LỄ TẤT NIÊN TẠ ƠN TẠI BẢO HÀ |
LỄ TẤT NIÊN TẠ ƠN TẠI BẢO HÀ |
LỄ TẠI TÂN AN |
LỄ THIẾU NHI TẠ ƠN TẠI BẢO HÀ |
CHUC TẾT TỈNH LÀO CAI |
LỄ TẤT NIÊN TẠ ƠN TẠI LÀO CAI
|
LỄ GIAO THỪA: Mt 5,1-10
MỒNG MỘT: Ga 14, 23-27 hoặc Mt 6, 25-34
1. Quê
hương thật (Ga 14,23-27)
2. Thời
gian (Mt 6,25-34)
3. Nhìn
lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
4. May
mắn (Mt 5,1-10)
5. Tin
tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
6. Hạnh
phúc (Mt 6,25-34)
7. Niềm
vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
8. Suy
niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Năm
mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
10. Tôi
là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
11.
Thiên Chúa hay thần tài?
12. Xin
ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
13.
Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
14.
Thánh Lễ Giao Thừa
15.
Bình an
16.
Chúng ta là người hành khất
17.
Giây phút linh thiêng
18. Lời
cảm tạ tri ân
19.
Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
20. Lễ
Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
21. Lời
hứa năm mới
22. Xin
cho tất cả đều mới
23.
Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
24.
Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
25. Cầu
bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10
26.
Thánh Lễ Giao Thừa
27.
Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
28. Hãy
tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)
29.
Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại
30. Thánh
Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
31.
"Những Dấu lặng của Mùa Xuân"!
32. Vạn
sự như ý... Chúa
33.
Hạnh phúc đích thật
34.
Ngày đầu năm – R. Veritas
35.
Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
36. Năm
mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
37.
Bình An Năm Mới – Mt 6, 25-34
38. Bàn
giao năm cũ – Mt 5, 1-10
39. Tết
cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
40.
Hạnh phúc trường sinh
41.
Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
42.
Bình an và hạnh phúc
43.
Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
44.
Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34)
45. Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người
46. Tám
Mối Phúc (Mt 6,25-34)
47. Ơn
Bình An (Mt 6,25-34)
48.
Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
49. Cầu
bình an trong năm mới
50.
Bình An - Quà Tặng Năm Mới
51.
Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
52. Một
năm mới tốt đẹp
53. Mùa
Xuân là Mùa của Hy Vọng
1. Quê
hương thật (Ga 14,23-27)
Trong
những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều
may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu,
chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang,
những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn
chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng
ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương
hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê
hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi
đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những
giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông
Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn
những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà
truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ
hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn
cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý
tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở
với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống
đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy
sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm
thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công
và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả
lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở
về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể
đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho
nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê
hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh
hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất,
địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố
gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó
chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với
những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an
và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
2. Thời
gian (Mt 6,25-34)
Một năm
mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta.
Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người
xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ
trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta
trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì
so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên
một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như
bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là
mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc
đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó,
tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc
sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người.
Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào
trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được
những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để
hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt
sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố
gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người.
Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn
trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không
muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời
Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng
thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy
đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua
biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém
đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là
một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới
ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi
là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng
thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý,
nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu
chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là
chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời
vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ
khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là
gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ.
Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo
vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng
ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện
cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và
tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: "Ta là
Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được
sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào". Thực vậy,
Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự
sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn
được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những
điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy,
cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước
hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn
đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối
với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như
Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính
mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ
thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa
mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến
Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não
bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo.
Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng
ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến
Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa
thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
************
3. Nhìn
lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng
ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là
một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh
hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai
là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta
trong giây phút linh thiêng này?
Trước
hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết
ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta
đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu
thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi.
Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến
tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây
dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn.
Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau
cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự
chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc
đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không
có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu
ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có
như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho
rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác,
nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi
nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà
vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những
công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng
mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự
ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm
lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì
phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết
ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến
tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin
thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát
triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi.
Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về
tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải
biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo
vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và
mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ
lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào
Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như
phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng
kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ
điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa
năm cũ và năm mới vậy.
***********
4. May
mắn (Mt 5,1-10)
Trong
dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc
tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng
nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều
may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế
nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì
mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực
vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
- Một
năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ
vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
- Đó là
một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi
hỏi một cô gái đi buôn:
- Thế
nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc
hẳn cô ta sẽ trả lời:
- Đó là
một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và
nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi
hỏi đôi vợ chồng trẻ:
- Năm
mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ
trả lời:
- Đó là
một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay
ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con
trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh
đôi, nuôi luôn một thể.
Cái
được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những
thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi
sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ
nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống
tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị
khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành
tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may
mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc
cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những
việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực
vậy, Chúa đã phán:
- Được
lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm
đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa
màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta
đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi
đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang
lên:
- Hỡi
kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi,
thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích
sẽ để lại cho ai?
Thánh
nữ Têrêxa Avilla đã nói:
- Tất
cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với
Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa
những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ
trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là
sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày
kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn
thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên
sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó
ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo
thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện
này, rồi lăn đi khắp mọi nơi... Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm
những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút
nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
- Hãy
nâng tâm hồn lên.
Và
chúng ta đáp lại:
- Chúng
con đang hướng về Chúa.
Đúng
thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về
Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
- Tôi
sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái
đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải
xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa
là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng
còn lại gì nữa.
Và như
thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may
mắn.
5. Tin
tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày
Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì
theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì
ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều
người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau
hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống
trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và
uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch,
lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao
vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các
xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách - kể cả những cách ô
nhục và thấp hèn - để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một
số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra
người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công
trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ
thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v... thì chúng ta hiểu tại
sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù
chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử
hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay
có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những
người có "của ăn của để" thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ
phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia
đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già!
Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống,
chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời
ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh
lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi
sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít
người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống
gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải
là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ
không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và
công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa
lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên
hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật
(trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình
thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày
đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải
là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm
tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên
Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho
những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh
nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên
Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời
và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm
Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác
vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm
ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
6. Hạnh
phúc (Mt 6,25-34)
Trong
giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm
mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và
như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta,
của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những
dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục
hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi
công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng.
Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng
ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự
thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là
đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu
chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh
phúc cho nhau.
Chúng
ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là
hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh
phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực
ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá
quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên
Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha
của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được
hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại
đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm
chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế
biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một
cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là
phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam
kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ,
biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng
ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc
anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu
cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn
khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được
hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình
trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh
chia rẽ và thù oán.
Đừng để
những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên
của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón
nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu
chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng
nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người
hạnh phúc đích thực.
7. Niềm
vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không
gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm
để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ
cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế
mà người ta đã bảo:
- Một
ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế
nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi
Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui,
bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên
cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các
ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết
cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực
vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao
lại như thế?
Trước
hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia
đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà
mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với
cặp mắt long lanh, cô bé nói:
- Xin
mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của
con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày
trọng đại ấy.
Phải,
một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì
thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà
thôi.
Vua
thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de
Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia,
người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
- Hẳn
con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân
mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé
yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật
can cảm:
- Thà
chết chẳng thà phạm tội.
Với các
tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông
không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng
ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi
lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ,
đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép
Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ
ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa
mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa
trong sự quên lãng.
Nếu
chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi
tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với
Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng
ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa
nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc
sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối
mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn
hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của
Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc
cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta
được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng
một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
8. Suy
niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
PHẤN
ĐẤU TẠO MÙA XUÂN
Mùa
Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết.
Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại
Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ
nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa
Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một
cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn
những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng
những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật
vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không
hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến
tội nghiệp.
Nhưng
ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa.
Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa
tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu
hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa
Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ
trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công
và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt
được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi
gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn
đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già
nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có
được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương
tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ
những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với
Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh
ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn
đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa
cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những
chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho
hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con
người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí
năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập
luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào
mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau
cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm
nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm
cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những
gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc
cho đời.
Để loại
bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn
đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng.
Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ
mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân
tươi đẹp.
Năm Mới,
tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên
một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
9. Năm
mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm
cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta
thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu
chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không
hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn
chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về
những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới
hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em
bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh
phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng
ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người,
hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng
theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài
không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
- Hạnh
phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng
hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn...mà nhiều người đã mất
đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay
không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta
niềm hạnh phúc.
Đối với
nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều
may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những
điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc
đích thực.
Nếu sức
khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc
nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo
uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về
sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được
nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm
được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
- Lòng
tham thì vô đáy...Đứng núi này trông núi nọ...Được voi đòi tiên...
Và như
thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa
mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được
nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ
thầm nghĩ:
- Có
tiền mua tiên cũng được.
- Tiền
là tiên là phật,
Là sức
bật của tuổi già,
Là cái
đà của danh vọng,
Là cái
lọng để che thân,
Là cán
cân của công lý.
Có tiền
là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính
nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật
trên.
Paul
Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn
mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều
phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi
ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt
lên:
- Tôi
là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ
trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy
chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn
chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi
đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những
nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích
thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn
vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và
Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa
nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không
tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như
thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực
vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được
hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở
cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự
trị.
Nếu
trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung
với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của
việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm
hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh
phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực
vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta
thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong
ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em
một năm mới bình an và hạnh phúc.
10. Tôi
là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông
vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có
đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người
hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác,
còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày
nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành
người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày
Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường.
Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao
so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn... Ông tự nghĩ:
bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận
được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã
gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo
đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai
có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh
đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối
xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông
đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong
đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn
vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con
chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón
nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: "Từ
trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của
người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người
hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với
tất cả tấm lòng yêu thương... Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần
gian".
Một
thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy
nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và
7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được... Cuối
cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình
người tá điền nghèo... Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên
đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi
ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy
hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban
tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt
lên với tất cả xác tín: "Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian
này".
Câu
chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về
hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta... Người Kitô là một người lữ hành
đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là
trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp
đầy bằng chính Chúa.
11.
Thiên Chúa hay thần tài?
(Suy
niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)
Trong
bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm
A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để
chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu
như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời
không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ
hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở
trần gian này, - điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng
kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không
làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không
mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi
sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo
lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: "Vậy
đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ
của ngày đó"
Chúng
ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng
mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi
sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những
lo lắng chính đáng
Con
người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi
lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc,
cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có
thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất
thoát... Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính
đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa
Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời
cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có
thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm
chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: "Ngày nào có cái khó,
cái khổ của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân
phận con người.
Không
những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta
phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công
cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra
lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những
nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa
ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn
như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải
có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về
đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời
mình.
Thiên
Chúa hay Thần Tài?
Câu
then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước
Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của
cải vật chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo
số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần
thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho
Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng
đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần
phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy
của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng
ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải
giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực
tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội
tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục
tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng
hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các
tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại
"trả thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định
mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế
con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi hàng loạt
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị
trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những
tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không
dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của
cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở cửa", điều đó
cũng đang được chứng minh.
Của cải
là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó
phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất
có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó
với bất cứ giá nào.
"Tiên
vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi
hỏi": Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải
vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất,
sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của
cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo
ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và
bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu
thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh
phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
12. Xin
ơn bình an – ĐGM. J.B. Bùi Tuần
Để mừng
Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc
thánh.
Lộc
thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy
vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy,
Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa
là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh.
Lời đó là: "Bình an cho các con" (Ga 20,20).
Theo
tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất
cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng,
để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự
cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là
thế này:
Ngay
sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ
ràng quyết định của Người: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các
con" (Ga 20,21).
Như
vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi,
mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng
được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử
của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa
sai ta đi để làm gì? Chúa phán: "Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thọ tạo" (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là "Sám
hối, để được ơn tha tội" (Lc 24,53), và đi theo Người "là đường, là
sự thực và là sự sống" (Ga 14,6) hầu được về với "Thiên Chúa là tình
yêu" (1 Ga 4,8).
Chúng
ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản
thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một
cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất
Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa
hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn
trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế
cho thấy:
Có
những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với
những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những
gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên
đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để
biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an
của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là
làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: "Như Cha Thầy
luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc" (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm
việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài
tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục
giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
*********
13.
Thánh Lễ Tạ Ơn tất niên
(Lm.
Giuse Trương Đình Hiền)
(Is
63,7-9; 1Co 1,3-9; Lc 1, 39-45)
Dẫn
nhập đầu lễ:
Anh chị
em thân mến,
Chiều
hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên,
ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang
theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ
cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để
hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng
Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa
Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ
nầy.
Giờ
đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng
Lời Chúa:
Đã lắm
phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết
sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng
ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên: "Hãy tạ ơn Chúa vì
Chúa nhân từ
Muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy
Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài dã
nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy
dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy
khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay
trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn
thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin
nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực
hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì
những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa
giàu ân".
Nhưng
để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai
Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã
đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu
nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức
Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân
tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với
Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của
Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên
Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của
Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha:
Vì vậy,
khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế,
nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá
tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý
Ngài, như Sách Thánh đã chép về con." (Dt 10,5)
Thật
vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một "đền
thờ vĩ đại" và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một
cuộc "đại thờ phượng", một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt
qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ
phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
"Nầy
chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên
núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem.....Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây –
giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và
sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế." (Ga
4,21-24)
Qua
những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm
tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần "Tám mối
Phúc thật", tinh thần "nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương...", tinh
thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác
của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung
hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của
người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như
Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ
trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc
phục sinh...
Rồi
cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên
lời tri ân cảm tạ: "Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu..."
Và còn
hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi
Ngài nói lời "Con phó thác hồn con trong tay Cha". Đó chính là lời tạ
ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang
tái diễn mỗi ngày.
2. Đức
Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ
hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là
con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay,
trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một
"bài ca tạ ơn", đã có một "cuộc đời tạ ơn" theo cung cách
ấy. Đó chính là bài ca "Magnificat", đó chính là "cuộc đời của
Trinh nữ Maria". Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài
Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương
sáng ngời để nhân loại bước đi trong "con đường tạ ơn" Thiên Chúa,
trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
- Tạ
ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì
hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa...."
- Tạ
ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra "những việc lạ lùng Thiên Chúa đã
thực hiện nơi tôi".
- Tạ ơn
phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân
phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn
phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời
hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: "Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ
Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành
cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời".
Và Mẹ
đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ
thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn
thờ Thánh Giá.
3. Sống
chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời
kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế
TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng:
- Thái
độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính "thời sự',
"cơ hội" đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn
hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc
đắc...), nhưng "Tạ Ơn" phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử
hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống.
Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu
gương: "Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!". Dĩ nhiên, có
những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên
Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt...Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những
hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì "bàn tay ta làm
nên tất cả", có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn...
- Bởi
vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy
cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh
sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám
phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn
lúc nào hết, cái nảo trạng 'đương nhiên" của chủ nghĩa duy vật vô thần
đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý
luận như thế: "đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của
tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài..." mà A-đam và
E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi
khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ
ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu... nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã
không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được
"phép lạ tình yêu của Thiên Chúa" ghi dấu ấn trên đời thường cuộc
sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã
van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ
thấy mọi sự là "đương nhiên" để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong
giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại
với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà
cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng
hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như
một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng
chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng
ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu
Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành "Lời ca khen cảm tạ
Magnificat":
Hồn tôi
tán tụng Chúa Trời,
Lòng
tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn,
Tạ ơn
Chúa chuộc khoan nhân,
Thương
người tỳ nữ, thương thân phận hèn.
Từ nay
thiên hạ ca khen,
Rằng
tôi có phúc, có duyên lạ lùng.
Rằng
tôi bé mọn khiêm cung,
Được
bàn tay Chúa oai hùng điểm trang,
Cho tôi
nên trọng nên sang,
Cho
Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
14.
Thánh Lễ Giao Thừa
(Bài
đọc 1: Ds 6, 22-27, Bài đọc 2: 1 Tx 5, 16-26. 28, Tin mừng: Mt 5, 1-10)
Lời tạ
ơn
Vậy là
chúng ta đang ở vào những giờ phút cuối cùng của năm Giáp Thân, chuẩn bị bước
vào năm mới Ất Dậu. Và cũng theo lệ thường không biết đã có từ bao giờ, đây là
giây phút để tất cả chúng ta cùng nhìn lại cuộc sống của chúng ta trong suốt
một năm qua. Đồng thời, cũng là lúc chúng ta hướng một cái nhìn vào năm mới.
Nhìn
lại những gì đã lãnh nhận trong năm cũ và hướng về những điều sẽ được ban trong
Năm mới, có lẽ tâm tình thích hợp và đúng đắn nhất của mỗi người tín hữu chúng
ta là tâm tình tạ ơn như lời mời gọi của thánh Phaolô: "Anh em hãy vui
mừng luôn... Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh".
1. Nhìn
về năm cũ:
Cha ông
chúng ta vẫn thường nói: "Ôn cố, tri tân". Do đó, để có thể bước vào
năm Mới một cách thành công, điều đầu tiên chúng ta cần làm là "ôn
cố", nghĩa là nhìn lại cuộc sống chúng ta trong suốt một năm qua. Trong
suốt 365 ngày vừa qua, chắc hẳn đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện trong cuộc đời
của mỗi người chúng ta: chuyện vui cũng có, mà chuyện buồn chắc cũng không
thiếu. Một năm với nhiều thành công và chắc cũng có nhiều vấp váp lỗi lầm.
Nhưng cho dù vui hay buồn, thành công hay thất bại, thì đó cũng là chuyện đã
xảy ra trong cuộc đời của mỗi chúng ta. Giờ đây, khi nhìn lại cuộc sống của
mình trong năm cũ, Giáo Hội mượn lời thánh Phaolô khuyên bảo con cái mình:
"Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn điều xấu dưới bất cứ
hình thức nào thì lánh cho xa".
Vâng,
điều gì tốt thì giữ lại và phát huy, điều gì xấu thì loại bỏ và lánh xa, đó
chính là thái độ của những người khôn ngoan, thức thời, đó là thái độ cần có
của mỗi người chúng ta trong giờ phút Giao thừa này.
Nhìn
lại một năm, có lẽ điều mà mỗi người chúng ta có thể cảm nhận được, đó là hồng
ân Thiên Chúa đang bao phủ cuộc đời của từng người và cả giáo xứ chúng ta.
Vâng, khi nhìn lại một năm qua, có lẽ nhiều người chúng ta phải rùng mình vì
không biết tại sao chúng ta lại đứng vững và vượt qua được nhiều thử thách gian
nan đến thế. Có những biến cố chúng ta không ngờ, những tai nạn tưởng chừng như
không thể tránh khỏi. Vậy mà không biết bằng cách nào, chúng ta đã vượt qua tất
cả. Đối với những người không tin, đó có thể là sự may mắn, nhưng thật ra,
chẳng có cái gì là vô tình. Chính vì thế, trong giờ phút cuối năm này, Giáo Hội
mượn lời Thánh vịnh nhắc bảo từng người chúng ta: "Chúa giữ gìn bạn khỏi
mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào
lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời". Như thế, mọi sự xảy ra trong
đời sống chúng ta chẳng phải là vô tình, nhưng tất cả đều nằm trong sự quan
phòng yêu thương của Thiên Chúa. Và đó chẳng phải là hồng ân tuyệt vời mà Thiên
Chúa ban cho chúng ta đó sao?
Chính
vì cảm nghiệm được hồng ân Thiên Chúa trong cuộc đời mình, tác giả Thánh vịnh đã
cất tiếng ca khen Thiên Chúa: "Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi
đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời". Và nếu quả thật "ơn
phù hộ của chúng ta đến từ Đức Chúa, Đấng dựng nên cả đất trời", thì thánh
Phaolô có lý khi mời gọi chúng ta: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu
nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó
là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Giêsu Kitô".
Tóm
lại, khi nhìn về năm cũ, không phải để chúng ta chán nản bởi vì đã không được
như ý của chúng ta, hay tự mãn vì những điều xem ra thành công, nhưng đây là
giây phút để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và
hết lòng dâng lời cảm tạ Ngài, vì những gì Ngài đã làm cho chúng ta trong một
năm qua.
2. Nhìn
về tương lai:
Mặt khác,
Giao thừa không chỉ là dịp để chúng ta suy gẫm việc đã qua, nhưng còn là thời
gian để chúng ta chuẩn bị hướng tới tương lai. Có lẽ với năm tháng trôi qua,
càng ngày chúng ta càng cảm nghiệm rõ hơn về giới hạn của chính bản thân và của
những người chung quanh, nói chung là giới hạn của con người. Con người giới
hạn phần vì "lực bất tòng tâm", phần vì tính ích kỷ của mỗi người.
Trong năm qua, đã biết bao lần chúng ta hứa hay nhận được lời hứa, nhưng rốt
cuộc chẳng thực hiện được là bao. Lắm khi những người chúng ta tin tưởng nhất
lại là những người làm chúng ta thất vọng nhất. Do đó, tin tưởng nơi Chúa quả
thật là điều cần thiết và là một bảo đảm chắc chắn nhất cho hạnh phúc của mỗi
người chúng ta. Chính Đức Giêsu khi nghe người ta khen ngợi: "Phúc cho lòng
dạ cưu mang ông, và vú ông đã bú!", thì Ngài đã lập tức tuyên bố:
"Hạnh phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa" (Lc 11,
27-28).
Hướng
về năm mới, chúng ta cần có một cái nhìn tươi vui và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Đây không phải là sự vui mừng hay là một niềm tin mù quáng, dễ dãi của những
tâm hồn yếu đuối, nhưng là niềm vui và niềm tin của những tâm hồn mạnh mẽ. Đó
là niềm vui của những người biết rõ những khó khăn, thử thách vẫn còn đó, nhưng
vì tin có Chúa ở cùng, nên họ vẫn luôn vui vẻ, nhìn ra mặt tích cực của các sự
kiện để bước tới trong tin tưởng. Nhìn lên bầu trời đầy mây đen u ám, họ không
buồn vì mây che mất mặt trời, nhưng vẫn vui vì ánh sáng của mặt trời vẫn đủ để
họ nhìn thấy được đám mây đen. Chính trong niềm tin đó, Giáo Hội đã muốn chúng
ta suy niệm về các mối phúc trong Thánh lễ Giao thừa hôm nay. Thật vậy, trong
năm mới sắp tới, cho dù có nghèo khổ, đói khát, hay bị bách hại đi chăng nữa,
thì gia nghiệp Nước Trời đang dành sẵn đó cho những ai hết lòng tin tưởng cậy
trông.
Đồng thời,
không chỉ là thụ động đón nhận những thử thách, Đức Giêsu còn mời gọi chúng ta
sống hiền lành, biết cảm thương và sẵn sàng chia sẻ với những nỗi bất hạnh của
anh chị em mình để rồi đến lượt mình, chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương.
Ngài còn muốn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhận làm con,
khi mời gọi chúng ta sống trong sạch và kiến tạo hòa bình cho thế giới hôm nay.
Và nhờ luôn ở trong Thiên Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc. Chính trong niềm
tin này, thánh Phaolô đã cầu xin cho chúng ta: "Nguyện chính Thiên Chúa là
nguồn mạch bình an thánh hóa toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn
và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta quang lâm".
Cuối
cùng nhờ "Ôn cố tri tân", mà chúng ta nhận ra rằng: Thành quả mà giáo
xứ chúng ta có được ngày hôm nay chính là kết quả của biết bao thế hệ cha ông,
những người còn sống cũng như đã qua đời xây dựng nên. Do đó, giờ phút Giao
Thừa cũng là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta cầu nguyện cho các ngài.
Đồng thời, đây cũng là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hôm nay cần phải chung
sức góp công của mình, để vun đắp cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta ngày càng trở
nên một cộng đoàn sống yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu của Thiên Chúa.
Và không chỉ dừng lại ở cộng đoàn Giáo xứ, cách tốt nhất để chúng ta tỏ lòng
biết ơn ông bà, cha mẹ, đó là tiếp bước các ngài, loan truyền Tin mừng của
Thiên Chúa cho tất cả mọi người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày.
Để kết
thúc bài chia sẻ này, tôi xin mượn lại lời Chúa trong bài đọc một để cầu chúc
cho quý OBACE: "Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em!
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị
em!" trong suốt Năm Mới này. Amen.
15. Bình
an
(Bài
đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một
trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta
nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những
ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn,
làm ăn phát tài...và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả
từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là
sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ "bình an" chính là ước vọng
sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất
cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng,
thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó,
trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của
Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1.
Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước
khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho
chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp
tai ương, bệnh tật..., nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng
với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác,
chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được
tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của
mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó,
tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với
nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là
Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: "Thiên Chúa
phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời.... Liền có như vậy.... Người cũng
làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp". Không chỉ là Đấng
Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta
mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa
nghe trong bài Tin mừng: "Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống
gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em
trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó". Cha chúng ta
thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần.
Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên
Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho
thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời
cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình
an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như
thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó
là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự
kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm
nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con
đường bình an:
Hướng
tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc
đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người
chúng ta: "Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui
lên anh em". Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi
Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện
tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng
ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh
bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui
được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống
nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn
cất tiếng ca vang: "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở
vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi". Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin
tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có
cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác
tín như thế khi nói: "Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được
ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ
cho được phỉ chí toại lòng". Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: "Hãy ký
thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay".
Kế đến,
sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì "cây ngay
không sợ chết đứng". Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể
vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường,
tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu:
"Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn
tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho". Thật vậy, với kinh nghiệm của mình
chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh:
"Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc
dòng giống phải ăn mày thiên hạ". Do đó, để có bình an thật sự trong tâm
hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời
dạy của thánh Phaolô: "Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính
trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những
gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý".
16.
Chúng ta là người hành khất
"Chúng
ta là người hành khất!" lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin
lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống
trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao
giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông
mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng
thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức
tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! "Chúng ta là người hành
khất!" tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút
cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình
này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi
nghe đến "hành khất" ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng
thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa... Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế
sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều
quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy
mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với
phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở
trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những
thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của
cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm... Những điều đó đối với người có
lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của
Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm
tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống,
cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức
qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ
có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến
tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương
... Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi
người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại
nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn
vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới
khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn "Chúng ta là người
hành khất!" Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an,
một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân
đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung
cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: "Chúng ta là người hành
khất!"
Trước
ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy
trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ
đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống,
chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa... Là
người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần
thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần:
lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ
cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: "Chúng ta là người
hành khất!"
17.
Giây phút linh thiêng
(Lm
Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Thi sĩ
Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ rất ý nghĩa:" Giây phút linh thiêng đã khởi
đầu...". Xuân về được bắt đầu bằng giây phút giao thừa. Người người, nhà
nhà, mọi gia đình, mọi người đón chào giây phút linh thiêng khởi đầu một năm
mới trước bàn thờ hương trầm nghi ngút bay. Giây phút kết nối giữa những ngày
đã qua và những ngày mới bắt đầu. Người Kitô hữu tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi vì
bao hồng ân Chúa ban và cầu sự an bình cho một năm mới đã ló rạng. Đây là khởi
điểm của thời gian khiến con người gợi nhớ về sự sáng tạo mà Thiên Chúa trao
ban cho vũ trụ, cho con người.
GIAO
THỪA, ĐẤT TRỜI GIAO CẢM:
Thời
gian đêm giao thừa rất linh thiêng, huyền nhiệm. Người ta nâng cốc chúc nhau
sức khỏe, may mắn và bình an trong lúc đón chào Chúa xuân đến với hy vọng năm
mới sẽ có những điều mới, an lành và hạnh phúc hơn. Năm mới đến có liên quan
đến vận mệnh của từng con người. Riêng đối với người Kitô hữu, giây phút giao
thừa, thời điểm bàn giao giữa năm cũ và năm mới còn mang ý nghĩa cao vời: con
người sẽ nhớ tới Đấng là Mùa Xuân vĩnh cửu, Đấng tạo dựng đất trời, dựng nên
con người. Đấng ấy là Thiên Chúa, là tình yêu. Đêm giao thừa làm cho người Kitô
hữu nhớ đến Đấng Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng nhân loại, ở với con người, ở với
mỗi người. Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giêsu tới trần gian cũng vào
một đêm, đêm mà Con Thiên Chúa và loài người hợp nghĩa kết giao. Đêm mà các
thiên thần loan báo cho các mục đồng, đại diện cho toàn nhân loại tin vui về
việc Con Thiên Chúa đến với họ và ở lại với họ để ban an bình, và hứa với họ sẽ
ở với họ cho tới ngày tận cùng thế giới.
VẪN LÀ
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG:
Giây
phút giao thừa là thời điểm của một năm mới, là lúc trời đất giao hòa, là nơi
Thiên Chúa gặp gỡ con người. Chính trong giây phút huyền diệu của đêm giao
thừa, con người chỉ có thể nói lên:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất,
xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion"(Tv 133, 3) hoặc
" Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời". Đón
xuân về, trong giây phút giao thừa uy linh và huyền nhiệm, con người vẫn nhớ
tới cảnh đoàn tụ, ấm cúng của gia đình, nhưng vẫn còn những gia đình, những kẻ
thiếu may mắn không có điều kiện, cơ hội để đón giao thừa. Chúa là mùa xuân
vĩnh cửu. Người Kitô hữu được mời gọi sống tin, yêu và sứ mạng của họ là loan
báo Mùa Xuân vĩnh cửu cho mọi người.
Chúa là
mùa xuân vĩnh cửu. Con người biết chia sẻ, biết quảng đại, biết cảm thông và
loan báo Đức Giêsu Kitô, Đấng là mùa xuân bất tận cho người khác là họ đã sống
giây phút linh thiêng nhất của một năm vì họ có Chúa ở cùng, và như vậy khi một
tâm hồn có Chúa ở cùng là một trời xuân bất tận (thánh Gioan Vianney).
Lạy
Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong
giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban
cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để
tôn vinh Danh Thánh (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ giao thừa)
.
18. Lời
cảm tạ tri ân
(Lm.
Jos. Nguyễn Hưng Lợi)
Ngày
cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với
Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế
nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà
con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC
ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn
lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may
mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện? Tại sao mình còn thở,
còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được? Chắc chắn với lòng tin
sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong
cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong
thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:" Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng,
trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì
Người ban muôn phúc lộc chan hòa"(Eph 5, 19-20). Vâng, Thiên chúa đã ban
cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên
Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được
những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để
thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban.
Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ
không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để
thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban
cho con người. Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì
cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa
Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều,
khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm
trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn
là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời
xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm
nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ
hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá
nhiều hồng phúc.
NGÀY
CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn
lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt
lên như Mẹ:"...Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu".
Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh
Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể
nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con người chỉ có thể cùng với tác giả
thánh vịnh:' Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban
cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa"(Tv
115, 12-13)
Ngày
cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và
nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì
mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi
chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã
làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế
nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân? Chúa luôn mời gọi
mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối
năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc
làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh
danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi
mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù
trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp
nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con
được thư thái bình an trước thềm năm mới (Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên).
19.
Hạnh phúc theo Tám Mối Phúc Thật
(Martin
Lê Hoàng Vũ)
Giao
thừa, đêm trừ tịch, đêm 30 tháng chạp âm lịch là thời khắc thiêng liêng nhất
trong năm. Bởi vì đêm nay có một sự chuyển giao của thời gian: Một năm cũ ra đi
và năm mới lại đến. Chính vì vậy người Việt Nam dù quanh năm đi làm ăn xa cũng
cố gắng thu xếp trở về với gia đình trước đêm nay để cùng với người thân đón
một năm mới lại đến. Đêm giao thừa còn là thời khắc "ngừng chiến" để
con người tận hưởng bầu khí ấm áp của tình nghĩa gia đình, giữa anh chị em với
nhau và giữa cha mẹ với con cái, họ tạm quên đi cuộc sống đầy dẫy điều ích kỷ,
bon chen, sự vội vã, vất vả. Trong giờ phúc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới
ai trong chúng ta cũng hy vọng năm mới tới mọi sự sẽ tốt đẹp hơn, điều hạnh
phúc sẽ đến với mình và gia đình.
Cùng
hòa chung với niềm vui đón năm mới của dân tộc, đêm nay người Kitô hữu Việt Nam
hướng lòng về Thiên Chúa là nguồn mạch của mọi sự Thiện hảo, cầu xin Ngài ban
mọi điều tốt lành trong năm mới. Trong niềm tin ở Chúa là chủ thể của thời
gian, là Đấng điều khiển mọi vận hành của thời vũ trụ, là An-pha và Ô-mê-ga,
nghĩa là khởi đầu và tận cùng của lịch sử, thì đối với chúng ta giây phúc giao
thừa là dịp của tri ân và cảm tạ. Chúng ta cảm tạ Chúa vì suốt một năm qua đã
cho chúng ta được sống, đã gìn giữ chúng ta trước mọi nguy biến của cuộc đời và
đã tặng ban muôn vàn ơn phúc dư đầy. Thiên Chúa luôn quảng đại ban ơn cho con
người. Hạnh phúc cũng là một ân ban của Thiên Chúa.
Đặc
biệt thánh lễ đêm giao thừa được cử hành theo truyền thống dân tộc là dịp đoàn
tụ của một gia đình rộng lớn hơn, gia đình con cái Thiên Chúa, họ cùng tin
Thiên Chúa là Cha và cùng nhận mọi người là anh chị em với nhau, họ ngồi lại
bên nhau để ôn lai những việc đã qua trong năm cũ và hướng đến năm mới.
Bài Tin
Mừng được đọc trong đêm hôm nay thánh sử Matthiêu ghi lại bài giảng Tám mối
phúc thật mà Chúa Giêsu đã công bố trện một ngọn núi. Lắng nghe đoạn Tin Mừng
này và cùng suy nghĩ trước giờ phút thiêng liêng khi bước sang một năm mới
chúng ta sẽ hiểu được thế nào là hạnh phúc.
Tám mối
phúc thật được công bố ở trên một ngọn núi. Điều này gợi cho chúng ta nhớ đến
Thập Giới mà Thên Chúa ban cho dân Israel qua Môsê. Tám mối phúc thật là Bản
Hiến Chương của Nước Trời, là lời mời gọi trong đời sống của mỗi người tín hữu
phải biết vươn lên. Cho nên tất cả những ai đi theo Chúa Giêsu, và muốn vào
Nước Trời thì không thể không đi qua con đường của Tám mối phúc thật.
Giờ đây
cùng nhau suy niệm về hạnh phúc dưới ánh sáng của Lời Chúa chúng ta nhận ra được
nhiều điều.
Ngày
nay trong cuộc sống có rất nhiều thứ hạnh phúc giả tạo hay còn được gọi là thứ
hạnh phúc ảo đang lôi cuốn chúng ta, Chúng có nhiều hình dạng, có vẻ đẹp, có
sức quyến rũ và hứa hẹn một cuộc sống dễ dãi, luôn muốn được thỏa mãn, muốn
hường thụ cuộc sống với những đam mê thấp hèn theo bản năng, sẵn sàng quên
người để chỉ tìm sự sung sướng cho riêng mình. Họ nhất định phải "hạ gục
nhanh tiêu diệt gọn" người khác, nhất là đối thủ của mình để có được địa
vị, danh vọng, nhưng xem ra khi đạt được tất cả những điều đó hạnh phúc vẫn là
điều xa với. Nhiều người cũng cho rằng một gia đình hạnh phúc là trong đó những
thành viên phải có mức lương cao, quan hệ rộng, có tiếng tăm, có thế lực,nhà
cửa đầy đủ tiện nghi, nhiều tiền,nhưng chưa chăc hạnh phúc lại ở trong gia đình
đó. Hạnh phúc không bao giờ được xây đắp bằng vật chất.
Theo
Chúa Giêsu dạy trong Tám mối phúc thì hạnh phúc chính là dám sống nghèo, sống
hiền hòa, sống ngay thẳng, sống yêu thương, xây dựng hòa bình, và có thể vì
Chúa mà chịu khổ đau. Tám mối phúc thật mà Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta
sống theo không phải là một lý thuyết suông hay không phải là điều không thể
thực hiện mà đó là việc cần làm ngay trong năm mới tới đây, là bản tự kiểm cho
chúng ta trong suốt một năm qua. Chính khi sống theo những điều ấy chúng ta lại
tìm được hạnh phúc đích thực.
Cuối
cùng vế thứ hai của những lời chúc phúc nói về phần thưởng mà Thiên Chúa ban
cho những người sống theo Tám mối phúc. Hạnh phúc là được vào trong Nước Trời.
Hạnh phúc là được nhìn thấy Thiên Chúa. Hạnh phúc là được thiên Chúa ủi an.
Hạnh phúc là được Thiên Chúa yêu thương.Hạnh phúc là được làm con Thiên Chúa
.... Tất cả những điều đó phải là mối lo lắng của chúng ta trong đêm giao thừa
này.Mỗi người cần tự hỏi liệu: năm mới tới đây chúng ta có được những điều Chúa
hứa ban như trong Tám mối phúc thật hay không?
Tới đây
để kết bài, chúng ta cùng để tâm suy nghĩ một lời chúc của một tác giả người
Pháp không rõ tên được đăng trên CG và DT những ngày gần đây như sau:
"Nhân
dịp năm mới đang đến,
Tôi xin
chúc bạn.
Không
phải là sự thành công trong công ăn việc làm.
Nhưng
là tiếp rước đón nhận.
Trong
trái tim và trong cuộc sống.
Từng
ngày một và từng bước một,
Tình
yêu của Chúa đang mang đến ý nghĩa cho sự hiện hữu.
Tôi
chúc bạn không phải là không gặp những thất bại,
Nhưng
biết đón nhận như một món quà bất xứng.
Sức
mạnh giúp bạn đứng vững, dù cho những gian lao nặng nề,
Tôi
chúc bạn không phải những ngày êm ả, nhưng là khả năng để cho người khác quấy
rầy,
Và đón
nhận người khác biệt với mình như một sứ giả của Chúa.
Tôi
chúc bạn không phải là có câu trả lời cho mọi vấn nạn.
Nhưng
là biết đón nhận những câu hỏi của người khác,
Biết
mang trong lòng bạn những khó khăn âu lo, những xung đột bế tắc của họ.
Để được
gần gũi họ như một người chị, một người anh em biết liên đới.
Như một
người biết chia sẻ và reo rắc an bình".
Lạy
Chúa Giêsu trong giờ phút giao thừa này chúng con xin hết lòng cảm tạ tình yêu
thương của Chúa đã ban muôn ơn lành và gìn giữ chúng con trong suốt một năm
qua. Xin cho chúng con trong năm mới biết hoàn toàn sống cho Chúa và vì Chúa mà
sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi lộc trần thế,bởi không điều gì hạnh phúc cho chúng
con bằng phần thưởng Nước Trời và được ở với Chúa. Xin Chúa chúc lành cho năm
mới Giáp Thân 2004. Amen
20. Lễ
Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH
HƯỚNG
Năm hết
tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em
thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn
thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời
gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để
gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế
nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm
cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm
một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là
hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ
đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ
chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là
Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng
giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó,
chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa
không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì
thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương
lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn
cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy
nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không
treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời
cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang
lại hạnh phúc.
Thực
vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi
này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản
thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng
không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình
thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như
thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc
cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời
mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
- Linh
hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu
chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc
đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng,
càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và
chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm
hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có
được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với
Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích
của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư
tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa
như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của
Thiên Chúa.
Ngài là
Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và
sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có
Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường
thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới
mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên
hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của
Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng
đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên
Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức
được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu
nguyện, kêu xin Chúa.
Một
ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi
chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo
láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những
công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như
trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm
cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở
tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra
đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho
năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính
trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập
tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
21. Lời
hứa năm mới
Đứng trước
thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái
tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn
dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm
tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm
mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm
người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người
Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi
hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm
tin con người.
Với Bạn
Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội
tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là
tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát
triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm
mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm
lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một
mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp
Bạn!
Với
những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào
năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời
sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành
công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và
được an ủi... Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên,
hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào
thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình,
cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa
khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy
đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng
ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng
mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi
người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy.
Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi
người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì
ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha
không để con một mình!
"Có
đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện
dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát.
Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy
dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người
như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay
sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở
bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân
một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay
sang bảo tôi: "Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong
những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha
đã cõng con trên vai Cha!". Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong
Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn
tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh
thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách
trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con
người với nhau.
22. Xin
cho tất cả đều mới
(Lm.
Jos Nguyễn Hưng Lợi)
Đêm
giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các
gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình
có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm
mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu
năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong
Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG
ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca
nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường
lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài"(Tv 66, 2-3). Từ cái giây
phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho
năm mới.
Con
người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn
vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã
muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi
đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái
mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu
luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì
thế như lời thánh vịnh viết:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng
vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý
bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ" và như Tin Mừng đọc trong thánh
lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:" Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho".
Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý
Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh
Phaolô nhấn mạnh:" Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc
lại: vui lên anh em!". Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng
trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân
thực của con người...
TRÊN
HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
"Hãy
lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv
36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình
thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho
Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó
thác:" ...ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày
ấy". Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh
vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác:" Vì
Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó "(Mt 6, 32).
Lạy
Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để
dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết
mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi
càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào"(Lời nguyện nhập lễ,
thánh lễ minh niên).
23.
Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thế là
365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà
thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:" Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu". Giờ
này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là
Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này,
thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con
người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha
thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY
PHÚT LINH THIÊNG
Con
người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một
cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những
ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như
không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy
lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một
năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa
xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có
thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:" Cúi xin Đấng tạo
thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion" và
như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: "trong giờ phút giao thừa này,
chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm
dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh
Thánh". Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người
chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và
con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút
linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa
và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết:".khi
chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban
phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ
lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh
em!". Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta,
và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng
nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên
Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành:"
Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người"(Dân số
6, 22-27).
HÃY TẠ
ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh
Phaolô đã viết:" Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng.
Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh"(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong
giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với
Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta
gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử
thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người
dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi
tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của
Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng
vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế,
con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người
không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh
thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các
gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần
chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa
không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như
trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc
cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy
Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:" Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ
tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời"(Tv
120,1.).
Xin
Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở
nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy
Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu
suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp
lễ, lễ giao thừa).
24.
Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi
giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn
giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường
bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới
khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm,
nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu:" Đây phút
thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối
trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ ".
GIÂY
PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa
như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết
sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh
vịnh:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc
cả từ núi thánh Sion " (Tv 133, 3).
Lời
thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người,
mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa
vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm
thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và
làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên
Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong
hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn
vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người
công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu
khẩn nguyện xin:" Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn
lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy
lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh ". Giây phút giao thừa
là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra
và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự
yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY
PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây
phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ
tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng
người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con
người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa
đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút
Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp
với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa:" Lạy Cha Chí
thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật
là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con
được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng
con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự
sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh
Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy
vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết"
(Lời
Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút
thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân
vĩnh cửu.
MUÔN
ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi
người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ
của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng
ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng
ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho
chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng
ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng
ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình
thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách
chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin
cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để
chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất
cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
25. Cầu
bình an cho năm mới – Mt 5, 1-10
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh
lễ giao thừa là những giây phút thật cảm động, linh thiêng, bởi vì đây là giờ
phút năm cũ và năm mới giao thoa, là giây phút năm cũ sắp sửa bàn giao cho năm
mới.Vị chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân của Ngài và của toàn thể bà
con giáo dân trong xứ đạo bởi vì suốt một năm cũ mọi người đã nhận lãnh biết
bao ân huệ từ nơi Thiên Chúa. Thi sĩ Hàn Mạc Tử đã viết một câu thơ thật chí
lý, thật ý nghĩa:" Đây phút linh thiêng đã khởi đầu...".
Trong
giờ phút thật linh thiêng, Chủ tế và bà con giáo dân cùng nhau dâng lời tạ
ơn.Thánh vịnh đáp ca viết:" Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên
cả đất trời ". Thánh Phaolô viết cho tín hữu Thessalonica:" Hãy cầu
nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh". Thánh vịnh 133,3
lại viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn
phúc cả từ núi thánh Sion ". Giây phút linh thiêng nhà thơ họ Hàn viết là
giây phút huyền diệu, giây phút linh thánh. Trời và đất giao hòa. Những giây
phút này là giây phút cảm tạ ngợi khen. Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi.
Giây phút linh thiêng như Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận là giây
phút Ngài muốn thưa với Chúa rằng:" Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc
sống của con sẽ luôn luôn là " một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu
" với Chúa.
Mỗi
giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Giáo Hội:" Vinh danh Cha, và
Con và Thánh Thần '. Giây phút linh thiêng, giây phút mới của những giây phút
đầu tiên sẽ là khoảnh khắc đầu tiên, khoảnh khắc cuối cùng, khảnh khắc duy
nhất.
Vâng,
những giây phút khởi đầu của một năm mới mở ra những giây phút ân lộc. Và chúng
ta hãy ký thác đường đời cho Chúa. Giây phút giao thừa là giây phút mở ra một
chân trời mới, mở ra niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông bởi vì tất cả đều là
hồng ân, đều là ân lộc của Chúa như lời nguyện nhập lễ diễn tả:" Lạy Thiên
Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ
phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho
chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn
vinh danh Chúa ".
Như Đức
cố Hồng y Phanxicô Xavie Thuận, chúng ta hãy tín thác cho Chúa những gì thuộc
về quá khứ.
"
Ôi phút hiện tại, ngươi hoàn toàn tùy thuộc ở nơi ta.
Ta ước
muốn sử dụng ngươi trong quyền hạn của ta.
Vì thế,
con tín thác nơi lòng nhân từ Chúa,
Con
tiến bước trong đời con như một trẻ em.
Và mỗi
ngày con dâng cho Chúa trái tim con
Nồng cháy
tình yêu để danh Chúa được cao cả hơn"
Giờ
linh thiêng là những giây phút hiện tại, Giờ con mèo lui đi để con rồng hiện
diện. Đó là nói theo cách thông thường của người trần. Còn xét theo mặt linh
thiêng. Giây phút giao thừa là giây phút Chúa đang nhìn ngắm con người và ngược
lại con người đang cầu khẩn Chúa. Kinh tiền tụng thánh lễ giao thừa viết:
" Trong Cha, chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên
cõi đời này, chẳng những chúng con nghiệm hằng thấy hiệu quả tình thương của Cha,
mà còn được nhận lãnh bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận
lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Giêsu sống lại
từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng muôn đời được hưởng ơn Phục Sinh ".
Trong
Đức Giêsu, chắc chắn mùa xuận Nhầm Thìn sẽ mang lại nhiều hạnh phúc bởi vì Đức
Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời
(Dt 13, 8)
Lạy
Chúa, trong đêm giao thừa này, Chúa đã cho cộng đoàn chúng con được tham dự
tiệc thánh. Xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn
hầu suốt cả năm nay, chúng con được sống trong tình thương của Chúa (Lời nguyện
hiệp lễ, lễ Giao thừa, cầu bình an cho năm mới).
GỢI Ý
ĐỂ CHIA SẺ:
1.
Thánh lễ Giao thừa nói lên gì?
2. Giây
phút linh thiêng là giây phút gì?
3. Tại
sao lại nói Trời Đất giao hòa?
4. Đầu
năm mới người ta thường chúc cho nhau những gì?
5. Ân
lộc là gì?
26.
Thánh Lễ Giao Thừa
Trong
những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp
qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình
và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất
nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo
Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường
thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước
hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi
người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên
Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và
vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho
mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên
Chúa chính là việc "Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa", là việc "Chúa ghé
mặt lại". Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt
Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà
cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội... tất cả đều có thể
là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không
vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH
AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan
Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ
chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã
che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt.
Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy
rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân
Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta
trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên
Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi
chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của
Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và
giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ
càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân
Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để
chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã
diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một
người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một
người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại
vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân,
nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự
cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp
nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm
sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô
cũng từng nói với giáo dân của mình "Anh chị em chính là triều thiên của
tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa". Nhưng
triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn
lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm
sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy
vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo
Xứ.
Dẫu sao
trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm
chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính
mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền
tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính
những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha
thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết
dâng lên những lễ tế xuất phát từ "tấm lòng tan nát giày vò" để Chúa
chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An
của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương
của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen
27.
Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh
vịnh 66, 2-3 có viết:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa
ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và
muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ". Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi
vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu,
giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra
xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ
MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là
Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ,
biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô
cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền
năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của
mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa.
Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập
con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi
những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi
quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài
mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri
ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là
Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ
là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để
xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục
sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn
năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là
Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống
cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng
để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như
thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới:" Hãy thảo kính cha
mẹ". Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng
năm thánh hóa gia đình.
Gọi là
Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng
nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã
sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con
người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người
mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân
Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành
riêng cho con người.
Nhân
dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát
cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn
nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU
NGUYỆN
Lạy
Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để
dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết
mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm
tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào(Lời nguyện nhập lễ, lễ
Minh Niên).
Lạy
Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng
vào Người, Người sẽ ra tay(Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
28. Hãy
tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)
(Lm Jos
Nguyễn Hưng Lợi)
Lại một
mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao
ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho
một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh
vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc
bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô
hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời
sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI
VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm
vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều
chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu
tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với
những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay
trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người
biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm
con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao
động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng
sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời
" Con trâu đi trước, cái cầy đi sau " luôn luôn gần gũi với người lao
động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không
còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã
có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi
mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài
người.
HÃY TÌM
KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người
một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: " chọn
Chúa hay tiền của ". Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn
lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những
điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi
ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người
chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu
cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng
thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc,
nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa
dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và
hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc
chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học
bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao
quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương
tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số
vv...Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút
nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không
khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và
phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI
VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và
hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy
con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự
phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của
Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa
bảo"đừng lo " không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao
động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao
động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ
ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt:" Bạn hãy ký thác đường đời
cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay ".
ÁP DỤNG
VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết
thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã
được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những
mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng
ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn
họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia
đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi
bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
29.
Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại
(Lm
Ignatio Trần Ngà)
Nguyện
xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm
chất cao đẹp.
Tết
đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn
mừng xuân.
Bầu
trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân
xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô
điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc
ríu rít vui ca.
Xuân
đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng
xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản
thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế
nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa
Xuân Giê-su.
Chúa
Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su
đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa
Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn
ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông
Giai-rô được hồi sinh.
Mùa
Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được
sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa
Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo
chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem
nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến
người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành
tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng...
Nhưng
điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu
nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm
nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta
nên tươi đẹp hơn.
Quý
trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai
cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình
không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng
hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta
thường nói: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp
người" hoặc: "Cái nết đánh chết cái đẹp."
Đúng
vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người
đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng
chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không
có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính
Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên
mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn
khổ khắp nơi trên thế giới... nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là
người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là "xấu người đẹp nết còn hơn đẹp
người."
Trang
điểm tâm hồn
Muốn
trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong
giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ,
thiếu văn hoá... vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời
đó.
Cố gắng
loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn
minh và đạo đức... vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình,
đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng
thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những
hành vi cao thượng, bác ái, vị tha... Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho
bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi
nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói),
phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe
máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân
chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện
xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm
chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa
và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
30.
Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Hãy ký
thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người
chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng
nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của
những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói:" Trước hết hãy tìm kiếm
Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ
thêm cho ".
Những
giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại,
cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba
nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày
có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều
để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người,
Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa.
Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong
Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc
trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa
huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người...Do đó, mỗi người hay
tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài
của Chúa:" Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong
đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được
phỉ chí toại lòng".
Chúa là
Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban
ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước
nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì
sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự
bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng
trần:" Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện
tâm ". Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc
thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin
Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt
khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu
cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa
mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết
Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn
lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim
gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân,
Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người
rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của
muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp.
Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao:" Nguyện Chúa Trời
dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả
hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài " (Tv
66, 2-3).
Và rồi
con người chúng ta luôn hiểu lời này:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin
tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình
minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ ".
Lạy
Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để
dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết
mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi
càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng
Một Tết).
GỢI Ý
ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày
đầu năm có ý nghĩa gì?
2.
Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An
bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc
Lộc Thọ là gì?
5. Tại
sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
31.
"Những Dấu lặng của Mùa Xuân"!
Năm cũ
đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì
lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép,
hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp ... Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để
buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu
không có Mùa Xuân? Thì...?
Chuyện
kể rằng:
"Ngày
kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu
việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con
chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét
cho"! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên
Quốc.
Thế là
ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác
tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài
chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những
nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà
cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền
biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ
tâm tình ... Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và
những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan
tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu
hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: "Xin Ngài đem
Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên
lên mất".
Khi Mùa
Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người
..."
Có lẽ
Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con
người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều
dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một "món ăn" bổ ích
cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ
tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau
trước Mùa Xuân.
Tôi rất
thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp
các loại bánh mứt, trái cây ... được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp
nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như ... hoa cả mắt bởi
các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ - đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân
tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố "dập dìu tài tử giai nhân"
rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và "model". Trong các nhà thờ
thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu
đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những
người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa
Xuân!
Đón
mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui
xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn
ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe "lời thì thầm
của Mùa Xuân"!
Sau một
năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi
cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và "nạp năng lượng"; để
đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho
những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô
tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón
Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo
mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa
thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống,
công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã
"gạn đục khơi trong" con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và
những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi
sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự
tin và vững vàng hơn.
Mùa
Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng
người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm
vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ ... và gửi
biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia
sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng
mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người
cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến ... đã
gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về
những nổ lực và nhiệt tâm ... Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn
lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi
...
Có thể
ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng
của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có
"những dấu lặng" thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc
phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật
sự là "một phần tất yếu của cuộc sống" chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ
là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của
con người.
32. Vạn
sự như ý... Chúa
Dịp tết
tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi "vạn
sự như ý" được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất
thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này
điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn... Vạn sự
đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như
ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi
trên đời này có ai lại "mát" đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái,
muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này
các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì
không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn
bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay
người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người
ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với
Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu
càng đỡ phiền toái bấy nhiêu... Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên
vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt,
răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi
sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người
quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm
được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình
tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì
cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người
khác một cách rất sốt sắng là "Ý Chúa đấy, hãy... chịu vậy". Gặp
người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ
thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều
con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề
trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta
thì..... không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt,
ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại
chẳng cần... như thế có phải ý Chúa không?
33.
Hạnh phúc đích thật
Tai nạn
giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công
nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà
vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn
qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát
khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người
là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
***
Bạn
thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài
làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm
đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh
phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui
khi thấy con người hạnh phúc.
Định
nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về
hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường
ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta
dần dần hiểu hơn thế nào là "hạnh phúc đích thật": Hạnh phúc đích
thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không
do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của
mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là
niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn
thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi...
Sống ở
đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được
pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng
khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng
ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời
cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật
hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc
đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v..
những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm,
đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả
vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong
hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo
khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải
qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời
mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời
Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không
phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời
Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin... Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc
đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi
người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những
mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc
sống hàng ngày.
***
Lạy
Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa
vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn
uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường
Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong
Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh;
của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ ...
Lạy
Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng
Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng
mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều
là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi
của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu
thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con.
Amen.
34.
Ngày đầu năm – R. Veritas
Tâm
tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà
tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sự đưa ra khuôn
vàng thước ngọc như sau:
- Người
quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta. - Giờ phút quan trọng
nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
- Công
việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú
ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí
quyết sống hạnh phúc.
Người
Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
- Chỗ
quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
- Con
người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm
mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc
lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để
đi buôn, để xây nhà,v.v... Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho
một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người
có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản,
của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
- Hãy
sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là
quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
- Hãy
hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
- Hãy
trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng
xuống.
Chúng
ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình
duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
***
- Tạ ơn
Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
- Tạ ơn
Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng
phút giây của cuộc sống.
- Tạ ơn
Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
- Tạ ơn
Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
- Tạ ơn
Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
- Tạ ơn
ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã
sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt
đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn
nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và
âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những
người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh
đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta
thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay
cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu
nhiều hơn.
Với tất
cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin
đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
35.
Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tết là
khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm.
Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp
của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng
vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những
ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho
năm mới.
Ngày tết
với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa
giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn
chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi
ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc
quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày
Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn
trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn
thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha
mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội,
nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong
các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong
giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi
nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại
con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời. ... Ngày tết người lớn
thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một
năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một
việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày
tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà
vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào
chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con
người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói
nhẹ bay vào chốn không trung.
Người
Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp
đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng
Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho "con tạo
xoay vần" theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước
nguyện của mình.
Thế nê,
hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương
theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm
tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó
thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc
nhau:
- Vừa
đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
- Vừa
đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
- Vừa
đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
- Vừa
đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
- Vừa
đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
- Vừa
đủ BẠN BÈ để được an ủi
- Vừa
đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
- Vừa
đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
- Vừa
đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu
chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
36. Năm
mới cầu gì? – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Năm
mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong
những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc
này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa
trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người
lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba
ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy,
Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông
Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh
liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc
ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc
là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan
tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ
là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được
lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm
thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì
chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị
đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người
đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối
sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có
ai muốn không?
Xem ra
lời cầu chúc "Phúc – Lộc – Thọ" đã được hiểu sang một ý khác không
còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không
có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người.
Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu
cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai
đó đã nói rằng: " Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng
niềm vui thanh cao". Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là
mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh
phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm
lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba
điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu
mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là
những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su
ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái
phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều
tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ "bách niên giai
lão". Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở
cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương....
Những
mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa
để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh...; Đổi lại người
ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở
đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao
hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu
sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc.
Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy
con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh...?
Hôm nay
ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời.
Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn
Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm
vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
37. Bình
An Năm Mới – Mt 6, 25-34
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi – Tết Quý Tỵ 2013)
Cả trời
bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên
tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta
ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa
đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là
những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn
thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong
năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô
hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn
người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa...
Tiết
Đông nay đã qua rồi,
Mưa
phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn
hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa
hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui
hát lại trở về,
Tiếng
chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an
bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên
rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến
vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của
Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc
trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn
hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín
thác nơi Chúa:" Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở
trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho
được phỉ chí toại lòng ".
Suốt
một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc
biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài...Năm mới tới, chúng ta luôn tin như
thánh Phaolô viết:" Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh,
anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa
những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên
trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu
".
Năm
mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời
Chúa:" Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 20) an
ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa
Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày
lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời
Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca
ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta:"...Riêng con
người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ
diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm
ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con ". Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi
Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy
Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay
chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa
của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh
làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý
ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết
có ý ngjĩa gì?
2. Tại
sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình
an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc
Lộc Thọ là gì?
5. Tại
sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
38. Bàn
giao năm cũ – Mt 5, 1-10
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây
phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì
năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và
đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời
đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ". Lời khẩn
cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ
muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và
hạnh phúc.
Với
truyền của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp
gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình
đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban
cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may
mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con
người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã
ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó,
giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người
và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau,
Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây
phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương
yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng
và cảm tạ Thiên Chúa:" Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn
cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt
động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả
tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con
được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô
sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi
chết " (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói
không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất
con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai,
Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải
cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng,
mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng
dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi
giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ
cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt
hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo,
coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của
năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy
Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn
đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh
và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi
gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
39. Tết
cho mọi người – Lm Jos Nguyễn Hữu An
Dân tộc
Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền
thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ
mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết
Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt
đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên
(rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng
Dương, Tết Ông Táo... Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của
thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ
"Tết" ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một
"Lễ" hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều
cho rằng chữ "Tết" bắt nguồn từ "Lễ Tiết" bên Trung Quốc.
Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe
thật thú vị, như 'Tết Nhứt' là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt "Tiết
Nhựt", có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt
đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là
"Chính Đán" tức là "Chính Nguyệt Chi Đán" (buổi sớm mai
tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu
năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa
nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán.
Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi
nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường
tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người
Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên
nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho
người trần
"Đói
ngày giỗ cha, no ba ngày Tết", câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng
đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh
chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ,
nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to,
gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn,
là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc,
nụ, hoa...
"Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ" là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý
nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. "Câu đối đỏ" ngày nay
được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền
giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn
sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu...
Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì
vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay
đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái
máy giặt hay thay xe... nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà
mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng
lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ...
Ngày
Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc "Ăn Tết",
người ta nghĩ đến việc "Chơi Tết". Chơi Tết có thể kéo dài từ những
ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày
nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song
việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ
là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết
chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến "Chơi Tết" thì không thể
không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ,
anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui
như trẩy hội. Việc "Chơi Tết" không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một,
Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những
lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi,
tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết
cũng vì lẽ đó.
Tết cho
người âm
Người
Việt rất trọng chữ "Lễ nghĩa - trước sau". Ngày Tết nhà ai cũng phải
có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm "Trần sao, âm
vậy" nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã
cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn
mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà
nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều
làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà
cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã
được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng
trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở
cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý
mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho
người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ
vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng
cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để
cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho
hai phần thế giới... giao thoa
Ngày
Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp
lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó
có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở
xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà
quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước
nguyện ấy.
Những
ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của
mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có
được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu
ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn
quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới.
Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông
coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều
mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những
việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người
đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh
quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây
để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau
hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo
dân tộc).
Tết nơi
xứ đạo
Những
ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết.
Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo
tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người
nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương
thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp
người nghèo được "Ăn Tết" cùng với mọi nhà, bởi lẽ "giàu thì
ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần". Quà cho các cụ già trên 70
tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ
Mồng Hai Tết.
Năm nào
giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền.
Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi
đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở
làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất
Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết.
Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương
khói.
Chuyện
Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà
người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
40.
Hạnh phúc trường sinh
(Lm.
Jos Tạ duy Tuyền)
Người
đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc - Thọ. Phúc là
công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công
danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng
tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã
phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi
thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được
trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất
tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này
còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau
mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú
rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng,
sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời
không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay
ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho
nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ
sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con
người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính
Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc
và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi
hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn
hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ
đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và
biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức
Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên
Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ
trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa
và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong
tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa
yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại
có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui
trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người
không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không
bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ
chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là
những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ
là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay
được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp,
rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng
của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng
của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa
trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại
không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm
mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm
Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng
thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc
thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác
thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những
danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho
đời.
Nguyện
xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn
đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý.
Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin
đức cậy và đức mến. Amen
41.
Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Mỗi năm
vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những
điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày
01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu
để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được
Chúa chúc phúc.
Sống
nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt
được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để
vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước
Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những
con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được"
đất nước làm cơ nghiệp " được " Thiên Chúa xót thương" được
" nhìn thấy Thiên Chúa " được " gọi là con Thiên Chúa ". Và
để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người,
Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua
cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được
vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc
phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập
giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục
sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy
sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi
sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống
lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv...
Ngày
đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta
giống hình ảnh của Người và còn hứa ban " Nước Trời " cho chúng ta.
Chúng
ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh
nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù
rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng
ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha
thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm
mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa
vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là
mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của
Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng
ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn
Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn
Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời
chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi
vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
42.
Bình an và hạnh phúc
(Giuse
Nguyễn Hữu Duyên - Lm Quản Xứ Bảo Lộc)
Anh Chị
em rất thân yêu,
Ngày
đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua
những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của
nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức
khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và
đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời
Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng
Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ
thường tình của con người:
Trước
hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa
và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công
ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ
của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả,
thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi,
không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê... nhưng Thiên Chúa không khoan
nhượng... Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng
bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập
phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới
sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên
Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa
Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời
cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của
mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao
Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn
cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi...và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc
chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm
trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ...chịu muôn vàn bách
hại và truy sát... Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi
buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi
hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh
quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy
sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung
tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính
thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã
một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành
Assisie... Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo
chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh
Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn
rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh
Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy
trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức
Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ
hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho
những con người nghèo.
Anh Chị
Em rất thân yêu,
Đứng
trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên
Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch
thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp
vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ
này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu
thương.
Ngày
đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế,
Quý Tu Sỹ nam nữ,,Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em
thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn
giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc
đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính
Chúc
43.
Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Giây
phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm
mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết:" Đây phút linh thiêng đã khởi
đầu..."Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái
cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá
nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ
trụ, tạo dựng con người. " Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm
nay, và như vậy mãi đến muôn đời " như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu
Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để
tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN
LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn
nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người
phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ
cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần
thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc
thấy:" Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích
vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi
xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái
làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh". Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời
đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân
Ngài và cầu khẩn Ngài vì " Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên
cả đất trời ".Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm,
linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm
vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với
sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống
hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần
thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài
người, cho mỗi người:" Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo
thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được
hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng.
Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn
phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ".
LỜI CẦU
NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin
cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa
bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí " Vinh
danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương ". Xin
cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh
cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy
Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần.
Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một
mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho
những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho
chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin
cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con
được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy
Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân
huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa
xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho
giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh
phúc.
44.
Việc gì phải lo, có Chúa an bài (Mt 6, 25-34)
(Lm
Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Trong
muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con
người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con
người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm
đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con
người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng,
chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa
nói:"...Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?...".
CHÚA
NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết
thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là
cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv...Có người suốt đời cơm vẫn
thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra
nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6,
25-34, Chúa nói:" Đừng lo ". Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi
loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế
nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con
người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được
Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm
đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của
Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng:" Sự giầu có, khôn ngoan và
thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!...Vì muôn vật đều do Người mà có,
nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn
đời.Amen. "(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN
TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu:" Hãy ký thác đường đời cho
Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay". Chúa bảo" đừng lo",
không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng
lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người,
cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng
nói:" Không làm việc thì đừng ăn...". Đúng sự đời là như thế, con
người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều
phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất
vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi
sống...Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất,
nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv...Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác,
nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất
cần, nhưng " Hãy lấy Chúa làm niềm vui...Người sẽ cho được phỉ chí toại
lòng"(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng
đã viết:" Anh em đừng lo lắng gì cả...".
Tết là
dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên
Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv... ngắm lại chính bản thân của
mình: " Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê". Và đã là hình
ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên
Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi
người...
Lạy
Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
45.
Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
(Lm.
Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Năm mới
đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng
này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút
suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta
lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt
6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những
của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành
một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác
động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản
của cuộc sống như cái ăn, cái mặc... Các thực tại vật chất là rất cần thiết để
con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng
ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải
uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế
mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai
có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ
thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời
cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một
loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết
rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta.
Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ
nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là
những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm
được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm
diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu
mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những
con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn
giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo
lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được
mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần
gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức
Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng
cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai... Người muốn
nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một
sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên
Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức
là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với
phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu
biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi
chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường
hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình
an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp
cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên
Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng
về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự
"không lo lắng" của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không
đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của
chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự "không lo lắng" đó được đặt cơ
sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự,
rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn
trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt
6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của
Người
Sau khi
đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại
phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định
thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu
xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình
về những thực tại đó.
Nước
Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư
cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu
thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả
lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến
của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần
khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công
chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành
xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu
nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh
của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu
chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như
thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để
chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu
của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này,
mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm
nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công
chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới
là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai
trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày
mai vất vả: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (c.34). Nhưng sự vất vả
trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng,
nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này.
Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về
Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng
trên núi (5,3-12).
Ngày
Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết
rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa
nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực
tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính
quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là
khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi
chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn
tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng:
"Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó"
(c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự
nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về
cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình
an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một
sự tự do nội tâm đích thực. "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức
công chính của Người" (Mt 5,33).
46. Tám
Mối Phúc (Mt 6,25-34)
(Lm.
Trần Bình Trọng)
Tư
tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời
giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi,
không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn
lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia,
mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay
chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn
rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho
dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay
đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù
Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì
tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc
không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa
kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần
đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao
hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ
tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch... đạch, đùng. Đạch, ĐÙNG... ĐÙNG...
Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt
trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ
càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người
Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm
chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân,
Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp... như trong lời
nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô
thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa
này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một
năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin
Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho
nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa
đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi
sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống
Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo
khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh
mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể
chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại
với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi
con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận.
Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa
chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được
hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc
đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời
này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người
ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi
cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa
hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta
đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người
đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo
khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng
nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài
còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và
phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến
việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu
mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích
thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu
thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong
thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên
Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí,
tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích
sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên
Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ
anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an
cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc
Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho
nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là
Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời
cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của
chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành
cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể
của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc
Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền
năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa.
Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy
còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng
thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp
dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ
hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không
quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta
phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin
Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ,
vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư
về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời
nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy
Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ
ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những
lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa
thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh
quang nước Chúa. Amen.
47. Ơn
Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa
xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa
xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa
xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa
xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng,
tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới
với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc,
an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức... Những lời cầu chúc
thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người.
Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an
bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người
với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế
nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích
thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà
Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong
bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên
Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại,
vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết
nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công
chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện
ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng
mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha
Bênêđictô cũng xác nhận: "Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần
gũi với hòa bình hơn... Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh
tẩy..." (số 15).
Quả
thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập
được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên
Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc
khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã
nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính
sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống
thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn
thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho
Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà
chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi
lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn.
Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng
ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm
nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến
khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền
quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng,
nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày
một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta
phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương
ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy
nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải
được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự
bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn,
biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần
quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và
nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác...
Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ
một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những
tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở
chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những
cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng
cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo... Chúng ta cần đáp trả thế nào trước
tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị
Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy
Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc.
Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được
thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế
nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên
trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy
những kiểu "chiến tranh không đổ máu". Từ những lối sống ích kỷ, thụ
hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất
công, hành xử đầy tính cách bạo lực... đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa
người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như
thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện
giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra
đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi
phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận
hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy
Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc
biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì
được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho
mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là
những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho
mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để
cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong
tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
48.
Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)
(Lm
Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy
niệm:
Ngày
Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng
ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy
tất cả là hồng ân,
kể cả
những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã
cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng
ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà
nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn
Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời
gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời
điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con
Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ
Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày
Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc
sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý...
Chúng
ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức
Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông
này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba
lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
"Nguyện
Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện
Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện
Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em."
Ơn bình
an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng...
Rốt
cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính
Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm
nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước
thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có
nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có
nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo
quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta "Đừng lo."
Nếu
Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì
không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn
giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô
hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín
thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt
vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin
mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu
nguyện:
Lạy
Cha,
Cha đã
cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm
một đoạn đường đời.
Nhìn
lại đoạn đường đã qua,
chúng
con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha
vẫn cho chúng con sống,
và sống
trong tình yêu.
Mọi
biến cố vui buồn của năm qua
đều là
những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức
tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn
Cha
vì
những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và
những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho
chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong
tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và
không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì
những lời chúng con chúc cho nhau
là
những lời chúc lành
xuất
phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy
Cha, năm mới đã đến,
trái
đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng
con cũng muốn
ở lại
trong quỹ đạo của Cha,
nhận
Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận
mọi người là anh em. Amen.
49. Cầu
bình an trong năm mới
SUY
NIỆM
Không biết
có ai trong chúng ta thắc mắc "tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng
này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?" Thiết tưởng Giáo hội là mẹ
cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng
nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay
trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời
Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin
thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm
được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con
người sẽ có được những thứ khác. "Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho
mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống
chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?".
Lời
Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình "của ăn,
áo mặc", mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình
đang có đó là "mạng sống và thân thể". Chúa nhắc chúng ta nhìn về
điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng
ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm
cũng không muộn... mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả
điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong
một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm
cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân
thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an
toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống
chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo
tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho
mất bình an.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều
khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và
tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An
ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những
điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ
để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình
cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà
Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng
ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta
phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì
"Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó".
Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi
đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy
điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh
hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời
đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và
tình bằng hữu... Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái
phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn
nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc
hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin
bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên
Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng
tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho
biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự
công chính của Ngài.
Lạy
Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con
được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền
đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu
Chúa.
Chúa
biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và
thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng
con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả
những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ.
Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và
trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
50.
Bình An - Quà Tặng Năm Mới
(J.B.
Nguyễn Quốc Tuấn)
Bình an
là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình
an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân
về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã
hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa
nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi
sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1.
Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn
bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã
khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã
ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình
an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng
quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên
Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa
lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về
nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
"Nguyện
chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em,
để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng
trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em
là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó" (1Tx 5, 23-24).
Một khi
ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được
mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp
nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì
lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
"Ước
gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy
nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó" (Cl 3, 15).
Cuộc lữ
hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy
luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình
an chân thật do chính Thập giá mang lại.
"Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ
hãi" (Ga 14, 27).
2. Không
có bình an nếu thiếu tình yêu
Như
vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân
loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu
vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành
trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà
nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô
giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân
loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn
kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế
giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn
đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải,
thứ tha.
Vẫn còn
đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền
tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn
đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi
đồng bào vô tội.
Vẫn còn
đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương...
Vẫn còn
đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất
mát, đau thương của bao người...
3. Bình
an – quà tặng năm mới
BÌNH
AN- Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới.
Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực
sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà
BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong
đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt
đẹp cho nhau.
Món quà
BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó
dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm
mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng
đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an
là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của
ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn
trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
"Trên
hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt
hảo" (Cl 3, 14).
51.
Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết
(ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa
Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ
bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng
hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh
vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem
đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc
Tin Mừng.
Ngày
Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến
công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp
văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999
năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn
những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế
hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm
sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng
biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm
đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo,
bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên
chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất
đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính
Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây.
Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình
người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin
Mừng.
Ngày
Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của
tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha
thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành
thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để
tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi
tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày
Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày
Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để
mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo
bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận
là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những
niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự
quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên
đới.
Ngày
Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ.
Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần
áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong
niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều
xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước
đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận,
không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt
đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật
thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp
những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một
lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới
đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời
gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự
do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành
bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết
chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống
nên tốt đẹp hơn.
Với tất
cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với
Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng.
Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế,
người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn
hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang
Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ
hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết
ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi
trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục
bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp
khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng
chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì
sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta
sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng
một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy
sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức
Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
52. Một
năm mới tốt đẹp
I. NĂM
MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc
1: St 1,14-18.
Thiên
Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài.
Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và
đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm
mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là
một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời
giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc
2: Pl 4,4-8
Thánh
Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu
nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì
khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố
vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy
thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và
tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn
trong Chúa.
Bài Tin
mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin
mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho
Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng
Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo
hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì
còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta
cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được "thêm cho" mà
thôi.
II.
XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người
ta thường nói:
Xuân
khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân
hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân
đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng.
Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn
bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng
ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất
muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân
biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau
365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365
ngày lại có một năm khác mà ta gọi là "Năm Mới" mà năm nay là năm Tân
Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không
vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có
thể cũ hơn năm ngoái.
Trước
đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông
nói:
Bắt
chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc
cho khắp hết ai trong đời
Vua
quan sĩ thứ người muôn nước
Sao
được cho ra cái giống người.
Thực
ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ
đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn
thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis
Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: "Con người thời
nay đã già cỗi, cần phải trở lại "thời thanh xuân" của con người
nguyên thủy".
Đúng
vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già
khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ
trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt
19,13-15).
III.
NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng
ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người
ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một : Năm Mới Tốt Đẹp,
Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa
súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có
người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ
chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời
trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta
về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc
cho sống lâu.
Có
người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc
đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng
lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc
nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng
sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói:"đa thọ, đa
nhục" hoặc thành ngữ có câu:"Trẻ khôn qua, già lú lại". Đã
"lú lại" sẽ bị con trẻ chê bai! Đã "lú lại" tất không thể
trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống
tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc
trong tuổi già.
Ngắm
nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn
duyên như tượng tô vàng
Hết
duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn
duyên kẻ đón người đưa
Hết
duyên đi sớm về trưa... một mình.
Trước
cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn
tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi,
chơi lấy kẻo già,
Măng
mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi
xuân kẻo hết xuân đi
Cái già
xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc
cho giầu có.
Có
người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy
vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau:"Nhất bản vạn lợi" hay
"Một vốn bốn lời":
Nó lại
chúc nhau cái sự giầu
Trăm
ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người
ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng
bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta
đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà
không được.
Nhiều
người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị
thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con
người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải
sống kiếp nô lệ không?
Ngày
06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để
lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên
bố:"Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân
hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc
hôn nhân ấy".
Một lần
khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh
phúc gia đình.
Một lần
khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn
nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc
cho vinh sang
Có
người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang
khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại
chúc nhau cái sự sang
Đứa thì
buôn tước, đứa buôn quan.
Danh
tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một
chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi
người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận
rằng: "Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong
trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc.
Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một
ngày".
Còn một
chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn
phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc
như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
- ?
- Mộng
tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm
thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
- Thế
thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
- Phải!
Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải!
Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV.
CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu
chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang... thì thấy
không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói.
Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt
chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc
cho khắp hết ai trong đời
Vua
quan sĩ thứ người muôn nước
Sao
được cho ra cái giống người.
Câu
chúc của thi sĩ "Sao được cho ra cái giống người" xem ra có vẻ hài
hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng
giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm
đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả
lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông
cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con
người chính danh, con người xứng đáng "linh ư vạn vật" kia!
Năm mới
chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải "linh ư vạn vật
" mới được.
Đối với
người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm
mới này là để chúng ta "làm người" và "làm con Chúa". Chúng
ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc
ở chỗ chúng ta có "làm" và có "làm" được hay không. Hạt
giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được
gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con
người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái "nhân" được gieo cấy
trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời
mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh
sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng
ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa
là "Abba, Cha ơi" (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em,
và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta
nói:
Con có
cha như nhà có nóc
Con
không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha
chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc
từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta
là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất
cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một
điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra
sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy
tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa
là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân
dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt
đẹp như lời Chúa dạy:"Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở
công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm
cho"(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như
Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
53. Mùa
Xuân là Mùa của Hy Vọng
(Lm
Giuse Nguyễn Văn Thành)
Mùa
xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta
thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo
qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân,
Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là
mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp
hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều
niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân
nào xuân tuổi nhỏ
Trong
trắng ấy xuân ơi.
Hầu như
tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu
năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can
Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với
các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết
Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết
Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi
vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả
khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là
"no ba ngày Tết, đói ba tháng hè". Cho dù thiếu thốn đến đâu, người
ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào
cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ
tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ.... Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những
thứ làm nên ngày Tết:
"Thịt
mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây
nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh".
Người
ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì
khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm
mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với
người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con
Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu
cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ
của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt
động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên,
Ngài là hi vọng của thế giới.
"Bốn
mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài
cho mầu mỡ ngập tràn lối đi".
(Tv
64,12)
Vì thế,
nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng
ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa
trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng
liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn
nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu,
mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng
ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng
ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui
vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
Sưu tầm
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Xp
2,3 – 3,12-13; 1Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a
1. Khó nghèo.
Phật
Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn
sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ
là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và
cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi
dạt trên đó.
Năm
trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng
đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.
Một
người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không
tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy
màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và
thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu
tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so
sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung
ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn
Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ,
mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của
mình.
Kinh
nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra
ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng.
Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn
tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do,
cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời,
cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là
kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm
hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực
sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời
con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn
diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh
phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối,
lại tràn trề hạnh phúc.
Thực
ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ
thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh
phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng
những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống
tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền
hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng
loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực
vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo
truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời
sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa,
biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn
sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến
Chúa và yêu người.
Nói
theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà
điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống
cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.
Trong
tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối
tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em
đồng loại.
2. Hãy vui mừng.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đời
sống mỗi người đều có những chỗ khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không
thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc
hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận lòng.
Trong
bài giảng đầu tiên trên một ngọn núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có
hạnh phúc. Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên Chúa, nhưng con người cần
sống tích cực để đón nhận.
Được
Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và
làm cho no thỏa: những điều đó có nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui
hưởng hạnh phúc viên mãn của chính Thiên Chúa.
Chỉ
nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn, vững bền. Con người chỉ có hạnh phúc khi
gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.
Nói
cho cùng, người hạnh phúc là người biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra
với tha nhân. Người có tâm hồn nghèo khó là người thật sự nghèo, chẳng có nhiều
của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm nỗi bất lực của mình, họ
khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính lúc đó họ thấy mình bình
an, vững vàng.
Người
khao khát trở nên công chính là người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo
tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con
người lớn lên. Nỗi khao khát đào sâu, để con người chứa được nhiều.
Người
sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với
Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội,
để phục vụ, để triển nở thiêng liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần
Đấng trên thập giá.
Người
bị bách hại, lăng nhục, vu khống là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn
cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu.
Người
hiền lành là người có lòng nhân đối với người khác. Họ học gương hiền lành của
Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).
Người
có lòng thương xót là người biết mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và
chia sẻ những gì mình có.
Người
có tâm hồn trong sạch là người ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm
với ý hướng trong sáng. Chính sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm
người ấy dễ gặp được khuôn mặt Thiên Chúa.
Người
xây dựng hoà bình là người gieo an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội
và giữa các dân tộc. Họ giải toả những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ
coi mọi người là anh em, con cùng một Cha.
Thời
nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc. Phúc cho ai không khép lại để tìm
hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Có lần bạn đã sống một trong những mối phúc,
và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.
·
Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có phải là
một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng
bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con - đang cần một người bạn. Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn. Nếu
bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi. Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước
chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và
con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
3. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt.
Khi
nghe bài “Phúc Thật Tám Mối” trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những
hạnh phúc Chúa hứa ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta
thường có. Người ta ai cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa
lại nói: “Phúc cho người nghèo”. Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có
uy quyền, được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: “Phúc cho người hiền
lành”. Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà Chúa
lại nói: “Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ”.
Chúng
ta ngạc nhiên, không hiểu Lời Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh
phúc và về đạo.
1)
Về hạnh phúc, chúng ta thường tưởng lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa
vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không phải như vậy. Không thiếu những
người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn bất hạnh.
Marilyn
Monroe, nữ minh tinh thần thoại của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê
hồn, được mọi người tôn thờ, và chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng
phải sống cuộc đời cô đơn buồn thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong
buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt không có một người yêu bên cạnh.
Ngày
nay xuất hiện nhiều “Tây ba lô”, những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo
ba lô, đi gặp gì cũng ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải
chuốt, ngủ nghỉ trên chăn êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì
họ thích đơn sơ, thích khổ cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó
là hạnh phúc của họ.
Tiền
bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị, tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu
hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh phúc đích thực.
2)
Về đạo,
chúng ta lầm tưởng rằng điều cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như
thế. Đi đạo không phải là đi theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo một người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được Chúa.
Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của đời ta.
Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ toại
nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.
Thánh
Augustinô khi còn tuổi trẻ đã chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những
buổi ăn chơi trác táng, những cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối,
nhưng chẳng thấy mãn nguyện. Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn
thống hối ăn năn. Ngài trở về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi,
ngài đã thốt lên một lời bất hủ: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên
lòng con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Hiểu
như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét
vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu,
Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người
nghèo. Sinh ra không nhà. Sống không nhà. Chết cũng không nhà.
- Chúa Giêsu
đầy quyền năng. Người đã chế ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất
hiền lành khiêm nhường. Bị kết án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết,
Người vẫn im lặng chấp nhận.
- Chúa Giêsu có
một trái tim xót thương, sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người
hoạn nạn, cứu chữa người tật nguyền.
- Chúa Giêsu
đem đến cho ta niềm bình an, hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.
- Chúa Giêsu đã
bị bắt bớ, giết chết vì rao giảng Tin Mừng.
Tám
mối phúc chính là con đường Chúa đã đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa
Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc chắn gặp được Người. Sống theo con đường
ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên
một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt,
ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc
vĩnh cửu.
Lạy
Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Đối với bạn, hạnh phúc là gì?
2)
Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi sống
trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với anh
chị em.
3)
Những đau khổ của bạn thường do những nguyên
nhân nào?
4. Sống cuộc đời thành tựu.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Danh
từ “hạnh phúc” (dùng trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối
cùng của con người khi nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công,
không những là nói về bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi
lòng, song còn về bình diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi
được nâng lên trạng thái siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên;
thấy Thiên Chúa là một ân huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc
cuối cùng trong Chúa, khi đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu
các ‘mối phúc’ bị giản lược vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể
hiểu nổi nữa).
Nếu
hướng về Nước Trời, chúng trở thành tuyệt diệu. Trong các bản văn của
Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ
và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật,
Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm
cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một vài nhận xét về tuyệt tác này.
1) Các ‘mối
phúc’ bắt nguồn từ Thiên Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con
người, mà là vượt khỏi con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng
sống tốt lành, công chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải
dùng phương tiện nào và đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở
điểm này là người môn đệ Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là
ý nghĩa của mấy tiếng ‘vì Ta’. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ ‘trên trời’.
Vậy các mối phúc là một niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau
đớn và hoàn thành trên trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này
trong mối liên lạc với Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để
xây dựng niềm vui bất diệt của mình.
2) Trong các
mối phúc, thì sứ điệp nào đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm
thành một toàn thể, không thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất
cả. Ngược lại, tha thiết với một mối là tha thiết với tất cả.
Có
lẽ trước não trạng hiện đại, ta có quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong
sạch. Đây không phải là sự ‘vắng mặt’ của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm
chất của trí tuệ, linh hồn và con tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực
ở trình độ trí tuệ. Trí khôn trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống
tư tưởng nào để rồi đặt nó vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều
không tinh ròng. Ví dụ thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.
Tấm
lòng trong sạch chỉ sự trong sáng của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta
khám phá ra Thiên Chúa trong mình và trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực
xây dựng sự trong trắng luân lý và nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho
Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy
khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn
Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay trong một thế giới mà ta tuyên bố là
hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.
5. Mối phúc thứ nhất.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người
đàn ông chán đời đứng nhìn xuống giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt
một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối
thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi
đây đi đó, đã tìm lạc thú trong những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ
hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi chán chường càng thêm chất ngất.
Ông
ta thử thời vận lần cuối bằng một cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà
nào ở với ông được vài tháng. Ông ta đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ
đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã chán chường và chẳng ai được hạnh phúc
bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra mới đem lại cho ông sự thanh thoát.
Ông
ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì thấy có người hành khất đi qua cầu. Con
người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời
không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho người hành khất và bảo:
-
Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần tiền làm
chi nữa.
Người
hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa
ôn tồn vừa nghiêm nghị:
-
Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như
thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn nhát. Tôi
cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà đem qua
thế giới bên kia với ông.
Nói
xong, người hành khất ném cái ví xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán
đời với nỗi đắng cay chua xót đang gặm nhấm cõi lòng.
Đã
hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta
nhìn theo người hành khất đang từ từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết
nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần
trong đời, ông ta biết trao tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta
muốn mở rộng tâm hồn, giang rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.
Anh
chị em thân mến,
Không
gì buồn chán cho cho bằng một cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho
bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui
sống chỉ có được khi ta hướng đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay
Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu đến để đem lại cho con người hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này.
Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ,
nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng sống nhờ niềm tin của con người vào tình
yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị
chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn
là một con người hạnh phúc thực sự mới có thể tuyên bố: “Phúc cho ai có tâm hồn
nghèo khó… Phúc cho những ai đau khổ, bị ngược đãi…”.
Trong
cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong
thời khách sạn năm sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều
người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn
những kẻ xem ra bần cùng tối tăm, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật
ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và
khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh
phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối
phúc thứ nhất, theo Thánh Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là “Phúc cho ai có
tâm hồn nghèo khó”. Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng
hầu như đều luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý
do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ
đau, yêu thích sực chính trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết
xây dựng hoà bình. Thật ra tất cả những đức tính đó là đức tính của “người
nghèo của Thiên Chúa” (Giavê), của một “Anawim” theo truyền thống Kinh Thánh.
“Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất
khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông
nơi Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với
anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.
Như
thế, Chúa Giêsu xác nhận “Người nghèo của Thiên Chúa” (Giavê) như ngôn sứ
Sôphônia rao giảng (Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì
chính (Giavê) Thiên Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật
xét theo nội dung cũng chỉ là mối phúc duy nhất: “Phúc cho những người sống
tinh thần nghèo khó”.
Thưa
anh chị em,
Ai
trong chúng ta cũng khao khát tiền của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy
theo những thứ ấy như một chiếc bóng, vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi
khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta
biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những người
giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới,
những đại thiên tài… Nhưng là các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái,
xây dựng hoà bình và chịu bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói
cho cùng, tám mối phúc thật đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa
Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc
đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài
người, rộng lòng thương xót, thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ,
xây dựng hoà bình và cam chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói
vào lúc cuối đời: “Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để
niềm vui của chúng nên trọn vẹn” (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc,
Ngài nói: “Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên
trời rất lớn lao”.
Vậy,
anh chị em thân mến,
Ngay
từ cuộc sống này, người tín hữu chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh
phúc nhất. Mặc dù đang phải vất vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng
để tha thức cho những người bách hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra
mình là người có phúc, chúng ta hãy vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước
của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì chắc chắn “Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta”.
6. Đi tìm hạnh phúc
Trong
dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những
bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái
chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người
chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều
mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói,
vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè
nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.
Tôi
còn nhớ trong cuốn giới luật yêu thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời
chúng ta là một chuyến đi, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc
nào mà chúng ta không ước mơ, nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được
no thỏa. Trong mọi ước muốn to nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh
phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm
kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta vào đó?
-
Có người cho rằng: hạnh phúc
trong cuộc sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt
cho thân xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm
năm là cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.
-
Có người cho rằng: Tiền bạc sẽ
đem lại hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là
chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim.
Tuy nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và
hăm dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông
đã thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.
-
Có người cho rằng: Địa vị và
danh tiếng chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một
thời vàng son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây
giờ họ ở đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên
lãng, như Nguyễn Du đã từng than thở:
Bất
tri tam bách dư niên hậu.
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như.
Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
-
Và sau cùng, có người đi tìm hạnh
phúc trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như
kinh nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và
chịu đựng nhau suốt ba mươi ba năm…Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua,
những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Vậy
đối với chúng ta, niềm hạnh phúc đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc
đích thực của chúng ta là chính Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên
quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều
chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm
kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian,
mà mất linh hồn thì nào có ích lợi chi.
Bởi
đó đời sống chúng ta phải là một cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một
hànhtrình đi về với Chúa. Đã là một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi,
một con đường nhất định. Con đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền
dạy cho chúng ta, bởi vì đạo chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm
tóm trong giới luật yêu thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc
thật mà chúng ta vừa nghe.
Chúa
Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng
chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc
thật tám mối là như bản hiến chương Nước Trời, gồm tóm những điều căn bản và
cần thiết nhất, phải được coi như là những tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống
chúng ta.
Hãy
thực thi tinh thần của bài giảng trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm
thấy cho mình niềm hạnh phúc đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.
7. Nỗi khao khát
Bill
Gates, nhà tỷ phú trẻ tuổi người Mỹ, chuyên kinh doanh về máy điện toán, nhiều
năm liên tiếp đạt danh hiệu “người giàu nhất thế giới”. Theo tạp chí Forbes
bình chọn mỗi năm, tài sản cá nhân của Gates hiện đã lên đến 36,4 tỉ USD (1997)
và đang sinh sôi nảy nở rất nhanh. Mỗi ngày, ông chủ công ty Microsoft này thu
nhập 42,5 triệu USD.
Nhiều
người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phần mềm máy tính này, thậm
chí chỉ xin được bằng cái số lẻ của ông thì đã vô cùng hạnh phúc. Bởi vì “Có
tiền mua tiên cũng được!” Hay như thời nay người ta thường nói:
“Đồng tiền là
Tiên là Phật
Là sức bật
của tuổi trẻ,
Là sức
khỏe của tuổi già,
Là cái đà
của danh vọng,
Là cái
lọng che thân,
Là cán cân
công lý,
Đồng tiền
là hết ý”.
Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh
phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh
phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…
Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ
những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời. Với
người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền
lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những
bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.
Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến
bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người
ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần
tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm
môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là
phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không
mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của
nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của
mỗi người tín hữu chúng ta.
Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: “Giáo Hội trở nên nghèo bởi
vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì Giáo Hội có nhiều thứ vĩ
đại hơn”. Nếu Chúa đã nói: “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó”, “Phúc cho
những ai hiền lành”, “Phúc cho những ai sầu khổ”, “Phúc cho những ai bị bách
hại”, là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt trọn
niềm tin cậy và phó thác nơi Người.
Nếu Chúa đã dạy: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong
sạch” “Phúc cho những ai khao khát công chính, “Phúc cho những ai xây dựng hòa
bình”, Phúc cho những ai xót thương người”, là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn
vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt tâm phục vụ anh em.
Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy
bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình.
Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ
khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc
hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người
hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu
tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh
vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác
vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở
túi tiền.
8. Chín lần hạnh
phúc
Người ta có thể làm cho lễ Các thánh trở nên lễ của hạnh
phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên điều đó! Chín lần
“hạnh phúc”. Và đầu tiên là: “Các ngươi hãy vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của
các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời”.
Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là thì tương lai
“Các ngươi sẽ là...Các ngươi sẽ được... Các ngươi sẽ thấy...”. Chính với những
thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt những người bất hạnh. Người ta
dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo khó chịu và những bản văn hoang
tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói bên cạnh một người khác no đầy,
không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự khác biệt này nếu không có một
người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như thế, phải có người nghèo và
người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được
thực hiện theo cách khác”.
Các mối phúc chính là hạnh phúc trong tương lai và những
sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những người cuối cùng.
Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là một sự phân phối
lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng ngay từ bây giờ
cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình tiến về niềm vui
hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi năm họ làm cho lễ
Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.
Chúng ta là những người của hy vọng, những người của Tin
Mừng. Một
ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng nói: “Nước Trời kia rồi! Nước
Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Từ đây bất cứ người nào
cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh:
“Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa
nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại.
Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ, sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu
than, đau đớn, vì những cái trước kia qua đi rồi” (Kh 21, 1-4).
Chính
điều này mà chúng ta mừng vào lễ Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào
trong thế giới mới của sự vui mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay
từ bây giờ chúng ta là những người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất
và trời không phải luôn luôn được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không
nhận lãnh một phần bánh Trời được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng
ta đang sống, khó nhọc, lo âu và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của
niềm vui mà chúng ta tìm kiếm nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là
con người của niềm vui mà chúng ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước
trời mà là trở thành nước trời.
Với
những mối phúc. Những mối phúc này là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh
thần của Nước trời, bầu không khí và những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh
là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người
nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong trắng và bị bách hại. Khi nói “Phúc cho”,
Ngài biết Ngài nói về điều gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều
này làm cho chúng ta hạnh phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc
vì đã là một con người. Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.
Chúng
ta có thể ngay lập tức trở thành một “chân phước” khi chúng ta sống trong niềm
hy vọng, nếu tôi dám nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là “vì
Chúa” bởi vì nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho
chúng ta hoan hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: “Thầy nói cùng các
con những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ” (Ga
15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở
với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở
đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại
sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?
Tôi
tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên
Chúa tìm kiếm những người con và đặc biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh
khó khăn đó. Đây không phải là lý thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín
lần “Phúc thay”, Chúa Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm
vui lòng Cha Ngài, Chúa Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con
của Chúa khi ở trong một tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.
Đến
lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người
ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử
nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh
phúc... vì được hạnh phúc như Chúa Kitô.
9. Phúc cho người
sống những mối phúc.
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Tự
nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt
khỏi tay chúng ta giống như bánh xà phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều
cố gắng để được hạnh phúc, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những
gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm
nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí
tiền bạc vào những gì sẽ làm cho chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để
dành cho “những ngày mưa gió” trong tương lai.
Tất
cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy,
giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và
khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn
của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là
một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.
Chúng
ta gọi giáo huấn này của Người là những mối phúc, từ “beatus” theo nghĩa Latinh
có nghĩa là hạnh phúc. Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không
phải là những điều luật, cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những
lời tuyên bố. Chỉ một điều duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải
làm, đó là “hãy sung sướng và vui mừng”. Những điều khác, Người muốn trình bày
những gì mà hạnh phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là
những người nghèo, người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng
nhấn mạnh những người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến
tạo hoà bình và người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng
ta sẽ chọn lựa cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc
lóc, đói khát như những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel
phải trở thành ông già keo kiệt mới đúng.
Nhưng
Chúa Giêsu không phải là ông già keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều
người nghĩ là “bịp bợm” chứ làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá
bài giáo huấn của Chúa Giêsu được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy
nói: “Phúc
cho ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ xem thấy Thiên Chúa”.
Người
có lòng trong sạch là những người giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ
đời sống của họ là Thiên Chúa. Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật
chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm
vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng
chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ lên sống xứng đáng một con người. Trong sự
đói khát, họ thấy giá trị của Thánh Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta
tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời. Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo
thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa
là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi
vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả cái chết chỉ là làm chứng cho sự
thật.
Vì
người có lòng trong sạch đặt trọng tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa
Giêsu đã thực hiện những gì Người đã rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo,
người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc thương khó của Người. Người đã trở
nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa
Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để chuẩn bị cho sứ vụ của Người,
Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến cạn kiệt để rồi làm sung mãn
chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa Giêsu đã biểu lộ lòng thương
xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến dâng mọi sự như là đặc ân sự
bình an của Người.
Mặc
dù không có mối phúc nào là một lề luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện
cho tốt: “Hãy trở nên giống Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung
toàn bộ đời sống của bạn ở nơi Thiên Chúa”. Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính
chúng ta. Trong việc thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa
Giêsu hôm nay bảo chúng ta làm: “Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của
các con ở trên trời thì rất lớn lao”.
10. Đường hẹp
Khi
Mẹ Têrêsa thành Calcutta còn sống, người ta kể lại rằng, một lần Mẹ đang rửa
những vết ghẻ lở của người bị bệnh cùi thì có một thương gia giàu có đến thăm
nhà, thấy Mẹ đang làm việc ấy, ông phát biểu ý kiến như sau: - Nếu có ai cho
tôi một triệu bạc để làm công việc như Mẹ đang làm thì tôi cũng không dám làm.
Mẹ
Têrêsa vui vẻ trả lời: - Tôi cũng vậy, nếu có ai cho tôi một triệu bạc tôi cũng
không thể làm điều ông làm.
Tiền
của vật chất không phải là yếu tố chính và chúng ta cũng không thể nào đo lường
giá trị tinh thần của hành động con người bằng tiền của vật chất, nhưng đây là
điều mà thường tình mỗi người chúng ta cũng dễ bị cám dỗ suy nghĩ và hành động
như vậy, đó là hành động theo sự khôn ngoan của xác thịt, theo như bài đọc hai
của thánh Phaolô Tông đồ nhắc lại cho chúng ta.
Bài
Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng ta một căn bản, một hiến chương cho đời
sống đức tin của mình, đời sống đức tin của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ,
trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể nào hiểu được, cũng như không thể nào
sống thực hành những điều phúc.
Tám
mối phúc thật được ghi lại trong Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần
với tâm thức tự nhiên con người, với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của
thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính
Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn
những điều phúc này, nhất là trên núi Sọ khi để mình bị treo trên thập giá
trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ
khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập
giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa đã sống.
Không
phải vì tiền của, vì danh vọng mà Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm
cho những anh chị em thấp cùng nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa
tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ tiền của mà con người có thể sống thánh thiện,
sống thương xót, sống hòa bình, sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa
Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết
hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời
gọi chúng ta sống: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho
những ai hiền lành, phúc cho những ai đau buồn, phúc cho những ai đói khát điều
công chính, phúc cho những ai hay thương xót, phúc cho những ai có lòng trong
sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ
công chính".
Xin
Chúa giúp mỗi người chúng ta được sống như Chúa, được sống kết hiệp với Chúa
mỗi ngày một hơn để chúng ta có thể hiểu và sống tám mối phúc thật như Chúa đã
sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trung thành với đức tin. Amen.
11. Chú giải của Noel Quession
Thấy
đám đông, Đức Giêsu lên núi...
Phải
suy nghĩ về những lời dẫn nhập đầu tiên này của bài giảng trên Núi Thánh
Matthêu giới thiệu với chúng ta Đức Giêsu lúc bắt đầu sứ vụ của Người, có một
đám đông đi theo Người. Và những câu trước đó mô tả đám đông ấy gồm, những
người bệnh hoạn, tật nguyền, những kẻ kinh phong, bại liệt... (Mt 4,23). Đức
Giêsu là Đấng nhìn thấy đám đông lầm than vất vưởng mà chạnh lòng thương... như
bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9,36). Ngày hôm nay... tôi nhìn thấy ánh mắt
của Đức Giêsu đẫm lệ xót thương những ai bị đè bẹp: bệnh hoạn, tật nguyền,
những người không việc làm, những phụ nữ bị nhạo báng, những người nghèo thuộc
mọi thành phần, "những người thu thuế và tội lỗi" cả một nhân loại ấy
bên bờ tuyệt vọng.
Khi Đức Giêsu nhìn
thấy tất cả nhữngđiều đó... Người làm gì? Người nói gì?
Đức
Giêsu lên núi. Người ngồi xuống các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy họ
rằng:
Phong
cảnh này được cố ý dựng lên vĩ đại và long trọng. Đức Giêsu rất con người nhưng
theo Tin Mừng của Matthêu cũng là "Đức Chúa Vinh quang", uy nghi như
một tranh thánh của phương Đông. Phong cảnh núi non là "bài giảng"
Đây không phải là một phác họa cho diễm lệ, đó chính là khung cảnh vĩ đại của
việc công bố luật mới là núi Xi-nai mới, đỉnh núi bốc khói nơi Thiên Chúa nói
với dân. Và Đức Giêsu là Môsê mới, nhà làm luật, nhà giải phóng chân chính cho
tất cả những ai đang sống trong nô lệ.
Vâng,
bạn đang bị đè bẹp bởi một hoàn cảnh mà con người không thể chịu đựng nỗi, bạn
hãy lắng nghe! Thiên Chúa muốn nói với bạn môt điều. Bạn đang khốn khổ bởi vì
bạn cảm thấy bị tổn thương trong những khát vọng sâu nhất bạn hãy lắng nghe!
Nếu bạn có cơ may "'hiểu được, điều Người sắp nói với bạn, thì cuộc đời
bạn sẽ được thay đổi. Hãy lắng nghe... Bạn hãy lắng nghe Thầy. Bạn hãy lắng
nghe Đức Giêsu.
“Phúc
thay... Phúc thay... Phúc thay...
Đó
là chữ đầu tiên của tất cả các câu trong "bài giảng trên núi".
“Phúc
thay"!, "makarioi" trong tiếng Hy-lạp.
“Phúc
thay”!, "asherei” trong tiếng Do Thái...
Vâng
chủ đề của bài thuyết giáo đầu tiên của Đức Giêsu chính là hạnh phúc. Các mối
phúc thật là một sự loan báo về hạnh phúc, một "tin mừng tóm lược toàn bộ
Tin Mừng. Các bạn là những người nghèo khó, bị khinh miệt những người chán nản,
thất vọng, các bạn có thể được hạnh phúc. Các bạn hãy hạnh phúc. Bởi vì hạnh
phúc thật trước tiên không phải là công việc của sự giàu sang, của sự thành
công, của lạc thú. Bạn đã tưởng rằng hạnh phúc không dành cho bạn... Đức Giêsu
nói với bạn rằng bạn có thể được hạnh Phúc. Đức Giêsu muốn làm cho các môn đệ
của người trở thành những người hạnh phúc. Bạn là Kitô hữu! bạn có biết rằng
bạn đang hạnh phúc không? Nếu bạn không hạnh phúc, bạn không hỏi tại sao ư?
Nhưng
vấn đề là hạnh phúc nào? Có nhiều loại hạnh phúc.Và hạnh phúc khi nào? Cho cuộc
đời hiện tại hay cuộc sống mai sau?
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó...
Phúc thay ai hiền lành...
Phúc thay ai sầu khổ...
Phúc thay ai khao khát nên người công
chính...
Phúc thay ai xót thương người...
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch...
Phúc thay ai xây dựng hòa bình...
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công
chính...
Hạnh
phúc mà Đức Giêsu nói đến không loại trừ những nghịch cảnh và sự đau khổ. Chúng
ta đã thấy điều đó qua tất cả bản văn, một cách chính xác Đức Giêsu nhắm đến
những người mà người ta coi như những người bất hạnh. Các mối phúc thật không
nhắm đến "những"hạng người khác Những từ ngữ thay đổi ở đó chỉ để làm
dôi lại một tư tưởng duy nhất: “Anh em hãy đến cùng tôi. tất cả những ai đang
vất vả và nặng nhọc, và tôi, tôi sẽ cho anh em sự nghỉ ngơi. Anh em hãy mang
lấy ách của tôi, và hãy học vôi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ
nhàng" (Mt 11,28-30).
Vâng,
Đức Giêsu đúng là Đấng mà người ta chờ đợi "Đấng đã được loan báo",
"Đấng phải mang lại Tin Mừng “cứu độ" Người ta hay quên rằng chữ
"Tin Mừng" đã được chính Đức Giêsu lấy lại từ phần thứ hai của sách
Isaia: "Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu (oint = chnstoa)
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức..." (Is 61, 1.6 - Lc 4,18)
Phúc
thay... vì Nước Trời là của họ...
Tám
mối phúc thật đầu tiên được đóng khung bằng sự bao gồm này, được lặp lại hai
lần ở đầu và ở cuối (Mt 4,3 và 4,10). Bởi công thức này, Đức Giêsu trả lời hai
câu hỏi của chúng ta: hạnh phúc nào? khi nào? Vấn đề là một hạnh phúc “từ bây
giờ". Nước trời đang ở trong anh em: Không phải chỉ là một hạnh phúc được
hứa cho mai sau, cho đời sau. Phải hiểu rõ sự tế nhị trong tư tưởng của Đức Giêsu.
Sẽ
là một sự hiểu sai khi biến nó thành một thứ "thuốc phiện của quần chúng
để người ta hút và ngủ thiếp đi với lại hứa sẽ được hạnh phúc sau này, bên kia
thế giới sau khi chết! Đức Giêsu nói rằng những ai bị đè bẹp bởi thế giới này
thì được hoặc có thể được hạnh phúc một cách thiết thực ngay trong lúc mà Đức
Giêsu nói điều đó với họ. Nhưng điều này không hiển nhiên. Phải ý thức về nó.
Và điều ấy dĩ nhiên không loại bỏ viễn cảnh của một "thế giới phải
đến", "Nước Thiên Chúa" nhưng niềm hy vọng ấy đã chuyển biến
hiện tại. Tương lai hạnh phúc mà Đức Giêsu hứa ban cho tất cả những ai bị hoàn
cảnh nhọc nhằn hiện tại đè bẹp…. tương lai ấy đã trở thành một thực tại hiện
diện trong ngôi vị và tình bạn hữu của Đức Giêsu
Bởi
vì hạnh phúc ấy, chúng cuộc, chính là Triều đại của Thiên Chúa", chính là
"Tình yêu Thiên Chúa" ngay từ Hôm Nay nếu bạn muốn thật sự soi sáng
hoàn cảnh đau khổ của bạn. Đức Giêsu không bao giờ định nghĩa "Nước Thiên
Chúa (những chữ Nước, Triều đại, Vương quyền đều giống nhau trong tiếng Do
Thái), nhưng nó gợi lên ý tưởng và người ta có về Đấng Quân Vương, Đấng Thiên
Sai lý tưởng trong toàn bộ Phương Đông Cổ đại: chức năng đầu tiên của vua (Đấng
quân Vương) là bảo đảm sự giải phóng khỏi mọi sức mạnh ngoại bang đang đe
dọa... bảo đảm công lý và bảo vệ những người nghèo, trẻ nhỏ chống lại những
người giàu sang và quyền thế là những người luôn luôn có khuynh hướng bóc lôt
những người yếu đuối. Khi Đức Giêsu khẳng định rằng những người nghèo là những
người được Thiên Chúa ban đặc ân, rằng triều đại của Thiên Chúa thuộc về họ,
rằng công lý vương đế đứng về phía những người phận nhỏ….Đức Giêsu không nói
rằng những người nghèo là những tốt nhất, đạo đức hơn những người khác. Vấn đề
ở đây không phải là tâm lý hoặc đạo đức của những người nghèo. Trong. Những
công bố này về các mối phúc thật, có một sự mạc khải một ý tưởng nào đó về
Thiên Chúa: Thiên Chúa tự nhận mình có bổn phận là một ông vua tốt. Thiên Chúa
đặt niềm vinh dự của Người trong việc đem lại "hạnh 'phúc”, một cách mầu
nhiệm, cho những người bị tước đoạt hết mọi hạnh phúc của con người. Cho cả bạn
nữa, nếu bạn muốn! Hạnh phúc nghịch lý và không thể hiểu được đối với người nào
đã không cảm nghiệm nó.
Vậy
bạn hãy thử xem. Hãy bước vào hạnh phúc đó của Thiên Chúa. Ngay NGÀY HÔM NAY.
Nếu
bạn đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa toàn diện" của các mối phúc thật, lúc đó
bạn hãy lắng nghe cách thể hiện mà Matthêu đem lại. Sự công bố Tin Mừng Nước
Thiên Chúa trình bày một chương trình sống cho người Kitô hữu: nếu bạn muốn
hạnh phúc thì đó là cách mà bạn phải làm.
Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời
là của họ.
Phúc
thay ai hiền lành
vì họ sẽ được
Đất Hứa làm gia nghiệp.
Cùng
một chữ Do Thái "anawim': có thể được dịch là “nghèo khó" hay là
"hiền lành". Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chữ "anawim"
gợi lên hình ảnh của một người "bị uốn cong", thái độ của kẻ yếu
không còn khả năng tự vệ bắt buộc phải nhường bước trước những người là nạmh
nhất. Là người bị hạ nhục, bị làm cho thấp kém, người đó dù là nam hay nữ không
làm sao để cho người ta tôn trọng các quyền của mình…. Người "hiền
lành" chính là người không bực tức trước sự thịnh vượng của những vô đạo
và họ không đánh mất lòng nhẫn nại. Đức Giêsu nói về người "Thầy hiền lành
và khiêm nhường ở trong lòng (Mt 11,29-12, 18-21). Bị các kẻ thù công kích,
Người tha thứ cho họ. Đức Giêsu đã sống mối phúc thật thứ nhất:
Phúc
ai sầu khổ,
vì họ sẽ được
Thiên Chúa ủi an.
Phúc
thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được
Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc
thay ai xót thương người
vì họ sẽ được
Thiên Chúa xót thương.
Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được
nhìn thấy Thiên Chúa.
Đức
Giêsu đã khóc với Mát-ta và Ma-ri-a. Đức Giêsu hoàn toàn "tương ứng"
với ý muốn của Chúa Cha: Người là Đấng Công chính. Người là lòng thương xót của
Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Người đã tha thứ tha thứ và tha thứ...
Tâm hồn Người "thanh khiết" vô song, không chút sai lầm, không chút
quanh co: hành động và ý định của Người hoàn toàn thống nhất.
Phúc
thay ai xây dựng hỏa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Đức
Giêsu đến để đem lại hòa bình. Ồ, những ai xây dựng hòa bình thật hạnh phúc, họ
hòa giải những cặp vợ chồng gây gỗ, cãi vã nhau, họ nối lại những tình bạn bất
hoà? họ làm dịu bớt những xung đột giữa cha mẹ và con cái trong gia đình, họ
tạo ra sự lắng nghe và hiểu biết lẫn nhau. Không có sự phục vụ nào lớn hơn là
phục vụ anh em mình. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không như thế
gian ban tặng". (Ga 14,27). Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ
vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng" hớn hở, vì
phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
12. Chú giải của
Fiches Dominicales
CÁC
MỐI PHÚC
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1.
Tin vui
Hai
trong bốn tác giả Phúc âm tường thuật các mối phúc trong phần mở đầu cho bài
đại diễn từ cương lĩnh của Đức Giêsu. Theo thánh Luca, bài diễn từ quan trọng
này diễn ra "ở đồng áng”, vào lúc quan trọng nhắt của sứ vụ Đức Giêsu ở
Galilê, trái lại theo thánh Mátthêu, nó diễn ra vào buổi đầu của sứ vụ Chúa
Giêsu ở Galllê, và ở trên núi tượng trưng núi Sinai nơi Môsê mới sẽ công bố Lề
Luật của Giao ước mới. Bốn mối phúc tương ứng với bốn lời chúc dữ theo trình
bày của Luca chắc chắn gần với chính lời của Chúa Giêsu hơn tám mối phúc của
Mátthêu vì Mátthêu nhằm áp dụng giáo huấn đích thực của Chúa Giêsu vào thực tại
đời sống Kitô hữu nơi các cộng đoàn của ngài. Hạnh phúc mà các mối phúc công bố
cũng như hạnh phúc cho những người sống các mối phúc này trong những hoàn cánh
cụ thể của cuộc đời: “Phúc cho ai có lòng khó nghèo!...Phúc cho ai hiền
lành!... không phải do chinh phục mà được, nhưng là ơn huệ Thiên Chúa ban qua
con Ngài là Đức Giêsu Kitô. Họ được ban tặng hạnh phúc này ngay rừ bây giờ:
“Nước Trời là của họ”. Hạnh phúc ấy sẽ triển nở dưới ánh sáng của đời sau:
“Phần thưởng của các con sẽ lớn lao trên trời”. Cl. Tassin chú giải: “hạnh
phúc” trong Kinh thành là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh
lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với
con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét.
(Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr. 58).
2.
của một hiện tại nhào nặn tương lai.
Bốn
mối phúc đầu của Mátthêu tương tự nhau: ca ngợi người biết hướng về Thiên Chúa
và từ chối mọi bạo lực.
-
Phúc cho ai
có lòng khó nghèo: vì Nước Trời là của họ. “Sự khó nghèo” mối phúc này nhắm tới không
phải là sự khó nghèo về vật chất ; nhưng là thái độ tinh thần của một người
nghèo rự nhận mình không có quyền hành gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình
có đều do bàn tay nhân từ của người cha. Potel chú giải: “Người Kitô hữu trước
hết nhìn nhận rằng mình đã mãnh nhận sự sống từ Thiên Chúa mà Đức Giêsu dạy
phải nhận ra và yêu mến Ngài như người. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp
nhận từ thẳm lặng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này.
Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính
là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Một điều nghịch lý là sự khiêm nhường
triệt để này lại tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người.
Thực vậy, phẩm giá này còn dựa trên sự giầu có cũng như nhận đức tính nhân bản
nhưng trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người nhất là người nghèo. Chính
đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu! (Đức Giêsu, lịch sử đích thực,
Centuion. 1994, tr. 146-147).
-
Phúc thay ai
hiền lành,
vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp. Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc
trên từ một câu thánh vịnh 36: “những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất và sẽ
hưởng một nền hòa bình sung mãn”.
J.
Potel nói tiếp: “Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì
không có một phương tiện thể lý hoặc pháp lý nào được bảo vệ vụ kiện của mình.
Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận
quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín
nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay
người ta nói nó là kết quả của sự không dùng bạo lực (sách đã dẫn, tr.147)
-
Phúc thay ai
sầu khổ
vì họ sẽ được an ủi dĩ nhiên phải hiểu là: họ sẽ được Thiên Chúa an ủi bởi vì
các nhà chuyên môn gọi thì thụ động ở đây là thì phụ động thần học. Tận đáy sâu
của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một tia hy vọng: Tia hy vọng
này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn
thử thách. (Sách đã dẫn).
-
Phúc thay ai
khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa
lòng. Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh. Sự công chính có mối phúc thứ bốn được hiểu
là tự điều chỉnh tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã lành Thiên Chúa
ở đây là đấng đã đến gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Trọn đời
mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân lý do
giao ước này đề ra bằng cách thực hiện sự công chính”. Đối với Thiên Chúa và
đối với đồng loại (Sách đã dẫn).
Họ
sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng Người Kitô hữu hiểu rằng cuối đời họ sẽ nhận
được sư sống sung mãn từ Thiên Chúa giao ước. Và theo họ, nếu đời sống đạo đức
bắt nguồn từ Thiên Chúa thì nó cũng sẽ hoàn tất nơi Ngài. Bốn mối phúc sau
hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô.
-
Phúc thay ai
xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Khi
chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân rừ và xót thương cư xử với ta, người môn
đệ của Đức Giêsu học biết tha thứ những xúc phạm, trợ giúp anh em mình sống
trong cảnh tuyệt vọng.
-
Phúc thay ai
có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa. Sự trong
sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự
chinh trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm, giữa hành vi và động
cơ sâu xa của nó. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
-
Phúc thay ai
xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa! Jean
Potel giải thích: Đối với cuộc sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống
hoà hợp và an lành không đủ. Ngài đòi hỏi một đức ái tích cực, nhất là khi
không có hòa bình trong gia đình, một công đoàn Kitô hữu, giữa các nhóm xã hội
cũng như các dân tộc. Hòa bình không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa
không có giới hạn. Nhưng người đời sống hòa bình sẽ được gọi là con Thiên Chúa:
dĩ nhiên nhiện vụ của con là tiếp tục công việc của cha mình, mà điều Cha trên
trời muốn là đem hòa bình đến cho con người. (Sách đã dẫn. tr. 148 ).
-
Phúc thay ai
bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ!”. Trung thành
thân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong Các Mối Phúc không phải là không có
những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại vì những giá trị Nước Trời đi
ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống.
Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của ngài là những người nghèo thực
sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh
chịu.
Tất
cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean
Potel kết luận ngài hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã
hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của ngài đều
biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch,
kiến tạo hòa bình ; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều Đại của
Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha”. (sách đã dẫn, tr. 149).
BÀI ĐỌC THÊM:
1.
“Lắng nghe lời Đức Giêsu trong tương quan sống động với con người của Ngài”.
(Đức Cha L. Daloz,
trong “Nước Trời đến gần”, Desclée de Brouwer, 1994, tr.43-44).
Mấy
lời dẫn nhập và "diễn từ" của Đức Giêsu được tập hợp lại trong bài
“diễn từ”: "Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ
đến gần bên. Người mở miệng dạy họ rằng". Ta đừng khinh thường bỏ qua
những hàng này. Nhờ chúng, toàn bộ diễn từ theo sau mới có ý nghĩa, bởi vì bài
diễn từ này không chỉ đơn giản là một chuỗi những câu trống không nói lên những
qui tắc về một lối sống đạo đức. Nó là lời của Đức Giêsu: Người mở miệng dạy họ
rằng. Đừng quên con người Đức Giêsu. Ngài nói với đám đông và đám đông phản
ứng: ở cuối bài giảng trên núi, tác giả Tin Mừng nói với chúng ta: "Khi
Đức Giêsu Giảng dạy những điều ấy xong, đám đông sửng sốt về lời giảng dạy của
Ngườ, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư
của họ." (7,28-29) Điều đánh động đám đông không phải là giáo thuyết nhưng
là con người của Đức Giêsu và thẩm quyền nơi lời của Ngài.
Chúng
ta cũng vậy, hãy nghe lời Đức Giêsu không như những chân lý ngàn đời, nhưng
trong mối tương quan sống động, với bản thân Ngài. Chính con người của Ngài làm
cho giáo huấn của Ngài có thẩm quyền. Chiêm niệm những gì mình đọc là điều cần
thiết, đừng chỉ suy tư về vẻ đẹp và về những đòi hỏi trong lời Đức Giêsu nói.
Thẩm quyền lời Đức Giêsu biến thành một bảng xét mình cũng không đúng. Vì như
vậy, lời Chúa sẽ trở thành một đối tượng chiếm hữu, một phương tiện sử dụng...
để tạo dựng một đời sống tốt lành, một sự hoàn thiện cho chúng ta, như những
người Biệt phái. Trái lại, chúng ta phải đón nhận lời từ miệng Đức Giêsu, phải
chăm chú điều Ngài muốn nói với chúng ta... chứ không phải vào điều mà những
lời này nói với chúng ta, vì làm như vậy có nguy cơ là những lời này chúng nói
gì với chúng ta! Một nguy hiểm nghiêm trọng là ta thường đọc Tin Mừng chỉ như
một bản văn đơn thuần, như một đối tượng để biến thành phương tiện sử dụng. Tin
Mừng là nơi gặp gở, nơi lắng nghe. Khi ta không hiểu rõ lời Ngài nói chúng ta
có thể xin Ngài giải thích để ta hiểu. Khi ta không thể thực hiện được điều
Ngài đòi hỏi, ta xin Ngài giúp đỡ gặp gỡ Đức Giêsu, nghe Ngài, cầu xin Ngài cho
ta có tai để biết nghe, cho ta sức mạnh để thực hiện, đó là cách ta đọc Tin
Mừng. Ta hãy lắng nghe những gì Đức Giêsu nói trong bài diễn từ trên núi này.
Cầu xin Ngài cho chúng ta hiểu lời Ngài dạy và đem ra thực hành.
2.
“Các mối phúc: lời hứa và món quà hạnh phúc”.
(J. Guillet, trong
‘Đức Giêsu trong đức tin của những môn đệ đầu tiên’ Dédée de Brouwer, 1995, tr.
96-97).
“Khi
mở đầu sứ điệp của Ngài bằng các mối phúc, Đức Giêsu không muốn phác họa một
còn đường đưa đến hạnh phúc, một lộ trình buộc ta phải theo, nhưng Ngài hứa:
một quà tặng mà chỉ có Ngài mới có thể ban. Ngài không bảo ta đi tìm hạnh phúc
hay chờ đợi nó. Đây chỉ là sư mơ ước theo tính toán của ta, niềm hy vọng phát
sinh từ những ước muốn của ta. Ngay trước khi công bố các mối phúc, Đức Giêsu
đã kêu gọi dân chúng sám hối và tin tưởng, anh em hãy sám hối là tin vào Tin
Mừng! Khi mời gọi sám hối và công bố Tin Mừng trọng đại, Đức Giêsu xuất hiện
như một tiên tri cao cả nhất từ trước tới nay. Khi tung ra các mối phúc, Ngài
tỏ ra mình là người khôn ngoan và giới thiệu một kinh nghiệm. Tin Mừng vừa là
lời tiên tri của một biến cố vĩ đại vừa là sự chuyển thông đức khôn ngoan.
Tin
Mừng không phai là đi tìm hạnh phúc nhưng là lời hứa và quà tặng hạnh phúc vì
Thiên Chúa đã tạo dựng con người để họ được hạnh phúc. Nhưng đó không phải là
thứ hạnh phúc mà họ ước mơ và hăng say chinh phục: Hạnh phúc đây chính là sự
sống cua Thiên Chúa ban cho con người là trong hạnh phúc đó, ngài qui tụ tất cả
con cái Ngài lại. Ta có thể làm sai lạc ý nghĩa của các mối phúc cũng như làm
méo mó hình ảnh của Đấng Thiên Sai đến nỗi không còn nối kết hình ảnh ấy với
Đức Kitô được nữa Ngài không nói: anh em nghèo khổ nên anh em sẽ được hạnh phúc
; Ngài cũng không nói: anh em hãy nghèo khổ để được hạnh phúc. Ngài chỉ nói:
anh em nghèo khổ, hạnh phúc đến với anh em. Ngài có thể nói điều đó bởi lời
Ngài đem đến hạnh phúc này, bởi vì chính bản thân Ngài là niềm vui là hạnh phúc
của Thiên Chúa. Nhưng để cảm nhận được điều này, phải tin và ưng thuận theo
Ngài. Hạnh phúc này không thuộc về một thế giới khác với thế giới ta đang sống
Nó cũng không được cất giấu ở một nơi bí mật. Nhưng ngay từ bây giờ nó đã được
ban tặng cho tất cả mọi người, là trước hết là những người đau khổ. Những phép
lạ Đức Giêsu đã gieo trên đường rao giảng là dấu chỉ cho thấy Ngài chính là cội
nguồn hạnh phúc. Đây chỉ là những dấu chỉ, chúng không biến đổi hoàn cảnh ta
đang sống, nhưng chỉ ra một lối thoát là cho ta nghe được lời mời: Tất cả những
ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi
dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền
hậu và khiêm nhượng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi”. (Mt. 1l,28-30) Đó là
phong cách và ngôn ngữ của một tôn sư về sự khôn ngoan của một người đã sống
một kinh nghiệm và tự biết anh có thể truyền đạt nó. Đó cũng chính là người
cộng tác mối phúc và ngôn ngứ vẫn là một: Phúc cho những ai hiền lành-Ta là
Đấng hiền lành ; nghỉ ngơi hòa bình. Từ dùng có thể thay đổi, nhưng vẫn là kinh
nghiệm ấy, tiếng nói ấy, tấm lòng ấy. Chỉ có Ngài mới biết hạnh phúc là gì ;
chỉ có Ngài mới có thể ban hạnh phúc vì hạnh phúc là quà tặng của Thiên Chúa.”
13. Phân tích chi
tiết mỗi chân phúc – GHHV. Đàlạt
A- Chân phúc thứ
nhất: những kẻ nghèo khó trong tinh thần (5, 3)
1.
Nội tâm hóa mối phúc: ý nghĩa đại cương của tiều tiết tôi
pneumati, "trong tinh thần" (riêng Matthêu) thật rõ ràng: Matthêu chú
trọng vào một thái độ tâm hồn hơn là vào giai cấp khó nghèo trong xã hội. Tin
Mừng cũng cống hiến nhiều thành ngữ tương tự Trong 1 Cr 7,34, người trinh nữ
được gọi là "thánh trong thân xác và thần hồn" (kai tôi somati kai
tôi pneumati), vì bên cạnh việc thánh hiến thân xác, thành ngữ còn gợi lên một
thái độ tâm hồn, thái độ nhờ đó người trinh nữ chú tâm làm đẹp, một mình Chúa.
Xem Cv 18,25 (Apollô có tâm hồn nhiệt nồng); 20,22 (Phaolô bị xiềng trong tinh
thần; Ng-Thế-Thuấn: bị xiềng bởi Thần khí). Trong bản 70, người ta cũng nêu ra
được rất nhiều thành ngữ tương tự: "tinh sạch trong lòng", "thẳng
thắn trong lòng", “tan nát tâm hồn", "không cắt bì trong
tiệm"... Hết thảy các công thức đó đều nói lên mối ưu tư muốn nội tâm hóa
một tính cách, bằng cách xác định trung khu của nó là trong tinh thần; đấy là
một thái độ tinh thần vậy.
2.
Các lối giải thích khác nhau về chân phúc này. Phải loại bỏ mọi cách
giải thích cho rằng tinh thần là đối tượng, chứ không phải là trung khu của sự
khó nghèo, cho rằng những ai có tinh thần nghèo khó là những kẻ nghèo nàn về
tinh thần, những kẻ thiếu ơn Thần khí và đang cảm thấy nhu cầu, những kẻ mà sự
bần cùng là ở chỗ không hiểu biết những điểm tinh tế trong các nố pháp luật
(đối nghịch với các tiến sĩ Luật).
Còn
lại hai lối giải thích xem tinh thần như là trụ sở của sự nghèo khó. Theo lối
giải thích đầu, đấy là một thái độ từ bỏ và siêu thoát bên trong đối với của
cải. Sự nghèo khó trong tinh thần ấy không tất nhiên mâu thuẫn với việc chiếm
hữu của cải nhưng với lòng dính bén chúng từ bên trong. Tuy nhiên có một vấn đề
được đặt ra: đâu là tương quan giữa đức siêu thoát nội tâm này với sự khó nghèo
đích thực bên ngoài? Khi nhấn mạnh tới thái độ bên trong, phải chăng Matthêu
muốn ngầm bảo rằng ta có thể thỏa mãn về thái độ ấy mà không cần cho sự nghèo
khó tinh thần phải được một tình trạng cụ thể bên ngoài tương ứng? Matthêu minh
định rằng sự khó nghèo nội tâm làm nên cái cốt yếu; ông không mấy để ý tới nỗi
túng thiếu bên ngoài, vì nó chỉ có ý nghĩa trong tương quan với sự nghèo khó
bên trong. Nhưng theo vặn mạch chung của các Tin Mừng, phải nhận trong khó quan
niệm được một kẻ giàu có biết siêu thoát tài sản của mình.
Lối
giải thích thứ hai coi người nghèo là những tâm hồn không chỉ dứt bỏ của cải,
song còn biết từ khước chính mình và phó thác cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó này
chẳng những liên hệ đến tài sản vật chất, mà còn lan rộng tới các loại của cải
khác như -tiếng tăm, khả năng, công nghiệp thiêng liêng tinh thần nghèo khó bấy
giờ tương đương với khiêm hạ. "Nghèo khó trong tinh thần là những kẻ có ý
thức đầy đủ và đau đớn về sự nghèo nàn thiêng liêng của mình, về tính cách bất
toàn của tâm hồn mình, về sự thiện ít ỏi mình đang mang, về sự bần cùng luân lý
mà phần lớn nhân loại sa phải. Chỉ có những kẻ nghèo biết mình nghèo mới đau
khổ về sự túng cực của mình cùng cố gắng thoát ra khỏi đó. Và họ khác xa biết
bao với các người giàu giả tạo, những kẻ tưởng mình kiện toàn, không thể cải
thiện hơn, đúng phép với hết thảy, đẹp lòng Thiên Chúa và đẹp lòng mọi người;
những kẻ này thiếu niềm ao ước và lòng hăng say leo lên tới một chóp đỉnh mà họ
tưởng đã đạt, và họ sẽ chẳng bao giờ giàu sang, vì không biết được nỗi khốn khổ
khôn dò của mình" (Papini).
Khó
mà dứt khoát chọn lấy một trong hai cách giải thích trên. Lối giải thích sau có
cái lợi là phù hợp với văn mạch Cựu Ước: sau lưu đày, các kẻ nghèo quả là những
người có thân phận khiêm tốn, nhưng người ta vẫn nhấn mạnh hơn tới lòng trung
thành với đạo và sự phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của họ. Khi xác định
"trong tinh thần", Matthêu có lẽ muốn đặt nặng khía cạnh tôn giáo của
sự khó nghèo, cùng liên kết kẻ nghèo của mối phúc thứ nhất với các “khách hàng
của Giavê" mà Cựu Ước đã nói tới, Ngược lại, lối giải thích thứ nhất rõ
ràng muốn lưu ý nhiều đến tình trạng xã hội, là khởi điểm của ý niệm nghèo khó
thiêng liêng. Tuy nhiên, theo cả hai, rõ ràng Matthêu từ chối gán giá trị
nguyên cho sự nghèo túng vật chất. Điều đáng kể đối với ông chính là thái độ
tinh thần, cái duy nhất mang giá trị luân lý và đáng ân thưởng.
B- Chân phúc thứ hai:
những người hiền lành (5, 4).
1.
Xuất xứ của chân phúc này: Có hai lập
trường đối nghịch: một: cho rằng chân phúc nằm trong tài liệu nguyên thủy, hai:
lại bảo nó đã được một sao lục viên về sau thêm vào nguyên bản Matthêu. Lập
trường đầu không mấy chắc chắn. Lập trường sau, trái lại, dựa trên nhiều bằng
chứng đáng tin cậy như các thủ sao do dự về vị trí của mối chân phúc, có khi
đặt nó nằm hàng nhì (trước mối phúc các kẻ ưu phiền); lúc lại hàng thứ ba; nếu
coi nó như là một sự thoán nhập, thì các chân phúc lui lại còn 7, một con số
Matthêu ưa thích; rồi việc đăng chèn nó có thể cắt nghĩa như một lời giải thích
mượn từ Tv 37,11; sau cùng chân phúc này sẽ không khác chân phúc đầu tiên, nếu
ta nại vào tiếng hy bá là tiếng hầu như đồng hóa chữ "hiền lành" với
chữ "khó nghèo". Dầu sao mấy lập luận trên chẳng có tính cách quyết
định. Nên phần lớn các tác giả vẫn duy trì xác thực tính của mối phúc này. Mọi
thủ sao thảy đều ghị lại nó, dầu một vài bản đặt vào hàng thứ ba.
2.
Điều hứa:
Trong Tv 37,11 là Thánh vịnh gợi hứng cho mối chân phúc, có bân đến "Hứa
địa", đất Canaan. Chủ đề này bất nguồn từ lời Thiên Chúa hứa cho Abraham
(St 15,7; 28,4), rồi được khai triển rộng rãi trong Đệ nhị luật (1, 8.39;
4,1.5.14) và mặc một sắc thái cánh chung trong Isaia đệ nhị (57,13; 60,21;
65,9). Nơi Matthêu, lời hứa chỉ muốn nhắm tới việc vui hưởng Nước Trời, như trong
các mối chân phúc khác. “Đất" là gia sản được lời hứa thần linh bảo đảm
(1Pr 1, 4-5). Chủ đề gia sản này thường gặp luôn trong Tân ước, nhưng thay vì
thành ngữ "thừa hưởng đất", người ta thích thành ngữ "thừa hưởng
Nước Thiên Chúa" (Mt 25,34; 1Cr 6, 9-10...), "thừa 'hường sự sống
vĩnh cửu” hơn (Mt 19,29; Mc 10,27; Lc 10,25...). Vì gia sản thuộc về con cái là
điều hợp lý, nên thừa hưởng gia sản, nói cách cụ thể, là nhận được tước hiệu
con cái Thiên Chúa, như lời hứa nơi chân phúc thứ bảy, mối chân phúc của các kẻ
xây dựng hòa bình (c.9), x.Kh 21, 6-7.
3.
Những người hiền lành: Vì chân phúc này phát xuất do tay một soạn
giả Hy lạp (hoặc có thể là một sao lục viên nào đó) nên ông ta chắc đã muốn nói
lên một cái gì khác hơn là nội dung chữ “khó nghèo" theo Cựu Ước, nếu
không thì mối phúc thứ hai này trùng với mối phúc đầu tiên. Ta có thể xác định
ý niệm "hiền lành" bằng cách đối chiếu mối phúc với Mt 21,5 và 11,
28-30. Trong đoạn nhất, Chúa Giêsu, quy việc vào thành Giêrusalem, tỏ ra khác
biệt hoàn toàn với các vua chúa lương dân là những kẻ thống trị bằng bạo lực.
Trong đoạn 2 (xin lưu ý: thành ngữ "hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng" chỉ một thái độ nội tâm), Chúa Giêsu chống lại sự nghiêm khắc khó
tính của ông thầy như các Biệt phái. Theo văn mạch ấy được củng cố nhờ các thư
Tân Ước (nhân đức hiền lành xuất hiện trong đó hơn 12 lần), "hiền
lành" thiết yếu là nhân từ, có quan hệ một đàng với sự khiêm tốn, đàng
khác với lòng thương xót tha nhân... Thế nên, các kẻ "hiền lành" gần
với các kẻ "thương xót" vậy!
C. Chân phúc thứ ba:
các kẻ ưu phiền (5, 5).
Văn
mạch chung của các chân phúc nơi như đã xác định trên kia, buộc ta phải coi nỗi
ưu phiền này là một thái độ của tâm hồn. Có thể xác định đối tượng của nó
không? Khó mà trả lời dứt khoát được. Động từ Hy lạp pentlleô nói lên sự đau
đớn biểu lộ ra bên ngoài qua những tiếng rên rỉ kêu la. Như trong Tân ước,
pentheô thường đi kèm theo các động từ "kêu la, than thở". Ngoài Bát
phúc, chỉ dùng động từ này một lần nữa thôi, khi nói các môn đồ sẽ than khóc
như bị tang chế sau ngày chia lìa Tân lang (9,15).
Có
thể giả thiết rằng mối chân phúc thứ ba đề cập đến nỗi ưu phiền tương tự nỗi ưu
phiền tang chế, đề cập đến các Kitô hữu than khóc vì cảm thấy phải chia lìa
Thiên Chúa do tội lỗi mình. Họ ý thức một cách đau đớn tội mình đã phạm và nỗi
khổ tinh thần do chúng gây nên (so sánh với 1 Cr 5,2; 2 Cr 12, 21; Gc 4, 9).
Niềm
"an ủi" hứa ban cho họ bấy giờ hệ tại chỗ thứ tha tội lỗi. Do văn
mạch cánh chung của những lời hứa khác, trước tiên phải đặt việc tha thứ này
vào lúc phán xét sau cùng.
D- Chân phúc thứ tư:
những kẻ đói khát công chính (5, 6).
1.
Ý niệm “công chính" trong Thánh Kinh: Trong Thánh Kinh, ý
niệm “công chính” cổ truyền ám chỉ điều gì phù hợp với ý muốn Thiên Chúa và
luôn luôn hiểu như là một đời sống cụ thể của con người trong lịch sử được
Thiên Chúa, là vua và quan án nhân loại, chấp nhận chuẩn y. Trong Matthêu, ý
niệm "công chính” được dùng lại theo nghĩa cổ truyền, hợp với Thánh Kinh.
Nó chỉ cách ăn nết ở của Kitô hữu, rập khuôn theo thánh ý Thiên Chúa mà Chúa
Kitô đã công bố. Cho nên sự "công chính" cần thiết để tham dự vào
nước Trời này chẳng phải là một lý tưởng luân lý trừu tượng nhưng chính là
thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ra bên ngoài qua các việc thiện Kitô hữu làm.
2.
Sự công chính người ta đói khát (Mt 5, 6): Trước hết phải loại trừ hai
lời giải thích không phù hợp với văn mạch thần học của Matthêu: Tách biệt ra,
chân phúc thứ tư có thể nói đến sự công bình đối lập với bất công xã hội dưới
mọi hình thức. Nhưng lối cắt nghĩa này thích hợp với văn mạch lạc chứ không với
Matthêu. Nơi Matthêu, chữ “công chính" có một nghĩa rộng hơn và sâu hơn là
chữ công bình xã hội: sự công chính diễn tả toàn thể thái độ Kitô hữu được
Thiên Chúa chuẩn y.
Ta
cũng có thể nghĩ đến sự công chính siêu việt của Thiên Chúa, sự công chính sẽ
tỏ hiện ra vào ngày chung thẩm để trừng phạt quân vô đạo và ban thưởng Nước
Trời cho người công chính. "Đói khát công chính" bấy giờ có nghĩa là
"nao nức mong chờ sự can thiệp dứt khoát của Thiên Chúa vào lúc cứu rỗi
cánh chung". Tuy nhiên văn mạch Matthêu không quy hướng chúng ta về sự
công chính mà Thiên Chúa sẽ thực thi, nhưng về sự công chính mà con người phải
nỗ lực đạt cho được trước mặt Thiên Chúa, bằng cách thi hành thánh ý Ngài.
Vậy
thì đâu là văn mạch của Matthêu cho phép xác định chân phúc thứ tư này? Nơi
21,32 chữ "công chính" (“Gioan đã đến với các ông theo đàng công
chính”) chỉ sự khắc khổ của Gioan Tẩy giả. Nơi 3,15 và 5,17, Matthêu lại viết
Chúa Giêsu đến hoàn thành Lề luật và các Ngôn sứ: như thế nghĩa là sự
"công chính" của Chúa Giêsu, hoàn hảo hơn sự công chính của Lề luật
nằm trong đường hướng sự công chính phải được thực thi. Việc thêm chữ "và
sự công chính của nó" trong 6,33 ("Trước tiên hãy tìm ‘Nước’ và sự
công chính của nó”) hình như nhằm nhấn mạnh rằng người ta không chỉ nên cầu
mong cho Nước Thiên Chúa đến để hưởng được mọi của cải của thế giới bên kia,
nhưng phải cố công đạt cho được sự hoàn thiện Kitô giáo bằng cách làm việc
lành: Luca nhấn mạnh tới ý hướng, còn Matthêu minh định ý hướng phải diễn ra
hành động. Sự "công chính" của các môn đồ Chúa Giêsu phải vượt quá sự
công chính của Ký lục và Biệt phái (Mt 5,20): vượt quá, nhưng vẫn cùng một
loại. Sự "công chính" này sẽ đáp lại những đòi hỏi sâu xa hơn các đòi
hỏi của Lề luật và lời giải thích chính thức về Lề luật, nhưng đó vẫn là sự
công chính người ta thực thi bằng cách ăn ở phù hợp với Luật ấy. Phải giữ mình
đừng thực thi nó một cách phô trương (Mt 6,1): các đòi hỏi của sự "công
chính mới" chẳng những liên hệ tới các hành vi bên ngoài, mà còn lan rộng
đến các ý hướng. Ở đây vẫn vậy, cũng chỉ là sự nối dài đường hướng xưa nay.
Thành
ra kẻ đói khát sự công chính là các Kitô hữu nhiệt thành ao ước sống theo ý
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. "Sự công chính" họ mong muốn
là một sự công chính luân lý, do toàn thể những công việc có tính chất Kitô
giáo xây nên. Sự công chính luận lý này là lý tưởng của sự hoàn thiện Kitô hữu,
lý tưởng được quan niệm như một sự vượt quá hay đào sâu lý tưởng luân lý mà Lề
luật đã đề ra cho người Do thái. Hạnh phúc của Nước Trời dành cho những ai hết
sức ao ước thực thi sự hoàn thiện đó trong cuộc đời họ.
E- Chân phúc thứ năm:
những kẻ biết thương xót (5, 7).
1.
Điều hứa:
lòng thương xót của Thiên Chúa: Văn mạch các chân phúc của Matthêu cho thấy lời
hứa này trước tiên nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót sẽ
biểu lộ vào ngày cánh chung, lúc phán xét, khi Chúa Kitô đem các kẻ "biết
xót thương" vào Nước Người so sánh với Gd 21; 2 Tm 1,18).
2.
Điều kiện: bổn phận xót thương: ý niệm sau đây rất quen thuộc với
Do thái giáo và Kitô giáo: để chắc chắn được Thiên Chúa thương xót ngày chung
thẩm, phải biết tỏ lòng nhân ái với tha nhân. Có nhiều bản văn nói về hậu quả
này trong ngụy thư Do thái và sách giáo sĩ, chẳng hạn câu: "Ai biết thương
người, sẽ được thương xót trên trời; ai không thương người, trên trời sẽ chẳng
xót thương họ". Cũng vậy trong Tân Ước (Gc 2, 13: "án xử sẽ tàn nhẫn
cho người bất nhân") và nơi các Tông phụ (1 Clêm. 13, 2; Polycarpô 2, 3).
Matthêu
nhấn mạnh bổn phận nhân ái này. Chỉ mình ông trích lại, và trích đến hai lần,
bản văn Hs 6,6: "Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ" (9,13;
12,7). Trong cả hai trường hợp, đó là một bài học cho Biệt phái, những kẻ đòi
phải tuân giữ lề luật phụng tự mà bỏ quên lòng nhân ái (so sánh với Mt 23, 23).
Nơi lời cầu xin thứ 5 của kinh Lạy Cha, chỉ mình Matthêu chú giải thế này:
"Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ xúc phạm, thì Cha các
ngươi trên trời cũng sẽ tha cho các người..." (6,14-15). Sau cùng dụ ngôn
người tôi tớ bất nhân (Mt 18, 23-35) soi sáng một cách cụ thể cái bổn phận xót
thương bằng cách tha thứ cho anh em mình.
F. Chân phúc thứ sáu:
những kẻ tinh sạch trong lòng
1.
Điểm tương tự với chân phúc đầu tiên: Như chân phúc các kẻ
nghèo, chân phúc của những người trong sạch chuyển một tính cách thể lý sang
bình diện tinh thần. Đầu tiên, sự "tinh sạch" gợi lên sự sạch sẽ của
thân xác. Tiếp đó nó mặc một ý nghĩa tế tự, chỉ định tính cách của kẻ phải có
đầy đủ các điều kiện cần thiết để trình diện trước bàn thờ Thiên Chúa. Sau
cùng, hạn định từ "trong lòng", tương đương với "trong tinh
thần" của chân phúc thứ nhất, đặt tính cách này vào nội tâm.
2.
Mạch văn Kinh Thánh: Chân phúc thứ 6 là âm vang của Thánh vịnh
24, 3-6 (so sánh với Tv 15, 1-3). St 20,5 đặt đối lập sự trong sạch ý hướng với
sự nhơ bẩn chiếu theo lề luật (Abimélek đã vô tình lấy vợ của Abraham).
"Tinh sạch trong lòng"; như các thành ngữ tương tự: "thẳng thắn
trong lòng", "đơn sơ trong lòng", bao giờ cũng chỉ sự ngay thẳng
của lương tâm. Thành ra nó "không có nghĩa tinh sạch như hiện thời"
(I. Fransen), nhưng nói lên sự vắng bóng lòng tráo trở, dạ bất lương. Người
tinh sạch trong lòng phục vụ Thiên Chúa và tha nhân "hết tâm hồn",
không tính toán tư lợi hay giả bộ đạo đức. Việc chuyển dịch từ bình diện nghi
lễ sang bình điện luân lý cũng gặp lại trong Tân Ước. Nhưng khi được thiêng
liêng hóa, ý niệm tinh sạch vẫn không mất đi âm hưởng phụng tự (ví dụ 2 Tm 1,3;
2,22; Gc 4,8).
3.
Quan điểm luân lý của Matthêu: Chữ "thấy Thiên Chúa" gợi
lại bối cảnh phụng tự nguyên thủy của sự tinh sạch: trong Tv 24, 6 và 17, 15,
"thấy Thiên Chúa "có nghĩa là "trình diện trước nhan Ngài",
tại Đền thờ Ngài ở Giêrusalem; trong Matthêu, thành ngữ chỉ hạnh phúc Nước
Trời, được gợi lên dưới hình ảnh một sự tham dự vào phụng tự diễn ra trước mặt
Thiên Chúa (Kh 22, 3-4; Dt 12,14).
Tóm
lại, để được nhận vào trước nhan Thiên Chúa, cần phải tinh sạch. Sự tinh sạch
này không chỉ có tính cách nghi lễ; nó còn nằm nơi sự hoàn toàn ngay thẳng bên
trong. Đây không phải là những hành vi, song là một thái độ tâm hồn, thái độ
làm căn nguyên cho mọi hành vi của ta và ban cho chúng ý nghĩa luân lý đích
thực.
G- Chân phúc thứ bảy:
những kẻ tác tạo hòa bình (5, 9).
1.
Điều hứa:
"Họ sẽ được gọi" tương đương với "họ sẽ là” Thường thường, trong
ngôn ngữ Kinh Thánh, người ta không nhấn mạnh đến sự kiện được nhận một tên cho
bằng đến hiệu quả tương ứng với tên đó nơi người nhận. Do đấy thể thụ động
"được gọi " hầu như có nghĩa là "trở nên".
Họ
sẽ được gọi như thế do ai và khi nào? Nhiều tác giả, với nhiều cách giải thích
khác nhau, cho rằng đó là lòng kính trọng mà người đời dành cho những kẻ xây
dựng hòa bình. Nhưng động từ ở thể thụ động, như nơi các câu 4.6.7, diễn tả
hành động của Thiên Chúa. Thể thụ động này được gọi là "thể thụ động thần
linh" (passif divin), là một đặc ngữ sêmita dùng để gán một hành động cho
Thiên Chúa mà khỏi phải nhắc tên Ngài. Hơn nữa, mọi lời hứa của các chân phúc
trong Matthêu đều có tính cách cánh chung: hết thảy chúng liên hệ tới hạnh phúc
Nước Trời. Các kiểu nói khác nhau chỉ có mục đích gợi lên những khía cạnh dị
biệt của cùng một thực tại. Thành ra phải kết luận rằng chính Thiên Chúa, vào
ngày sau hết, sẽ công bố các kẻ xây dựng bình an là con cái Ngài (x. Kh 21, 7)
và thiết đặt họ trong vinh hạnh ấy.
2.
Các kẻ tác tạo hòa bình: Nếu lấy văn mạch Tân Ước minh giải ý tưởng
"kiến tạo hòa bình" của chân phúc thứ bảy (Cl 1, 20; Ep 2, 15-16; Gc
3, 14-18) ta sẽ phải kết luận rằng trên thực tế nó đồng hóa vơi ý tướng giải
hòa. Vì hoà bình là cái nối tiếp tình trạng thù nghịch hay tranh chấp. Đó không
trực tiếp là thứ bình an nội tâm hay tôn giáo mà mọi cá nhân thủ đắc được, song
là những tương quan tốt đẹp giữa các cá nhân, hoặc giữa kẻ “hiếu hòa" và
người lân cận (Mt 5, 23-24), hoặc giữa những kẻ mà người "hiếu hòa"
giải hòa lại với nhau (Cv 7, 26). Thành ra trọng tâm nằm trên sự đoàn kết giữa
con người, và điều đó mặc nhiên giả thiết một thái độ trước của tâm hồn. Trái
ngược với các chân phúc khác, chân phúc này thoạt tiên không nhắm tới một thái
độ nội tâm, song là một hành vi bên ngoài. Làm một con người hiền hòa, yêu mến
bình an không đủ mà còn phải ra công xây đắp bình an bất cứ nơi nào có bất hòa
ngự trị.
H- Chân phúc thứ tám:
những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính (5, 10).
Chân
phúc sau cùng này nằm trong hai trào lưu tư tưởng: một gồm loạt bản văn đưa ra
những lời quở trách đối với hạng người Do thái bách hại, hai gồm loạt bản văn
song hành chứa đựng nhiều lời khuyên bảo các môn đồ phải cơn bắt bớ.
1.
Lời chúc dữ kẻ bách hại: Chủ đề này
vẫn thường gặp trong Do thái giáo (1V 19, 10. 14; 2Sk 36, 15- 16; Nh 9,26).
Trong Kitô giáo, nó được khai triển bắt đầu từ Tin Mừng (Mt 23, 29-36; Lc 11,
47-51) cũng đã được Stêphanô (Cv 7, 51-52) và Phaolô (1Tx 2, 15-16) nối tiếp âm
vang. Justinô, khoảng năm 160, đã trùng hợp các yếu tố chính của chủ đề như sau:
các ông đã giết Đấng Công chính, và trước đó đã giết các ngôn sứ của Người: bây
giờ các ông lại khai trừ những kẻ hy vọng vào Người, cùng khai trừ Đấng đã sai
người đến là Thiên Chúa toàn năng và tác giả vũ trụ. Vì Ngài ở trong các ông,
nên khi chửi rủa họ trong hội đường, các ông làm nhục những kẻ tin vào Chúa
Kitô " (Dial, 16, 4).
Hành
động của những người bắt bớ và hình khổ họ sẽ chịu đặc biệt có tính cách cánh
chung. Họ “đổ đầy lường” của tổ tiên họ (Mt 23, 32); hành động của họ làm nên
một sự kết liễu, hoàn thành; vì thế nó chuẩn bị cho họ một tai ương thảm khốc,
tai ương này sẽ là hình phạt mọi tội mà tổ tiên họ đã phạm. “Cơn nghĩa nộ đã
giáng xuống trên họ cho đến cùng" (1Tx 2, 16): lời phán quyết này, vào
ngày chung thẩm, sẽ kết án họ phải chịu khổ hình hỏa ngục muôn đời.
Đặc
điểm thiên sai -“vì cớ Con Người" (Lc 6, 22), "vì cớ Ta" (Mt
5,11)- liên kết với khía cạnh cánh chung. Tai họa của những kẻ bách hại không
những xuất phát từ sự kiện họ đàn áp con người, nhưng trước hết từ sự kiện họ
truy lùng những ai có liên hệ với Chúa Kitô. Xét cho cùng, họ bách hại chính
“Con Người", Đấng rồi đây sẽ xuất hiện trên mây trời để hoàn thành cuộc
chung thẩm kẻ sống và kẻ chết.
2.
Lời khuyên nhủ những người bị bắt bớ. Trong mọi bản văn
sau đây, màu sắc thiên sai đều hiện lên rõ ràng đậm nét:
Trước
hết là những lời Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn-đệ về vấn đề bách hại. Các đoạn
chính nằm trong "Khải huyền Nhất lãm" (Mc 13, 9-13; Mt 24, 9-14, 10,
17-21; Lc 21, 12-19). Đặc điểm Kitô luận, “vì cớ Ta", “vì danh Ta" gặp
thấy khắp đó đây. Hạnh phúc của kẻ bị bách hại xuất phát từ chỗ họ phải đau đớn
vì đã nên một với Đấng Xét xử của mình. Thành ra chân phúc trước tiên xuất hiện
như một lời khẳng định có tính cách thiên sai từ phía Chúa Giêsu.Và lời khẳng
định này không tách rời với bối cảnh cánh chung.
Tiếp
đến là các đoạn đặt nổi mối tương quan chặt chẽ giữa số phận đời đời của con
người và thái độ họ đã chọn lựa trước Chúa Kitô.
-
Những bản văn liên kết với viễn tượng cuộc
bắt bớ: “Ai mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại " (Mt 10, 19; x. 16, 25;
Mc 8, 35; Lc 9, 24) -- Kẻ nào hổ thẹn chí Ta và các lời Ta trước mặt thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó khi Người đến
trong vinh quang Cha Người với các thiên thần" (Mc 8, 38; x. Lc 9, 26; Mt
10, 32- 33, Lc 12, 8-9).
-
Những bản văn liên hệ tai các sự thiếu thốn
tự do chấp nhận và các hành vi bác ái tự do thực thi vì Chúa Kitô: "Không
ai bỏ nhà cửa hay anh chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và
vì Tin Mừng..." (Mc 10, 29-30; x. Mt 19, 29-30). -"Kẻ nào tiếp đón
một trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta" (Mc 9,37; x. Mt 18,5;
Lc 9,48; Mt 10,40; Lc 10,16). -Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước vì danh
nghĩa là các ngươi thuộc về Chúa Kitô..." (Mc 9,41; x. Mt 10,42). So sánh
với Mt 25, 31-46: cái định đoạt số phận đời đời của còn người, đó là cách thức
họ đối xử với các kẻ nhỏ và người cùng khốn, vì có một sự liên đới nhiệm mầu
nối kết những hạng này với Chúa Kitô.
3.
Sự công chính mà vì đó người ta cam chịu bắt bớ (Mt 5, 10). Thiết
tưởng nên hiểu việc bắt bớ vì sự công chính này như một việc bắt bớ phải chịu
cách bất công. Như thế ta mới đối chiếu được mối chân phúc với 1Pr 3,14:
"Nếu anh em phải khổ vì sự công chính thì phúc cho anh em". Bối cảnh
của 1 Pr 3, 14 quá rõ ràng: đó là những đau khổ mà Kitô hữu phải cam chịu dầu
chẳng đáng. Thế mà chân phúc thứ 9, vế nhì của chân phúc thứ 8, có bao hàm chi
tiết "sỉ mạ".
Tuy
nhiên, khó mà nghĩ rằng tiếng “công chính" ở đây khác nghĩa với tiếng công
chính của chân phúc thứ 4 và của nhiều đoạn Tin Mừng Matthêu khác. Vì vậy, đây
là vấn đề những đau khổ các môn đồ Chúa Kitô phải chịu vì sống phù hợp với lý
tưởng Kitô giáo của mình. Người ta không còn nhấn mạnh như trước đến sự thiếu
lý do xác đáng để gây nên bắt bớ, nhưng tích cực hơn, đến sự kiện phải đau khổ
vì là Kitô hữu, một Kitô hữu biết tỏ ra lý tưởng của mình qua thái độ sống. Do
đó phải liên kết thành ngữ "vì sự công chính" (chân phúc thứ 8) với
chi tiết "vì Ta" trong chân phúc tiếp theo: “sự công chính" vì
vậy xuất hiện như dấu ấn của Chúa Kitô trên lý tưởng và thái độ của môn đồ
người. Ta cũng có thể đối chiếu Mt 5,10 với Mt 13, 21, nơi nói rằng sự bách hại
được chịu dựng: “vì Lời” nghĩa là vì lý tưởng được Tin Mừng đề ra. Lời giải
thích này không xa lời giải thích trước: 1 Pr 4, 14-19 cổ võ các tín hữu hãy
đau khổ chỉ vì là Kitô hữu, để người ta không thể tìm trong họ bất cứ hành vi
sai trái nào biện minh cho việc bắt bớ.
I- Chân phúc thứ
chín: những kẻ bị bách hại vì Chúa Kitô. (5, 11)
Chân
phúc thứ 9 xem ra chỉ lặp lại chân phúc thứ 8, những nơi Mt nó đóng vai trò
hiện tại hóa; thực vậy, nó nói lên việc chuyển từ lý thuyết được đề ra sang
thực tại cụ thể được cảm nhận và sống đồng thời với việc hành văn gián tiếp
chuyển qua hành văn trực tiếp, thành ngữ "vì sự công chính" của câu
10 trở thành "vì Ta". Đối với ai đã khám phá ra tính cách thời sự của
Chúa Kitô hiện diện trong đời mình, thì không còn nghi ngờ gì nữa; và vào thời
Mt viết Tin mừng của ông, cộng đoàn Kitô hữu đă nắm được ý nghĩa của mối chân
phúc giữa lòng cơn bắt bớ mà họ đang chịu từ phía người Do thái.
“Hãy
vui sướng và hân hoan": Hai động từ này, mà Mt chỉ dùng ở dây, thường được
Cựu Ước sử dụng để suy tôn, ca mừng những hành vi cứu rỗi của Thiên Chúa (x. Hb
3, 18) với một âm điệu cánh chung; chúng trở lại trong thư lPr để diễn tả, như
ở đây, niềm vui của các Kitô hữu bị bắt bớ ( 1Pr 1, 8; 4, 13-14). Lúc mà người
môn đồ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử nạn của Chúa Kitô,
thì họ nhận ra rằng Nước Trời thực sự đã đến.
KẾT LUẬN
Matthêu
đã trình bày các chân phúc trong một bài giáo lý Kitô giáo ngắn gọn, theo cách
thức khắc vào tâm trí những nguyên tắc và việc thực thi lý tưởng sống riêng
biệt của Kitô giáo. Ông dạy rằng Nước Trời là phần thưởng cho những ai biết làm
cho mình trở nên xứng đáng với Nước ấy nhờ thái độ nội tâm và nhờ cách thức
sống sứ điệp Tin Mừng. Như vậy; các mối phúc thật của Matthêu có một ý nghĩa
khuyến thiện: chúng chẳng những công bố song còn kêu mời. Lối giải thích này
của Matthêu liên kết chặt chẽ vào giáo huấn Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng
một nền luân lý bên ngoài của Biệt phái. Các mối phúc, như phần tiếp của diễn
từ, đưa ra những điều kiện phải chu toàn để được thông phần vào sự sống, những
điều kiện của một nền luân lý hoàn toàn nội tâm.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.
Mọi người đều ao ước hạnh phúc. Chúa Giêsu đã đến để thỏa mãn cái
khát vọng hạnh phúc đang dày vò tâm hồn nhân loại ấy. Người đến bảo cho chúng
ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực trên trần gian. Đó không phải là những
người giàu sang, nổi tiếng, những nhà đại chinh phục, đại thiên tài, song là
các kẻ nghèo hèn, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hòa bình và chịu
bách hại vì đức tin... Tiêu chuẩn hạnh phúc của Chúa Giêsu quả khác xa với các
tiêu chuẩn của người đời vậy.
2.
Các thánh, hạng người đã sống Bát phúc, là những kẻ hạnh phúc đích thực của thế
giới này.
Dù gặp đau khổ, họ vẫn có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi tràn ngập hân
hoan giữa những cơn bắt bớ". Vì đối với Kitô hữu, nỗi đau khổ không xung
khắc với niềm vui, vì nó được chịu "vì" Chúa Giêsu, vì nó trở nên cơ
hội cho ta liên kết mật thiết hơn và giống hơn với Bạn Tình.
3.
Nói cho cùng, tám chân phúc đều quy về một mối: Phúc cho ai giống
Chúa Giêsu. Vì nếu Chúa Giêsu đã tuyên bố Bát phúc trong diễn từ trên núi thì
trước tiên Người đã sống chúng trong cuộc đời Người: chẳng ai từ bỏ bản thân,
hiểu rõ nỗi khốn cùng nhân thế, rộng lòng xót thương, ao ước thi hành thiên ý,
thẳng thắn và đơn sơ, xây dựng hòa bình và cam chịu bắt bớ bằng Người. Và chính
vì thế Người đã có thể nói vào lúc cuối đời: "Lạy Cha, chớ gì niềm vui của
con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui chúng nên trọn vẹn" (Ga 17, 13).
14. Phúc thay
Trong
Kinh Thánh, "Hạnh phúc" là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa
ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung
thành với con đường đã chọn, họ sẽ được nhìn nhận là người công chính trong giờ
phán xét." (Tin Mừng thánh Matthêu, Centurion, 1991, tr.58)
1.
Bốn mối phúc đầu của Matthêu: ca tụng người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối
bạo lực.
u"Phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ". Sự nghèo khó mà mối
phúc này nhắm tới không phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của
một người nghèo tự nhận mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại
mọi sự mình có đều do bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.
J.
Potel chú giải: “Người Kitô hữu phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi
Thiên Chúa; mà Đức Giêsu dạy rằng phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người
Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự
sống là quà tặng thường xuyên của người Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen
ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi: đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường
Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này tạo nên phẩm giá của một con người và
của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá này không dựa trên sự giàu có cũng như
những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi
người, nhất là người nghèo. Chính đây là trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu".
u"Phúc
thay ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp". Mối phúc thứ hai
này nối dài mối phúc trên từ một câu Thánh Vịnh 36: “Những ai hiền lành sẽ
chiếm hữu trái đất và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn". J. Potel nói
tiếp: "Sự hiền lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có
phương tiện thể lý hay pháp lý bảo vệ mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn
toàn trơ trọi trước những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí
của họ chính là sự hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự
chiến thắng vĩnh viễn không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết quả
của sự không dùng bạo lực".
u"Phúc
thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an". Tận đáy sâu của nỗi
tuyệt vọng, người tín hữu vẫn thấy ánh lên một niềm hy vọng: "Tia hy vọng
này là khuôn mặt của Thiên Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn
thử thách".
u"Phúc
thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả
lòng". Rảo qua toàn bộ Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được
hiểu là "tự điều chỉnh" tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa
đã làm. Thiên Chúa ở đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ
bằng giao ước. Như vậy ‘trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những
đòi hỏi tinh thần và luân lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện "sự
công chính" đối với Thiên Chúa và đối với đồng loại’.
2.
Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô
u"Phúc
thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương". Khi chiêm
ngắm cách Thiên Chúa, Đấng nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của
Đức Kitô học biết tha thứ những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong
cảnh tuyệt vọng.
u"Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Sự
trong sạch ở đây không có liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải
là sự chính trực, sự không giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch
đây là con đường hợp nhất với Thiên Chúa.
u"Phúc
thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa". Jean Potel
giải thích: "Đối với Đức Giêsu, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời
sống hòa hợp và an lành không đủ, Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi
không có hòa bình trong gia đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu. Hòa bình sẽ được gọi
không có biên giới cũng như tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người
xây dựng hoà bình là con Thiên Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công
việc của Cha mình, mà điều Cha trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con
người".
u"Phúc
thay ai bị bách hại vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ". Trung thành
tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô như trong các mối phúc không phải là không có
những hiểu lầm, những đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi
ngược lại với những giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống.
Đối với Đức Giêsu, những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật
sự của mối phúc thứ nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh
chịu.
Tất
cả các mối phúc đều vẽ lên một khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean
Potel kết luận: "Đức Giêsu hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng
chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi
của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót,
trong sạch, kiến tạo hòa bình; một người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì
triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha".
15. Xây dựng hoà
bình
“Kể
từ ngày 11/9/2001, ngày toà tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở thành phố
New York, Mỹ bị bọn khủng bố tấn công khiến cho khoảng 3000 người chết cho đến
nay, thế giới đã không có một phút nào yên. Thật vậy, trong suốt mấy năm qua,
mặc cho những cố gắng của các chính phủ, nạn khủng bố vẫn không ngừng gia tăng
trên một diện rộng chưa từng thấy. Đó là vụ đánh bom đảo du lịch Bali
(Inđônêxia) làm 202 người chết hồi tháng 2/2002, vụ đánh bon nhà ga xe lửa ở
Madrid (Tây Ban Nha) hồi tháng 3/2004 làm 191 người chết, rồi hàng loạt vụ đánh
bom chung cư ở Nga khiến 300 người thiệt mạng. Và gần đây nhất là vụ bắt cóc
con tin tại một trường học ở Beslan (Nga) hồi đầu tháng 9/2004 gây ra cái chết
cho 326 người, và làm bị thương 727 con tin, và vụ đánh bom toà đại sứ Úc ở
Jakarta (Inđônêxia) hồi thượng tuần tháng 9/2004 đã khiến cho 9 người chết và
170 người bị thương…”
Giữa
lúc nền hòa bình thế giới đang bị đe dọa nặng nề, thì qua đoạn Tin mừng hôm
nay, chúng ta nghe vang vọng lời Chúa:
-
Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được
gọi là con Thiên Chúa.
Đúng
thế, cho đến ngày hôm nay, hòa bình mãi mãi vần là một ước vọng sâu xa nhất của
con người. Thế nhưng, chúng ta không thể ngồi yên để đón nhận hòa bình như đón
nhận một quà tặng từ trời rơi xuống. Trái lại, chúng ta phải ra sức kiến tạo,
phải tích cực góp phần xây dựng hòa bình.
Thế
nhưng, việc kiến tạo và xây dựng hòa bình không phải được bắt đầu bằng những
hội nghị bàn tròn hay bàn vuông, mà phải được bắt đầu ngay từ cõi lòng mỗi
người. Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy trong đêm Giáng sinh, các
thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
-
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Giờ
đây trong thinh lặng và bình tĩnh, nhìn vào tận đáy tâm hồn, chúng ta sẽ nhận
ra kẻ nội thù phá hoại sự bình an của bản thân và của người khác chính là sự
ghen tức.
Thực
vậy, sách “Cổ học tinh hoa” đã kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có
một vị tướng, trước khi xuất quân, đã khao tất cả các binh sĩ một bữa tiệc
thịnh soạn bằng thịt dê. Không hiểu vì quên lãng hay vì nghĩ rằng là chỗ thân
tình, nên đã không báo cho anh đánh xe. Thế là anh đánh xe nổi giận đùng đùng,
cho rằng mình đã bị đối xử tệ bạc. Sáng hôm sau khi ra trận, anh ta đã đánh xe
và chở thẳng vị tướng và giao nộp cho quân địch.
Chỉ
vì một miếng thịt dê và do lòng ghen tức mà anh đánh xe đã phản bội, đã phá đổ
mọi tình nghĩa mà vị tướng đã dành cho anh trong suốt bao nhiêu năm trời.
Với
chúng ta cũng vậy, nhiều khi chỉ vì một miếng thịt dê, nghĩa là chỉ vì những
quyền lợi nhỏ mọn, nhưng được lòng ghen tức thúc đãy và thổi phồng, chúng ta
sẵn sàng coi những người thân cận ruột thịt là kẻ thù của mình. Chúng ta quên
đi mọi tình nghĩa cũ để rồi tìm mọi cách triệt hạ cho bằng được những kẻ chúng
ta ghen tức. Thế nhưng, chính sự ghen tức này đã làm cho tâm hồn chúng ta trở
nên bất ổn và nhiều lúc còn dày vò cắn rứt vì những lời nói chì chiết và những
hành động thô bạo của chúng ta. Và hơn thế nữa, sự ghen tức còn hủy diệt sự
bình an giữa chúng ta và người khác. Bởi vì một khi đã nhìn nhau bằng cặp mắt
không mấy thiện cảm, làm sao chúng ta có thể tạo được sự hài hòa và cảm thông.
Chình
vì thế, để góp phần xây dựng sự bình an giữa chúng ta và những người chung
quanh, thì việc đầu tiên cần phải làm ngay, đó là hãy trục xuất kẻ nội thù nguy
hiểm này ra khỏi cõi lòng chúng ta, đó là sự ghen tức. Bởi vì có đánh bật tận
gốc rễ sự ghen tức, thì bấy giờ chúng ta mới có thể nhìn nhau bằng cặp mắt
trong sáng và từ đó mới dễ dàng đi tới chỗ hiểu biết và cảm thông với nhau hơn.
Đó phải là yếu tố căn bản cho một sự bình an chân chính.
16. Tám Mối Phúc
Khi
còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi,
tôi có thể làm thành một con đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến
Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ, nhà cửa, ruộng vườn… là thế giới lộn ngược!
Đó
là lý luận của trẻ con. Nhưng một thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không
phải là một tư tưởng quá điên rồ. Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay,
thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan
của con người. Những phúc lành của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.
Đang
khi người ta chúc “Phúc cho những ai giàu có” thì Đức Giêsu lại nói “Phúc cho
những ai có tinh thần nghèo khó”. Đang khi người ta chúc “Phúc cho những ai
lanh lợi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hiền lành”. Đang khi người ta
chúc phúc “Phúc cho những ai vui vẻ” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai đau
buồn”. Người ta chúc “Phúc cho những ai tiệc tùng linh đình”. Đức Giêsu nói
“Phúc cho những ai đói khát điều công chính”. Người ta ước ao “Phúc cho những
ai có quyền hành”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai hay thương xót người”. Người
ta muốn “Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả”. Đức Giêsu nói “Phúc
cho những ai có lòng trong sạch”. Người ta muốn “Phúc cho những ai gây tin giật
gân”. Đức Giêsu nói “Phúc cho những ai ăn ở thuận hòa”. Đang khi người ta muốn
“Phúc cho những ai có đủ tiền mướn luật sư giỏi” thì Đức Giêsu nói “Phúc cho
những ai bị bách hại vì lẽ công chính”. Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì
Chúa Giêsu rao giảng với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung
vào việc yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập
trung vào sự hưởng thụ ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.
Triết
gia Aristốt xưa kia đã nói: “Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người
tìm kiếm”. Đó là điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần
linh: Thiên Chúa đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại
với Người. Do đó những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về
với Thiên Chúa, đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là
phúc lành thực sự.
Người
nghiện rượu tin rằng hạnh phúc nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ,
rồi hai, ba chai. Sau đó lái xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh
dậy thấy mình mẩy băng bó đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh
phúc hứa ban bởi rượu là giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!
Thế
gian có thể tìm kiếm được khoái cảm mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự
thay đổi về tài sản của cải, một sự suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất
bại, một tham vọng không đạt được, và ngay cả một sự thay đổi của thời tiết…
cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong manh do thế gian mang lại.
Phúc
lành của người Kitô hữu hoàn toàn khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có
thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt nó được. “Và niềm vui của các con”, Đức Giêsu
đã nói “không ai lấy mất được”. “Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của
hạnh phúc và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an”
17. Phúc Tám Mối
Vào
năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy
sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin
tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho thầy sáu Laurensô với những lời hướng
dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng
như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.
Khi
Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc
lóc thảm thiết: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm
gì đây? Tại sao ngài lại đi đến nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ
giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo
Hội”. Đức Giáo Hoàng đáp: “Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo
ta trong ba ngày nữa”.
Ngay
sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp
tài sản của Giáo Hội. “Giáo Hội thực sự rất giàu có”, Laurensô trả lời “Tôi sẽ
chỉ cho ông thấy những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom
góp lại. Thời gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ
côi, những người què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ
lại xếp thành hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và
nói: “Thưa ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!” Viên quận trưởng nổi giận
và hứa sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.
Sau
đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu.
Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn
lao đến độ ngài không còn cảm thấy đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói
với ông quận trưởng: “Xin ông hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ
rồi”. Quân lính đã làm y như vậy. Sau đó ngài lại nói: “Bây giờ cả hai bên đã
chín, tất cả đã sẵn sàng, hãy đem ra phục vụ!” Rồi ngài cầu nguyện cho tòa
thánh Rôma, để nhờ đó, thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước
mắt hướng lên trời, ngài đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được
trở về với Thiên Chúa hằng sống.
Nơi
Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất cả sự phó tác tin cậy, người đau buồn tìm
sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị
bách hại có sức mạnh và lòng can đảm phi thường… Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi
Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được trao ban cho họ.
Mẹ
Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với
Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là
để bắt chước lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là
Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên
Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường
thành phố Calcutta, sau khi được cứu sống đã hỏi mẹ Têrêsa: “Trên trần gian
này, có điều gì giống với Thiên Chúa không?” Mẹ trả lời: “Không, tôi đang cố
gắng là một cái gì đó giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”.
Cha
Henri Nouwen, tác giả nổi danh của nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã
gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ
thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu. Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao
nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi
Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ, mới nghe có vẻ “đỏ mặt” vì đơn sơ và ngây
thơ, phản ảnh những thói quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên
Chúa. Chính cha Nouwen cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm
phát ra từ những câu trả lời đó.
Phúc
Tám Mối là những con đường dẫn ta về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó
không phải là tám con người khác nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc
cạnh khác nhau của cùng một người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc
vào Chúa Giêsu Kitô, người sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.
Ở
Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ
chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi
tờ báo “Chicago Times Herald” vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới
Waukegan cho các độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu
đòi hỏi những bản đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những
con đường tốt nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ,
những chỗ nghỉ ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường…
Sách
Giáo lý Công giáo giải thích rằng: “Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài
luôn tỏ mình là “khuôn mẫu của chúng ta”. Ngài là “Con người hoàn hảo” và Ngài
mời gọi chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của
Ngài. Ngài đã để lại cho ta một gương để noi theo; bằng lời cầu nguyện của
Ngài, Ngài thu hút ta vào việc cầu nguyện; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu
gọi chúng ta hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại”.
Phúc
Tám Mối là tất cả những gì Chúa Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều
đó trong Ngài, để Ngài sống trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: “Do
sự Nhập Thể của Ngài, một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người
chúng ta”.