì xưa kia tôi cho
là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả
mọi sự là thiệt thòi, vì mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa
của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức
Kitô và được thuộc về Người" (Pl 3,7-9)
Cuối cùng, hai dụ ngôn
kho báu và viên ngọc, một lần nữa, đề nghị người nghe chọn lựa sự nghèo khó như
được nói trong 5,3 ("Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó"), khi lặp đi
lặp lại: "bán tất cả những gì mình có" (cc.44.46). Kho báu và viên
ngọc quý, như thế, chính là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa ("Nước
Trời là của họ"). Kinh nghiệm đó tạo nên niềm vui sâu xa trong tâm hồn.
"Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (6,20).
2. Dụ ngôn chiếc lưới
(cc.47-50)
"Nước Trời lại còn
giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy,
người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra
ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và
tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa.
Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (cc.47-50).
Đây là dụ ngôn cuối cùng
trong một loạt 7 dụ ngôn ven biển hồ về Nước Trời, được ghi lại trong Mt 13. Dụ
ngôn cuối cùng này có kèm lời giải thích. Về nội dung, chúng ta gặp lại sứ điệp
của các dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, nhưng nhấn mạnh hơn về ngày chung thẩm.
Như đàn cá bơi dưới
biển, gồm đủ mọi thứ cá tốt xấu khác nhau, cộng đoàn Hội Thánh cũng gồm những
người tốt kẻ xấu. Nhìn bề ngoài, không có chuyện gì khác biệt, nhưng khi chiếc
lưới đã được kéo lên bờ, sự phân biệt sẽ xảy đến: cá tốt và cá xấu sẽ có số
phận khác nhau hoàn toàn.
Sự đối lập "cá
tốt" và "cá xấu" tương ứng với sự đối lập giữa cây tốt với cây
xấu trong 7,15-19. Vậy những "cá xấu" ở đây chính là các ngôn sứ giả,
những đồ đệ giả, những con sói đội lốt chiên, những kẻ chỉ có vẻ bề ngoài theo
Chúa Kitô còn thực chất là chạy theo những giá trị giả trá và không thực...
Trong lời giải thích ở câu 48, họ bị gọi là những "kẻ xấu".
Số phận của họ sẽ là bị
quăng vào lò lửa (c.50). Nỗi đau đớn kinh hoàng và không bao giờ chấm dứt trong
số phận chung cuộc của họ được miêu tả bằng những hình ảnh đáng sợ: "khóc
lóc" và "nghiến răng". Điều căn bản làm nên nỗi đau đó chính là
sự vĩnh viễn mất đi sự sống đích thật. Nhưng dụ ngôn đề cập đến số phận chung
cục như thế là nhằm giúp các môn đệ xác định hướng đi đúng đắn trong những
quyết định hiện tại. Chỉ những ai sinh hoa quả tốt mới được đạt tới sự sống đời
đời.
3. Kết luận về các dụ
ngôn (cc.51-52)
Kết thúc các dụ ngôn,
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: "Anh em có hiểu tất cả những điều ấy
không?" Họ đáp: "Thưa hiểu."52 Người bảo họ: "Bởi vậy, bất
cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy
ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ" (cc.51-52).
Giáo huấn dành cho các
môn đệ được kết thúc trong khung cảnh mang tính riêng tư giữa Chúa Giêsu với
các ông mà thôi. Tác giả Tin Mừng quay lại với chủ đề "hiểu", vốn là
chủ đề xuyên suốt Mt 13 (cc.13.14.15.19.23.51). Đã được hiểu biết về mầu nhiệm
Nước Trời, các môn đệ phải trình bày mầu nhiệm đó cho những người khác. Tác giả
Mt muốn nhấn mạnh một sự khác biệt lớn giữa các "bậc thầy" trong cộng
đoàn Kitô giáo với các bậc thầy trong cộng đồng Do Thái giáo. Các kinh sư
Israel mang trên vai gánh nặng của cả một truyền thống giải thích lớn lao vốn
không cho phép mọi sự vượt quá giới hạn cổ xưa. Các "kinh sư đã được học
hỏi về Nước Trời", tức là các bậc thầy trong cộng đoàn Kitô hữu, thì không
bị lệ thuộc vào truyền thống cổ xưa ấy. Đối với họ, ưu tiên số một sẽ là
"cái mới" trong kho tàng mầu nhiệm mà họ đã được học hỏi; "cái
cũ" phải lệ thuộc cái mới đó. Nói cách khác, họ không đặt đạo lý của mình
trước hết trên nền tảng là những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã nói, mà là trên
chính mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Họ bắt đầu bằng sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu
và đó chính là chìa khoá giúp họ đọc toàn bộ kho tàng Cựu Ước.
Không ít học giả hiểu
rằng có lẽ tác giả Tin Mừng Mt muốn kín đáo tự nói về chính mình trong câu này.
Gợi ý suy niệm và chia
sẻ:
1. Tác giả Mt không có ý
nói về tính cách luân lý trong quyết định và cách hành xử của người đi tìm kho
tàng và người đi tìm viên ngọc quý trong hai dụ ngôn ở đầu bài Tin Mừng hôm
nay. Vì vậy, sẽ không chính xác nếu chúng ta buộc ông phải trả lời về vấn đề
này. Điểm nhấn mà ông nhắm tới là niềm vui của con người gặp được mầu nhiệm
Nước Trời, vốn là thực tại tuyệt hảo, cao quý hơn tất cả mọi giá trị khác.
2. Điều quan trọng không
phải là ao ước Nước Trời, mà phải tìm kiếm, và nhất là phải quyết định, phải
chọn lựa và phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy Nước Trời. Kho tàng quý và viên
ngọc quý sẽ không thuộc về chúng ta nếu chúng ta không dám quyết định bán tất
cả những gì mình đang có.
3. Một trong những yếu
tố đáng lưu ý là niềm vui tràn ngập tâm hồn các nhân vật trong hai dụ ngôn kho
tàng quý và viên ngọc quý. Niềm vui đó vừa diễn tả độ lớn của niềm khao khát
vừa là yếu tố thúc đẩy người ta mau mắn quyết định bán tất cả những gì mình
đang có. Chúng ta đón nhận mầu nhiệm Nước Trời trong hân hoan hay miễn cưỡng?
Chúng ta sống các mầu nhiệm thánh trong Đạo với niềm vui hay với sự chán nản
mệt mỏi? Sứ điệp mà chúng ta công bố với thế giới có là tin mừng hay không?
4. Số phận thật của
những con cá khi mẻ lưới được kéo lên sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của
những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm
lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm, chúng ta cần phải trở thành những con
cá tốt. Số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống
hiện tại này.
5. Điểm quy chiếu chính
yếu, nền tảng căn bản và đầu tiên, có tính quyết định, phải là chính Đức Giêsu
và đạo lý của Ngài, chứ không phải là những truyền thống cổ xưa của con người,
cho dù là những truyền thống tốt lành. Chính Đức Giêsu sẽ là tiêu chuẩn đánh
giá những truyền thống ấy, những thực tại "cũ" ấy. Người kinh sư đã
được hiểu biết mầu nhiệm Nước Trời sẽ không còn lệ thuộc hoàn toàn vào các
truyền thống Do Thái cũ như các kinh sư Do Thái nữa. Điểm quy chiếu có tính
quyết định luôn luôn là chính Chúa Giêsu, Đấng là chính thực tại Nước Trời giữa
chúng ta.
13. Nước Trời – Lm Giuse
Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã yêu thương
và ưu đãi vua Salômôn qúa nhiều. Thiên Chúa đã giáng phúc và ban mọi phước lành
cho đời của ông. Vua cha Đavid đã chọn Salômôn lên kế vị ngôi vua. Chúa đã rộng
ban cho ông những ơn cần thiết tùy ông cầu xin. Vua Salômôn đã thưa: Vậy xin
Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa và phân biệt
lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này (1Vua
3, 9). Salômôn đã không xin cho được giầu sang phú quý hay sống lâu. Vua chỉ
xin Chúa ban ơn khôn ngoan. Ơn khôn ngoan là đầu mối của tất cả các niềm an vui
và thành công trong đời. Khôn ngoan để biết phân biệt lành dữ và biết xét xử
đúng sai trước mặt Chúa.
Ơn khôn ngoan là một
trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta sống theo thánh ý của Thiên
Chúa. Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn ân sủng theo ý sở nguyện. Vua đã dùng
ơn khôn ngoan để cai quản dân chúng và điều hành quốc gia dân tộc một cách an
bình thịnh vượng. Chúa chấp nhận lời cầu: Thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi
xin và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có
ai giống ngươi và sau ngươi không có ai bằng ngươi (1Vua 3, 12). Đây là sự khôn
ngoan đích thực. Chúng ta biết ở đời có rất nhiều người khôn, nhưng chưa chắc
đã ngoan. Thiên Chúa ban cho con người có khả năng và trí thông minh, nhưng họ
lại dùng sự hiểu biết nông cạn của mình để phủ nhận và chống đối lại Thượng Đế.
Có nhiều người tuy tài giỏi lỗi lạc về các môn khoa học đời, nhưng lại chối bỏ
sự khôn ngoan thượng trí của Tạo Hóa. Nhiều người tự mãn rằng họ có trí tuệ
nhưng đã tỏ vẻ huênh hoang và kiêu ngạo không chấp nhận sự quan phòng của Thiên
Chúa trong vũ trụ và đời sống của các loài thụ tạo. Hãy nhớ rằng con người
chúng ta chỉ là một loài thụ tạo giới hạn trong thời gian và không gian. Có đó
rồi biến đó.
Vua Salômôn là một bậc
minh quân. Ông biết phân biệt trời cao đất thấp. Quy phục quyền năng của Thiên
Chúa. Tuy nhiên, vì con người yếu đuối lầm lỗi, Salômôn cũng không tránh khỏi
những cám dỗ cả về danh, lợi và thú. Cuối đời, đã có lần ông rời xa Chúa, chạy
theo các thần dân ngoại của các bà vợ và lập đền thờ cúng. Tuy nhiên, vì tình
thương, Thiên Chúa vẫn chúc lành cho đời của ông lập được nhiều thành qủa tốt
đẹp. Ông đã hoàn tất công trình của Vua Đavid là xây dựng đền thờ nơi Chúa ẩn
ngự. Ông khéo léo cai quản gìn giữ quê hương xứ sở bình an trong suốt thời kỳ
dựng xây nhà Chúa. Chúa ban cho ông ân lộc dư tràn và đất nước thịnh vượng một
thời. Danh tiếng của ông vang khắp miền.
Trong bài phúc âm hôm
nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta một vài hình ảnh về Nước Trời. Nước
Trời được ví như một kho tàng, một viên ngọc quý và một mẻ lưới đầy cá. Nước
Trời ở ngay tại thế, nếu chúng ta cố công đi tìm, sẽ gặp. Nước Trời không phải
là một số kiến thức, một triết thuyết hay một chủ trương sống, mà là một kho
tàng được chôn giấu cần ơn giác ngộ: Nước trời giống như kho tàng chôn giấu
trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả
những gì anh ta có mà mua thửa ruộng ấy (Mt 13, 44). Kho tàng này là một món
qùa qúy, không phải vàng bạc châu báu, nhưng là lời khôn ngoan. Kho tàng nằm
trong Lời Chúa và Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu đã giảng trên núi. Thật hạnh
phúc cho ai giác ngộ sống theo Bát Phúc này.
Nước Trời được ví như
viên ngọc quý, khi tìm thấy, người ta bán mọi sự để mua được viên ngọc đó. Ngọc
quý là chính ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại. Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một hạ thân cứu độ chúng sinh. Viên Ngọc quý
từ trời ban xuống là Đức Kitô đã hy sinh hiến mình để cứu độ nhân loại. Qua bao
đời, có biết bao nhiêu người đã nghe giảng, học biết và tin nhận Chúa Kitô là
Con Thiên Chúa giáng trần. Họ đã tìm được viên ngọc qua đời sống đức tin trong
Giáo Hội. Cửa Nước Trời đã mở ra thâu nhận những ai muốn kiếm tìm và sống niềm
tin. Mọi người đều có thể sở hữu viên ngọc quý của Nước Trời. Viên ngọc của ân
sủng, của tin yêu và hy vọng. Chúa Giêsu đã sắm sẵn cho mọi người.
Ai tin vào Chúa thì sẽ
được lãnh nhận ơn cứu độ.
Một hình ảnh rất cụ thể:
Nước trời giống như chiếc lưới thả xuống biển, bắt được mọi thứ cá (Mt 13, 47).
Nước Trời khởi sự tại trần gian nhưng qui hướng về trời. Chiếc lưới có đủ mọi
thứ cá, có nghĩa là Nước Trời nơi trần thế bao gồm tất cả mọi thành phần cần
biến đổi. Trong đời sống Giáo Hội, có nhiều thành viên thánh thiện, tốt lành,
đạo đức và cũng bao gồm nhiều người bình thường, chuộng danh nghĩa, sống hình
thức, chỉ mang danh Kitô hữu, nhưng không sống đạo hoặc gồm cả những thành phần
sa chìm tội lỗi, sống bê bối và lãnh đạm thờ ơ. Hình ảnh một Giáo Hội đang trên
đường lữ thứ trần gian cần sự kiên nhẫn thanh lọc, canh tân đổi mới và tinh
luyện con người nên tốt hơn và thánh thiện hơn. Vì Đạo chính là đường dẫn chúng
ta tới quê thật là Nước Trời.
Chúa Giêsu dậy rằng am
tường sự khôn ngoan là biết lợi dụng mọi môi trường và hoàn cảnh để dẫn lối vào
Nước Trời. Trong kho tàng của Giáo Hội chất chứa mọi thứ cũ mới như những viên
ngọc quý: Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như
chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới cũ trong kho mình (Mt 13, 53). Mọi lời
khôn ngoan đã được mạc khải trong Sách Thánh. Chính Ngôi Lời của Thiên Chúa đã
hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta. Ngôi Lời đã tỏ cho chúng ta biết về
chương trình cứu độ và mở cửa Nước Trời đón nhận chúng ta. Học biết lịch sử của
ơn cứu độ, chúng ta có thể hiểu biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo
của Ngài. Thiên Chúa đã ký kết giao ước với các cha ông và các tổ phụ trong
thời Cựu Ước. Giáo ước đã dẫn bước dân của Chúa tới giao ước mới được ký kết
bằng Máu châu báu của chính Chúa Kitô. Muốn hiểu được ý nghĩa của Nước Trời,
chúng ta cần phải tìm hiểu kho tàng ơn cứu độ trong Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Thiên Chúa tạo dựng muôn
loài trong vũ trụ. Mỗi loài đều có một cùng đích để nhắm tới. Không có vật gì,
sự gì hay sự sống nào là vô ích. Sự liên kết chằng chịt giữa các phần tử trong
vũ trụ đều liên đới và bổ túc cho nhau để hiện hữu. Khoa học con người chưa thể
khám phá ra tất cả ý nghĩa cao sâu của mầu nhiệm sáng tạo. Sự an bài và quan
phòng của Thiên Chúa cho mỗi loại và mỗi loài theo ý định của Người. Riêng con
người mang hình ảnh của Thiên Chúa được chia phần vinh quang cách đặc biệt.
Trong thơ gởi tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô viết: Những ai Người đã tiền
định, thì Người cũng kêu gọi họ, và những ai Người đã kêu gọi, thì Người cho họ
được vinh quang (Rm 8, 30). Thiên Chúa tiền định thế nào, chúng ta không biết,
nhưng tin rằng chúng ta sẽ được chung phần hưởng vinh quang với Đức Kitô. Chúa
đã gọi chúng ta vào đời và tái sinh chúng ta làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội.
Niềm hy vọng của chúng ta là cùng được sống lại với Chúa Kitô trong ngày sau
hết.
Lạy Chúa, Chúa đã mở cửa
Nước Trời đón nhận những ai tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết dõi theo lối
bước của Chúa và trung thành thực thi lời Chúa, để canh tân cải biến đời sống mỗi
ngày. Xin giúp chúng con biết gìn giữ kho tàng ngọc quý mà Chúa đã trao ban để
sinh hoa kết quả tốt lành và thánh thiện.
14. Nước Trời quý giá –
Đam. Lê Đức Thiện
Bài Tin Mừng thuật lại
ba dụ ngôn của Chúa Giêsu: dụ ngôn kho báu giấu trong ruộng, dụ ngôn viên ngọc
quý và dụ ngôn cái lưới đánh cá. Dụ ngôn cái lưới đánh cá, ý nghĩa gần giống
như dụ ngôn cỏ lùng, đã được nói tới vào Chúa Nhật tuần trước. Vì thế, ở đây
chúng ta chỉ tìm hiểu hai dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý. Hai dụ ngôn này có
ý nghĩa tương tự nhau.
Trước hết, chúng ta thấy
hai dụ ngôn này đều nhằm mục đích diễn tả sự quý giá tột bậc của Nước Trời,
không một thứ gì ở trần gian quý giá bằng hay có thể sánh ví được. Tuy nhiên,
trong dụ ngôn thứ nhất, Nước Trời quý giá vì đem lại lợi ích vô cùng to lớn, là
được hạnh phúc đời đời, còn dụ ngôn thứ hai, Nước Trời quý vì vẻ vinh quang
tuyệt vời của nó. Trong dụ ngôn trước, kho báu đến với người nông dân một cách
ngẫu nhiên, tình cờ, tức là nhấn mạnh đến hạnh phúc Nước Trời do tình yêu Thiên
Chúa ban nhưng không. Còn trong dụ ngôn sau cho biết ông thương gia phải vất vả
tìm kiếm viên ngọc quý tức là muốn nói đến thái độ phải cộng tác tích cực vào
việc chiếm hữu Nước Trời. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, Nước Trời luôn
luôn là điều quý giá nhất, đòi hỏi người ta phải hy sinh tất cả để chiếm đoạt
cho bằng được.
Đàng khác, hai dụ ngôn
này còn cho chúng ta thấy thái độ khôn ngoan của người tìm được kho báu cũng
như của người tìm được viên ngọc quý. Họ bán hết gia tài sản nghiệp để mua, vì
họ biết chắc rằng: kho báu kia, viên ngọc quý kia đáng giá hơn gia tài sản
nghiệp họ đang có. Và đây cũng chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta:
người nào biết đi tìm Nước Trời trước nhất, dám hy sinh tất cả những gì mình
có, kể cả mạng sống, để chiếm đoạt cho bằng được, đó là người khôn ngoan. Chúng
ta biết, khôn ngoan là một ân huệ, một đức tính cao quý, làm cho trí khôn chúng
ta, trong mọi hoàn cảnh, mọi công việc, biết lựa chọn những phương cách tốt hơn
để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích sau cùng.
Tuy nhiên, khôn ngoan
cũng có nhiều thứ: khôn ngoan xác thịt, khôn ngoan tự nhiên và khôn ngoan siêu
nhiên. Khôn ngoan xác thịt là cái khôn chỉ biết khéo léo tìm mọi cách để thực
hiện những ước muốn tội lỗi, để thỏa mãn những khát khao của dục vọng, danh giá
và tiền tài. Chẳng hạn vua Đa-vít, sau khi phải lòng và sa ngã với bà
Bét-sa-bê, ông đã khôn khéo biết bao: nhà vua đã bày mưu tính kế để cho U-ri-a,
chồng bà Bét-sa-bê về thăm nhà và ép ông uống rượu để giấu nhẹm tội ngoại tình
của mình. Không thành công ông lại khôn khéo làm cho U-ri-a chết ngoài mặt trận
để được tự do thoải mái kết hôn với bà Bét-sa-bê. Chúng ta có thể nói: bao
nhiêu mánh lới, bao nhiêu thủ đoạn, bao nhiêu cách thức để đạt được mục đích
chơi bời, thỏa mãn bản năng,... bấy nhiêu trường hợp đều cần đến trí óc suy
nghĩ, xếp đặt, lừa dối, trá hình khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan ấy là khôn ngoan
xác thịt. Cái khôn mang lại những thiệt thòi, đổ vỡ, hối hận. Cái khôn mà người
liêm khiết khinh chê, miệng đời đàm tiếu, mai mỉa. Cái khôn mà thánh Phao-lô đã
kết án, vì nó đối nghịch lại Thiên Chúa và thiệt hại cho linh hồn.
Tiếp đến, khôn ngoan tự
nhiên là cái khôn chỉ khéo léo lựa chọn những phương thế tốt đẹp để đạt mục
đích tự nhiên mà không quy về mục đích sau cùng. Chẳng hạn tài khéo trong việc
buôn bán, tính toán giỏi trong công việc làm ăn, bặt thiệp trong việc giao tế
với mọi người. Đó là sự khôn ngoan để dùng người, khôn ngoan để được vật chất,
lợi lộc trần gian. Người phú hộ trong Tin Mừng đã khôn ngoan kiểu này: thấy mùa
màng bội thu, không đủ chỗ chứa hoa lợi, nên ông tính toán: phá kho lẫm cũ, xây
kho lẫm mới rộng lớn hơn. Bảo đảm rồi, yên chí lớn nghỉ ngơi, hưởng thụ. Nhưng
Chúa đã bảo: "Người khờ dại, chính đêm nay ngươi chết, thì của cải ngươi
thu tích để lại cho ai?". Thánh Mátthêu cũng ghi lại lời Chúa Giêsu kết án
thứ khôn ngoan này: "Được lời lãi cả thế gian, mà không được Nước Trời thì
ích gì?".
Sau hết, khôn ngoan đích
thực là cái khôn của những người, trong mọi hoàn cảnh, biết lựa chọn những
phương cách tốt hơn để thực hiện, đồng thời biết quy hướng tất cả về mục đích
sau cùng. Người có khôn ngoan này biết khước từ những khoái cảm chốc lát, vì
biết rằng nó sẽ khuấy động lương tâm, làm mất bình an, làm phai nhạt hình ảnh
Thiên Chúa trong tâm hồn. Họ biết lánh xa nếp sống dễ dãi, đua đòi, vì sợ xác
thịt được voi sẽ đòi tiên, sợ lời cảnh cáo: "Ai gieo trong nguy hiểm, sẽ
ngã trong hiểm nguy". Người có thứ khôn ngoan này biết suy rằng: không
phải bất cứ cái gì thiên hạ làm được là mình cũng có thể làm được. Họ biết rằng:
có nhường nhịn đôi chút thì cũng chẳng mất mát gì, nhưng chắc chắn sẽ được đền
bù. Họ biết rằng: có phải ép mình cầu nguyện nửa giờ, dự thánh lễ một tiếng,
chỉ là cách đổi công khó nhọc chóng qua để lấy những công phúc to lớn hơn.
Người có thứ khôn ngoan này, biết lợi dụng những cái trước mắt để sinh ích lợi
sau này, nhưng luôn cảnh giác: không vì cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau
lưng.
Như vậy, bài Tin Mừng
hôm nay nhắc nhở chúng ta: Nước Trời là kho báu vĩ đại nhất, là viên ngọc quý
giá nhất, chúng ta phải cố gắng, phải hy sinh để kiếm cho bằng được. Bởi vì đời
là một dịp tiện, moi ngày sống là một dịp may, chúng ta có ý chí, tự do và khôn
ngoan để lựa chọn. Vì thế, chiếm đoạt được Nước Trời hay không là do chính
chúng ta.
15. Bán tất cả để mua
viên ngọc quý – Đỗ Lực
Hành trình của đời người
là một hành trình đi tìm kho báu, nghĩa là đi tìm hạnh phúc. Đó là một mục tiêu
chính đáng. Tuy nhiên, như Đức Giêsu đã nói: "Kho tàng anh em ở đâu thì
lòng anh em ở đó" (Lc 12,34), chúng ta hãy tự hỏi xem hạnh phúc mà chúng
ta đang tìm kiếm thực sự là gì? Có phải chăng đó là tiền bạc, là quyền uy, danh
vọng và khoái lạc? Chúng có đem lại cho chúng ta bình an và hạnh phúc thật sự
không, hay sự giàu có về của cải vật chất chỉ làm cho con người thêm lo âu, và
lối sống hưởng thụ chỉ khiến người ta thêm trống rỗng?
Qua bài Tin Mừng hôm
nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta biết rằng, kho báu thật sự, hạnh phúc thật sự mà
con người cần tìm kiếm chính là Nước Trời. Thật vậy, Nước Trời là một viên ngọc
quý, một kho tàng vô giá mà bất cứ ai có được quả là may mắn và hạnh phúc. Đối
với Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có, cho dù trong con mắt
của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo khó.
Nước Trời không phải là
một ảo tưởng. Nước Trời đem lại cho con người sự bình an trong tâm hồn, niềm
vui trong trí tuệ và vẻ đẹp trong cuộc sống này, vì nó giải phóng chúng ta khỏi
mọi sự mê hoặc của những kho tàng dưới đất, nhờ một niềm xác tín về tình yêu
của Thiên Chúa đối với chúng ta, cũng như nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong
phú của kho tàng trọn vẹn trên Quê Trời.
Đời sống chúng ta sẽ trở
nên vô nghĩa nếu không có Thiên Chúa. Mối liên hệ chặt chẽ với Thiên Chúa chính
là một kho tàng thật sự. Nhờ đó chúng ta biết mình sẽ đi về đâu, cùng đích của
đời sống chúng ta là gì. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho chúng ta điều
chúng ta hằng khao khát kiếm tìm. Có Thiên Chúa là có tất cả, nếu chúng ta tin
(Mc 9,23; 10,27).
Lạy Chúa Giêsu Thánh
Thể, giống như người nông dân và người buôn ngọc, khi phát hiện được viên ngọc
quý giá, họ đã ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua cho bằng được viên
ngọc, xin cho chúng con cũng biết can đảm và vui tươi, sẵn sàng ra đi, bán tất
cả nhửng gì mình có để mua lấy hạnh phúc Nước Trời.
Xin cho lòng chúng con
luôn thanh thoát trước những kho báu phù phiếm ở đời này, biến "bán"
đi những đam mê, ích kỷ của mình mà mua lấy kho báu bất diệt trên trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng
con đừng bao giờ quay lưng lại trước những lời mời gọi của Chúa; không bao giờ
ngoảnh mặt làm ngơ, tránh cái nhìn yêu thương mà Chúa luôn dành cho chúng con.
Amen.
16. Vui mừng bán tất cả
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Tất cả bắt đầu từ một sự
tình cờ may mắn.
Người nông dân nghèo
phải làm thuê cho điền chủ tình cờ gặp được kho báu chôn trong ruộng.
Người buôn ngọc tình cờ
gặp được viên ngọc tuyệt vời, có giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả
hai rất giống nhau: ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua... Không thấy có
dấu vết của sự nuối tiếc hay ngần ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và
tràn ngập niềm vui thanh thản. Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm
được kho báu và viên ngọc. Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới.
Thái độ của hai người
trên được coi là bình thường. Ở địa vị ta, ta cũng làm như thế.
Kho báu và viên ngọc là
những thứ thấy được, có giá trị hiển nhiên và hết sức hấp dẫn. Chúng hứa hẹn
một sự giàu sang mà ai cũng thèm thuồng, nên người ta dễ bán tất cả để mua được
chúng.
Bị ảnh hưởng bởi não
trạng hưởng thụ vật chất, chúng ta thường coi kho báu duy nhất ở đời này là
tiền bạc, quyền uy và khoái lạc. Khi nói Nước Trời là kho báu bền vững, Đức
Giêsu là viên ngọc quý đích thực, chúng ta lại thấy đó là cái gì mơ hồ, xa xôi,
ít lôi cuốn, thậm chí không có thật. Chính vì thế chúng ta thường ngần ngại khi
từ bỏ, dè sẻ, nuối tiếc khi phải hy sinh cho Chúa.
Vậy vấn đề là khả năng
thấy, nhờ lòng tin.
Bản thân tôi có thấy Đức
Giêsu là viên ngọc quý, và Nước Trời là kho báu không?
Chỉ ai thấy được những
thực tại vô hình và ngây ngất trước giá trị của chúng, người ấy mới hồn nhiên
và vui tươi đánh đổi tất cả kho báu phù phiếm của đời này để lấy kho báu bất
diệt trên trời (x.Mt 6,20).
Có khi tình cờ, qua một
biến cố, một người bạn, qua một cuốn sách, một đoạn Lời Chúa, một kỳ tĩnh tâm,
tôi chợt gặp Đức Giêsu như viên ngọc ngời sáng, hấp dẫn, mời gọi tôi bay lên
khỏi cái tôi tầm thường: tôi có dám bán nỗi đam mê ích kỷ của mình để mua lấy
tình bạn với Ngài không?
Nếu ta còn ngần ngại khi
phải bán đi tất cả thì chỉ vì ta chưa thấy. Nhưng nếu ta cứ can đảm bán đi, ắt
ta sẽ thấy.
Niềm vui chỉ đến với
người dám bán tất cả.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các tu sĩ thường được
coi là những người đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Theo ý bạn, giáo dân có phải từ
bỏ mọi sự để theo Ngài không?
Nước Trời ai cũng mua
được, dù bạn nghèo đến mấy đi nữa. Chỉ cần bạn bán đi tất cả những gì bạn có.
Có khi nào bạn bán tất cả mà lòng vẫn vui không? Có khi nào bạn hy sinh mà ngại
ngần, tiếc nuối?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng,
khoái lạc là những điều hấp dẫn chúng con. Chúng trói buộc chúng con và không
cho chúng con tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất, nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong
phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn
và vui tươi bán tất cả những gì chúng con có, để mua được viên ngọc quý là Nước
Trời.
Và ước gì chúng con
không bao giờ quay lưng trước những lời mời gọi của Chúa, không bao giờ ngoảnh
mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho từng người trong chúng con.
Amen.
17. Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
KHÔN NGOAN TÌM NƯỚC
TRỜI.
Vua Salomon nổi tiếng là
vị vua khôn ngoan sáng suốt. Ông đã xử những vụ án rất khó khăn một cách khéo
léo không khác gì Bao Công. Bà hoàng hậu Saba ở mãi tận phương nam cũng phải
đến nghe sự khôn ngoan của ông. Nhưng khôn ngoan nhất là khi được Chúa cho chọn
lựa, ông đã không xin được trường thọ hay được giàu sang, mà chỉ xin được ơn
khôn ngoan. Lời cầu xin của ông rất đẹp lòng Chúa. Nên Chúa đã khen ngợi và ban
cho ông mọi điều mong muốn. Chúa muốn tôi bắt chước vua Salomon, biết xin ơn
khôn ngoan và biết khôn ngoan trong những lựa chọn. Nhất là biết khôn ngoan lựa
chọn Nước Trời như những người trong bài Tin Mừng hôm nay.
Những người trong bài
Tin Mừng hôm nay khôn ngoan vì thao thức đi tìm. Sự thao thức đi tìm được thấy
trong thái độ bôn ba đây đó, khảo sát đất đai. Chắc phải đào bới nhiều mới thấy
kho tàng chôn giấu trong ruộng. Sự thao thức đi tìm cũng thấy trong việc ra
khơi thả lưới. Vất vả chài lưới rồi còn phải lựa chọn. Dù vất vả, họ quyết tìm
cho ra Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết
phân định. Đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị thượng vàng hạ cám, như
chiếc lưới đánh bắt đủ mọi loại tôm cá. Giữa những giá trị ấy ta phải biết phân
định. Lựa chọn những giá trị cao quý, tốt đẹp. Biết chọn lựa cá tốt, vứt bỏ cá
xấu. Biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì dơ bẩn.
Biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu. Biết
giá trị của Nước Trời dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Họ khôn ngoan vì dám dấn
thân. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng. Dấn
thân trọn vẹn nên bán tất cả những gì mình có để đổi lấy kho tàng, viên ngọc
quý. Dấn thân quyết liệt vì bán hết nhà cửa rồi thì không thể quay về chốn cũ,
chỉ còn gắn bó với quê hương mới mà thôi. Dấn thân tuyệt đối, bỏ hết tất cả chỉ
vì một viên ngọc. Dấn thân như thế là thái độ của tình yêu, sự say mê, sự khao
khát mãnh liệt. Đó chính là thái độ phải có khi đi tìm Nước Trời.
Họ khôn ngoan vì biết từ
bỏ. Bán tất cả những gì mình có là một từ bỏ lớn lao. Dứt lìa những gì mình gắn
bó còn đau đớn hơn nữa. Bỏ một nơi yên thân chắc chắn để dấn thân vào một tương
lai bấp bênh thì thật là phiêu lưu đến tận cùng. Nhưng không có cách nào khác.
Phải bán tất cả mới đủ sức mua viên ngọc Nước Trời. Phải đầu tư trọn vẹn con
người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được
Nước Trời. Luyến tiếc một chút là bất thành. Chần chừ một chút là hỏng việc.
Nấn ná một chút là bị lỡ cơ hội.
Họ từ bỏ một cách nhẹ nhàng
thanh thoát. Nên từ bỏ rồi họ cảm thấy vui tươi. Họ từ bỏ một cách mau mắn vì
họ đã dứt khoát với những gì xưa cũ. Lòng trí của họ chỉ gắn bó tha thiết với
kho tàng mới tìm thấy.
Đó là những thái độ khôn
ngoan đáng cho ta noi theo trên con đường đi tìm Nước Trời. Biết thao thức đi
tìm. Biết phân định giá trị. Biết mau mắn từ bỏ. Biết hăng hái dấn thân đến
cùng.
Lạy Chúa, xin ban cho
con ơn khôn ngoan để con biết chọn Chúa là nguồn mạch hạnh phúc.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có thực sự coi
Nước Trời là kho tàng quý giá nhất không?
2) Bạn đã thực sự bán
hết mọi sự để mua Nước Trời chưa? Còn những gì bạn còn luyến tiếc chưa muốn
bán?
3) Bạn nghĩ thế nào về
sự khôn ngoan. Bạn muốn trở thành người khôn ngoan thực sự không?
18. Kho báu Nước Trời
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Aman là một làng chài
lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên ngoài chứng tỏ dân làng Aman giàu có.
Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không ngăn cản họ
sống hạnh phúc thật sự.
Phải, tất cả mọi người
trong làng đánh cá này đều sống trong an vui.
Nhưng rồi một ngày kia,
hai anh em đánh cá trong làng là Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một thùng rất nặng.
Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở nhanh thùng ra và rất đổi ngạc nhiên, khi
thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quý. Hai anh em không biết làm gì với kho
tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết A-ki-an sống gần bên.
Sô-pốt hỏi:
- "Thưa ngài, chúng
tôi phải làm gì với những hạt ngọc này?". Số lượng đủ để phân phát cho dân
trong làng chúng tôi, mỗi người một hạt và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở
thành giàu có.
Nghe thế nhà hiền triết
liền trả lời cách khô khan:
- Hãy đem đổ lại xuống
biển!
Anh chị em thân mến,
"Thưa ngài chúng
tôi phải làm gì với những hạt ngọc quý này?". Câu hỏi của hai anh em
Sô-pốt và Sô-pa làm cho chúng ta nghĩ ngay đến câu hỏi của chàng thanh niên
giàu có trong Tin Mừng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời
đời?". Giống như câu trả lời của nhà hiền triết trong câu chuyện, Chúa
Giêsu không đề nghị với chàng thanh niên hãy lo tích chứa của cải thêm để được
hạnh phúc, nhưng Ngài bảo phải về bán đi tất cả những gì anh có rồi đến theo
Ngài. Ngài là tất cả. Có Ngài là có được tất cả. Ngài là hạnh phúc.
Chàng thanh niên giàu có
không dám bán những gì anh sở hữu mà cho người nghèo, rồi theo Đức Giêsu. Anh
chưa hiểu được rằng tình bạn với Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, chính Ngài
là sự sống đời đời mà anh đang mong mỏi kiếm tìm (Mt 19,16-22). Bởi vậy, anh
không dám bỏ sự an toàn hiện tại của mình để đi theo một Đấng không có chỗ ngả
đầu (Mt 8,20). Anh sợ mình "thả mồi bắt bóng".
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu
vừa kể cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy người nông dân nghèo tình cờ tìm
được kho báu trong ruộng cũng như người buôn ngọc bất ngờ tìm được một viên
ngọc quý, cả hai lật đật hối hả trở về nhà, trong đầu chỉ mang một ý nghĩ duy
nhất là phải mua ngay, nếu không sẽ lỡ cơ hội ngàn vàng. Và để mua ngay thì
phải bán ngay lập tức những gì mình đang có. Như thế, kho báu thật có giá trị
hơn gấp bội nhà cửa, tài sản của anh nông dân; viên ngọc quý làm át đi vẻ ngời
sáng của những viên ngọc người thương gia hiện có. Kho báu và viên ngọc có một
sức hấp dẫn kỳ diệu. Từ ngày gặp được, cả hai thấy mình phải hciêm1 lấy, dù
phải đánh đổi bắng tất cả tài sản của mình.
Cả hai người bán tất cả
những gì mình có, người buôn ngọc chắc chắn phải bán nhiều hơn anh nông dân
nghèo, nhưng cả hai đều phải bán tất cả. Bán "cái tất cả cũ"để mua
được kho báu và ngọc quý là "cái tất cả mới". Chỉ cần được "cái
tất cả mới"này là cả hai người được mãn nguyện, cuộc đời không còn như xưa
nữa. Chính vì thế, việc bán cái cũ không diễn ra trong nuối tiếc và dằn vặt,
nhưng trong niềm vui chan chứa. Tuy nhiên, người ngoài có thể không hiểu nổi
thái độ của hai người. Một thửa đất, một viên ngọc: có cần mất tất cả để mua
được không? Cuối cùng, chỉ ai thấy mới hiểu được.
Đức Hồng Y Martini
thường hay kể câu chuyện sau đây mà Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị
ẩn tu trong sa mạc và hỏi: "Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm,
xin cha giải thích cho con rõ, tại sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc
này, nhưng sau đó lắm người bỏ về, và có ít người bền đỗ?". Khi ấy, vị ẩn
tu trả lời: "Chuyện này giống như một con chó đuổi theo một con thỏ, vừa
đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe nó sủa và thấy nó chạy, liền chạy theo.
Chẳng bao lâu, những con sau này đều mệt lả và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu
tiên, lúc nào cũng tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ, còn những con
chó kia không thấy! Vị ẩn tu muốn nói rằng, chỉ có người nào thấy được Đấng
mình theo đuổi, người ấy mới dám theo Đấng ấy tới cùng, dù phải chịu nhiều hy
sinh từ bỏ". Vậy vấn đề chủ yếu ở đây là: chúng ta có thấy Nước Trời, là
kho báu hay có thấy Đức Kitô là viên ngọc quý không? Nếu chúng ta thực sự thấy
và xác tín như vậy, thì việc từ bỏ mọi sự chúng ta có, sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng, thưa anh chị em,
làm sao chúng ta có thể thấy Nước Trời là kho báu khi chúng ta vẫn bị giam hãm
trong cái thế giới khả giác này, khi thế gian hằng dạy cho chúng ta biết kho
báu duy nhất là tiền của, quyền lực và khoái lạc? Làm sao chúng ta có thể thoát
ra khỏi lối đánh giá của người đời và cảm nếm được tính ưu việt của Nước Trời?
Có một người đã sẵn sàng
bán tất cả của cải, vật chất cũng như tinh thần, để được Đức Kitô: Thánh
Phaolô. Ngài đã nói: "Tôi coi tất cả thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời,
là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi, vì Ngài, tôi đánh mất hết, và tôi
coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Ngài" (Pl
3,8-9). Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự vì đã cảm nghiệm được kho báu lớn lao và
quý giá mà ngài lãnh nhận.
Thì ra Nước Trời mới
thật là kho báu, là viên ngọc mà con người đáng bỏ công đi tìm kiếm và sẵn sàng
từ bỏ tất cả để chiếm cho bằng được. Đây mới là sự khôn ngoan đích thực đem lại
hạnh phúc vĩnh cửu (x. 1V 3,4-14) "Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống
đời đời thì được ích gì?". Vấn đề đã rõ ràng. Công việc quyết định lựa
chọn dứt khoát chỉ còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Hãy chọn cho đúng thứ thiệt.
Hãy chọn cho kịp thời, kẻo trễ mà "mất cả chì lẫn chài"khi mẻ lưới đã
được kéo lên bờ và số phận của những con cá đã được quyết định, không thể thay
đổi được nữa, như trong dụ ngôn kết thúc Tin Mừng hôm nay.
19. Viên ngọc
Đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay đưa ra ba hình ảnh: Đó là kho tàng, viên ngọc và mẻ lưới. Cả ba đều có
chung một lý tưởng: Nước trời là một cái gì quý giá, và muốn chiếm hữu, chúng
ta phải sẵn sàng hy sinh tất cả.
Trong cuộc sống, chúng
ta thấy có những thành công sáng chói, nhưng rất có thể đó chỉ là một lớp sơn
hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi đứng trước ngưỡng cửa vĩnh cửu, tâm hồn họ đã
bị mục rữa từ lâu.
Trái lại, có những người
âm thầm chịu đựng và làm việc. Cuộc sống của họ thì tăm tối, còn bản thân họ
thì nhiều khi bị ghét bỏ và khinh chê, nhưng thực sự họ là những người được
Chúa yêu thương và chúc phúc.
Tới đây tôi xin kể lại
một mẫu gương của ông hoàng Vladimir Ghyka. Ong là một người thuộc hoàng tộc,
được ăn học đến nơi đến chốn và được thừa hưởng nhiều của cải vật chất. Ông có
thể sống một cuộc sống nhàn hạ và sung sướng, cũng như có một địa vị cao sang
ngoài xã hội.
Thế nhưng, ông đã từ
chối những quyến rũ trần gian, những vui thú mà cuộc sống vương giả đem lại.
Ông đã chọn cho mình viên ngọc quý của Phúc Âm. Ông sẵn sàng từ bỏ tất cả để
chiếm lấy viên ngọc quý ấy.
Từ bỏ tất cả, ông đã
sống một cuộc sống nghèo túng giữa những kẻ nghèo túng. Đời ông kể từ nay thuộc
hẳn về Thiên Chúa và những người bất hạnh. Ông đã qua đời vào năm 80 tuổi trong
ngục thất, nơi mà kẻ thù đã giam giữ ông.
Dưới cặp mắt của người
đời, thì ông đã thất bại hoàn toàn, cũng như Chúa Giêsu đã thất bại hoàn toàn
khi bị treo trên thập giá. Thế nhưng, chính cái kết thúc bi thương ấy lại mở ra
con đường vinh quang mà chúng ta không thể nào mường tượng nổi.
Như người lái buôn khi
đã khám phá ra viên ngọc quý, đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được
viên ngọc ấy. Đây là một sự lựa chọn đáng ca ngợi và khích lệ.
Với chúng ta cũng thế,
nếu chúng ta hiểu được hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải hành động như
vậy. Thế nhưng có biết bao nhiêu người khao khát hạnh phúc, đã lầm lẫn một cách
tệ hại khi chọn lựa cho mình những sự chóng qua, để rồi ngay từ đời này họ đã
cảm nghiệm được sự bẽ bàng và cay đắng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã
khuyên nhủ chúng ta:
- Các con hãy thu tích
cho mình những kho tàng trên trời, nơi mà mối mọt không phá hủy và kẻ trộm
không đục tường khoét vách mà lấy đi. Bởi vì kho tàng các con ở đâu thì lòng
các con cũng ở đó.
Trên con đường dẫn tới
nước trời, chúng ta rất dễ dàng bị lạc lối, bởi vì chúng ta tìm hạnh phúc nơi
không có bóng dáng của nó. Trái tim chúng ta thật lớn lao, nhưng chúng ta lại
chất đầy nó bằng những ảo ảnh phù du. Chúng ta như những con thiêu thân lao
mình vào lửa để rồi, để rồi lửa của đam mê và dục vọng sai trái đã đốt cháy bản
thân và cuộc đời chúng ta.
Bởi đó, mỗi người chúng
ta hãy tự kiểm điểm xem: chúng ta có dám hy sinh để chiếm lấy nước trời và
chúng ta có dám từ bỏ để bước theo Chúa hay không?
20. Kho báu và ngọc quý
– R. Veritas
(Trích trong 'Sống Tin
Mừng')
Một em học sinh thuộc
câu lạc bộ bơi lội Saint Clara, Hoa Kỳ, mỗi ngày thức dậy lúc 5 giờ 30 sáng,
rồi em ra hồ bơi luyện tập suốt hai tiếng đồng hồ, sau đó vội vàng lo đi học.
Sau suốt ngày học ở trường, chiều về em lại ra hồ bơi luyện tập thêm hai tiếng
đồng hồ nữa rồi mới về nhà làm bài và ngủ đúng chín giờ tối. Ngày nào cũng vậy,
em luôn luôn trung thành với chương trình luyện tập, và chỉ nhận sinh hoạt khi
nào sinh hoạt đó không cản trở chương trình học và luyện tập bơi lội của em.
Có người tò mò hỏi, tại
sao em dám làm như vậy?
Em trả lời cách xác
quyết, vì em muốn đoạt giải vô địch trong kỳ thi thế vận hội sắp tới.
Trên đời có nhiều người
dám hy sinh tất cả cho mục đích, hay lý tưởng mà họ đã chọn. Phần chúng ta thì
sao? Nước Trời, ơn cứu rỗi đã được Chúa ban cho chúng ta, chúng ta những người
Kitô hữu hôm nay có hiểu, đánh giá và chấp nhận như là mục đích cuối cùng của
chúng ta hay chưa? Chúng ta có chấp nhận hy sinh những điều khác để chiếm đoạt
được Nước Thiên Chúa hay không?
Người Kitô hữu theo Chúa
có một thái độ dấn thân, quyết chọn Chúa và những gì thuộc về Ngài như là mục
tiêu duy nhất của lòng trí, của mọi hành động và lời nói của mình, sao cho hành
động và lời nói của mình được hòa hợp với những gì mà Chúa dạy. Nhiều khi con
cái thế gian dấn thân hy sinh cho những lợi lộc vật chất, cho những mục đích
trần thế như đoạt giải thể thao trong thế vận hội, đạt được một địa vị xã hội
nào đó, v.v... nhiều hơn là chúng ta thực hiện giới răn của Chúa.
Thánh Phaolô tông đồ nơi
thư thứ nhất Corintô đã nói như sau: "Mọi lực sĩ sống trong thời gian
luyện tập, chấp nhận theo một kỷ luật nghiêm khắc đến độ để đạt tới phần thưởng
có thể bị hư nát. Nhưng chúng ta thì khác, chúng ta luyện tập những điều không
hư nát" (1Cr 9,25).
Vào giây phút cuối cùng
cuộc đời, khi chúng ta đối diện với cái chết của chính mình thì chỉ cần một
điều cần thiết mà thôi, đó không phải là chúng ta có lãnh được nhiều giải
thưởng này nọ hay không, có đạt được hạt ngọc này, hạt ngọc khác hay không,
nhưng điều quan trọng là chúng ta đã trở nên như thế nào để đạt được viên ngọc
quí hay kho tàng là chính Nước Chúa, là chính ân sủng Chúa ban cho chúng ta.
Chúng ta cần xác tín điều này, và khi đã xác tín thì sẽ được biểu lộ trong đời
sống rằng, trên đời này không có gì cao quí đối với chúng ta hơn là Nước Chúa
và chúng ta càng phải cố gắng làm sao để đạt được Nước này.
Nói thì dễ, nhưng làm
thì khó. Thánh Phaolô đã ý thức điều đó trong chính kinh nghiệm sống của ngài
khi ngài tâm sự với các tín hữu Corintô như sau: "Kho tàng ấy, kho tàng
Thiên Chúa ban cho mỗi người chúng ta, chúng ta lại chứa trong những bình sành
dễ vỡ, để chứng tỏ quyền năng phát xuất từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng
ta. Chúng ta bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp, hoang mang nhưng không bị
tuyệt vọng, bị bạc đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu
diệt. Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để
Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng
tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu
lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta".
Thiên Chúa ban cho chúng
ta kho tàng ân sủng của Ngài, và để chiếm đoạt được kho tàng ấy, chúng ta cần
phải chiến đấu chống lại những cám dỗ, chống lại những tội lỗi, chống lại với
tinh thần trần tục hóa của thế gian để được trung thành với ơn Chúa. Đây là
điều mà thánh Phaolô gọi là: "Chúng ta luôn luôn mang nơi thân mình cuộc
thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng
giòn của chúng ta. Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì
Chúa Giêsu, để cái của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của
chúng ta".
Để sống trung thành với
kho tàng đức tin, với kho tàng ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta trong thế giới
có nhiều cám dỗ này, chúng ta cần phải cố gắng hy sinh, cần phải cầu xin ơn
Chúa ban cho mỗi người chúng ta, giúp chúng ta luôn trung thành với kho tàng
đức tin, kho tàng ân sủng mà làm cho kho tàng đức tin đó, kho tàng ân sủng đó
phát triển đến mức độ hoàn hảo nơi mỗi người chúng ta. Amen.
21. Kho tàng
Dụ ngôn kho tàng chôn
dấu trong thửa ruộng là một câu chuyện không có gì xa lạ với dân chúng Do Thái,
bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ tích tương tự như
thế.
Ngày hôm ấy Abba Giuđa
đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của anh ta bị ngã quị
và gẫy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh ta dừng lại vuốt
những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò lên.
Đột nhiên, Đức Giavê mở
mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng quí giá ngay trong cái hố
nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ:
- Chính vì chú bò này mà
mình được lợi đây.
Kho tàng ấy là của một
ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc giã hay chiến tranh.
Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc, bán tất cả những đồ
đạc, để gom cho đủ số tiền, hầu tậu lại thửa ruộng, bởi vì anh ta chỉ là một
nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ nhiên, anh ta mua
được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở thành triệu phú,
bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày anh ta làm chủ mảnh đất, thì anh ta
cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có lẽ Chúa Giêsu đã lấy
chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời. Việc chôn dấu vàng bạc cũng
là một việc thông thường ở xã hội Việt Nam nơi những người giàu có, nhất là
trong thời buổi loạn lạc.
Rất có thể một tai nạn
bất ngờ xảy ra, người chủ của kho tàng đã phải ra đi, hay đã chết một cách đột
ngột mà không có người thừa kế. Kho tàng trở thành vô chủ, bị vùi dưới ba tấc
đất mà chẳng một ai hay biết.
Mặc dù câu chuyện không
đưa ra một kết luận hiển nhiên, nhưng ai cũng biết rằng kể từ nay anh nông dân
may mắn ấy đã có được một cuộc sống an nhàn.
Tuy nhiên đều quan trọng
đối với chúng ta chính là thái độ của anh ta: tìm được kho tàng, anh ta rất vui
mừng, tuy nhiên anh ta cũng không quên cẩn thận: bới đất và vùi lại cho kỹ hơn,
rồi vội chạy về nhà, tìm đủ mọi cách như bán tất cả đồ đạc, thậm chí kể cả việc
vay mượn bà con lối xóm, để có đủ số tiền tậu thửa ruộng ấy.
Hành động của anh ta
thật khôn ngoan, nhanh nhẹn và hợp lý. Anh đã dám liều, dám hy sinh tất cả chỉ
vì kho tàng quí giá ấy.
Hình ảnh anh nông dân
cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Kho tàng của chúng ta là Nước Trời, là
Tin Mừng, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, là chính Đức Kitô. Tuy nhiên thái độ
của chúng ta là như thế nào?
Rất có thể chúng ta đã
háo hấc về Chúa, nhưng khi Ngài đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, thì
chúng ta lại cúi mặt xuống, rồi buồn bã bỏ đi, không đáp trả lời mời gọi của
Ngài, như chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm.
Tìm gặp Chúa không phải
chỉ là biết mặt rồi để đấy. Nghe lời Chúa không phải chỉ là ghi nhận rồi làm
ngơ và quên lãng. Điều quan trọng là phải đáp trả với tất cả con người, có
nghĩa là phải sống và thực thi những điều Ngài truyền dạy.
Tin Chúa không phải chỉ
là chấp nhận Ngài, mà còn phải gắn bó mật thiết với Ngài. Phải dám liều, dám
dấn thân, dám hy sinh bằng tất cả cuộc sống, vì gặp gỡ cũng có nghĩa là yêu
thương.
Đã tin Chúa, đã gặp
Chúa, thì cũng phải có can đảm đổi thay cuộc sống và xoay ngược dòng đời, bắt
đầu bằng thái độ từ bỏ: từ bỏ danh vọng, vui thú và tiền bạc. Lúc đó, vui thú
trở thành vô nghĩa, tiền bạc trở thành tro bụi và danh vọng trở thành mây khói
trước vẻ huy hòang của kho tàng vừa tìm thấy.
Đức Kitô chính là kho
tàng quí giá, mà mối mọt không thể đục khoét và trộm cướp không thể lấy đi. Hãy
dám đánh đổi tất cả để có được kho tàng quí giá ấy. Bởi vì, có Đức Kitô là có
tình yêu và hạnh phúc bất diệt. Như vậy, có Đức Kitô là có tất cả.
22. Kho tàng
Sau khi dùng những dụ
ngôn nói về Nước Trời, Chúa Giêsu hỏi dân chúng: "Các ngươi có hiểu những
điều đó không?" Ngài muốn chúng ta hiểu điều gì?
1. Chúa Giêsu nói về kho
tàng và viên ngọc mà người cày ruộng và buôn ngọc dám bán tất cả những gì họ có
để mua lấy nó. Bởi đó là giá trị tối hậu mang lại hạnh phúc và ý nghĩa cho cuộc
đời họ. Đó là điều làm cho họ hân hoan vui sướng, dám đánh đổi tất cả mọi sự
trên trần gian để có nó.
Có một tu sĩ nổi tiếng
là khôn ngoan đi đến một làng quê và ngồi nghỉ qua đêm dưới một gốc cây. Một
người dân làng đi qua thấy ngài bèn hỏi: "Hòn đá! Hòn đá! Xin ngài hãy cho
tôi hòn đá quý!" "Hòn đá gì?" tu sĩ hỏi. "Đêm hôm qua Thiên
Chúa đã hiện ra với tôi trong giấc mơ", ông dân làng nói, "Và bảo với
tôi rằng nếu tôi đi ra ngoài làng vào lúc ban tối, tôi sẽ gặp một vị khôn ngoan
cho tôi một hòn đá quý. Nó sẽ làm cho tôi giầu có vĩnh viễn". Vị tu sĩ lục
lọi trong túi sách, lấy ra một hòn đá. "Có lẽ ông muốn hòn đá này phải
không?" vừa hỏi ngài vừa đưa cho ông dân làng hòn đá, "Tôi đã thấy nó
trên lối đi vào rừng cách đây mấy ngày. Ông có thể cầm lấy nó đi". Người
đàn ông ngạc nhiên nhìn hòn đá. Đó là cục kim cương. Có lẽ là cục kim cương lớn
nhất trên thế giới, vì nó to bằng cái đầu người. Ông ôm lấy cục kim cương và
bước đi. Suốt đêm hôm ấy, ông lăn lộn trên giường, không cách nào ngủ được.
Ngày hôm sau, ngay lúc tảng sáng, ông đi ra đánh thức vị tu sĩ đang ngủ dưới
gốc cây thức dậy và nói, "Xin trả lại cho ngài cục kim cương này, tôi muốn
xin ngài cái điều đã làm cho ngài có thể cho đi cục kim cương này một cách dễ
dàng".
Điều gì là giá trị nhất
mang lại nguồn vui trong cuộc sống của chúng ta? Nếu bạn phải vứt bỏ tất cả mọi
sự trên đời, cái gì khó nhất cho bạn phải khước từ: gia đình, sức khỏe, nghề
nghiệp, hay của cải? Cái mà bạn không thể sống mà không có đó sẽ rất khác nhau
đối với từng người, và sự chọn lựa cái giá trị tối thượng của người này xem ra
lại rất phi lý đối với người khác!
2. Đức tin là món quà
được ban nhưng không của Thiên Chúa, nhưng cũng có thể là kết quả của sự kiếm
tìm thao thức lâu dài của con người. Có người may mắn giống như anh nông dân
cày ruộng, họ tìm thấy và đón nhận đức tin một cách dễ dàng ngay những biến cố
hằng ngày của cuộc sống. Có người lại giống như anh buôn ngọc, phải vất vả, lao
nhọc, và trăn trở cả đời trên cuộc hành trình trí thức và tinh thần mới gặp gỡ
được đức tin. Lại có người đã được mời gọi đến với đức tin rồi, nhưng những
thiệt thòi, khó khăn và thử thách do chính đức tin gây ra lại làm họ bị mất đức
tin!
Trong cuốn tiểu thuyết
The Pearl, John Steinbeck đã viết lại nội dung của dụ ngôn viên ngọc quý qua
câu chuyện kể về cuộc đời của Kino, một người Mễ Tây Cơ nghèo khổ làm nghề thợ
lặn kiếm tìm ngọc trai dưới biển để nuôi vợ con sống qua ngày. Rồi bỗng một
ngày anh tìm được viên ngọc sáng ngời tên là "Viên ngọc của thế
giới". Thoạt tiên, anh rất phấn khởi, nhưng sau đó anh bị bao vây bởi
những kẻ buôn bán ngọc trai bất lương, và những người hàng xóm ghen tức. Ngay
cả đến bác sĩ cũng đòi trao đổi việc chữa trị cho đứa con của anh bị bọ cạp cắn
để chiếm lấy viên ngọc. Sau hàng loạt những tai ương xảy ra, Kino đã ra biển và
ném viên ngọc quý giá trở về đáy biển. Có những điều đắt giá tới độ phải trả
bằng giá máu của cuộc sống.
3. Sau khi đã nhận ra
kho tàng, cả anh thợ cày ruộng lẫn người buôn ngọc đều đã biết cái gì là quan
trọng, họ phải chọn lựa và đi đến một quyết định. Là một Kitô hữu, môn đệ của
Chúa Giêsu, chúng ta tìm kiếm cái gì? Chúa Giêsu luôn kêu gọi chúng ta phải
biết chọn lựa giữa những cám dỗ mời mọc của trần thế: "Vì thế, anh em đừng
lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó dân
ngoại vẫn tìm kiếm... Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính
của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho.
Vào thế kỷ thứ 18, một
người Ý tên là Alessandra Mazoni, đã viết một cuốn sách nghiên cứu về những
điều kiện xã hội của dân chúng sống trong vùng Lombardy, phía bắc nước Ý ở thế
kỷ thứ 17 như sau:
"Bao lâu còn sống
trên trần gian, con người ta giống như một người bệnh nằm trên một cái giường,
dù ít hay nhiều gì cũng đều không cảm thấy thoải mái, đang khi nhìn sang những
cái giường khác có vẻ đẹp đẽ, và êm ái với những mơ tưởng rằng ắt hẳn hắn sẽ
thoải mái hơn nếu nằm nghỉ trên những cái giường đó. Rồi hắn đồng ý trao đổi
cái giường đang nằm; nhưng khi đặt lưng xuống giường khác hắn lại lo sợ, trước
khi bắt đầu nằm, hắn đè xuống thật sâu, cảm thấy chỗ này có một điểm nhọn đâm
vào mình hắn, chỗ kia có một cục u lớn quá cứng. Tóm lại, chúng ta tiến đến
cùng một câu chuyện kể đi kể lại. Và vì lý do này... chúng ta nên nhắm vào việc
hành động tốt hơn là sống ở đâu tốt...
Sách Giáo lý Công giáo cũng
đã khuyên dạy chúng ta rằng: Chúa Giêsu kêu gọi mọi người vào Nước Trời qua
những bài dụ ngôn của Ngài, nét đặc trưng của việc giảng dạy của Ngài. Qua các
dụ ngôn này, Ngài mời người ta tới dự tiệc của Nước Trời, nhưng Ngài cũng đòi
hỏi người ta một sự chọn lựa triệt để: để được Nước Trời, người ta phải cho tất
cả, và lời nói không đủ, còn cần phải có những hành vi".
23. Kho báu
Một hôm, có một người
kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu lên: "Xin ông
cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông". Nhà tu hành ngạc nhiên hỏi:
"Viên ngọc quý nào?". Ông ta nói: "Đêm qua tôi nằm mơ thấy có
ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ đi qua làng hôm
nay, tôi sẽ là người giầu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý
đó". Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: "Có phải cái này
không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi biếu
ông".
Người ấy sung sướng cầm
lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ thầm: "Từ nay
mình sẽ là người giầu có, không phải vất vả gì nữa". Thế nhưng tối hôm ấy
tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao ngủ được. Sáng
hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu hành ấy đang
ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và nói:
"Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên
ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm cho
tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót".
Viên ngọc quý thực sự
của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước từ mọi giầu
sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu nói trong
bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng là hai dụ ngôn "kho báu" và
"viên ngọc quý". Kho báu và viên ngọc quý ấy Chúa Giêsu đưa ra ở đây
để tiêu biểu cho cái gì? Thưa, đó là nước trời. Đúng vậy, cả hai dụ ngôn đều
muốn nói tới sự cao quý tột bực của nước trời, không của cải nào sánh bằng. Cao
quý đến nỗi khiến mọi thứ khác đều lu mờ đi, và mọi giá trị người ta từng theo
đuổi từ trước đều phải nhường chỗ.
Hai hình ảnh "kho
báu" và "viên ngọc quý" vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ
ai biết giá trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không
biết giá trị tiềm ẩn đó, chính vì vậy mà nhiều người bị lầm. Cũng như người kia
có kho báu ở ngay trong thửa ruộng của mình mà không biết, hay người có viên
ngọc quý kia cũng thế, họ nắm trong tay mà không hay, nên họ đã để vuột mất kho
báu và viên ngọc quý.
Câu chuyện này cũng
giống như câu chuyện "Ông già xứ Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn
lẻ một năm. Câu chuyện như sau: ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng
ao sâu, nhiều hoa quả và cá quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng
vườn để đi tìm kim cương. Ông lặn lội đi tìm hết nước này sang nước khác, nhưng
không tìm thấy kim cương đâu cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách
rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống sông tự tử. Trong khi đó, người mua lại
nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ ngay trong nông trại đó.
Chúng ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương
kia mà không hề hay biết gì.
Nhiều người chúng ta
cũng ở trong tình trạng đó chăng? Rất có thể chúng ta đang gần kề hạnh phúc
nước trời và những hồng ân của nước ấy mà chúng ta không biết chăng? Đây không
phải là hạnh phúc vật chất, ngắn hạn, được thực hiện ngay ở trần thế này, nhưng
là hạnh phúc tâm linh, vĩnh cửu, chỉ được thực hiện trọn vẹn trong cõi sống đời
đời. Đó chính là nước trời mà Chúa Giêsu muốn giảng dạy cho chúng ta biết. Nước
trời như kho báu, như viên ngọc quý mà chúng ta phải cố gắng tối đa để chiếm
hữu. Quả thực, mọi người Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi tìm kiếm nước trời.
Công việc tìm kiếm này không chỉ giới hạn trong một quãng thời gian hay trong
một số công việc nào, nhưng suốt cả cuộc đời và trong mọi sinh hoạt. Bởi vì
nước trời là cái giá trị nhất chúng ta phải tìm kiếm và chiếm hữu. Nước trời
quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc
sống, và nước trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể
mang lại cho chúng ta. Vì thế, chúng ta phải không ngừng tìm kiếm và sẵn sàng
đánh đổi tất cả những gì chúng ta có, kể cả mạng sống, để chiếm được kho báu
hay viên ngọc quý này.
Nói cụ thể hơn, nước
trời đây là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi
chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để
chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ và chưa xong.
Quả thực, khi bước vào trần thế này, chúng ta muốn mở rộng bàn tay để chiếm lấy
mọi sự, nhưng khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đành phải ra đi với hai bàn tay
trắng. Xuất thân từ bụi đất chúng ta sẽ trở về với bụi đất mà thôi, chỉ có sự
sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời. Chính điều đó mới đáng cho chúng ta lao
nhọc để tìm kiếm và sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm hữu.
Vì vậy, chúng ta đang
sống giữa những xoay chuyển của vật chất, chúng ta phải vất vả làm ăn, chúng ta
phải quan tâm đến những nhu cầu cần thiết của đời sống... đó là điều chính
đáng, nhưng chúng ta đừng quên: đời là tạm bợ, chúng ta cần và rất cần tìm ra
giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy nhớ: đời là
một dịp tiện, mỗi ngày sống là một dịp may, chúng ta có tự do và ý chí để quyết
định phần giá trị cho mình. Chiếm đoạt được nước trời, tức là đạt được đời sống
vĩnh cửu hay không là do chính mình. Chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan của
người tìm được kho báu và viên ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay.
24. Tìm kiếm kho tàng
hạnh phúc – Lm Trần Ngà.
(Trích trong 'Cùng Đọc
Tin Mừng')
Một học giả uyên thâm đã
già, sau khi nhìn lại quãng đời quá khứ, đã chia sẻ kinh nghiệm về hành trình
tìm kiếm kho tàng của ông như sau:
Giai đoạn thứ nhất: tìm
kiếm kho tàng tri thức
Hồi còn niên thiếu, tôi
nhận thấy tri thức là tối cần và trong tôi có một khao khát cháy bỏng là được
học nhiều, biết nhiều, tích luỹ thật nhiều kiến thức để trở thành nhà thông
thái. Thế là tôi đam mê việc đèn sách hơn mọi thứ trên đời. Tôi cho đó là
phương thế tốt nhất để trở nên thông thái và thành đạt. Tôi đã đem hết nghị lực
của tuổi thanh xuân và tiêu tốn gần hết gia tài cho việc học tập nghiên cứu.
Cuối cùng tôi cũng đạt được thành quả mong muốn: được nhìn nhận là bậc thức giả
của xã hội đương thời.
Thế nhưng khi đến tuổi
sáu mươi, tôi mới nhận ra một thực tế phũ phàng là bao nhiêu kiến thức mình thu
thập được suốt gần cả đời người, giờ đây gom góp lại không bằng mớ dữ liệu được
lưu trữ trong ổ đĩa máy vi tính.
Và điều làm cho tôi ngỡ
ngàng là đứa cháu nhỏ mới mười lăm tuổi của tôi chỉ cần ngồi vào máy tính có
nối mạng và chỉ mất mươi phút là có thể truy xuất được nhiều kiến thức chính
xác và phong phú về mọi lãnh vực, mà chính tôi, người đã dày công nghiên cứu
học tập hơn nửa đời người, cũng chưa nắm bắt được một cách chính xác và đầy đủ
như thế.
Điều nầy làm tôi liên
tưởng đến câu chuyện một đạo sĩ phải mất năm mươi năm khổ luyện mới đạt được
một thành tích thượng thặng là có khả năng đi trên mặt nước. Với khả năng nầy,
ông ta có thể rảo bước trên mặt nước như đi dạo trong vườn, có thể vượt qua con
sông rộng mà không cần đến thuyền bè. Thế nhưng sau đó, khi nhìn thấy một em bé
nhà quê chẳng học tập tu luyện gì ráo, chỉ cần bỏ ra mươi đồng để trả tiền đò
là có thể qua mặt ông để lướt qua sông, ông cảm thấy trong người hụt hẫng: giá như
ông tận dụng thời gian năm mươi năm khổ luyện ấy để đổi lấy điều gì đem lại lợi
ích thiết thực hơn. Đó cũng là tâm trạng lúc nầy của tôi.
Rồi thỉnh thoảng đọc
báo, xem truyền hình, tôi được biết có những nông dân thất học lại có thể xây
dựng được hàng chục chiếc cầu treo, chế tạo được hàng trăm máy hút bùn, máy cắt
lúa, xén cỏ... lại có cả những những người thuộc dân tộc thiểu số tạo ra được
máy lảy bắp, máy gieo hạt... Những nông dân mù chữ nầy đã cống hiến nhiều tiện
ích cho những người lao động chân tay, còn tôi với bao nhiêu kiến thức được
tích luỹ hơn nửa đời người, mà chưa có phát minh hay sáng chế nào đem lại ích
lợi cho làng xóm của tôi.
Thế là từ đó, tôi cảm
thấy nỗ lực chiếm hữu kho tàng tri thức của mình trong suốt nửa thế kỷ qua là
một đầu tư không đúng hướng. Và bấy giờ tôi nghĩ rằng giá như mình có thể phát
minh sáng tạo được chút gì tương tự như những nhà 'khoa học chân đất' nói trên
thì mới bỏ công miệt mài đèn sách suốt bao năm qua.
Giai đoạn thứ hai: tìm
kiếm kho tàng đem lại hạnh phúc
Sau đó, tôi lại nhận ra
rằng nhân loại hôm nay tuy có nhiều máy bay, nhiều xe hơi, nhiều tiện nghi hơn
những thế kỷ trước, nhưng số người bất hạnh lại nhiều hơn, số người tự tử cao
hơn, số người mắc bệnh tâm thần đông đảo hơn, số gia đình tan vỡ vượt trội, số
phạm pháp gia tăng...
Thế là cuối cùng khi
cuộc đời đã về chiều, tôi mới học được bài học thứ hai: dồn mọi nỗ lực vào việc
phát minh và sáng chế chưa hẳn là điều tốt cho nhân loại, vì con người hôm nay,
cho dù được sở hữu nhiều máy móc hiện đại, được hưởng nhiều tiện nghi tuyệt vời
nhưng đời sống có phần bất hạnh hơn, và do đó, lòng khao khát hạnh phúc của con
người hôm nay càng mãnh liệt hơn.
Quả vậy, không có gì quý
bằng hạnh phúc nên điều tốt nhất là cống hiến cho nhân loại phương thế đem lại
hạnh phúc. Đó là điều mà nhân loại hôm nay đang mong đợi một cách khẩn thiết.
Từ đó, tôi cất bước kiếm tìm một vị tôn sư có thể chỉ giáo cho tôi phương cách
đem lại hạnh phúc cho đời mình và cho nhân loại. May thay, cuối cùng tôi đã tìm
được điều tôi mong đợi nơi Chúa Giêsu và kho báu Tin Mừng.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết có một kho tàng, một viên ngọc vô cùng quý báu
mà mọi người nên đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được, đó chính là Chúa
Giêsu và Tin Mừng của Người. (Chúa Giêsu và Tin Mừng của Người chỉ là một).
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Ba Ngôi Thiên Chúa, đã được Chúa Giêsu
mang từ trời xuống ban tặng cho thế gian.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
là kho tàng quý báu vì có sức đem lại sự sống đời đời cho nhân loại như lời
tuyên xưng của thánh Phêrô: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy
mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68)
Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Người là ánh sáng cho thế gian: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo
tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự
sống." (Ga 8, 12)
Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Người là con đường dẫn đến sự thật, bình an và hạnh phúc. "Thầy là
Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy."
(Ga 14,6)
Chỉ trong Chúa Giêsu và
Tin Mừng của Người, con người mới có thể tìm thấy hạnh phúc đích thực. Đó là
khám phá của thánh Augustino: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài, và
hồn con khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Ngài."
* * *
Lạy Chúa Thánh Thần,
Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Người là kho báu cao quý và cần thiết nhất cho toàn nhân loại, nhưng tiếc
thay, phần đông nhân loại đã bị bức màn vật chất và dục vọng che chắn nên đã
không nhận ra giá trị của Kho Báu nầy.
Xin thương chiếu dọi ánh
sáng của Chúa vào tâm trí con người, để họ nhận ra giá trị cao quý của Tin Mừng
và quyết tâm chiếm hữu cho bằng được.
Và xin cho chúng con
luôn kiên trì tiếp tay với Chúa Giêsu trong sứ mạng giới thiệu kho báu nầy cho
thế giới. Amen.
25. Phải dấn thân để
chiếm đoạt Nước Trời
(Suy niệm của Đỗ Bá
Công)
Cha Mark Link, thuộc
Dòng Tên, nổi tiếng ngày nay vì những bài giảng thức thời và thiết thực, có
nói: "Nếu Đức Giêsu sống giữa chúng ta ngày nay, trong bài Tin Mừng hôm
nay, Ngài sẽ nói rất khác: thay vì chuyện người buôn ngọc đã hy sinh tất cả, để
đi mua một hạt ngọc quý, hay là chuyện một nông dân đã bán tất cả để mua thửa
đất trong đó có chôn giấu một kho tàng, thì Chúa sẽ nêu lên một lực sĩ chạy
marathon, kiêng khem tất cả, để đoạt chiếc huy chương vàng."
Vì sao Ngài nói thế? Có
gì liên hệ giữa người buôn ngọc, người đi tìm kho báu, với người chạy marathon?
Ba người ấy có gì giống nhau? Thưa chỉ vì một điều họ giống nhau: là họ cùng
dấn thân vào một giấc mơ. Cả ba đều muốn hy sinh tất cả cho một mục đích mà họ
đặt trước mắt họ.
Trong trường hợp người
buôn ngọc là làm sao thủ đắc một viên ngọc thượng hặng. Trong trường hợp người
đi tìm kho báu thì làm sao gặp được một kho tàng hiếm lạ. Trong trường hợp
người đi tìm chạy marathon là làm sao được huy chương vàng. Sự kiện ấy dẫn
chúng ta vào một điểm cốt yếu mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho chúng ta trong bài
Tin Mừng hôm nay. Điểm ấy là: công dân Nước Trời phải dấn thân toàn diện con
người. Chúng ta không thể theo đuổi mục đích ấy cách hờ hững. Nhưng chúng ta phải
dốc toàn lực trăm phần trăm. Chúng ta phải coi đó như là một ưu tiên trên hết
của đời sống chúng ta.
Làm người Kitô hữu giống
như là làm người đi buôn ngọc.
Làm người Kitô hữu như
là một người đi tìm kho báu.
Làm người Kitô hữu là
như một tay chạy marathon, phải cần có một cuộc dấn thân và tận hiến. Tuy nhiên
vẫn có một sự khác biệt lớn lao giữa người Kitô hữu và ba hạng người kia. Thánh
Phaolô nhắc lại điều ấy trong Thư thứ nhất gởi Tín hữu Corinthô: "Phàm là
tay đua, thì phải kiêng khem đủ điều: Vậy mà họ, là để đoạt một triều thiên hư
nát. Còn ta, ta trông một triều thiên bất hoại" (1 Cor 9,25).
Sự khác biệt là ở đó.
Cái giá vô song của người buôn ngọc, kho tàng hiếm lạ của người nông, chiếc huy
chương vàng cao quý của lực sĩ marathon đều phải hư nát. Khi người buôn chết,
viên ngọc quý kia không còn giá trị gì cho người ấy. Khi người nông chết, kho
tàng trở nên vô dụng chỉ như một cái hộp mà ông ta đã tìm hồi ấy. Khi người lực
sĩ marathon chết, huy chương vàng kia chỉ là một lưu niệm cho gia đình hay bạn
bè mà thôi. Nhưng khi người Kitô hữu chết, Nước của Thiên Chúa sẽ sáng lên rực
rỡ, và càng lâu càng rực rỡ hơn. Đến giờ chết, chỉ còn một điều đáng kể, đó
không phải điều mà chúng ta đã chiếm đoạt: một viên ngọc quý, một kho tàng lạ,
hay một huy chương vàng. Chỉ một điều có giá là chúng ta đã biến đổi ra sao qua
những điểm tiến của cố gắng chúng ta khi đi tìm ngọc, khi đoạt được khi báu,
khi thắng được huy chương vàng.
Bài Tin Mừng hôm nay đặt
lên một điểm đáng ghê sợ và cốt lõi. Không có gì trong thế gian có quyền uy
tiên hơn trên Nước Chúa và trên những phương sách chúng ta theo đuổi cho được
chiếm đoạt Nước ấy.
Bài Tin Mừng hôm nay nói
cho chúng ta hay, điều còn đáng kể khi chúng ta chết, không phải là điều chúng
ta đã dành được trong cuộc sống, mà là điều là biến đổi đời chúng ta.
Chúng ta đã học để
thương yêu nhau không?
Chúng ta đã học để tha
thứ cho nhau không?
Chúng ta đã học để giúp
đỡ người nghèo khó không?
Chúng ta đã học để động
viên những người nhút nhát không?
Chúng ta đã học để đi
với tha nhân thêm dặm thứ hai không?
Chúng ta đã học để đưa
má kia nữa cho người ta vả không?
Chúng ta đã học để đi
dấn thân không? Và biết chân thành với Chúa và với nhau không?
Tôi hy vọng chúng ta
đang chân thành với Chúa.
Tôi đang cầu xin với
Chúa cho chúng ta được chân thành. Vì nếu chúng ta không chân thành, chúng ta
đã phản bội với Chúa, với gia đình chúng ta, với bạn bè chúng ta. Và cuối cùng
chúng ta cũng đã phản bội với chính mình chúng ta nữa.
26. Giá trị vô song –
Lm. PX. Vũ Phan Long
Tất cả các dụ ngôn đều
ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh
dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ của Đức Giêsu
bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực xuất phát từ tình
trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến Nước Trời
và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của Thiên Chúa cũng
bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không được mọi người vui
mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng
một loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân
biệt rõ ràng? Trong dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt
giống tốt chỉ có thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu
hiệu của sứ điệp cốt yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc
cách sống của họ. Với các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi
đầu bé nhỏ không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả
lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình
trạng người tốt kẻ xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao
vời của Nước Trời, niềm vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và
sự dấn thân phải có khi đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được
làm sáng tỏ xuyên qua các dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ
các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn
thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ ngôn 1: Kho báu
chôn giấu (13,44),
b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý
(13,45-46),
c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới
(13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới
được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho
rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu
chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý
(13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới
(13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới
được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống như
một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là
"những gì xảy ra" khi một người khám phá ra một kho báu được so sánh
với "những gì xảy ra" (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra
Nước Trời.
- kho báu chôn giấu
trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn
nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và
Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó,
thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn
một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.
- thương gia (45):
Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời Đức Giêsu, ngọc
quý thường được nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47):
Sagênê, "chiếc lưới", có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng
khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi dây.
- thả xuống biển (47):
Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste passif để nói quanh thay tên
Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới đã được thả xuống biển
rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51):
Trong dụ ngôn Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho
động từ "hiểu". Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói
bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: "Thưa hiểu (Nai)".
Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã hỏi Đức Giêsu trước
đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám
chỉ bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta
đi từ tình trạng "đám đông" sang tình trạng "môn đệ".
- kinh sư (52): Cộng
đoàn Mt đã có những định chế ("Nhóm Mười Hai": 10,1; Phêrô:
16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các
"thầy dạy" được gọi là "kinh sư" vì cộng đoàn vẫn tôn trọng
cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33,
44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải, Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ
ngôn rất giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho
báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về
việc khám phá ra kho báu và ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể
đây là một người thợ đi
cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các đồng tiền
và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông
không bao giờ dám mơ tới khối của cải này. Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu
không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng
là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất
cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa
ruộng. Cách xử sự của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều
này không làm tác giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh
của đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những
người làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta
thấy rõ nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân
lý. Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn
đề được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị lớn
lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy sinh tất cả
những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều gì; "ông bán
tất cả những gì mình có" (cc. 44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là
điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước
Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền
năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong
tay. Mặc dù thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai họa,
Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành công
trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước
tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được
chôn giấu; tự nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi cuốn
hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng
mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối
với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta với Ngài có một giá trị vô song và
không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời
cũng gia tăng ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là
phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận dụng tất
cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc về
Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống
chúng ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên
tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và
chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề
nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui...
không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào
trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý
muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà chúng ta chỉ thuộc
về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc
thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với
công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới
và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song
song với dụ ngôn Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những
vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước, "cánh đồng" tượng trưng Nước
Trời; trong dụ ngôn sau là "chiếc lưới".
Tại hồ Ghennêxarét, có
hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi
loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được, có thứ không. Nhưng điều này không
có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân
chài ngồi lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế
"ngồi" của các dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế "ngồi"
Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31; 26,64). Các tính từ "tốt"
(kalos) và "xấu" (sapros, "vô ích") khiến ta nhớ tới hình
ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm hoặc
lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối
cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên
mặt đất này, dường như chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng
không quan trọng gì; giữa người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào.
Dường như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng trưng Nước Trời, là
một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta: Anh em đừng để mình bị
lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng
sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối,
anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người
giảng dạy đã là một tiên báo về phán xét: Người đang ở tại "hồ"
(13,1-2), có một đám đông "đã tụ họp lại" ("gom cá") trên
bờ, trong khi Đức Giêsu "ngồi" trên thuyền và nói bằng dụ ngôn. Lời
nói của Người đã gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân
biệt này báo trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này
sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc
lưới, tác giả TM I nêu lên một chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng:
"các thiên sứ sẽ ... quăng kẻ xấu vào lò lửa" (x. 13,31). Các Kitô
hữu đang đau khổ vì sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách
cho biết rằng cuộc phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái lập
thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này
là một câu trả lời cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ là
những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu.
"Hiểu" không chỉ có nghĩa là "nắm được ý nghĩa" mà còn là
"chấp nhận", "làm cho nên hiện thực trong đời sống mình".
Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành những người thực sự bước theo Đức
Giêsu, họ đã là "con cái Nước Trời" (c. 38). Do đó, họ cũng là những
kinh sư mới, những thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả
các chân lý cũ (palaia) lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình.
Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều
nói với chúng ta về Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến
cố trung tâm của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với
đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng
cho thấy rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương tiện để đạt tới
Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn xộn và rối loạn
thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và
hứa hẹn cho ta được hạnh phúc. Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người
cho thấy điều gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của
mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh thần trách nhiệm
và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể
nhìn về kết cuộc không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải chỉ
là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước
Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là
Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là
"tất cả" trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết
như thế là "hoán cải", thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm
ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn
lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên
giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).
2. Nước Trời là một điều
thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người đều
"tìm thấy" Nước Trời bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm
Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt
10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi
nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta sẽ không thấy các
trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới thấy
sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời không phải là kết quả đương
nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu
chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có
thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi
có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có cảm thấy vui
không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác
tín về điều này chăng? Do đang còn mang não trạng "thế gian", do đang
lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ muốn nắm được mọi sự
trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có thể
đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy một
con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.
4. Cuộc sống con người ở
trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó,
khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống
thật của người ta còn đang được che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức, nhưng đến
ngày đó, "mặt thật" của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là
"xấu" nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm
kiếm một mình Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét