GX. HÒA LẠC ĐANG XÂY DỰNG NHÀ THỜ GỖ LIM MỚI |
GX. HÒA LẠC ĐANG XÂY DỰNG NHÀ THỜ GỖ LIM MỚI |
GIÁO ĐIỂM PHỐ RÀNG, LÀO CAI
|
BẢO YÊN ĐÓN CHA MỚI
|
GX. PHỐ LU ĐÓN CHA MỚI
|
GX. BẢO YÊN ĐÓN CHA MỚI: LM. GIUSE NGUYÊN
|
LỄ HIỂN LINH – Năm A
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12
MỤC
LỤC
1. Ra đi
2. Ngôi sao dừng
lại
3. Thiên Chúa tỏ
mình
4. Ánh sao đạo
đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Con đường đức
tin
7. Tìm gặp Thiên
Chúa giữa lòng đời
8. Gặp Chúa – Lm
Jos Tạ Duy Tuyền
9. Suy niệm của
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
10. Cuộc hành
trình đức tin
11. Gọi tên ngày
lễ - ĐGM Vũ Duy Thống
12. Niềm tin:
một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống
13. Ánh sáng và
bóng tối – Thiên Phúc
14. Những con mắt
hiển linh
15. Tìm Đức Kitô
16. Ba vua
17. Hãy đứng
lên, hãy tỏa sáng ra – R. Veritas
18. Tìm gặp Chúa
19. Từ bỏ
20. Tỏ mình
21. Suy niệm của
JKN
22. Lễ Hiển Linh
23. Lễ Giáng
Sinh của muôn dân
24. Ánh sao lạ
25. Dân ngoại
đứng trước Đức Vua của người Do thái
26. Chú giải của
Noel Quesson
1. Ra đi
(Trích từ
'Manna')
Suy Niệm
Thiên Chúa không
chỉ tỏ mình cho dân Israel. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn
cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm
tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu
trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có thể
Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài chào
đời.
Thiên Chúa chấp
nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu
Độ.
Hôm nay, Ngài
vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn vàn cách thức khác nhau,
khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn
làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể
là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh
phúc?
Ánh sao đưa con
người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành
trình.
Các nhà chiêm
tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón tiếp
cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được
bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang, mà lại ở
vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân
Israel chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối
lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và
kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm
tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm,
tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông
những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực,
khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng..., đang gắng công tu tập trong các
tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi
chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh
tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm
tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao
người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay. Họ
đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển
Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài
Kitô giáo.
Có khi chúng ta
giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên
Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta
không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người
đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy
Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có
quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến
với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với
bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là
những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ
thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một
thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và
nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha
nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng,
xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh
phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
2. Ngôi sao dừng
lại
(Trích từ
'Manna')
Suy Niệm
Người Do Thái
đợi chờ Đấng Mêsia từ bao thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà
Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi
vị, chờ đợi Đấng Mêsia là chờ đợi một vì sao xuất hiện.
Hình ảnh vì sao
gợi lên trong lòng người Do Thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ cho dân tộc
mình và cho cả thế giới (x. Ds 24,7).
Nhưng không phải
chỉ người Do Thái mới biết đợi chờ. Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu,
cả dân ngoại cũng tin rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là
lý do khiến các nhà chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi đã lặn lội đến
Giêrusalem để bái yết tân vương, khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong
thực tế có nhiều phản ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ
hãi vì thấy ngai vàng bị lung lay. Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị
Vua mới để âm mưu loại trừ một đối thủ.
Các thượng tế và
kinh sư ở Giêrusalem lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh
và biết rõ nơi sinh của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà
chiêm tinh là đại diện cho dân ngoại, đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu
lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả miễn sao gặp được Đấng quân vương. Dù Đấng ấy chẳng
uy nghi ngự trong lầu vàng điện ngọc, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả
lòng thành.
Lễ Hiển Linh
nhắc chúng ta về việc truyền giáo.
Các nhà chiêm
tinh đã đến gặp Chúa nhờ ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp
được Chúa?
Mỗi môi trường
cần một thứ ánh sáng riêng. Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng. Chúng
ta phải tìm hiểu xem đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.
Ánh sáng của sự
chân thành, của phục vụ yêu thương;
Ánh sáng của
niềm vui an bình, của can trường bất khuất.
Một nụ cười, một
ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.
"Giữa một
thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl
2,15).
Chúng ta chỉ là
những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19)
ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô
hữu trở thành một ánh sao: ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi,
ánh sao đồng hành với nhân loại trên mọi nẻo đường, ánh sao ngừng lại trước nhà
của Con Thiên Chúa để Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân
ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem
lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều
kiện nào?
Ở môi trường bạn
đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã
cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng
lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì
Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự và
cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng
con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và
thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong
lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây
của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa
ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả
trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
3. Thiên Chúa tỏ
mình
Ngày hôm nay
Thiên Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những
người ở ngoài dân Chúa và bị người Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế
lễ Hiển Linh có thể được coi như là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên,
qua phụng vụ chúng ta thấy được tính cách bi đát của chương trình cứu độ như
thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không
tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia
đã đưa ra những lời tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế
xuất hiện. Ngày ấy, Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ
bốn phương trời sẽ tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào
ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo,
ánh sáng đã chiếu trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới
nhận ra ánh sáng ấy, còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối.
Giêrusalem đã có thể chỉ rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những
người ở ngoài mới tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao
xuất hiện trên bầu trời thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình
kỳ diệu lại khởi đầu từ đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên
trời, ngắm những vì sao nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế,
những biến cố, những sự kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội.
Chúng ta cũng có thể đọc được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một
trang báo, qua cùng một chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy
được trong một biến cố, trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các
nhà đạo sĩ đã không chỉ bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông
còn chuẩn bị lễ vật và hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách
phiêu lưu, tiến tới một nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho
thấy là cũng đã có lúc không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi
các ông phải tới với những người không quen biết. Và không phải là không có
những cạm bẫy. Hêrôđê có đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy
vẻ ân cần. Vượt không biết bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một
hài nhi yếu ớt, nhưng các ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng
hân hoan toại nguyện. Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích
thật. Các thượng tế và luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi
yên tại chỗ. Sự hiểu biết của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những
người ở trong, họ đã tự đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những
người vẫn bị xếp vào hạng ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở
thành những người ở trong. Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng,
về Đức Kitô, về Nước Trời, về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo
tiếng gọi của Chúa hay không?
4. Ánh sao đạo
đức - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua
trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người
phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ.
Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh.
Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu
sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là
một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu
mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn
lửa đức mến.
Ngày nay có
nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng
họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi
đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi
sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện
trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người
đến với Chúa.
Là ngôi sao có
nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh
sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng,
phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu
phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp
ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta
thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc
thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh
sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu
phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để
xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin
yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng
ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời
trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu
phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được
chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công
bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn
ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ
khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con
người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ
lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới
đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới
thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang
mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao
chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận
biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin
giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1. Bạn nghĩ gì
về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì
về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi
người đến với Chúa không?
3. Đâu là những
ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này,
bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
5. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
THÀNH TÂM THIỆN
CHÍ SẼ GẶP CHÚA.
Lễ Hiển Linh là
lễ Chúa tỏ mình ra. Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới
nhiều hình thức khác nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước,
đạo binh thiên thần ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện... Tuy nhiên không phải ai
cũng gặp được Chúa.
Có những người
không gặp Chúa, dù biết rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh
sư, biệt phái. Họ hiểu biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã
đọc vanh vách lời ngôn sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ
không gặp được Chúa, vì họ hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ
mà không chịu lên đường. Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới
cuộc sống con người. Chỉ tìm trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời
thường.
Đó là Hêrôđê.
Bạo vương này muốn tìm Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng
mạnh trong tay. Ông không gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì
quyền lợi của ông. Ông tìm Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông
tìm Chúa không phải để tôn vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa
không phải để làm theo ý Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã
vượt thoát khỏi tầm tay của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem
ra gần gũi nhất, hiểu biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa.
Trái lại, những người có vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở
lại gặp được Chúa. Đó là các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến
trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa
vì họ đã lên đường. Dù không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa,
không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức
khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên
đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên
đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và
đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng
quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh
sao lạ xuất hiện, họ đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình
qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp
Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho
ra.
Họ đã gặp Chúa
vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm
Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen
tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn
sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn
đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé
yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của
tôi cũng là một cuộc đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba
vua, có tâm hồn đơn sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám
dấn thân thực hành những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái,
phục vụ Chúa trong những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin
chỉ cho con đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Tại sao những
kinh sư, biệt phái và Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có những
người ngoại đạo thành tâm thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn
nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp
Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ
ngôi sao dẫn đến gặp Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác
đến với Chúa?
6. Con đường đức
tin
(Suy niệm của
Thanh Thanh - Tinvui.org)
I. Chú giải
- Địa lý: Belem,
nơi Chúa sinh ra là một thôn làng nhỏ cách Giêrusalem 6 dặm về phía nam. Itrael
thời ấy bị đế quốc Rôma đô hộ. Hêrôđê được Rôma bổ nhiệm cai trị xứ Paléttin 40
năm trước công nguyên. Ông nổi tiếng là người tàn bạo.
- Dân chúng:
thời đó họ tin rằng mỗi người có một ngôi sao chiếu mệnh. Ba nhà đạo sĩ đến từ
vùng Tiểu Á. Họ là những người thông thái. Sở trường của họ là nghiên cứu về
khoa chiêm tinh và được xem là cố vấn của nhà vua về đời và đạo. Họ theo ánh
sao đi tìm sự xuất hiện của một Đấng Cứu Thế.
- Lễ vật:
. Vàng: thời
xưa, vàng có tính cách quý báu và cao sang, chỉ dành cho vua chúa. Vàng có ý
nói hài đồng Giêsu là Vua.
. Nhũ hương:
trầm hương chỉ dùng trong việc tế lễ. Hơn thế nửa, trầm hương ở đây nói lên sự
ca ngợi và thờ lạy. Trầm hương có ý nói Chúa hài đồng là Thiên Chúa.
. Mộc dược: mộc
dược dùng để chữa lành người bệnh và tẩm liệm thi thể người chết thời đó. Mộc
dược nói lên nhân tính của hài nhi và cái chết sau này của Chúa Giêsu.
II. Con đường
đức tin
1. Hành trình
của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình cho mọi người tin:
- Đường đức tin
đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý, như ánh sao lạ chẳng hạn,
dấu lạ này mời gọi ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó
cao hơn, tốt đẹp hơn.
- Kế đến là
những bước thăng trầm trong cuộc hành trình, như ánh sao có lúc sáng tỏ trên
bầu trời, có lúc nó vụt biến mất. Nhưng nếu ta kiên trì tiến bước thì cuối cùng
ta sẽ gặp được Chúa.
2. Tiến bước
Có người ngồi
một chỗ như Hêrôđê. Nhưng cũng có người đi tìm kiếm như đạo sĩ, lên đường như
Abraham.
Chúa ở đâu? Ở
khắp mọi nơi: trong làng quê heo hút, trong xóm làng, trong gia đình nghèo khó,
trong những người ta gặp gỡ hằng ngày, nhất là những người đói khát, bệnh tật.
Thiên Chúa ở nơi những người biết mở lòng đón nhận Ngài. Muốn biết Ngài ra sao
thì: "Khi Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các người đã cho Ta
uống... Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ
nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40).
Các luật sĩ, các
thầy thượng tế hiểu kinh thánh lắm chứ, nhưng họ chỉ biết trưng dẫn, còn thực
hành thì không. Hay Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi, còn
các các đạo sĩ thì, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã
lên được tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người
3. Khó khăn và
thuận lợi
Nhà đại thiên
văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng sinh, có một hiện tượng bất bình
thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng:
Bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau. Năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ
ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một
luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
"Chúng tôi
đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2).
Người xưa cho
rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các
ngôi sao lớn. Các chiêm tinh thường nghiên cứu những chuyển động của các vì
tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ,
các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Thực sự, người
Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ nhiều thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì
sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh thánh: "Một vì sao xuất hiện từ
Giacóp, một vương trượng chỗi dậy từ Israel" (Ds 24, 17). Tiên tri Mikha
cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc
Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen
" (Mk 5,1).
Thiên Chúa đã
dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa,
thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Belem để gặp
Đấng Cứu Tinh. Thế nhưng, thật trớ trêu là: vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế
kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng
dưng thụ động, cho dù họ hiểu Kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế.
Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay.
Đại diện cho
lương dân, là đạo sĩ hăng hái lên đường tìm kiếm. Nên sau này, Đức Giêsu đã
phải thốt lên: "Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng
các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời
thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12).
Lễ Hiển linh hôm
nay giúp ta nhìn lại chính mình:
Nếu ta đang đi
trong bóng tối của gian dối, hận thù, thì hãy trở thành ánh sao của chân thành,
phục vụ và yêu thương. Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn
phiền, thất vọng thì ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Chúa gọi ta:
"Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5, 14), thì đó là một vinh dự vô
cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Ta đừng nguyền rủa bóng
tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng của tin yêu và hy vọng,
của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu Chúa.
Ta hãy tin vào
Lời Chúa. Tin là dựa vào Chúa để dấn thân và vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi
nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu
chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến
mất họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ
là hành trình Đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá. Để trắc nghiệm
đức tin, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời
lên hương, thuận buồm xuôi gió.
III. Truyện minh
hoạ, ông vua thứ tư
Có một truyền
thuyết cho rằng những người khách từ phương Đông tìm đến thờ lạy Chúa Hài Đồng
là 3 vị vua, tên là Gaspar, Balthasar và Melchior. Có một truyền thuyết khác
lại cho rằng ngoài 3 vị ấy, còn một vị vua thứ tư nữa, tên là Artaban. Sau đây
là truyền thuyết về ông vua thứ tư ấy.
Cũng như 3 vị
vua kia, Artaban thấy ngôi sao lạ. Sau khi chuẩn bị lễ vật gồm một viên bích
ngọc, một viên hồng ngọc và một viên ngọc trai, ông lên đường đến điểm hẹn cùng
3 vị kia. Tuy nhiên dọc đường ông gặp một người bị thương nặng nằm bên vệ
đường, ông dừng lại đưa người đó đến một quán trọ và nhờ người chăm sóc. Khi
đến điểm hẹn thì 3 vị kia đã đi mất rồi.
Đến Bêlem cũng
trễ, Thánh Giuse và Đức Maria đã đem Chúa Hài đồng lánh nạn sang Ai cập.
Artaban đành tìm một quán trọ để nghỉ đêm. Trong quán ông gặp một người đàn bà
bế một đứa trẻ mới 1 tuổi đang sợ hãi trốn tránh cuộc lùng bắt của đám lính
Hêrôđê. Dù vậy, cuối cùng đám lính cũng tìm tới. Artaban ra cửa gặp chúng và
đưa viên hồng ngọc để chúng khỏi vào trong quán. Ông rất buồn vì lễ vật định
dâng Chúa Hài Đồng chỉ còn có mỗi một viên ngọc trai. Viên bích ngọc cũng đã
đổi lấy lạc đà để đi qua sa mạc.
Ông tiếp tục lên
đường tìm Chúa Hài Đồng. Nhưng ông luôn bị trễ: nghe tin Đức Giêsu đang ở đâu
ông đều tìm đến, nhưng khi đến nơi thì Ngài đã đi nơi khác. Khoảng 30 năm sau,
ông đến Giêrusalem. Ông hốt hoảng khi nghe tin người ta sắp đem Đức Giêsu đi
đóng đinh trên đồi Golgotha. Ông vội vã tìm đến, hy vọng là với viên ngọc trai còn
lại, ông có thể cứu sống Ngài. Tuy nhiên trên đường đến Golgotha, ông gặp một
cô gái đang bị quân lính rượt bắt. Cha của cô thiếu nợ quá nhiều nên người ta
định bắt cô để bán làm nô lệ trừ nợ. Artaban đưa viên ngọc trai ra, và quân
lính để cô gái được tự do. Giờ đây Artaban chỉ còn đôi bàn tay trắng.
Chiều hôm ấy,
khi mặt trời bắt đầu lặn, một cơn động đất khiến các nhà cửa đều rung rinh. Một
viên ngói rơi trúng đầu ông. Thế là ông chết trước khi đến được ngọn đồi
Golgotha. Ông đã không gặp được Đức Vua mà bao nhiêu năm qua ông đã khổ cực tìm
kiếm.
Vâng, tuy không
gặp được Chúa theo cách thức mình muốn, nhưng xét về đường đức tin thì Artaban
đã thực sự gặp được Chúa, vì bao nhiêu năm nay Ngài đã ngự trị trong lòng ông.
Ngài đã làm cho lòng ông thành quảng đại, dạy ông làm những việc bác ái và luôn
duy trì niềm hy vọng trong suốt cuộc hành trình của ông.
7. Tìm gặp Thiên
Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của
Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính những Lời
Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng
ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng
của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ
lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra
nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi
ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh,
hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên
chúng tôi đến bái lạy Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2,
2)
Bấy giờ
"nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi
hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền
Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền
đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị
lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ,
Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi
quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh
sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba
nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba
nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại
một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không
có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm
Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó
là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi
cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời
Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin
là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ !
Ba nhà chiêm
tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung
điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh
tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại
một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng
thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện
diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa
cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của
chúng ta.
Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng
hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người
cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ
ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy
những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là
họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì
Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi
nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà...
Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác
đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận
biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ
dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang
lên giữa thinh không: "Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết
sức kinh hoàng: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp:
"Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó,
Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa
Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?"
(I Cr 6, 15).
Chính những Lời
Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng
cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta,
để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng
ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một
bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc
cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà
Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng
cho Người.
8. Gặp Chúa – Lm
Jos Tạ Duy Tuyền
Một cậu bé lần
nọ quyết định sẽ đi gặp bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và
vất vả lắm nên xếp vào túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba
dãy phố, cậu bé gặp một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở
những chú chim bồ câu. Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình
như bà lão đang đói, cậu bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão
cười với cậu. Nụ cười dịu dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần
nữa. Cậu lại mời bà thức uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của
bà làm cậu cảm nhận được sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói
một lời.
Mãi đến khi trời
sụp tối cậu bé mới rời chỗ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm
lấy bà từ biệt. Món quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở
nhất của mình.
Khi cậu bé mở
cửa vào nhà, người mẹ vô cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh
mắt cậu: - Điều gì hôm nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa
với Chúa. Mẹ biết không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà
lão cũng bừng tỉnh với niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh
thản trên gương mặt mẹ và hỏi:
- Điều gì hôm
nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh
cùng với Chúa bên cạnh những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung
hơn chúng ta ngỡ rất nhiều.
Khi làm người,
Con Thiên Chúa đã sinh ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang
bò lừa làm nơi để sinh. Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài
đã hoà mình như bao người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một
cuộc đời nghèo khó đến độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với
những mảnh đời bất hạnh lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho
những ai đón nhận Ngài qua những người đói, rách, tù đầy . . .
Cậu bé trong câu
chuyện đã tìm gặp Chúa nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp
được Chúa qua tình yêu của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết
họ nên một trong tình yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình
đang tiếp xúc. Ước mơ của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực
khi cậu trao ban miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình
yêu của cậu làm cho bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của
cậu.
Năm xưa, ba nhà
đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng
hoang mông quạnh. Họ đã gặp vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh
của đám bò lừa. Họ đã bái quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình
nghèo khó. Họ đã dâng cho hài nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và
mộc dược, tượng trưng cho quyền bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa
vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn
hiện diện cách đặc biệt qua những người nghèo khó, những người già neo đơn,
những người đau yếu đang sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi
chúng ta dâng cho Chúa tình yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại.
Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh
chúng ta. Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất
chính là tấm lòng biết yêu thương.
Ước gì mỗi người
chúng ta biết dâng tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và
hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
9. Suy niệm của
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lễ Chúa Hiển
Linh là cao điểm của mùa Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa
của biến cố Ngôi Hai làm người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của
Chúa Giêsu trong thế giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa
nói với loài người. Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra,
muốn "lộ diện" với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình
và kế hoạch ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang
của Thiên Chúa chiếu tỏa trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của
ngôn sứ I-sai-a, Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en
nữa, nhưng nó đã trở nên "đô thành của Thiên Chúa" và trung tâm cứu
độ của toàn thể thế giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị
của bóng tối và mây mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế
giới, vì cũng ở trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi
Giêrusalem được mặt trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay
đổi. Giêrusalem đã được chọn làm nơi "vinh quang của Đức Chúa như bình
minh chiếu tỏa". Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để
toàn thế giới nhận được ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến
tầm quan trọng của nó vì nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân
loại đến một vương quốc mới.
Ngôn sứ I-sai-a
sử dụng hình ảnh giàu có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực
tại thiêng liêng là vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái,
một quốc gia hùng mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng
bạc từ các nước thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy
trên lưng đàn lạc đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn
ân sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại
Giêrusalem mới. Muôn dân nước "đều tập hợp, kéo đến" để nhìn nhận
"vinh quang của Thiên Chúa".
Nhưng vinh quang
của Thiên Chúa phải chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên
hơn thế nữa, quyền năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của
Thiên Chúa khi Người ban cho ta Con Một. "Tình yêu của Thiên Chúa đối với
chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để
nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống" (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả
một kế hoạch để chiếu tỏa vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế
hoạch ân sủng được thực hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh
Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức
Kitô được mặc khải cho cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep
3,2-3a.5-6)
Thần học gia
Phaolô cho ta một cái nhìn thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế
hoạch cứu độ, những từ này nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là
đối tượng của công việc ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động.
Nhưng đối với thánh Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên
Chúa, mà còn phải có sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta
là kẻ được lãnh nhận cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như
con cái Thiên Chúa hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô
gọi kế hoạch đó là "kế hoạch ân sủng", vì Đấng ban ân sủng cũng như
những kẻ lãnh nhận ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho
quan hệ đôi bên được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao
Thiên Chúa lại chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người.
Quả thực là một mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được
gọi là "kế hoạch cứu độ" (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên
Chúa tỏ ra và thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là "Mầu nhiệm
Đức Kitô".
Thánh Phaolô cho
ta một định nghĩa đầy đủ về mầu nhiệm này. "Mầu nhiệm đó là: trong Đức
Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa
hứa" (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa
muốn tỏ cho ta biết những gì qua "Mầu nhiệm Đức Kitô"? Có ba điểm cốt
yếu trong chân lý mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ
ai, Do-thái cũng như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của
Người, tức là lời hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ
cập của ơn cứu độ. Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp
nào trong xã hội mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa,
vì đây là kế hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản
thể nhân loại với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho
ta trong Đức Kitô.
Điểm thứ hai mầu
nhiệm Đức Kitô cho ta thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân
sủng là Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên
trời hay một địa điểm đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con
người có thể tìm kiếm được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy "trong Đức
Kitô Giêsu", Đấng được Chúa Cha sai đến "làm người để chuộc tội cho
thiên hạ" (Rm 8,3). Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên
khi Đức Kitô thực hiện kế hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể
Thiên Chúa của Người, thì tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục
sinh của Người đều có giá trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người.
Người chịu cuộc Thương Khó, chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và
đặt làm anh cả của một đoàn em đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói
lên phương thức giúp mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là
"nhờ Tin Mừng". Tin Mừng cứu độ này "những người thuộc các thế
hệ trước", tức là các vị ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết
tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới là những người được biết và được Thiên Chúa
trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh
Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin Mừng như sau: "Thế nhưng làm sao người
ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao
mà nghe nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai
đi?... Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ
I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có
đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô" (Rm
10,14-17).
3. "Từ
phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người" (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
"Nhưng
không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng", thánh Phaolô đã phải cay
đắng nói lên sự thật phũ phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi
ngài khẳng định ngay trong lời tựa sách Tin Mừng: "Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm
tinh phương Đông đến bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và
dân thành Giêrusalem xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là
một sự thật. Chúa Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được
mời gọi đón nhận Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin
nhận Người là Đấng Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ
rồi.
Rõ ràng có hai
lớp người khác nhau theo câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại
diện cho những người tin vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay
mặt cho những kẻ chối bỏ Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã
thay đổi cuộc đời mình. Hình ảnh các ông "đi lối khác mà về xứ mình"
thật có ý nghĩa. "Lối khác" đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong
Tin Mừng của Người. Còn "xứ mình" không phải là phương Đông nữa, mà
là quê hương đích thực của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là
một kết luận của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời
dứt khoát: tin Đức Kitô và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư
mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu
thương ta và muốn tỏ cho ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố
Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để
ta được làm con cái Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ
đã được ban cho mọi người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người
Do-thái, nhưng cũng không bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một
gia nghiệp của Thiên Chúa. Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái
đón nhận Đức Kitô như các nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các
nhà chiêm tinh "đã đi lối khác mà về xứ mình". Các vị ấy đã từ bỏ lối
sống cũ để đi theo lối sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống
nào? Ngôi sao tức là Ánh Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi
theo Ánh sao ấy không hay vẫn "đường xưa lối cũ" từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, hôm nay Chúa đã khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận
biết Con Một Chúa. Phần chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa
đường, xin dủ lòng thương đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ
Chúa Hiển Linh).
10. Cuộc hành
trình đức tin
(Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
TỪ MỘT VÌ SAO
LẠ...
Có ba thái độ
khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành
Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra
một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm
"Đức Vua dân Do Thái".
"Vào thời
đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể
tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi
sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao
đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình
có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một
hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự
của Ngài để loan báo một sự việc nào đó." (William Barclay).
Lịch sử cho
thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ
mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: "Khắp phương
Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị
thế giới", (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã
viết: "Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên
hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn
cầu" (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: "Vào
khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên
mặt đất" (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)...
"Khi Chúa
Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ
Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể
tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với
một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những
phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng
đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới." (William Barclay).
"Đức Vua
dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện
bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với
trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào "Đức
Vua dân Do Thái mới sinh ra" là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài
Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu
Thế.
"Vàng là để
tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy
là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu.
Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau
hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người" (William Barclay).
Thái độ Ganh
Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.
"Con vua
thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa".
Vua nào cũng
muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có
một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối
với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy
tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết
ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết
chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ
là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác
là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay
đắng nói rằng: "Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông
ta".
Một con người
đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm
cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.
Thái độ Dửng
Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.
"Nhà vua
liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết
Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong
sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu
phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en
dân Ta sẽ ra đời." (Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và
kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì
nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì
với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối
với họ.
Họ đang no đầy
những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi.
Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng
Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
... ĐẾN VÌ SAO
THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi
quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và
giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày
kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh
đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì
là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại
bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có
một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo
ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết
anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc
giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu
danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói:
"Này là mình ta...", rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: "Này là
máu ta...". Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn ...Sau này, anh mất chức.
Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: "Là một người Công
Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin
anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức
nào đó không?".
Đã hơn hai ngàn
năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với
Ngài sau khi Ngài đi bước trước là "đã đến với nhân loại". Tình yêu
không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm
thiện chí để đến với Ngài.
Thành tâm thiện
chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa
(khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua
mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật)
và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê
hương).
Xem đó, chúng ta
thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà
Thiên Chúa đã dành cho con người.
Nếu không, tiền,
tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách
con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể
tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt
phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong
chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa
có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về
một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh
tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một
con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào
đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được
chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang
lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm
lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu
bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền
lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ.
Bà gặp cô gái và trao cho cô một "viên ngọc dẫn đường" để cô đi tìm
người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông
vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng
lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có
lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô
đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước
và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê
rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy,
muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên
qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo
chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn
đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe
tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép
mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô
gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc.
Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô
liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô
đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân.
Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến
lại gần cô. Những ngày tháng đi theo "viên ngọc dẫn đường", cùng với
những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết
can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn...
rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh
khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào
hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận
ra người yêu cô đang đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn
dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh
đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng
Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để
cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình
này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu
thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi
người nhận ra một vì sao lạ:
-"Vì sao
Thánh Giá"
tỏa sáng muôn
nơi,
khắp mọi phương
trời,
dẫn đưa con
người,
về miền đất hứa:
-"Thế giới
đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là
Cha." Amen.
11. Gọi tên ngày
lễ - ĐGM Vũ Duy Thống
(VỚI CẢ TÂM TÌNH
– Trg. 31)
Trong dịp tĩnh
tâm Mùa Vọng ở một giáo xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến
Thánh Lễ hôm nay: "Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba
Vua nữa? Phải chăng rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?".
Câu hỏi ấy trực
tiếp về mặt kiến thức, không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại
hé mở cho thấy đức tin hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu
chưa phải là tin hay chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới
đức tin cho người chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan
trọng không kém là củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng
nhạt nhòa.
Niềm tin là một
công trình còn phải dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở
ấy, xin đi vào Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi
"lễ Ba Vua"...
Đây là tên gọi
quen dùng đối với tín hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm
đến Hang đá viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ
phương Đông theo nhãn giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba
sắc dân được nói đến trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê
ba món rành rành là vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để
rồi cứ thế theo truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan
trọng không phải là lo xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị
hay có thể có nhiều hơn nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của
tất cả những ai trong đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên
Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh,
tới lúc Chúa muốn và bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài,
họ sẽ được dẫn tới gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi
"lễ Ba Vua", chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới
tên gọi ấy, trong bối cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối
chứng đau lòng. Trong khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà
hy vọng, chẳng hề có được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn
đường bởi lề luật, nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những
chặng đường gian khổ để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có
tất cả thuận lợi của một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không
mảy may kiếm tìm, và tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không
phải vì hối hận về việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt
dấu chấm hết cho cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế
ấy đã sản sinh ra những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua
tìm Chúa với lễ vật lòng thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê
tìm Chúa với ác tâm tận diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) ... Đến tên
gọi "lễ Hiển Linh"...
Mặc dù tên gọi
"lễ Ba Vua" vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ
thích sử dụng tên gọi "lễ Hiển Linh" hơn, chẳng phải vì tên gọi đó
nghe kêu hơn hoặc hiểm hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không
cần thiết về những chi tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật
ra là để làm nổi bật lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa
Giáng Sinh. Đó là: Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất
luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu "Ba
Vua" là tên gọi nói lên thiện chí của con người, thì "Hiển Linh"
là danh xưng khẳng định hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn,
vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những
mùa gặp gỡ. Và tới phiên mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là
một khởi điểm mới cho hành trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm
vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như
thế là một cuộc đổi đời. Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân
luôn đợi chờ một thiện chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình
được thể hiện qua những lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường
khác mà về nhà. Và ở đó sẽ là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường
ngày.
Gặp ai thì cũng
có thể gỡ ra được, nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn
từ bao giờ đã sẵn tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành
người nhà của Thiên Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng
hóa gần, dẫu lạ cũng nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa "cũng cùng được
thừa hưởng gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng
chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi
khác của mầu nhiệm Nhập Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) ... Để dẫn
tới sứ điệp đời sống.
"Lễ Ba
Vua" hay "Lễ Hiển Linh", mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng,
nhưng rốt cuộc cũng chỉ là một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở
ra cho những kẻ biết kiếm tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã
qua, mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn
tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm qua đã có
một nghịch lý là những kẻ đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục
đồng tại Bêlem, như cụ già Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa
đến; còn toàn thể xã hội tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì
chỉ như một lực cản đáng buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm
bẫy dẫn tới sự thảm bại, còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế
cho việc gặp Chúa. Liệu nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin
của cộng đoàn cũng như của mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi
ấy với quyết tâm khởi hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích
cực trong Mùa Giáng Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ
là sứ điệp hoán cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng
tất cả những người không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có
chỗ đứng trong tấm lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét
đặc trưng của lễ Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ
đã được gặp gỡ Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân
tích đức, mà còn hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá
đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các
giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin
là ánh sao, con đường gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri
Isaia sẽ nên hiện thực hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi
từ cách hiểu về tên gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích
của những điều chia sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách
vẫn không nhỏ. Chính Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh
nghiệm ấy mãi còn là một nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm
ấy biến thành những kinh nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là
cách gọi tên cụ thể một ngày lễ.
12. Niềm tin:
một chuyến đi - ĐGM Vũ Duy Thống
(LÀM NỤ HOA
TRẮNG - Trg. 13)
Phúc Âm hôm nay
rất sống động. Cứ như cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những
khách lạ phương xa: từ ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại
Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường
khác về nhà. Cứ như xô đẩy nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng
lúc càng thêm căng thẳng: giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này
và thanh thản của bên kia, giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í
ới cơ man nào là tiếng nhỏ to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ
bị xem là xa nhưng lại biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng
chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những
chi tiết tưởng như bất ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy
lấp lánh hình ảnh của niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một
chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính
trong cuộc hành trình tìm tới Bêlem "triều bái Vua dân Do Thái mới
sinh" được truyền thống giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì
gọi là Vua, lúc khác là Đạo sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những
của lễ tiến dâng, Đạo sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy
ngôi sao và dựa vào ánh sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người
thiện chí kiếm tìm chân lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp
chân lý bằng cách lên đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc
hành trình là một ánh sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh
dẫn khởi từ Thiên Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường.
Nhìn thấy ánh sao hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai
cũng có thể làm được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao
lạ thôi lại là chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng
hợp giữa kiếm tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở
ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm
tin trước hết là hồng ân đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người,
nhưng chỉ những ai biết tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có
được niềm tin vào Chúa để sẵn sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra
khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu
đời do cha ông truyền lại để mạo hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra
khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ
hành.
2) Niềm tin: một
chuyến đi biết chấp nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa
ban, nhưng đức tin cũng còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người,
để vượt qua những thử thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách
đố trong chiều dài cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện "thức lâu mới biết
đêm dài" để con người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là
chuyện "lửa thử vàng gian nan thử đức" trong những lúc Thiên Chúa xem
ra ẩn mặt và hồng ân xem ra vắng bóng, như lúc "ba Vua toan mất hướng, ánh
sao bỗng vụt lặn". Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu
chủ ý của những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí
còn gài bẫy ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy
chiếu Thánh Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi
dụng để toa rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư
trong dân.
Đêm Noel Chúa
sinh ra đem xuống niềm vui, nhưng thành phố nào đó của Iran chẳng những không
có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố. Chúa như vắng
mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem chính nơi
Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng mặt. Se
lòng.
Thử thách đối
với đức tin như gió đối với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa
sáng. Vấn đề là cần biết can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống
niềm tin không phải là dấu hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội
để con người chứng minh phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin
dễ dàng; niềm tin thất bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận
thử thách mới là niềm tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin:
chuyến đi biết đón nhận đồng hành
Không phải vô
tình mà lễ Hiển Linh vẫn được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các
vị đến hàng chục (theo kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục
16 cơ đấy), nhưng chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành
mà là một chuyến đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do "càng đông
càng vui" mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng
là cách cụ thể sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế,
không thích bị chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu
khuất phục vì gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng
mới được gieo vào thửa đất Việt Nam, tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người
ngoài đời đã gọi tín hữu là những người theo "Đạo yêu nhau", tức là
những người cùng đi với nhau trên nẻo sáng yêu thương.
"Ngựa chạy
có bầy, chim bay có bạn", tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau,
nhất là trong cơn nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau
lên con đường khác để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là
đi triều bái, còn trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương,
"giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống,
tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". Con đường khác
ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn
bè thân quen bên cạnh đồng hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh
Tin Kính, dẫu tín hữu tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân "Tôi
tin", nhưng không là đơn độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa
cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh
tuyên tín "Chúng tôi tin". Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ
khác nhau của cùng một niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào
hành trình của những vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một
chuyến đi biết tiếp nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết
đón nhận đồng hành là cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra
cho muôn dân. Nếu Chúa luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên
đường đúng cách Chúa tỏ ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp
lên ý nghĩa kiếm tìm và gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang
tính hiển linh của kẻ tin trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của
những vai chính trong chuyến đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là
Chiêm tinh gia, khi đã bước lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với
lễ dâng thành kính họ được xưng tụng là Ba Vua.
13. Ánh sáng và
bóng tối – Thiên Phúc
Nhà đại thiên
văn Kepler khám phá ra rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình
thường xảy ra giữa các vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng,
bình thường chúng vẫn quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ
ánh sáng của ngôi sao này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một
luồng sáng khác thường và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó
chính là ngôi sao lạ đã dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
"Chúng tôi
đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2). Người xưa
cho rằng ngày ra đời của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của
các ngôi sao lớn. Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì
tinh tú để đoán biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ,
các đạo sĩ đã nhận ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người
Do thái đã trông đợi Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì
sao từ Giacóp, như có lời trong Kinh Thánh: "một vì sao xuất hiện từ
Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en" (Ds 24,17). Tiên tri Mikha
cũng đã tiên báo: "Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc
Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen"
(Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa
đã dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa,
thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp
Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự
thật vô cùng trớ trêu: là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân
Do thái lại thờ ơ lãnh đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động,
cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê
lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại
diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm
tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ
gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn
vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng
thành.
Sau này, Chúa
Giêsu đã phải thốt lên: "Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự
tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con
cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là
lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ
mà các đạo sĩ đã tìm ra Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng
thu hút những tâm hồn đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người
đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của
chân thành, phục vụ và yêu thương.
Nếu thế giới
đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những
ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi:
"Chúng con là ánh sáng thế gian" (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô
cùng lớn lao, nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng
chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến
sáng của tin yêu và hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập
ánh sáng tình yêu Chúa.
14. Những con
mắt hiển linh
Trong bài Phúc
Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để phát
hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ: "Họ
thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài".
Họ thấy gì? Họ
tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để thích ứng
ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của họ? Các đạo
sĩ đã "thấy".
Lời mời gọi đầu
tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi Đấng Tuyệt
Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, như
phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh. Đấng mà con
người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao không
nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn nguyên
vẹn: "Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và sống
đối với con người chính là thấy Thiên Chúa".
Thấy Chúa. Thánh
Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: "Không ai thấy Thiên Chúa;
chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho chúng ta".
Ước gì chúng ta
có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở Palestine,
biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây
làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết:
"Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài
chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi".
Cái nhìn nội tâm
này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta trong một
tháp ngà nhỏ: "Anh và tôi!" hoặc trong một tháp ngà lớn hơn:
"Chúng ta, những người theo Kitô giáo". Đây là lời kêu gọi thứ hai
của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau
các đạo sĩ, ta thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông
mà Isaia phát hiện bằng con mắt hiển linh: "Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem!
Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc
hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ lại".
Người ta nói
rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho những
gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống nhìn vào
cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng, những
đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công Giáo,
nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với chúng
ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta có quá
dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay không? Quen
sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà hai tiếng
Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin
khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên
mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động: "Các con hãy đi dạy dỗ
muôn dân" (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có
nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước
chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng
các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu
nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con
sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con
cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài
đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn
là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói
gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng
rồi. Con coi thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con,
con làm gì để truyền giáo?
Con làm chứng
nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng
cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời
nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người
có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của
người tông đồ, những con mắt hiển linh.
15. Tìm Đức Kitô
Ba vua tìm Chúa
Giêsu. Có phải họ đã bị đánh động bởi ý tưởng của người Do Thái về một thời đại
vàng son do Đấng Cứu Thế mang lại, và niềm tin ấy có thể đã lan tràn ra hàng
trăm cây số về phía đông xứ Palestine chăng? Có người đã nêu ra giả thuyết rằng
có những cuốn lịch trong các miền nói trên ghi rằng trong thời gian ấy Vị Chúa
Tể của thời đại cuối cùng sẽ sinh ra ở Palestine. Dù sao, chúng ta thấy một số
người lên đường đi tìm Chúa Giêsu. Về đề tài này, ta có thể nêu lên vài suy
nghĩ sau đây:
1) Tìm Chúa Kitô
đòi hỏi trước hết phải có một thái độ tinh thần căn bản
Người ta sống
trong tình trạng báo động để nhận ra dấu hiệu có thể đưa tới Chúa. Cứ chấp nhận
rằng ba nhà đạo sĩ sống trong một bầu không khí mong chờ một ông vua Cứu Thế,
dường như một lúc nào đó họ đã nhận thấy một ngôi sao, một dấu hiệu, tâm hồn họ
tỉnh thức. Chúng ta có thuộc về hạng người biết nhận ra, giữa trăm ngàn yếu tố
tạo nên đời sống mình, cái dấu hiệu dẫn đưa ta đến Đức Kitô không? Dấu hiệu ấy
có thể là một khó khăn, mà đột nhiên ta cảm thấy cần phải phó thác cho Chúa, vì
chỉ mình Người có sức soi sáng và giải quyết. Có thể là một niềm vui lớn lao,
từ đó ta thấy hiển nhiên là cần phải cảm tạ Chúa. Dấu hiệu ấy cũng có thể là
một chi tiết đời sống ta, trong đó, nếu biết nhìn, ta sẽ nhận ra sự hiện diện
kín đáo của Chúa. Trong các trường hợp như thế, ta cần phải để ý tới những dấu
hiệu dẫn ta tới Đức Kitô.
2) Ba đạo sĩ đã
lên đường
Muốn tìm Đức
Kitô, ta buộc phải ra khỏi tình trạng 'yên chuyện' và 'an tọa' của mình. Có
người 'an tọa' trong những hệ thống tư tưởng; kẻ khác, trong một địa vị 'ngon
lành'; một số thì ngồi yên trong một tiện nghi lương thiện v.v... Bằng cách này
hay cách khác, dấu hiệu của Đức Kitô mời gọi ta đừng tự đóng kín trong tình
cảnh 'yên thân', nhưng phải bước ra khỏi đó để khám phá ra một cái gì lạ lùng,
chưa hề thấy, một cái gì mà ta cảm thấy là đáp lại được sự mong chờ của ta, với
điều kiện là ta chờ đợi Đức Kitô.
3) Ba đạo sĩ tìm
kiếm một cách tích cực
Bao lâu ánh sao
còn le lói trước mặt, họ để cho ánh sao dẫn đường. Nhưng kìa, ngôi sao biến
mất, họ buộc phải tự tìm đường. Vẫn hy vọng. Không hồ nghi về tính xác thực của
ông Vua đã được ngôi sao kia báo hiệu. Thiếu vật chỉ đạo lạ lùng, tức ngôi sao,
họ dùng tới những phương tiện thông thường là hỏi han. Họ đi đến những nhà hữu
trách tôn giáo. Những người này không muốn bị phiền hà về vụ ông Vua mới sinh
ra, nhưng họ cho ba người khách những lời chỉ dẫn đúng. Thế là các đạo sĩ được
'thưởng công': họ tìm thấy Chúa Giêsu. Trong đời ta có thể đã có những dấu này,
dấu nọ báo tin Chúa Giêsu, rồi tan biến đi. Bổn phận ta bây giờ là tiếp tục nỗ
lực tìm kiếm với những phương tiện thông thường sẵn có. Lúc ấy Đức Kitô sẽ
không lẩn tránh đâu.
16. Ba vua
Lễ Hiển Linh, đó
là ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ
phương đông, để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân ngồi trong
tăm tối sẽ được nhìn thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây
cũng là ngày trọng đại cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện
cho muôn dân.
Chúng ta hãy
nhìn vào cung cách của ba nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và
kiểm thảo đời sống của mình.
Điểm thứ nhất,
đó là ba nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy
nghĩ để tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng
đã nhìn mà chẳng thấy và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta
cũng vậy, chúng ta đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa.
Chúng ta để cho tâm trí bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc
và lạc thú. Rồi từ đó, ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt
dần trong cõi lòng chúng ta.
Điểm thứ hai, đó
là sau khi nhận ra sứ điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó
khăn chờ đón. Các ngài có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân
vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên
đường, không chần chừ do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến
cùng. Mặc cho người đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp
và thờ lạy vua dân Do Thái.
Thái độ của các
ngài hoàn toàn khác xa với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô
diễn tả như sau:
"Các ngài
đến chiêm ngắm Đấng Cứu thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ
lại không biết đến. Các ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi
nằm yên trong máng cỏ. Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao
giảng công khai, ngay cả khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã
gặp được Chúa. Còn họ, họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy".
Có lẽ chúng ta
cũng không hơn gì những người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm
thước mà chúng ta cũng rất ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi
những kẻ cùng khốn bên cạnh chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận
ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó
là sau khi đã khám phá ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa
lễ vật, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại
của mình.
Còn chúng ta,
chúng ta sẽ dâng gì cho Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối
cùng của cuộc đời chúng ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống
trơn, không một chút công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các
ngài định trở lại Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần
báo mộng, các ngài đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ
sở của mình.
Qua đó chúng ta
thấy, mặc dù là những người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh
truyền của Chúa một cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì
sao? Phải chăng cuộc đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta
luôn luôn chống lại lệnh truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản
bội.
Hãy noi gương ba
nhà đạo sĩ phương đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn
đức tin của mình, dù có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
17. Hãy đứng
lên, hãy tỏa sáng ra – R. Veritas
(Trích từ 'Sống
Tin Mừng')
Các bài đọc của
lễ Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu
soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy
đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên
tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được
như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ
Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì
Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa
đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai
đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi
qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri
Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến
cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử
Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa
Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó
cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng
trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và
luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn
cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài
bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên
trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì
qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết
nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua
chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ
có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi
người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm
thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong
việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ Ba
Vua hay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động
Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài
kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình
về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay
chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là
người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin
cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an
toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để
mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin
cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
18. Tìm gặp Chúa
Với lễ Giáng
sinh, chúng ta nhận thấy Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta
có thể gặp gỡ Ngài. Gặp gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy nga, mà còn
gặp gỡ Ngài nơi những con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm
trong máng cỏ ngoài đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có một hạng
người nào đó mới có quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm thường như
những trẻ mục đồng cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của
Chúa Giêsu được trọn vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho chúng ta một xác
tín mới: Thiên Chúa không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn đến với cả những
người từ phương Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân riêng của Chúa, những
người vẫn bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã
được thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu Ephêsô:
Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng
thông phần với lời hứa của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển
Liên, Thiên Chúa đã đến với tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng rào tạo
nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị tiếng
nói. Thực sự thì đó chỉ là những hàng rào do chính con người dựng lên để bảo vệ
những quyền lợi cho riêng mình.
Thiên Chúa vẫn
là Thiên Chúa của tất cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân nước dưới
ánh sáng của Ngài. Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó là chúng
ta có tiến tới để gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều
quan trọng đó là chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như lời
thánh Augustinô đã nói:
- Khi tạo dựng
nên chúng ta Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài
đòi chúng ta phải ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho
chúng ta thấy: Ánh sáng đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận
ánh sáng. Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp nhận
Ngài.
Thực vậy, Ngài
đã đến nhưng không phải tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng
đã ngỏ ý muốn đến triều bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông muốn giết
hại Ngài để được ngồi mãi mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật sĩ và tư
tế thì lại thoả mãn với những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết lên đường
tìm gặp Ngài? Còn dân thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa,
chúng ta cần phải lên đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không phải trong tối
tăm mò mẫm, bởi vì chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự
phục sinh của Ngài soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và
lễ Hiển Linh chính là một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con
người nhận biết Ngài nơi hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo
sĩ phương Đông, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến với hài nhi
Giêsu. Lên đường ở đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới phía trước.
Ngài đến trong những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong cuộc sống
thường ngày. Tuy nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh sao là Tin
Mừng của Chúa hay không?
19. Từ bỏ
Hôm nay, chúng
ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện là ba
nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ
nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng
danh từ "magi" để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế,
ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế
họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các
nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác định
rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng
ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết nhiều và thông
thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học, thiết tưởng cũng
không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa
vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
- Từ Tác-sít và
hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả
sẽ về triều cống.
Cả những vua
Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới
tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương
phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước
thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi
tới kết luận: các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta
thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực
cho lắm.
Câu hỏi thứ hai:
các ngài có bao nhiêu người?
Những bức bích
họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức vẽ
ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới...mười hai vị. Ngày nay, chúng
ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba:
các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng
người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài với y
phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên,
lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ phương đông
mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn
nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ này. Như
vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu
hỏi thứ bốn: đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta
ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người giàu sang,
có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã nhận biết ý
Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất cả để lên
đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các
ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào địa vị
chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn của một
ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận
biết bao nhiêu nguy hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào
là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài...Thế nhưng, các ngài vẫn cất
bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ
chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải
hy sinh, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo
Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra
hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông đang
sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã hiện ra
bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm sản
nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một mụn
con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà
dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là
là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài lưới,
thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông
từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng
vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông
cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của
ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông đồ, chúng ta đi
tới một kết luận: Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài, chúng ta cũng
phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân vào một cuộc
phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để đáp trả
tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không?
20. Tỏ mình
Các bài đọc
trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: "Thiên Chúa mạc khải
chính Ngài cho tất cả mọi người", không phân biệt ai, cho dù người Do thái
hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại,
không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống
của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình
khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người
bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc
trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con
đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là
con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện
trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên
qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng
ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các
đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận
Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem.
Kinh Thánh đã
chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ
Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc
vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ
sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để
chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị.
Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng
các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau
đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua
đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai
tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên
Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc
Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ ba vua
hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho
tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà
chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh
nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải
chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển
Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức
Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới
sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong
khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận
biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng
mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài
Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội
cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày
để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta
để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không?
Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống
hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không?
Trở về cách đây
hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và
không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một
vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba
nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố
gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những
cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ
cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm
Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là
tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi
người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa
dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi
Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố
trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh
như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với chúng ta,
Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp
cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng
ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử
thế giới.
Thiên Chúa đi
tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có
thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi
của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc
hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa
chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ
Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những
uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.
21. Suy niệm của
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế
và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài,
còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do
Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý
như vậy?
2. Rút kinh
nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì?
Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm
Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì
khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của
Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng
tế và kinh sư Do Thái – với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng –
đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ
Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới
sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng
tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1. Thái độ của
các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm
tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái
giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức
Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ
trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc
khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và
chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức
Giêsu nói: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho»
(Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí
bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: «Các
ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta» (Gr
29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8,17).
2. Thái độ của
các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và
kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các
lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại
diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay,
nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên
Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng
giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra
tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy
người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng
vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho
họ.
Cũng vậy, rất
nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết
chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp
dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem
lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra
thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời
Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà
trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên
Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em
thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và
tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho
thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế
cũng giống như những mảnh đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến
Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống
như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho
những ai đang theo chính đạo
Câu chuyện về
hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình
đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay,
đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được
Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và
tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể
nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm,
chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn
sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm
kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì
những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo
cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và
tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và
thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những
ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang
nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình,
lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình:
«Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình»
(Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản
thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh
Phaolô: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng
cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà
chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các
dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính,
nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài,
nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện
được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm
Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ
chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương.
Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi
cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như
những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại
xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà
quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng
chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của
con người.
4. Thái độ của
vua Hêrôđê, nhà cầm quyền
Nói tới Hêrôđê,
ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: «Đức Vua
dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của
ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như
thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm
người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để
mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách «sai
người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở
xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư
trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc
sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng,
chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi.
Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối
với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những «chiếc ghế» của họ trong
tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho
mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt
xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ
sẵn sàng «bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im
lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến
tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con
tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin
Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công
lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà
lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với
những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
22. Lễ Hiển Linh
Khi ngôi sao
chiếu sáng trên bầu trời Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel như thầy tư tế già
Dacaria phát biểu "ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần" (Lc
1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phaolô
phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: "Thuở ấy anh em không có Đức
Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các Giao Ước dựa trên
lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian
này" (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc thế gian suy đồi
cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông
Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của
hy vọng.
Trong quan niệm
của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một
nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao
chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn
một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện
hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi
nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng
và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm,
Tử Lăng gác một chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ
để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng
hồi hôm xem điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin
hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: "Ta biết rồi, việc
này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng
gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo!". Đối với các nhà bác học Đông
Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu,
vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho
"ý muốn vĩnh cửu". Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri
của Kinh Thánh: "Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy
từ Israel" (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết
thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy "vì
sao xuất hiện từ Gia cóp" hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế
giới u minh.
2. Ngôi sao thần
bí
Khi nghe được
tin này Hêrôđê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một
điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết
trên bức tường của cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà
vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng.
Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn
trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch
của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ
ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm,
lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được
những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày
tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn
đường.
Ngôi sao trên
bầu trời Bêlem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy
khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm.
Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên
Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua
của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên
bầu trời Bêlem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân
lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của
Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của
vui mừng.
"Khi thấy
ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng". Vì đối tượng
mà họ khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống
quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm
báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ: "Thầy nói điều đó
với anh em để niềm vui của Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn
vẹn" (Ga 15,11).
Trong những năm
sau khi Chúa Giêsu giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được
hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối.
Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương
vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao
trên bầu trời Bêlem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu,
thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui
mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
23. Lễ Giáng
Sinh của muôn dân
Henry van Dyke
có thuật lại câu chuyện nhan đề: "Còn một nhà đạo sĩ khác nữa" (The
Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà
đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban.
Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho
tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà
đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ
nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn,
ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp
một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương
lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông
gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi
làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính
và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi
Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể
lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa
bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng
là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những
người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử
này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là
lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho
riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải
cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương
Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri
Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là
ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa
thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một
mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của
lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu
chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại
Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là
lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ,
có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương
Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người
ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được
lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi
kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói
lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ
quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ
sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua
người Do Thái mới sinh", Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại,
họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải
dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải
thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh
ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người
bị liệt vào hàng "dân ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do
Thái", cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là
lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ
mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài
bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm
người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như
chúng ta và ở giữa chúng ta". Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô
là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu
lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người
chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức
độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về
việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về
con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô;
những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh
bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói:
"Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức
Kitô", thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống
hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân
tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi
nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi
không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những
người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên
Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có
biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi
trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng
ta: "Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?" hoặc: "Đức Giêsu là ai
vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: "Đức Kitô là
ai?". Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái.
Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là
một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác
đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm
tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô
hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà
không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng
đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà
làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt
những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào
thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì
mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay
Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em
Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt
từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi
là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng
đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ
tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn
giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang
thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống
trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng
có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ,
vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa
trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch.
Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc
gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã
chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của
người đời: "giải thưởng Nobel Hoà Bình". Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi
người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của
những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000
phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ,
Thiên Chúa của người "tôi" ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái
người "tôi" ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là
Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là
Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong
xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy
sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh
viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu
lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người,
giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại
giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức
khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân... Xin Chúa ban cho có
nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế
để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì
những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
24. Ánh sao lạ
Hôm nay chúng ta
mừng lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra
như sau:
Bấy giờ một ngôi
sao lạ xuất hiện trên bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người
nghiên cứu về những hiện tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao
lạ.Họ đã lên đường, bước đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp
được Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do
Thái. Trước khi trở về quê cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa
phương mình, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện
trên, tôi muốn rút ra một kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà
đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem, thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao,
dẫn lối cho những người chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống
trong một mái ấm gia đình tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như
chúng ta thường xác quyết:
- Gia đình là
mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới mái nhà
thân yêu này, trước hết chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng
Chúa, bởi vì tại đây, ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con
cái trở nên những người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem
lại lợi ích cho quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho
con cái một nền giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những
người con cái Chúa.
Vì thế, ngay từ
hồi còn tấm bé, cha mẹ đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh
giá, còn môi chúng bập bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời
sống gương mẫu của cha mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng
Chúa, vì lời nói như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một
chàng trai chơi bời trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của
bà mẹ là thánh nữ Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên
một vị giám mục thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ
chồng cũng phải trở nên một thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải
biết giúp nhau tìm đến cùng Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa
ra một thí dụ: Người chồng là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người
vợ thúc đẩy, thì đức tin vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố
rượu chè cờ bạc, thường bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông
trở về thì trời đã khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả
những tiếng thì thầm. Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho
đứa con cầu nguyện cho ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng
tỉnh, từ bỏ con đường tội lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi
người trong mái ấm thân yêu có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia
đình của chúng ta sẽ trở nên như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra
sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.
25. Dân ngoại
đứng trước Đức Vua của người Do thái
(Suy niệm của
Lm. FX Vũ Phan Long)
Đọc bài Tin Mừng
này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên
Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi
lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con
người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin
Mừng Mátthêu là một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có
chương 1. Chính điểm này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối
với nhau. Đề tài "sự hoàn tất các sấm ngôn" cũng được nhắc tới đều
đặn (x. 2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn
tiến của chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với
các bản văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có
một đăc điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này,
chúng ta lại có thể phân biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết
với khối thứ hai bằng nhiều từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không
thể hiểu được khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện
kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là
phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít
chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất;
nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse
được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện
truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào
một đề tài quan trọng của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban
tặng, còn Lương dân thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng
Giêrusalem tượng trưng cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho
Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân
Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel chân chính của
thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai
chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả
Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện
các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà
chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời:
Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các
ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo
cách hợp lý hơn?
Cũng như trong
nhiều đoạn khác của Tin Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện
không được nói tới, chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng
gia phả đã cho thấy Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về
nguồn gốc đích thực của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp,
ở đây tác giả giúp chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà
vì họ Đức Giêsu đã đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức
Maria và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm
tới Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà
chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời
loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi
những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và
bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có
thể được chia ra làm hai phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2):
Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm
tinh.
2) Phần 1 (cc.
3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua "giả hiệu" của người Do Thái. Cốt lõi là
sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc.
9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương "chân chính" tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi
tôn thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú
giải
- Bêlem
(Bêthlehem) miền Giuđê (1): Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là "nhà bánh
mì", hoặc cũng có thể là "nhà của thần Lah(a)mu" (thần của dân
Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát,
của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga
7,42. Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có
một Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c.
6) nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ
miền Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê
(Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền
Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người
Do Thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối
đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có
thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai
ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước
đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra
đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang
được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời
của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp
(Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành
Rôma (ngày 21-4-753 tCN), hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một
thời gian, các Kitô hữu có thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế
Điôclêtianô (284-305 CN), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này
là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do
văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ vi
(mất trước năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo
chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức
Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời
của Đức Kitô, mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm
753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM Mt, "Đức Giêsu ra đời tại Bêlem,
miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì" (2,1), mà chúng ta biết rằng vua
Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu
phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian
giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm
tinh (HL. magos): Đây là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh.
Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon, đã được tiếp xúc với trào lưu
chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ sống bên kia bờ sông Giođan, nên
có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv
72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua.
Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (thế kỷ v), và còn gán
cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (thế kỷ viii). Sang thế kỷ xiv,
ông Gaspar được coi là một người da đen...
- chúng tôi đã
thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của
các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh
cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của
các tinh tú. Do Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được
nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng,
ngôi sao là hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia
vương giả, xuất thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2):
Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là
một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác
giả Mtmuốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết
này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không
có hiện tượng tương ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự
nhiên đều là chuyện vô ích.
- Cả thành
Giêrusalem (3): Đây là một kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân
Do Thái loại trừ Đức Giêsu (x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những
người ngoại giáo, được hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín
dị đoan, đã đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều
tra kỹ lưỡng, để có thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do
Thái có ánh sáng Kinh Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc.
4-6).
- Các thượng tế
(archiereis, 4): Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc
quy định nào đó, vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
- kinh sư trong
dân (4): dịch sát grammateis tou laou là "các kinh sư của dân chúng":
một kiểu nói phóng đại.
- Phần ngươi,
ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo
cách rất độc đáo, không tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác
giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ
oudamôs(Pháp: pas du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho
thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau
khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể
nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những
người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt
mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô
cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10).
Trong TM Mt, đây là niềm vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi
Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự
bối rối hoang mang của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn
giận dữ điên cuồng của nhà vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao
của các phụ nữ vào sáng ngày Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính
canh khiến họ ra như chết (28,4).
- Họ vào nhà
(11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ
đi vào "nhà", là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được
Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và
thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả
cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- sấp mình thờ
lạy (= bái lạy: cc. 2.8.11): "Bái lạy" hay "sấp mình thờ
lạy" (proskyneô) được tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57
lần). Đây là hành vi sấp mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những
người có địa vị cao, chẳng hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này
để diễn tả lòng tôn kính đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18;
15,25; x. 20,20) và bởi các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm
tin vào Con Thiên Chúa), đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ
hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng
lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều
xứng đáng với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv
45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các
Giáo Phụ coi các lễ vật này là những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần
tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Giới thiệu các
nhân vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một
câu duy nhất, tác giả đã giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính
trị, và các nhân vật sẽ được đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2,
"vương quyền của Đấng Mêsia", đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu
"vua" gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài
này.
Chủ đề lại được
nêu lên trong câu hỏi của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà
chiêm tinh văn, chứ không phải là "vua". Đặc biệt trong môi trường
Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được
trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được
coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện
tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời
khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng
giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh
tú và quan sát cánh chim bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của
Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm
thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm
vua dân Do Thái như thế, trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói
rằng cuộc chào đời của một nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một
ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận
được một thông tin cho biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên
đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không
phải là một ngôi sao chổi hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị
biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp,
đàng khác, có một truyền thống song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp
LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng
dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người
Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm chờ
mong Do Thái.
Khi kể câu
truyện Các nhà chiêm tinh, tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình
của các vị ấy; ngài chỉ chú ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê.
Ngài cũng muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã
tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi
sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem,
các vị ấy tưởng là đã đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác.
Nhưng bây giờ các vị ấy đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là
những chuyên viên Kinh Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào
đời tại Bêlem xứ Giuđê. Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ
Lãnh và Mục tử của dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay
thẳng và sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng
ta lưu ý là các nhà chiêm tinh hỏi nơi sinh của "vua dân Do Thái",
chứ không phải là "vua Israel". Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được
Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh,
là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc
hành trình.
Hai phần sau đây
tương ứng với hai "chương trình xung đột" (cũng có trong cc. 13-23)
tác giả muốn tường thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem;
một bên là chiến lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của
Thiên Chúa; vua Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với
các nhà chiêm tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao:
ngôi sao không được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm
tinh sau khi họ rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê,
vị vua "giả hiệu" của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở
đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3
kết hợp với 2 Sm 5,2. Bây giờ vua Hêrôđê và "cả thành Giêrusalem"
được đặt trong thế đối lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động
của họ là một bằng chứng cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua
Hêrôđê và toàn dân Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm
không thật (vua Hêrôđê và dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng
hẳn phải vui mừng khi biết Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua
phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà
không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu
tập toàn thể Thượng Hội Đồng Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ
đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem "xôn xao"...) khiến nhiều
tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được
tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại
trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là
thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối
quyển Tin Mừng, "Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng
tôi" (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và dân Giêrusalem ở đây báo trước
thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x. 27,11.29.37.42). Ở đây, vua
Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu "Vua dân Do Thái" chính là
"Đấng Kitô [Mêsia]".
Câu trả lời về
"Đức Vua dân Do Thái" là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi
các kinh sư, chứ không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp
một nền móng Cựu Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu
sử. Nhưng đây không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn,
đó là dùng hai lần từ "Giuđa" và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào
với từ móc laos ("dân chúng") để khẳng định quan điểm chống Do Thái
của ngài: các kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên
sai vẫn từng mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các
hệ luận; vì vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua
Hêrôđê "hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện". Câu 7 này đưa
chúng ta đến với câu 16 được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện
chẳng lành sắp xảy ra, khi thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả
lời chính là sự tàn bạo bí hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho
độc giả nhận ra nhà vua là một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12
được cung cấp: vua Hêrôđê muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông;
nhưng ý định xấu xa của ông sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu
Vương "chân chính" tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm
tinh ra đi ngay ban đêm, không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để
tác giả lại có cơ hội nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa
ra tay hướng dẫn toàn thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa
các nhà chiêm tinh đang trải nghiệm.
Chủ đề của bài
Tin Mừng được trình bày rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi
Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn
trông đợi, dù tước "vua" không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ
đề "vị vua thật" chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ ("Vua dân
Do Thái": c. 2; "vì sao của Người": cc. 2.7.9.10; "vua
Hêrôđê: c. 3; "Hêrôđê": cc. 7.12; "bái lạy": c. 8;
"nhà vua": c. 9) và các cụm từ ("vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn
dắt Israel dân Ta sẽ ra đời": c. 6; "sấp mình thờ lạy": c. 11;
"lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến": c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm
tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô)
trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì.
Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc
phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta
nhớ Đức Giêsu đã được giới thiệu là "con cháu vua Đavít" (1,1),
"Con Thiên Chúa" (x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không
nói gì với các vị ấy và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy
vẻ huy hoàng chúa tể của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người,
nhưng các vị nhận biết Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật
địa vị đặc biệt của bà Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý
giá (vàng, nhũ hương và mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các
vị nhìn nhận Hài Nhi là Chúa tể.
Chủ đề được khóa
lại với tên "Hêrôđê", vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với
việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà
chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc
sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu
cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa
các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng
này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên
Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi
lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con
người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến
cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong
thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát
xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi đó mới có sự "bình an dưới thế cho
loài người Chúa thương".
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Truyện này
gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại:
cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối
rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối
cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những
nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu
so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy,
chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà
chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật
của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng "đúng" không nhất
thiết là "thật" về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các
truyện trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như
tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật
hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá
ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương
lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2. Có những điểm
"khôi hài" trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái
vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là
khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của "Đức
Vua mới sinh". Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê
thuộc gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta
những thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và
kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển
động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ
cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân
Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ
bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị "đã
đi lối khác mà về xứ mình" (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng
xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ
không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là "những cột cây số";
họ chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm
tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến
Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh.
Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên
Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng "ngôi sao" dẫn đường.
Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp
nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp
ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy
đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5. Các nhà chiêm
tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái
lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì
các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở
đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba
lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có
tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là
người châu Á, một vị là người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không
tương ứng với chữ viết của bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng.
Tất cả các lứa tuổi và con người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp
Hài Nhi này, nhất là khi nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người
đã đến cho mọi người, cho người trẻ cũng như cho người già, cho người thông
thái cũng như người chất phác ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp
họ nhận biết Thiên Chúa là Cha và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan.
Như các nhà chiêm tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức
Giêsu, mà phải để cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng
nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn
ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật
là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích
cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế
giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính
là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và
mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất
hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ
"đồng nhất" giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn
hóa của họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
26. Chú giải của
Noel Quesson
Khi Đức Giêsu ra
đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì
Đó chỉ là những
từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật!
Thực sự, Matthêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái
lại, một cách rõ rệt, Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa
của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà
chiêm tinh. Chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu
chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Có mấy nhà chiêm
tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do thái mới sinh,
hiện ở đâu?
Matthêu so sánh,
như hai chất nổ, hai danh hiệu: Vua Hêrôđê, vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà
những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem,
đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu
rằng nó cũng làm cho Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta
biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng
có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba
người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện
lịch sử. Nhưng ý nghĩa mà Matthêu dành cho danh hiệu "Vua dân Do
Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước trời sẽ là một trong những đề tài ông
ưa thích. Matthêu, ngay từ đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay
trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực
sự là "vua" dân Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và
tàn bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn
nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương
thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho
Đức Giêsu "Vua dân Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự
tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân
Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái
"lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại
giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi
thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi đưa ra,
Thánh Matthêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của
"Người đầy tớ chịu đau khổ" của Isaia, vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên
lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến
không Phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn
hữu của mình "đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy
tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này,
nó không hề giống vương quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch
lý trong ngày Người thụ nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong
lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!. Người trị đến với Chúa
Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi đã
thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông.
Ngày nay, Giáo
Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa
vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mê-si-a đến như một ánh sáng. "Hãy
đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của người đã đến và vinh quang của Đức Chúa
xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức
Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân
nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình
minh ngươi (Is 60,1-6) Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào
Mùa Vọng và trong lễ đêm Giáng sinh: người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất
hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đãsinh ra cho chúng ta" (Is
9,1-5).
Trong chủ đề về
ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như
"sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta" (2 Pr 1,19). Ngôi sao tượng
trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí
của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn
ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời
tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo
ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh
sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Nên chúng tôi
đến bái lạy Người.
"Bái
lạy". Động từ này được Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ
sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi
khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về
việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ
ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự
bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất
cả vạn vật.
Nghe tin ấy, vua
Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất
cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại
Giữa câu truyện
Hiển Linh, Matthêu đưa ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách
Tin Mừng cha ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và
tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia
Thế mà, họ làm gì? họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm
giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu
thốt ra về Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu... Hỡi
Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết chết những người Ta sai đến với ngươi, bao
nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái Ta! Và các ngươi đã không muốn"
(Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái
lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được
chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ
năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao
Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông
hãy đi và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang
Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các
Kitô hữu gốc Do Thái (Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao
Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại
gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ
được mong đợi. Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những
người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả
những lại phát ngôn "có tính chất phổ độ" loan báo trước: Giêrusalem
phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất,
lạc đà Mađian và Êpha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng
với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6). Người ta
nhớ đến, bên Israel. nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ
Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của
phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm
đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng
các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa tiệc với
Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu
tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả
những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và trong những
từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. Trái lại! trong số
các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn
toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có
một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình
gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu
vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là
lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm
tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa
dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê
phán họ như thế nào?
Và đây là điều
ngôn sứ đã viết: "Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là
thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ
ra đời".
Tại sao, hãy nói
cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu
phải làm, đến Bêlem, gần Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrubalem, qua
các "kinh sư và thượng tế" Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những
lời người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn
đó đến qua trung gian những nhời Do Thái (Rm9, 10-11).
Rồi họ mở bảo
tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến... Sau đó, họ được báo mộng
là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Việc thờ phường
là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính
là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy
cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp
gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết
bao, lạy Chúa!
LỄ CHÚA HIỂN
LINH (06/01)
Is 60,1-6 ; Ep
3,2-3a.5-6 ; Mt 2,1-12
TRỞ NÊN ÁNH SAO
DẪN ĐƯỜNG CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt
2,1-12
(1) Khi Đức
Giê-su ra đời tại Bê-lem miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy
nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem. (2) Và hỏi: "Đức
Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người".
(3) Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng
xôn xao. (4) Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư
trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. (5) Họ
trả lời: "Tại Bê-lem miền Giu-đê. Vì trong sách ngôn sứ có chép
rằng: (6) "Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là
thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt
Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời". (7) Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời
các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất
hiện. (8) Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quí
ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo
lại cho trẫm, để trẫm cũng đến bái lạy Người. (9) Nghe nhà vua nói
thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn
đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. (10) Trông thấy
ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. (11) Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân
mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp,
lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. (12) Sau đó, họ được
báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác
mà về xứ mình.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng
Mát-thêu chứng minh Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai qua việc Người
đã thực hiện các lời ngôn sứ tiên báo về Người như: Thuộc dòng dõi
Đa-vít (x. Tv 132,11; Mt 1,18-25), là con một thiếu nữ còn đồng trinh
(x. Is 7,14 ; Mt 1,23), sinh ra tại Bê-lem quê hương vua Đa-vít (x. Mk 5,1;
Mt 2,5-6), các vua chúa sẽ đến thờ lạy Người (x. Tv 72,10; Is 60,6; Mt
2,11).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Bê-lem
miền Giu-đê: Bê-lem hay Bethlehem, là một thị trấn nhỏ, cách thủ đô
Giê-ru-sa-lem khoảng 9-10 cây số về phía Nam. Ngày xưa Bê-lem được gọi
là Ep-ra-tha. Tuy là một thị trấn nhỏ bé, nhưng Bê-lem có một lịch
sử lâu đời và danh tiếng vì là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1
tt). Chính từ dòng dõi Đa-vít mà Thiên Chúa đã ban Đấng Cứu Thế cho
dân Ngài, như lời tuyên sấm của ngôn sứ Mi-kha (x Mk 5,1). + Thời vua
Hê-rô-đê trị vì: Đây là Hê-rô-đê Đại Vương, phân biệt với Hê-rô-đê
An-ti-pha được gọi là Hê-rô-đê Con. Hê-rô-đê Đại Vương là một con người
đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị. Chúa Giê-su đã sinh ra tại thành
Bê-lem miền Giu-đê dưới thời Hê-rô-đê Đại Vương. + Có mấy nhà chiêm
tinh: Cũng gọi là đạo sĩ. Họ đến từ phương Đông, quê hương của
Ba-la-am (x. Ds 23-24). Đây là những người thông thái, am tường khoa chiêm
tinh. Người ta thường dựa vào ba lễ vật họ dâng mà quả quyết là có
ba vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên: Một là Men-ki-o da trắng, hai
là Gát-pa da vàng, ba là Ban-tha-gia da đen. Qua đó, ngụ ý rằng: Ơn
Cứu Độ của Chúa phổ quát cho mọi dân tộc, không chỉ dành riêng cho
dân Do-thái mà thôi.
- C 2-3: + Đức
Vua dân Do-thái mới sinh hiện ở đâu: Câu hỏi của các nhà chiêm tinh
ngoại giáo được nói lên như một lời loan báo cho người Do-thái biết
Đấng Cứu Thế đã ra đời. + Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất
hiện: Người xưa cho rằng: việc ra đời của các vĩ nhân thường kèm theo
sự xuất hiện của ngôi sao lớn. Các nhà chiêm tinh nghiên cứu sự
chuyển động của các ngôi sao trên bầu trời, để đoán biết vận mệnh
của nhân loại. + Chúng tôi đến bái lạy Người: Đang khi người Do-thái
dửng dưng, thì lương dân lại tha thiết tìm kiếm và sẵn sàng đón nhận
Người. Như thế là ứng nghiệm sấm ngôn về một tôn giáo phổ quát trong
thời tận thế (x. Is 49,23). + Vua Hê-rô-đê bối rối: Bối rồi ví thiếu
lòng tin và đa nghi, lo sợ ngai vàng của mình sắp bị Đấng Cứu Thế
tước đoạt. + Cả thành Giê-ru-sa-lem xôn xao: Xôn xao đồng nghĩa với
hoảng hốt. Đây là thái độ của các đầu mục Do-thái tại Thủ đô đã
hùa theo vua Hê-rô-đê chống lại Đấng Cứu Thế.
- C 4-6: + Mời
các Thượng tế và luật sĩ: Là các thành phần trí thức trong dân
Do-thái đương thời, am tường Kinh Thánh: Thượng tế có nhiệm vụ tế lễ
trong Đền thờ, còn kinh sư hay luật sĩ là những thày dạy Luật Mô-sê.
Hê-rô-đê hy vọng họ sẽ dựa theo Thánh Kinh mà cho ông biết nơi sinh chính
xác của Đấng Cứu Thế. + Họ trả lời...: Có một sự đối nghịch về
thái độ với Đấng Cứu Thế: Các Thượng tế và kinh sư là những người
am tường Kinh Thánh, biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế, nhưng không
muốn đón nhận Người, đang khi dân ngoại lại đi tìm kiếm Người mà thờ
lạy. + Thành Bê-lem miền Giu-đê: Bê-lem thuộc xứ Giu-đê, miền Nam nước
Do-thái. + Vì ngươi là nơi Vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra
đời: Câu này nhắc đến lời tuyên sấm của ngôn sứ Mi-kha về một Đấng sẽ
đến thống lãnh Ít-ra-en theo ý của Thiên Chúa (x. Mk 5,1 tt), và đáp
ứng nguyện vọng của tất cả các chi tộc, giống như vua Đa-vít xưa (x.
2 Sm 5,2).
- C 7-8: + Bí
mật mời các nhà chiêm tinh đến: Hê-rô-đê hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi
sao xuất hiện, vì muốn biết Hài Nhi Cứu Thế được mấy tuổi để dễ tim
ra và giết hại Người. Sau đó ông đã ra lệnh cho quân lính đến Bê-lem và
vùng phụ cận, giết tất cả các trẻ em nam từ hai tuổi trở xuống
tính theo ngày giờ ngôi sao xuất hiện. + Xin quí ngài đi dò hỏi tường
tận về Hài Nhi: Qua các nhà chiêm tinh ngoại giáo này, Hê-rô-đê muốn
điều tra để biết chính xác Hài Nhi Cứu Thế là ai. + Khi đã tìm
thấy, xin báo lại cho trẫm, để trẫm cũng đến bái lạy Người: Hê-rô-đê
nói dối các nhà chiêm tinh là muốn tìm biết Hài Nhi Cứu Thế để đến bái
lạy, nhưng trong thâm tâm ông muốn tiêu diệt để trừ hậu hoạ.
- C 9-10: +
Trông thấy ngôi sao họ hết sức vui mừng: Các nhà chiêm tinh vui mừng vì
nhờ có ánh sao dẫn đường, họ hy vọng sẽ tìm thấy Hài Nhi Cứu Thế.
- C 11-12: + Họ
vào nhà: Chắc chắn sau đêm Chúa Giáng Sinh, hai ông bà Giu-se Ma-ri-a
không tiếp tục sống giữa cánh đồng Bê-lem, vì thiếu các phương tiện tối
thiểu cho các sinh hoạt ăn ở và nuôi dưỡng Hài Nhi mới sinh. Có lẽ
hai ông bà đã thuê nhà tại thị trấn Bê-lem để ở tạm. + Sấp mình bái
lạy Người: Khi ma quỉ cám dỗ Đức Giê-su bái lạy nó, Người đã khẳng
định chỉ bái lạy một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Mt 4,9-10). Qua hành
động bái lạy này, các nhà chiêm tinh gián tiếp tin nhận Hài Nhi Giê-su
chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. + Lấy vàng, nhũ hương và mộc
dược mà dâng tiến: Theo phong tục Đông Phương, các nhà chiêm tinh dâng
lên Hài Nhi ba lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược, là đặc sản
quê hương của các ngài. Vàng tượng trưng cho đức Tin, nhũ hương cho đức
Cậy và mộc dược cho đức Mến. Theo các giáo phụ thì Vàng ám chỉ
tước vị Vua, Nhũ hương ám chỉ tước vị Tư Tế, và Mộc dược ám chỉ về
cuộc tử nạn và mai táng của Hài Nhi sau này. + Họ được báo
mộng...và đi lối khác mà về xứ minh: Hê-rô-đê dù nham hiểm quỷ quyệt
đến đâu, cũng không thể phá bỏ được chương trình cứu độ của Thiên
Chúa. Những kẻ chống đối Thiên Chúa sớm muộn cũng sẽ chuốc lấy
thất bại mà thôi.
4. CÂU HỎI:
1) Bạn biết
gì về Bê-lem là nơi sinh của Đức Giê-su ? 2) Hê-rô-đê Đại Vương và
Hê-rô-đê An-ti-pha có liên quan đến cuộc đời của Đức Giê-su thế nào ?
3) Các vị chiêm tinh gia là ai? Dựa vào bằng chứng nào mà người ta
quả quyết có 3 vị ? Truyền thuyết dân gian kể tên ba vị đó là gì ?
4) Tại sao vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giê-ru-sa-lem xôn xao ? 5)
Vua Hê-rô-đê mời các thượng tế và luật sĩ đến làm gì ? 6) Tại sao
Vua Hê-rô-đê lại cặn kẽ hỏi các nhà chiêm tinh về thời giờ ngôi sao
xuất hiện ? 7) Tại sao Tin Mừng nói các nhà chiêm tinh vào nhà đang
khi trước đó cho biết Chúa sinh ra trong hang đá chăn giữ súc vật ban đêm
và đuợc đặt nằm trong máng cỏ ? 8) Qua hành động bái lạy Hài Nhi mới
sinh, các đạo sĩ biểu lộ niềm tin thế nào về Hài Nhi này ? 9) Ba lễ
vật là vàng, nhũ hương và mộc dược mà các đạo sĩ dâng tiến Hài Nhi
mang ý nghĩa thế nào ? 10) Tại sao các đạo sĩ chọn đi lối khác về
quê hương ? 11) Chúng ta có thể rút ra bài học gì trước sự thất bại
của vua Hê-rô-đê khi ông muốn sát hại Hài Nhi Cứu Thế ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà
Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng
nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến" (Mt 2,11).
2. CÂU CHUYỆN: HÃY CHO NGƯỜI NGHÈO QUẦN ÁO TỐT.
Một buổi
chiều nọ, anh con trai thấy một người hành khất áo quần rách nát
đứng xin trước cổng nhà. Anh ta liền vào trong nhà lấy ra một bộ
quần áo và cho người ăn xin. Bộ đồ này đã cũ và bị rách toạc một
miếng ngay tại đầu gối, nên từ lâu anh ta không thèm mặc. Nhận được
bộ đồ cũ, người hành khất rất mừng và cám ơn rối rít, vì tuy đã cũ
nhưng nó vẫn còn tốt hơn bộ quần áo ông ta đang mặc rất nhiều. Sau đó
lão hành khất liền mặc ngay bộ đồ mới vào người. Còn anh thanh niên
thì cảm thấy vui mừng vì đã làm được một việc thiện.
Mấy tháng sau,
một hôm người hành khất kia lại đến ăn xin. Lần này ông ta mặc bộ đồ
lành lặn và tương đối còn mới. Anh thanh niên thấy ông lão mặc bộ đồ
màu sắc giống như quần áo của mình liền hỏi: "Sao ông lại có bộ đồ
mới kia ?" Lão hành khất tươi cười trả lời: "Thì đây cũng là
quần áo của cậu đó ! Số là cách đây một tuần, khi tôi mặc bộ quần
áo anh cho hôm trước, đến xin thì gặp ba anh. Thấy tôi mặc bộ đồ đã
rách, ông cụ hỏi xem ai cho. Tôi trả lời là một anh ở trong nhà ông.
Ông im lặng rồi vào nhà đem ra bộ đồ tôi đang mặc đây và nói:
"Xin lỗi ông, lần trước con tôi đã lấy lộn bộ đồ rách bỏ đi mà
cho ông. Hôm nay tôi thay nó để biếu ông bộ quần áo tốt này".
Sau khi người
hành khất ra về, chàng thanh niên lập tức vào nhà tìm cha và cằn
nhằn tại sao ông lại đem cho bộ đồ anh còn đang sử dụng. Bấy giờ
người cha liền ôn tồn nói rằng: "Con ơi, cha rất vui khi thấy con
biết thương người và cho người nghèo quần áo để mặc. Nhưng cha biết con
còn nhiều quần áo không dùng đến mà sao con không cho ? Lần sau nếu cho
ai thứ gì, thì con nên cho những gì còn dùng được. Chứ nếu cho họ
bộ đồ đã rách thì họ làm sao có thể mặc được hả con ?"
3. SUY NIỆM:
1) "Chúng
tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông": Hôm nay,
các vị chiêm tinh hay cũng gọi là đạo sĩ từ phương xa đã nhận ra dấu hiệu Đấng
Cứu Thế mới sinh qua sự xuất hiện của ngôi sao lạ trên bầu trời. Theo ánh sao
chỉ đường dẫn lối, các ngài đã lên đường tìm kiếm Đấng Cưu Thế gặp được Chúa
Giê-su. Ánh sao chiếu sáng trên bầu trời đêm tối, đã giúp các đạo sĩ tìm ra
hướng đi. Rồi lời Chúa trong Sách Thánh cũng là ánh sao giúp các ngài sáng lên
niềm tin vào Chúa. Nhưng chính Hài Nhi Cứu Thế Giê-su mới thực là ánh sáng giúp
các ngài tin và theo một con đường mới để về quê hương.
Ngày nay có
nhiều người cũng đang đi tìm Chúa. Nhưng họ không biết đường và phương hướng
nào, nên cần có những ánh sao soi đường dẫn lối. Ngày nay Chúa không còn dùng
ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi tín hữu phải trở thành một vì sao
soi dẫn cho mọi người đến với Chúa. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân
nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ phản
chiếu ánh sáng nhận được từ nơi Thiên Chúa như lời Đức Giê-su: "Cũng vậy,
ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời"
(Mt 5,16).
Người tín hữu
phải chiếu ánh sáng hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa. Niềm hy vọng vào một
"trời mới đất mới" cho chúng ta thêm sức mạnh để tích cực góp phần
xây dựng xã hội chúng ta đang sống ngày một tốt đẹp hơn, an toàn sạch đẹp hơn,
công bình nhân ái hơn. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng cũng giúp chúng ta
nhận định đúng giá trị của tiền bạc và của cải đời này để sử dụng chúng làm
sáng danh Chúa và phục vụ tha nhân. Niềm hy vọng chính là ánh sáng làm con
người và cuộc đời của chúng ta ngày thêm tươi đẹp.
Người tín hữu
phải chiếu ánh sáng tin yêu: Tin cậy Chúa và yêu thương tha nhân. Tin yêu để
xây dựng một cuộc sống chan hoà tình Chúa tình người. Tin yêu để sẵn sàng tha
thứ và hoà giải với nhau. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối các mối bất hoà chia
rẽ và thù hận.
Người tín hữu
còn phải chiếu ánh sáng công bình, bác ái giữa đời thường. Lòng yêu mến Chúa
phải được thể hiện qua tình thương đối với người đồng loại. Chính qua ánh sáng
hy vọng, tin yêu, công bình bác ái nói trên mà lương dân sẽ dễ dàng nhận biết
và tin yêu Chúa để cùng chúng ta đi trên con đường mới để về quê trời hưởng
hạnh phúc ở đời sau.
2) "Chúng
tôi tìm đến bái lạy Người": Để tìm gặp Chúa, các đạo sĩ đã phải
từ giã gia đình để tiếp nhận những điều bất ngờ: Họ nghĩ Đấng Cứu Thế
là con của nhà vua tại kinh thành hoa lệ, nhưng Hài Nhi Cứu Thế lại
không sinh ở nơi giàu sang phú quý, mà nơi một cái hang chăn giữ chiên cừu
trong hình hài một trẻ thơ yếu đuối nghèo khó.
Lễ Hiển Linh là
lễ Chúa tỏ mình ra. Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa và được hưởng ơn
cứu độ. Các kinh sư và biệt phái tuy hiểu biết Thánh Kinh, nói rõ về nơi Đấng
Cứu Thế sẽ sinh là thành Bê-lem, nhưng họ lại không gặp được Chúa, vì họ chỉ
hiểu biết Kinh Thánh mà không muốn làm theo lời Chúa dạy bảo. Về phần bạo vương
Hê-rô-đê tuy muốn tìm biết Hài Nhi Cứu Thế nhưng đã không gặp được Người. Vì
ông ta tìm Chúa không phải để tin yêu, nhưng để giết hại Người. Trái lại, những
người nghèo hèn là các mục đồng ở ngoại ô Bê-lem, và những đạo sĩ từ phương xa
tìm đến Giê-ru-sa-lem lại gặp được Người. Những người này dù không thông hiểu
lời Chúa trong Sách Thánh, nhưng đã gặp được Chúa vì có tâm hồn đơn sơ chân
thành. Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng chỉ gặp được Chúa nếu chúng ta biết
noi gương các đạo sĩ để luôn chân thành muốn tìm kiếm Chúa, sẵn sàng dấn thân phục
vụ Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo khó, tàng tật và bị bỏ rơi...
3) "Rồi
mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến": Năm
xưa, các nhà đạo sĩ đã tìm Chúa và đã gặp được Đấng Cứu Thế mới sinh. Họ đã bái
quỳ trước một Hài Nhi bé nhỏ yếu đuối nghèo hèn. Họ đã mở bảo tráp lấy bàng,
nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến cho Người. Những lễ vật này là biều
hiệu của lễ vật nội tâm là đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Khi dâng
vàng, các đạo sĩ đã tuyên xưng vương quyền của Hài Nhi Cứu Thế; Dâng
nhũ hương các ngài bày tỏ lòng tin Người là vị tư tế của Giao Ước Mới;
Dâng mộc dược là đề cao mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đấng
Thiên Sai. Khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã mang thân phận của một
người nghèo: đã sinh ra trong hang chiên cừu nghéo khó cùng cực, đã chọn cha mẹ
là hai ông bà Giu-se và Ma-ri-a nghèo khó, đã sống hoà đồng với các người lao
động nghèo hèn tại làng quê Na-da-rét. Người đã sống nghèo khó đến độ không có
hòn đá gối đầu. Người còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai có tinh thần
nghéo khó, những người đang bị đói khát, tù đầy, bệnh tật và bị người thân bỏ
rơi...
Hôm nay, Chúa
vẫn đang hiện diện giữa chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa và mời gọi
chúng ta quảng đại hiến thân phục vụ Người nơi những người nghéo khó bên cạnh
chúng ta Chúa muốn chúng ta trao tặng cho Chúa những món quà cụ thể như cơm,
áo, gạo, tiền... kèm theo tinh yêu thương và thái độ chân thành phục vụ họ cách
vô vụ lợi... Vậy chúng ta sẽ dâng tặng cho Chúa những gì trong mùa Giáng Sinh
này?
4. THẢO LUẬN: 1) Bạn có khi nào cảm phục một ai đó trong số các nhà
khoa học gia, nghệ sĩ, diễn viên điện ảnh, thầy cô hay bạn bè ngoại
giáo không ? 2) Ngày nay bạn có thấy Chúa tiếp tục tỏ mình ra nơi
những người lương dân đang sống bên cạnh mình hay không ? 3) Bạn sẽ làm
gì để trở thành ngôi sao lạ dẫn đường cho các bạn bè ngoại giáo này
tìm thấy Chúa là Đấng Thiên Sai và tin theo Người ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Biết bao lần chúng con đến nhà thờ nhưng đã không gặp được
Chúa. Đạo con giữ mới chỉ là những thói quen; Lễ con dâng chỉ là
những lời kinh sáo rỗng nhàm chán; Của cải con cho người nghèo chỉ
là những thứ đồ hư vất bỏ... Nhưng con lại tưởng mình là đạo đức
thánh thiện và đang làm chứng nhân cho Chúa. Ước gì hôm nay con nhận
ra những thiếu sót của mình, để của lễ con dâng phải là thứ vàng
đức tin quý giá, là nhũ hương của đức cậy khiêm nhu, là mộc dược của
lòng hy sinh mến Chúa nồng nàn. Hy vọng Chúa sẽ vui nhận, và ban muôn
hồng ân cho chúng con. Để khi gặp được Chúa, như các vị đạo sĩ xưa,
chúng con sẽ thể hiện đức tin vào Chúa, sẽ tránh xa những thói gian ác
lọc lừa để làm theo Lời Chúa dạy, sống hiệp nhất xin vâng và phục
vụ tha nhân hầu sau này sẽ được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa
muôn đời.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH -
HHTM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét