THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC
HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
Ngày 25/8/2016, tại nhà thờ Phú Trung, Phường 12, Quận Tân Bình.
Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng – Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon, đã về dâng
lễ tạ ơn và chủ sự nghi thức truyền chức linh mục cho 11 thầy phó tế thuộc Hội
Thừa Sai Việt Nam.
Cùng hiệp dâng có: Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt – Sứ
Thần Tòa Thánh tại Srilanka. Đức Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ - Đặc trách Hội
Thừa Sai VN và khoảng 200 linh mục của các giáo phận Saigon, Phú Cường và các
linh mục Hội Thừa Sai VN . Tham dự có quý tu sĩ, đông đảo bà con thân nhân, ân
nhân của các tiến chức và bà con giáo dân .
CÁC TÂN LINH MỤC:
1/ - Vinh Sơn Phạm Văn Công.
2/ - Giuse Phạm Trung Hâu.
2/ - Phaolô Lưng Trung Hiếu.
2/ -Đaminh Nguyễn Hữu Hùng.
5/ - Gioan Nguyễn Chính HUy Khang.
6/ - Giêronimo Nguyễn Văn KHương.
7/ - Phêrô Trần Văn Lực.
8/ - Giuse Nguyễn Ngọc Thảo.
9/ - Antôn Bùi Văn Thiều.
10/ - Giuse Nguyễn Đức Tiến.
11/ - Phêrô Trần Quang Vinh.
Xin hiệp lời cầu nguyện cho các tân linh mục được dồi dào Ân
sủng cùng sức khỏe, để chu toàn với sứ vụ mới vừa được Thiên Chúa và Giáo Hội
giao cho.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CÁI GIÁ PHẢI TRẢ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lm.
Carôlô Hồ Bặc Xái
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chủ Ðề: Ý thức cái giá phải trả khi làm môn đệ Chúa.
"Từ bỏ mọi sự và vác thập giá theo Chúa"
(Lc 14, 25-33)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được
nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều
rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm:
Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ.
Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ
bỏ những gì?
Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng
ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Phải chăng từ trước tới nay chúng ta
đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn
nọ?
Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?
Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 9, 13-18)
Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài
người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu
biết của con người:
Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới,
tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc
công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi.
Huống chi những vấn đề thuộc thượng
giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời.
Vì thế, con người rất cần được Thiên
Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó
được ơn cứu độ.
2. Đáp ca (Tv 89)
Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:
Thân phận con người rất mỏng manh:
"như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ
tàn phai chẳng còn"
Do đó con người kêu xin Chúa:
"Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn
ngoan"
3. Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
a. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa
Giêsu": họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Giêrusalem".
Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu
trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
b. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi
theo" Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít
là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ,
vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
c. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp
trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không.
Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên
giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ
tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
4. Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)
Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài
là Philêmon.
Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà
trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa,
Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô
cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì
thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông,
mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó
Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong
đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình
để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng
tốt mà làm việc đó.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Con đường theo Chúa
Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:"Có rất đông
người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ". Trong ngôn ngữ Thánh
kinh, "đi theo" có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi
trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước
cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã "quay lại
bảo họ", nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.
Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì?
Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là
phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về
từng điều:
1. Điều thứ nhất là từ bỏ
a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống
như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến
không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.
b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ "cha mẹ,
vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình". Qua cách nói "Cha mẹ, vợ
con, anh chị em", ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ "mạng
sống", ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta
hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một
cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa.
Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng
sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó
trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy,
thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
2. Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác
Thập giá
a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá?
Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì
thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không
có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi
té ngã hay bỏ cuộc.
b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ
bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.
Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng
đáng làm môn đệ Chúa:
1. Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để
được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn
cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc,
khi một người thân chết.
2. Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ
động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi.
Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng
đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và
chủ động vác thập giá.
* 2. Đòi hỏi của tình yêu
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi
trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người,
lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại
trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ
ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới
Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt,
mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu,
hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa
Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt
trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và
ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: "Ai đến với
tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải
hiểu động từ "dứt bỏ" không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là
"ít hơn". Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi
cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu "yêu và bỏ".
Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì
không xứng đáng với Thầy" (Mi 10, 37).
Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải
đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa
phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay
cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của
Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến
chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa
ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu
Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng
phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh
thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn
hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình
cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn "Xây
tháp" và "Cuộc giao chiến". Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc
chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây
tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành
công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu,
và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận "cầm cày mà
còn quay lại sau lưng". Thật vậy, những kẻ "đứng núi này trông núi
nọ" thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ "bắt cá hai
tay" là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã
nói về họ: "Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở
lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi".
Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng
biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất
mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những
đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những
cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (TP)
* 3. Lời nói thẳng thắn
Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng,
nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ
nói với họ: "Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải
phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm
việc suốt 24 giờ mỗi ngày". Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ
ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.
Gia nhập "dòng" của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn
cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ
đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn
phải vác thập giá mà theo.
Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để
có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy
sinh tất cả vì yêu thương mọi người.
Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình
có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải
suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất
chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.
Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai
đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ
của Ngài nữa.
Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban
đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn
nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài
sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau
ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ
sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của
mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.
Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của
Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó
cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương
các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm
từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ
Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là
"đi theo" và "làm môn đệ". Thánh Luca đã xử dụng những
cụm từ này rất khéo: "Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài
quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ... thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không
vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi"... Rất
đông người "đi theo" Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là
"môn đệ" Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì
mới là môn đệ.
Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ
Cũng như người-nói "Lạy Chúa lạy Chúa" chưa hẳn là
người-làm theo ý Chúa.
Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu.
Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.
Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành
người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu
thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.
Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội--và là khiếm khuyết
lớn nhất - đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng
rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.
* 5. Trả giá
Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng
thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không
dám trả giá.
Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước
duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy
được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng
của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì
nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.
Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm
toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang
sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua
được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng
nạm kim cương.
Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất
xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy
nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim
cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.
Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với
lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho
Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.
Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả
nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn
xinh đẹp như ngày xưa nữa.
Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:
- Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình
hỏi.
- Tất cả chỉ tại bạn đó.
- Sao lại tại tôi?
Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:
- Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của
tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô
đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi
thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.
Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá
đâu đến nỗi cao quá như vậy!
6. Chuyện minh họa
a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một
thanh niên: "Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?" Vị giáo sư
đáp: "Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không
bao giờ anh ta là môn đệ của tôi".
b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư:
"Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học".
Thiền sư đáp "10 ngàn". Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng
ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: "Trong số đó, số môn đệ thật
của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người".
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của
Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn
ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng
lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ
những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp
lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn
cầu.
2. Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình
thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và
phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi
trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia
/ sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
3. Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi
người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và
hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng
thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
4. Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi /
thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn
giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước
theo Chúa mái đến cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm
con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để
những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận
ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã
viết "ý định của Chúa ai nào biết được". Chúng ta hãy xin Chúa tỏ
cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.
VII. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu "Ai không vác thập giá
mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta". Trong tuần này chúng
ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lm Giuse Đinh lập Liễm
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
A. DẪN NHẬP
Trên
đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi
theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo
nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hòang chiến thắng. Nhưng cũng có
người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ
hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những
ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng
người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ
suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.
Điều
kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và
vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết :”Ai theo Ta mà không
dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì
không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta,
thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi
những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định : nếu yêu chính
bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì
không xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Chúng
ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên
Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ
Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hũu
chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều
khi vô tình đã trở thành những môn đệ dổm. Hôm nay chúng ta phải xác quyết
lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và quyết tâm theo Chúa đến
cùng.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Kn 9,13-18.
Sách
Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung
quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho
sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự
khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới ? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ
đến từ Thiên Chúa.
Đọan
trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất
hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người
mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều
liên quan đến cuộc sống đời đời thì làm sao hiểu thấu được.
Vì
thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối
của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn
ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.
+ Bài
đọc 2 : Plm 9b-1012-17.
Trong
lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ôânêximô để
gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ
của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã
theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh
không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô.
Tuy
thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmôn đối
với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ
vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình.
+ Bài
Tin mừng : Lc 14, 25-33.
Trên
đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm
lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng
cường, cho nên họ nghĩ rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến
thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã
đưa ra những điều kiện cho nghững kẻ muốn theo Ngài.
Theo
ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên
hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa.
Theo Ngài tức là làm một đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện
những điều kiện cực kỳ gay go.
Đồng
thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn
qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc
trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc
đồng rồi bỏ cuộc.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn làm môn đệ của Chúa.
I. GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM.
Thánh
Luca tường thuật cho chúng ta cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến
về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng
với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì
thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người
đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí
muốn theo Ngài.
Trong
ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông
thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước
cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”,
nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn
dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần
chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa,
và phần phụ nói lên tính cách của việc đi theo Chúa qua hai dụ
ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến.
A.
PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN.
Phần
này gồm có hai điều kiện : từ bỏ mọi sự và vác thập giá.
1. Từ
bỏ mọi sự.
Điều
kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi.
Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh
được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều
này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không
bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên
thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên,
bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi
nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ
bỏ.
2. Vác
thập giá mình.
Ở
đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo
bằng cách vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy
sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong
nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của
Ngài được.
B.
PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN.
Người
muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo
Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc
đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm
bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa.
Để
diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và
ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không,
kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng
sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý
định theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể
từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo
Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứùt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời
sau.
II. TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA.
Những
người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có,
để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói
rõ :”Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có
nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo”
trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và
cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn
đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện.
1. Điều
kiện tiêu cực : Từ bỏ.
Đức
Giêsu nói với đám đông :”Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh
chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,26). Có bản
dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc
18,19t) ?
Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ
“misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này
mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn
tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ
bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa
hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với
cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc
sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài
(Nguyễn văn Thái).
Như
vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang
hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ
con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37).
Những
lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó
chỉ có ý diễn tả một điều : tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất
trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy.
Thánh Grêgôriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài
viết :” Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét
những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như
vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần
và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khóat là
phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu : Chúa trên hết.
Không
những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài
muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ
bỏtham, sân, si.
Tham là tính
tham lam : tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế.
Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và
làm khổ lẫn nhau.
Sân là tính nóng
nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận
mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây
tai ương và đau khổ cho người khác.
Si là ngu muội, tối tăm,
mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận
đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến
sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối,
những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối
nát.
Đối
với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích
của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho
Chúa và tha nhân.
Vấn
đề thực hành sống đạo : Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ
thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì “bỏ bản thân mình” đi
theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc
bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý
nghĩ về mình hay của mình đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của
mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh
Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của
thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng
theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòan là theo kiểu của lòai người”(Mt
16,23”?
2. Điều
kiện tích cực : vác thập giá.
Các
đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một
cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần
thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng
được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài.
Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài : họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập
giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn
sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính
con người.
Theo
Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một
cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như
cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và
để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ
cuộc. Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với
tinh thần tự nguyện :”Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể
làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27).
Tuy
thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng,
dễ chịu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở
nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ
thành công.
John
Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá : “Những khổ sở mà đời
chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn
chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra ,
rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm
sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó
củi. Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên
vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi
của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!
3. Phải
lượng sức mình : lựa chọn.
Muốn
làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả
khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị
vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn
nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn
kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là
ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số
quân của mình với lực lượng của đối phương.
Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống
tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước
vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi
phục vụ Chúa. Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy
:
Xem giỏ
bỏ thóc Hay
Đừng vung tay quá
trán.
Sống
là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo
lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là
đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới
chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào
những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia
thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống
nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có
thể làm tôi hai chủ.
Sự
lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như
người ta nói :”Đâm lao thì phải theo lao”(Tục ngữ), đã theo Chúa thì
phải quyết tâm theo đến cùng vì :”Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng
sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp nhập
mọi bất trắc rủi ro :
Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn,
Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,
Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau.
(Ca
dao)
4. Đi
theo hay làm môn đệ ?
Trong
đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn
đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo :”Lúc ấy có rất đông
người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ :Ai không dứt bỏ…thì không
thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta thì
không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng
không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ
và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn
đệ.
Có
người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng
thanh niên rằng :
-
Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không ?
Vị
giáo sư thẳng thắn trả lời :
-
Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi nhưng anh ta không phải là học
trò của tôi.
Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh
chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi
những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy
theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai
chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội
chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là :”Làm cái gì có lợi cho tôi”. Trái lại, một
môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân
dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh
thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình.
Một
lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin
Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở
đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi :
-
Ngài có bao nhiêu đệ tử ?
Nhà
sư Lin Chi đáp :
- Bốn hoặc năm.
Lạ
thật ! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ
! Nếu hôm nay có người hỏi Chúa : Ngài có chính xác bao nhiêu môn
đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không
có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng ! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu
chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô
hữu , đúng là :
“Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ).
III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY.
Những
đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể
chấp nhận được không ? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất
bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình,
lại không đưa ra một tương lai sán lạn nào, không tìm thấy bất cứ
một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không
có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần
trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước
lên thập giá. Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt
thòi đến vậy ? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì ? Nhất
là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình một
cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá
nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không
tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ?
Thế
nhưng không đúng ! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế
mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi
về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời
Sống cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình.
Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập
giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của
Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh
và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai ? Hơn hai tỷ người theo
Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn (Nguyễn hữu
An).
Vậy
ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên
mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng
dẫn mọi tình yêu : Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân.
Như thế,
người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến
người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng
phải quí mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì
tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là
bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặït lại cho
mình.
Truyện : Giới Tử Thôi.
Trong
“Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đờøi Xuân Thu, là
một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn
Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật
báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi đi lánh nạn. Trên đường
chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua
nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại
hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức
sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng
Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục
lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không
màng lãnh công. Cả khi vua Tấn nhớ ơn người bầy tôi trung thành,
muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất
quyết không nhận.
(Võ
Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324)
Giáo
hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến
chế Lumen gentium ghi rõ :”Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất,
bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông
hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với
sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium
đọan 7).
Sau
cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X.
Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu :
. Bước
lang thang ra chuồng bò ở Be lem.
. Bước
hồi hộp trốn sang Ai cập.
. Bước
bồn chồn trở về Nazareth.
. Bước
phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ.
.
Bước vất vả suốt 30 năm lao động.
. Bước
yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng.
. Bước
thao thức kiếm tìm chiên lạc.
. Bước
xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt.
. Bước
cô đơn ra trước tòa không một người thân.
. Bước
ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn.
. Bước
thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo,
không bạn hữu.
. Bước
khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian.
. Bước
khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng.
. Bước
liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy
con liều mạng”
(Trích
Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3)
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
ĐẶT THIÊN CHÚA LÊN TRÊN HẾT
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cha Mark Link, S.J.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chủ
đề: "Trong cuộc đời, chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên hết và hằng ngày phải sống điều
quyết định đó"
Gale
Sayers, là một tuyển thủ của đội banh Chicago Bears hồi thập niên 1960, ông
được coi là một cầu thủ nổi tiếng trong lịch sử banh bầu dục. Trên cổ ông đeo
một huy chương vàng, trên đó có khắc hàng chữ: Tôi Là Người Thứ Ba.
Hàng
chữ này trở thành đầu đề cho cuốn tự truyện bán chạy nhất của ông. Qua cuốn
này chúng ta biết tại sao những chữ ấy lại rất có ý nghĩa đối với ông. Đó là
khẩu hiệu của huấn luyện viên Bill Easton, người dạy môn chạy đua khi ông
Gale còn là sinh viên của Đại Học Kansas.
Huấn
luyện viên Easton khắc những chữ ấy trên một tấm thẻ và để trên bàn làm việc.
Một ngày kia ông Gale hỏi người huấn luyện về ý nghĩa của những chữ ấy. Ông
Easton trả lời, "Trước hết là Thiên Chúa, kế đến là bạn hữu, và tôi là
người thứ ba." Từ ngày đó trở đi, ông Gale coi những chữ này như một
triết lý sống của cuộc đời.
Trong
năm thứ hai là tuyển thủ của đội Bears, ông Gale muốn đeo trên cổ một điều gì
đó có ý nghĩa, như ảnh tượng tôn giáo. Bởi thế ông mua một huy chương vàng và
khắc trên đó hàng chữ Tôi Là
Người Thứ Ba.
Trong
tự truyện, ông Gale cho biết, "Tôi cố sống theo những gì viết trên huy
chương ấy. Tôi không luôn luôn thành công, nhưng nhờ những chữ ấy đeo trên cổ
mà tôi không lầm lạc quá xa."
Câu
chuyện của ông Gale Sayers cho thấy điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong phần
đầu của bài phúc âm hôm nay, khi Người nói:
"Ai
đến với tôi đều không thể là môn đệ của tôi trừ phi họ yêu mến tôi hơn yêu
mến cha mẹ..."
Nói
cách khác, chúng ta phải dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa
Giêsu và Cha trên trời.
Và
điều đó đưa chúng ta đến điểm thứ hai mà Chúa Giêsu đã nói trong phần hai của
bài phúc âm hôm nay:
"Nếu
một trong các người dự định xây cái tháp, trước tiên hắn phải ngồi xuống và
suy tính xem tốn phí thế nào và có đủ tiền để hoàn tất công việc hay
không."
Nói
cách khác, dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa Giêsu thì
chưa đủ. Chúng ta còn phải sống các ưu tiên đó một khi đã quyết định.
Dĩ
nhiên, đó là phần khó khăn.
Như
ông Gale Sayers đã nói thật rõ ràng: "Đặt Chúa lên hàng đầu là một
chuyện. Sống điều đó là một chuyện khác nữa."
Đó là
lý do tại sao ông Gale đeo huy chương đó trên cổ: để nhắc nhở ông phải sống
điều tiên quyết ấy. Hãy lập lại lời của ông:
"Tôi
cố sống theo những gì viết trên huy chương ấy. Tôi không luôn luôn thành
công, nhưng nhờ đeo trên cổ những chữ ấy tôi không sai lạc quá xa."
Một
thời gian trước đây, trong tờ Los
Angeles Times phóng viên Dave
Smith có kể một câu chuyện cảm động. Đó là về người Kitô Hữu thời đại, giống
như ông Sayers, đã đặt Thiên Chúa lên trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba
mới đến chính mình. Tên ông là Charlie DeLeo.
Ông
từng là "một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước." Sau khi từ cuộc
chiến Việt Nam trở về, ông kiếm được công việc làm là lau chùi bức tượng Nữ
Thần Tự Do.
Ông
Charlie cho người phóng viên biết một phần của công việc là coi sóc ngọn đuốc
trong tay bức tượng và vương miện trên đầu bức tượng.
Ông
phải đảm bảo các đèn luôn luôn sáng và 200 cửa kính trên ngọn đuốc và vương
miện luôn luôn sạch.
Chỉ
tay về ngọn đuốc, ông Charlie hãnh diện nói, "Đó là nguyện đường của tôi
và tôi dâng cho Chúa. Khi nghỉ giải lao tôi thường lên đó cầu nguyện."
Nhưng
ông Charlie còn thi hành nhiều điều khác nữa cho Chúa.
Ông
nhận được lời khen ngợi của cơ quan Hồng Thập Tự khi ông hiến máu lần thứ 65.
Và
sau khi nghe biết về công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn, ông đã tặng $12,000 cho Mẹ
và những người tương tự.
Ông
Charlie nói khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói chuyện ở công viên
Battery, cách nơi bức tượng một dặm rưỡi, ông đứng ở vòng đai quanh ngọn đuốc
và nghe Đức Thánh Cha nói. Từ vòng đai đó ông đã cầu nguyện cho chuyến tông
du Hoa Kỳ của đức giáo hoàng được thành công.
Ông
nói với phóng viên tờ Los Angeles Times:
"Tôi
không giao du nhiều, không có quần áo đẹp, nhưng tôi vui. Tôi không đủ tiền
để lấy vợ. Tôi không để dành đồng nào. Sau khi kiếm được công việc này, tôi
bảo trợ sáu em cô nhi qua một tổ chức bác ái."
Ông
chấm dứt câu chuyện với người phóng viên rằng, ông tự coi mình là "Người
Giữ Ngọn Lửa" của tượng Nữ Thần Tự Do. Sau này một người làm việc trong
công viên cho phóng viên biết:
"Ai
ai cũng biết ông Charlie thì đặc biệt. Khi ông tự cho mình danh hiệu ấy, họ
mỉm cười. Nhưng bây giờ tất cả chúng tôi không coi thường điều ấy. Đối với
chúng tôi, ông thật đúng với điều ông nói: 'Người Giữ Ngọn Lửa.'"
Ông
Charlie DeLeo khởi sự cuộc đời là một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước.
Nhưng sau này, giống như ông Gale Sayers, ông quyết định đặt Thiên Chúa lên
trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba mới đến ông.
Quyết
định đó đã thay đổi đời ông.
Ông
Charlie là một thí dụ sống động về hai điểm mà Chúa Giêsu đã nói trong bài
phúc âm hôm nay: quyết định đặt Chúa lên trên hết trong đời, và quyết định
sống điều đã lựa chọn.
Ông
Charlie còn là một cảm hứng sống động để chúng ta thi hành điều mà ông đã
làm: dâng hiến các ưu tiên hàng đầu cho Thiên Chúa và với sự giúp đỡ của
Người, chúng ta sống các ưu tiên đó một cách can đảm.
Đây
là ý nghĩa của các bài đọc hôm nay. Đây là lời mời gọi của Thiên Chúa cho mỗi
người chúng ta ở bàn tiệc Thánh Thể này.
Hãy
kết thúc với lời cầu nguyện mà ông Charlie DeLeo đã viết. Nó tóm lược điều
thách đố của các bài đọc hôm nay:
Ôi
lạy Chúa, con không dám kỳ vọng một đức tin như của Abraham,
Ôi
lạy Chúa, con cũng không dám kỳ vọng tài lãnh đạo của Môsê,
Hoặc
sức mạnh của Samson,
hoặc
sự gan dạ của Đavít...
hoặc
sự khôn ngoan của Sôlômôn...
Nhưng
điều con mong đợi, ôi lạy Chúa,
là
một ngày nào đó Ngài sẽ gọi con.
Ý
Chúa là gì, con sẽ thi hành,
mệnh
lệnh của Chúa là gì
đó là
niềm vui của con...
Và
con sẽ không làm Chúa thất vọng,
vì
Ngài là tất cả những gì
con
tìm kiếm để phục vụ,"
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
VÁC
THẬP GIÁ MÌNH
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
JKN
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả (kể cả cha mẹ, và những người thân
yêu nhất). Từ bỏ như thế thì làm sao sống được trên đời? Làm sao tránh được
tiếng bất hiếu, vô tình vô nghĩa? Cần phải hiểu hai chữ «từ bỏ» theo nghĩa
nào?
2.
Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu những người theo Ngài phải lượng sức mình: có
từ bỏ tất cả mọi sự được thì hãy theo, không thì thôi?
3.
Không lượng sức mình mà cứ theo Chúa, thì đã sao? Có tai hại gì đâu? Khối
người theo Chúa có phải từ bỏ gì đâu, họ còn được thêm là đằng khác?
Suy
tư gợi ý:
1.
Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả
Bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát
là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người,
vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay
cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Sự rõ ràng và dứt khoát ấy trở nên rất rõ
nét nhờ hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và một ông vua muốn chiến đấu.
Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà
hết tiền, thì sẽ không có nhà ở! Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định
theo Chúa, thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như
Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau
đó bị dở dang «thầy không ra thầy, thợ không ra thợ», lỡ việc, lỡ cả cuộc
đời, và có thể lỡ cả đời sau.
2.
Cần phải hiểu «từ bỏ» theo hai nghĩa
Khi
Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là
những kẻ theo Ngài luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như người
không có gì. Hiểu theo nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng chỉ đúng với
ơn gọi của một số ít người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều
hơn. Nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ
là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự
khác, nên sẵn sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng khi
thực tế đòi buộc như vậy. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ
bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí
nhỏ cho cái quí to. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn…
đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng
đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí
bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa.
Và
khi đã có tinh thần từ bỏ, thì tinh thần ấy sẽ được thể hiện thành hay hành
động từ bỏ. Nếu những hành động từ bỏ không phát xuất từ tinh thần từ bỏ thì
không có giá trị lắm. Tuy nhiên, nếu tinh thần từ bỏ mà không được thể hiện
thành những hành động từ bỏ cụ thể, thì chắc chắn đó không phải là tinh thần
từ bỏ đích thực.
3.
Phải lượng sức mình khi theo Chúa
Có
thể Chúa không đòi hỏi tất cả mọi người phải có tinh thần từ bỏ như thế.
Nhưng Ngài đòi hỏi những ai theo Ngài phải có tinh thần ấy. Vì thế, trong hai
dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa yêu cầu những ai theo Ngài phải lượng
sức mình xem mình có thể có được tinh thần từ bỏ như vậy không. Nếu không có,
thì đừng theo Ngài, Ngài không trách phạt những người bình thường nếu họ không
có tinh thần ấy. Nhưng Ngài sẽ trách phạt những ai theo Ngài mà lại không có
tinh thần từ bỏ ấy. Chính vì thế, mà cần phải lượng sức mình kẻo có hại cho
sự phát triển hay vinh quang của Nước Chúa, đồng thời cho chính bản thân
mình.
Rất
tiếc là tinh thần từ bỏ này chưa được đặt nặng đúng mức nơi những người mang
danh là theo Chúa. Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những người mang danh
theo Chúa lại được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn những người bình thường (được
hết sức kính trọng vì danh nghĩa là người theo Chúa chứ không vì tài đức bản
thân, dễ dàng có quyền hành, địa vị, chức tước, tiền bạc hơn người bình
thường…) Vì thế, có biết bao người theo Chúa vì những động lực trần tục ấy.
Theo Chúa, thay vì từ bỏ hay mất đi nhiều thứ mình đang có, thì lại có thêm
hay chiếm hữu được nhiều thứ mình chưa có. Do đó, với tinh thần chiếm hữu
thay vì từ bỏ, những người mang danh theo Chúa ấy không thể thực hiện được
những bổn phận hay trách nhiệm mà những người theo Chúa phải gánh vác trong
những hoàn cảnh cụ thể mà Nước Chúa đòi buộc (chẳng hạn phải tranh đấu cho
người nghèo, cho người bị áp bức, chống lại sự ác, bất công…) Họ không dám từ
bỏ, không dám dấn thân, không dám hy sinh trong những việc đòi hỏi họ phải
chấp nhận nguy hiểm đến mạng sống, đến sự an toàn bản thân, đến danh dự, đến
quyền lợi… Đương nhiên họ vẫn có thể hy sinh trong những việc nhỏ, miễn sự hy
sinh ấy đừng lớn hơn cái lợi trần gian họ đạt được. Cũng như một người đi
buôn sẵn sàng hy sinh tiền bạc, công sức để thu vào một cái lợi lớn hơn.
Những
người theo Chúa kiểu ấy sẽ rất bỡ ngỡ vào ngày sau hết, khi Chúa bảo họ: «Ta
không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân
làm điều bất chính!» (Lc 13,27). Và lúc ấy họ sẽ lên tiếng thắc mắc: «Chúng
tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên
các đường phố của chúng tôi» (Lc 13,26). Hoặc «Nào chúng tôi đã chẳng từng
nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà
làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chính vì thấy trước viễn tượng ấy, mà
Đức Giêsu đã yêu cầu những ai muốn theo Chúa phải lượng sức mình. Nếu không
thể từ bỏ mọi sự được như thế (nên hiểu theo nghĩa tinh thần), thì nên rút
lui sớm kẻo vừa hại cho Nước Chúa vừa hại cho phần rỗi của mình.
4.
Một đề nghị
Trong
các Giáo Hội Á châu, việc Giáo Hội khuyến khích giáo dân tôn kính và dành
nhiều đặc quyền đặc lợi cho những người theo Chúa có rất nhiều điều hay, nên
làm, nhưng thiết tưởng cũng nên ý thức và quan tâm tới mặt trái của nó để
hành xử cho khôn ngoan. Sự tôn trọng của giáo dân và những đặc quyền đặc lợi
mà Giáo Hội dành cho những người theo Chúa có thể khiến cho những Ki-tô hữu
không có tinh thần siêu nhiên, sẽ theo Chúa không phải vì Chúa, vì Giáo Hội
hay các linh hồn, mà vì một động lực trần tục.
Thật
vậy, nếu những ai mang danh theo Chúa mà lại được tôn kính, trọng vọng một
cách mặc nhiên bất chấp họ có xứng đáng hay không; nếu những điều kiện sinh
sống của họ cũng mặc nhiên trở nên dễ dàng gấp bội so với những giáo dân bình
thường chỉ vì họ mang danh hiệu đó mà thôi, thì việc mang danh theo Chúa sẽ
trở nên rất hấp dẫn đối với những ai thiếu tài đức nhưng lại ham muốn trèo
cao và muốn có điều kiện sống dễ dàng hơn mọi người mà đỡ vất vả. Nếu những
điều kiện để được mang danh là theo Chúa lại dễ dàng hơn những điều kiện để
mang những danh hiệu khác ngoài đời, thì số người «muốn theo Chúa» với động
lực trần tục sẽ đông lên gấp bội. Điều ấy sẽ ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng
của những người mang danh theo Chúa. Nếu những người theo Chúa vì động lực
trần tục chiếm đa số, thì thật là tai hại cho Giáo Hội. Họ sẽ không thể dấn
thân thật sự cho Giáo Hội khi Giáo Hội cần đến sự dấn thân ấy. Giáo Hội sẽ
đầy gương xấu đến từ giới được coi là ưu tú nhất, và bị đình trệ không phát
triển được. Và những người muốn theo Chúa thật sự (chiếm thiểu số) sẽ nản
lòng và sẽ chẳng hoạt động hữu hiệu được, thậm chí sẽ không muốn vào, mà lại
muốn ra khỏi hàng ngũ ấy để … khỏi bị thiên hạ đánh giá kiểu «cá mè một lứa»!
Vì
thế, những người hữu trách trong Giáo Hội nên tìm cách tránh cho Giáo Hội
tình trạng đồ giả lan tràn như ngoài đời. Làm đồ giả vừa thực hiện dễ dàng
lại vừa kiếm được nhiều lợi nhuận hơn làm đồ thật, nên thị trường tràn lan đồ
giả. Đồ giả càng tinh vi thì bên ngoài càng giống đồ thật, thậm chí nhiều
loại đồ giả còn «có vẻ thật» hơn cả đồ thật. Đương nhiên chất lượng của đồ
giả thì luôn luôn kém cỏi. Nếu không có biện pháp xử lý khôn ngoan, thì trong
Giáo Hội cũng có thể lan tràn những người có vẻ theo Chúa, nghĩa là theo Chúa
một cách «hữu danh vô thực», không có tinh thần «từ bỏ» làm bảo chứng.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, xin ban cho Giáo Hội ngày càng tăng số người muốn theo Cha thật sự,
nghĩa là những người sẵn sàng chấp nhận tinh thần từ bỏ mà Cha đòi hỏi và
mong muốn. Xin cho chúng con dù là giáo dân hay giáo sỹ, cũng có tinh thần từ
bỏ đích thực để xây dựng Nước Thiên Chúa tại trần gian, đặc biệt trên quê
hương con. Amen.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
MÔN
ĐỆ ĐỨC GIÊSU
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lm.
Phạm Thanh Liêm
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ai
cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn
đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì
trái với Ngài.
Từ bỏ
chính mình
Đám
đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai
đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.
Từ bỏ
chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự
trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa
dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi
hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa
không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh
phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và
mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên
Chúa trên cả mạng sống mình.
Chọn
Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là
giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó
không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng
lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người
đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người
mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh
phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này
không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy,
không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con
cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho
con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên
Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.
Chấp
nhận chính mình
“Ai
không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con
người, ai cũng có những giới hạn.
Chẳng
hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp
như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con
người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng
nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác,
tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài
khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận
con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà
theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính
mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt,
và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán
“ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).
Chấp
nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn
trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên
trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì
hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.
Chấp
nhận tha nhân trong yêu thương
Thiên
Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên
Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một
hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.
Onesimus,
người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận
Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có
phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình,
nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô
lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải
chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình,
đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không
tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.
Chọn
Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất
cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin
cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có
sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không?
Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
2.
Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả”
không? Đâu là quan điểm của bạn?
3.
Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
VÁC
THẬP GIÁ VÌ CHÚA
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh,
phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều chúng ta mong muốn. Cách sống này người
ta gọi là ”Khổ nhục kế”. Khổ nhục kế cũng là cách người ta dùng hy sinh, dùng
nhục hình để nói lên lòng thành của mình.
Chuyện kể rằng tại lối vào một trung tâm mua sắm sầm uất ở
tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) đã thực sự bị ùn tắc trước "sự cố nghiêm
trọng": một thanh niên quỳ gối nhất quyết không chịu đứng lên, khiến cho
mọi người xúm lại coi! Ngay cả khi cảnh sát đến can thiệp, anh chàng cũng
không chịu rời vị trí để trả lại sự yên tĩnh cho đường phố!
Anh
chàng cho biết bản thân đang cực kỳ đau khổ và giày vò vì đã không giữ lời
hứa với người yêu mà uống rượu, khiến cô nàng tuyên bố đường ai nấy đi! Khổ
thân anh chàng lếch thếch chạy theo năn nỉ và mất dấu cô bồ ở trung tâm mua
sắm này. Vì thế, anh ta quyết định quỳ gối cho đến khi nào cô ấy xuất hiện
mới thôi. May mà sau vài tiếng "thi gan", anh chàng đã khiến cho
trái tim cô gái "chảy nước" nên cô đã đến và đưa anh ta đi.
Hóa
ra để được việc đôi khi phải từ bỏ, từ bỏ danh dự, từ bỏ chính mình để được
điều mình mong ước. Tựa như một cậu học sinh cần từ bỏ những niềm vui vô bổ
để tập trung học hành mới mong công thành danh toại. Cuộc sống không có vinh
quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy
luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế.
Cuộc
sống của người môn đệ cũng phải trải qua gian khổ, hy sinh, tập luyện và từ
bỏ. Đôi khi phải hy sinh hay từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú
hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái
mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì
Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ
như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá
vinh quang.
Chúa
Giê-su cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giê-su đã
biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu
rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn
sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giê-su đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng
Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những
hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.
Là
người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một
hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong
đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người
ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau
khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta.
Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gi so với hạnh
phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa
hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh
thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn
lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau
chúng ta cũng được ân thường hạnh phúc thiên đàng.
Xin
cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để
ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
ĐÒI HỎI CỦA TÌNH YÊU
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sợi Chỉ Đỏ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Giới Tử Thôi người
nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng
Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ
phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại
không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt
thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi
phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ
không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ sau này có
làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ,
vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình
để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu
thương chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta
lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo
Người?
Lời Chúa trong Tin
Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con,
anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”
(Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là
cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh
hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và
bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì
không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37).
Vậy ý của Đức Giêsu là
nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ
tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi
tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu
khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân,
gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí
mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thiết thì tất cả
những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang
giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ
rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của
cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt
lại giá trị ưu tiên lúc nào, mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa
mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi
công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính.
Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công
nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ
theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của
mình. Người không chấp nhận “cầm tay mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy,
những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những
kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đứng như Pierre
Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an
hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.
Lạy Chúa, chúng con đã
chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn
Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để
chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hỏi gắt gao của tình yêu,
nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội, giúp chúng con lớn lên
trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI
THEO ĐỨC GIÊSU
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chú giải của Fiches Dominicales
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Để đi đến cùng.
"Trên đường lên
Giêrusalem" (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu
"quay lại” phía "đám đông cùng đi đường" với Người, để dạy cho
họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.
Chỉ "đến
với" Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận
để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta:
cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật
chất, là đề tài quen thuộc của Luca.
Những "liên hệ
gia đình":
Đức Giêsu tuyên bố
không úp mở "ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị
em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được". Ở đây,
Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ" để diễn tả lối nói nguyên
thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói
mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay "tai ương ít hơn",
“không thương hơn.": Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng
và thâm sâu đến đâu ngay cả đến "mạng sống" con người đi nữa, đều
phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích
ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải
của thù ghét.
Lối nói thẳng thừng
của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên
hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta
phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn
cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một
cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo,
nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu...), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải
nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối
của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành "phải"
bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái "vì Nước Thiên Chúa" (Lc
18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người
đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác
và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. ("Parole de Dieu pour chaque
dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).
Ngay sau đó, Đức Giêsu
nói tiếp: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm
môn đệ tôi được". Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức
Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì
điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận
của người môn đệ.
Đối với các Kitô hữu
thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của
Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê,
hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave,
“Assemblées du Seigneur", số 54, trg 70-71).
Những của cải vật
chất:
Đức Giêsu kết luận:
"Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn
đệ tôi được ". Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn
sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi
của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.
R. Meynet chú thích,
"Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi
phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người
phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá
là cái phải mang theo để đi theo Người” (L'Evangile selon Saint Luc. Analyse
rhétorique", tập 2, Cerf, trg 157).
2. Trước tiên phải
ngồi xuống tính toán:
Sau đó, để tránh mọi
hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh
giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ
định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua
khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái
tháp?... Có vua nào đi giao chiến...?, để kêu gọi người ta phải trước tiên
ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức
Giêsu.
Theo tạp chí
’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ,
nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh
quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có
thể gọi chung là "những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được
Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời
gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai
dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải
dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị
áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá
phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Động lực duy nhất
hướng đến sự sống.
"Trước lúc lên
đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những
gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần
thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai
dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao
đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng
để mình vương vấn bất cứ cái gì? "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ,
vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa...". Đúng là một danh
sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người
rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận,
gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này.
Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh
Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại
Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để
mà chết, có ích gì?
Phải đợi đến sau biến
cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng
chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng "chết - sống" chính
là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi
liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ
con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương
bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu
chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng".
2. Thiên Chúa, Đấng
duy nhất tuyệt đối:
Đức Giêsu đã đảo lộn
tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải
yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con... Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa
thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin
Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì
hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả
cho người thân trong gia đình mình?
Dường như Đức Giêsu
đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ
ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta
rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao
của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình,
công việc, cửa nhà, ruộng đất... đã chứ!
Đi theo Đức Giêsu là
phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên
Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta
sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc
có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.
Những gì chúng ta có
thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo
vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh
chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ... chúng ta hãy qui
tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của
Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả,
nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.
Nhận ra Thiên Chúa là
cái "nền" của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định
của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỪ BỎ HẾT
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chú giải của Noel
Quesson
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Có rất đông người cùng
đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên
con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã
thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây
không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của
Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người" cùng đi với
Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô
số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ.
Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một
vài câu hỏi: "Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh
em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh
em đi tới đâu không?".
Ai đến với tôi mà
không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì
không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của
Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh
chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là "một người bất
kỳ nào đó". Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại
yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với
bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được
ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm
nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ
tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy
trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất
tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là
ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của
Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm
biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để
bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như
thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất
của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng
ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình
yêu tuyệt đối của Thiên Chúa... Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn
phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc
18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi
yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao
giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo
hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy
trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục
vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá
mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công
thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là
từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã
tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm
chúng ta đau khổ, có thể trở thành "sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi
người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu.
Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì
Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang
lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại!
Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình
ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta
một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không
gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn
mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh
em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí
tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có
khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo:
"Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!".
Dụ ngôn này là của
riêng Thánh Luca: "Bổn phận phải ngồi xuống!" Dụ ngôn này nói lên
khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo
Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao
giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh
Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng
như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như
thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải
làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc
từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo
"Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người...” phải chăng
trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên
xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa
phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi
giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem
mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân
tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà
vua đã phải sai sứ đi cầu hòa".
Hai dụ ngôn này
"xây tháp" và "chiến đấu để thắng trận" là thành phần của
các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong "đường lên
Giêrusalem". Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói
và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên:
Đời sống Kitô hữu chính là "xây dựng" và "chiến đấu”. Hai công
việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên
liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có
hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian
để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các
bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có
khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để
nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong
đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc "xét lại đời sống":
Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời
gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất
cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không
sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu
sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên
sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà
Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời
sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của
thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong
gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: "Những ngày nào con
càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải
ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong
anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba
trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt:
"Không thể làm môn đệ của tôi được".
Và đối với Luca, điệp
khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải
"ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không
sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình
trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải... bởi tình yêu.
Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một
"lời khuyên" dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ
nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế... Sự từ bỏ chính là điều
kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở
thành một “môn đệ đơn sơ". "Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và
tiền bạc" (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy
của Đức Ki tô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng
như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. "Người vốn giàu sang
phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình
mà cho em trở nên giàu có" (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được
điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có
tiếp tục hướng về "cái có" một cách tham lam hay không? Chúng ta có
khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và
tính đơn sơ không?
"Xã hội tiêu thụ
không làm cho con người hạnh phúc".
Đức Gioan Phaolô II đã
nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã
đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua
sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc... để được tự do hơn. Và thật
đơn giản, để "đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
MỜI GỌI TỪ BỎ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Hoạt cảnh hoàn toàn
thay đổi. Cuộc hành trình tiếp tục. Các địch thủ tạm khuất dạng một chốc lát;
nói với đám đông người cùng đi đường với Ngài, Chúa Giêsu dạy cho họ một bài
giáo lý về điều kiện phải có để làm người môn đệ. Những lời dạy của Ngài
tương phản với dụ ngôn ở trên, bởi vì chúng nêu lên trước một đề tài lúc đó
được hiểu ngầm: những ai đón nhận lời mời đi vào Vương Quốc phải tuân thủ một
số đòi hỏi.
Giáo huấn được mở đầu
bằng hai lời liệt kê những điều kiện để trở thành môn đệ; thực thế, đến với
Chúa Giêsu chưa đủ (cc.26-27). Điều thứ nhất đòi hỏi người ta ghét gia đình
và cả đến mạng sống mình nữa (c.26). Chắc hẳn trong Do Thái giáo có nhiều
trường hợp những người đã cưới vợ bỏ tất cả để theo phục vụ một ông thầy và
học hỏi Lề Luật với ông, mà một trong những việc phục vụ là đi theo Thầy khắp
nơi (x. đã có Êlisê đi theo và phục vụ Êlia, 1V 19-21). Tính cách độc đáo của
lời Tin Mừng gồm có hai điểm. Trước hết, với một ngôn ngữ triệt để (“ghét”)
người ta được yêu cầu phải từ bỏ, theo gương Chúa Giêsu (8,19-21; 11,27-28),
mọi quyến luyến với gia đình là thứ gây cản trở (trường hợp người vợ mới
cưới, x. 14,20). Mọi liên hệ hoàn toàn chính đáng này cũng như tình yêu hợp
lý đối với chính mạng sống mình, không được chiếm chỗ ưu tiên. Điều mới mẻ
thứ hai: rời bỏ gia đình không có mục đích là học luật nhưng để gắn bó với
chính bản thân Chúa Giêsu và theo Ngài lên Giêrusalem để chia sẻ số mệnh của
Ngài. Chỉ là môn đệ đích thực những ai có khả năng có được quyết định triệt
để và khó khăn này: loại bỏ tất cả những gì ngăn cản họ bắt chước Chúa Kitô.
Tiếp theo đó là giáo huấn về con đường khổ giá, giáo huấn này đưa ra hai điều
kiện: vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu. Như trong giáo huấn song song
ở 9,23, có một ám chỉ đến cách thức mà Chúa Giêsu sẽ phải chết. Không có một
chỗ nào khác trong Luca, Chúa Giêsu nói về việc Ngài bị đóng đinh.
Hai dụ ngôn, được gắn
liền với những gì đi trước bằng một từ kiên quyết”quả thế”, mời gọi suy nghĩ
một cách nghiêm chỉnh: không có vấn đề dấn thân một cách nhẹ dạ theo Chúa
Giêsu hay làm việc nửa vời, phải đảm bảo có thể tiếp tục công trình cho đến
hoàn thành (cc.28-32). Các hình ảnh rút từ cùng môt lĩnh vực: vấn đề về xây
cất (một cây tháp) và về lực lượng vũ trang; trở thành môn đệ cũng gần như
gia nhập một đạo binh trong thời chiến…
Khi nói về việc áp dụng
dụ ngôn, có một lời giáo huấn đưa ra một điều kiện mới rất được Luca yêu
thích: người môn đệ phải từ bỏ hết những gì mình có (cc.26.27.33). Ai không
quyết định từ bỏ mọi sự, kể cả chính mạng sống mình, sẽ thất bại một cách
nhục nhã. Tính toán đến tài nguyên và sức lực của mình chính là, một cách
nghịch lý, vất bỏ tất cả những gì gây trở ngại.
Bài diễn từ kết thúc
bằng một câu châm ngôn bình dân (cc.34-35). Trong thời thượng cổ muối vừa
được dùng để bảo tồn thức ăn vừa là gia vị. Vì có thể giữ thức ăn khỏi bị hư
thối, nó tượng trưng cho sự bền vững; bởi vậy nó rất cần thiết cho việc hy tế
(Lv 2,13). Ở Palestin người ta thường dùng muối có phẩm chất kém, pha trộn
nhiều tạp chất, nên nó thường bị mất mặn đi sau một thời gian. Mà muối, dùng
để ướp thức ăn cũng như của lễ chẳng hạn, thì chính nó không thể được ướp
bằng thứ muối nào nữa, nếu nó mất khả năng ướp măn thì chẳng có muối nào làm
nó mặn lại được. Vậy mà, giáo huấn về muối này lại được nói ở phần cuối của
một bài giáo lý về điều kiện phải có của người môn đệ. Do bởi ý nghĩa kép của
từ Aram tiềm ẩn, câu của Luca có nghĩa”nếu chính muối đã điên rồ”
(nhưng”nhạt” ở Mc 9,50) và màu sắc tâm lý này làm cho việc áp dụng giáo huấn
được dễ dàng. Nếu những liên hệ giữa môn đệ và Chúa của mình lỏng lẻo, thậm
chí bị cắt đứt, thì làm sao tái lập được? Người tín hữu lạt lẽo là kẻ điên
rồ; kẻ vô tích sự này bị quẳng đi bởi vì họ bị mắng không thể là môn đệ
(c.33). như thế đừng theo Thầy thì tốt hơn là theo cách lừng khừng hay ngừng
lại giữa đường (xc. 28-32). Như Chúa Kitô nói trong sách Khải huyền:”Ta biết
các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi ‘lạnh
hẳn hay nóng hẳn’, nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp
mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
KÊU GỌI và LỰA CHỌN
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Chú giải của R.
Gutzwiller
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dụ ngôn sau cùng về
bữa tiệc hiển nhiên ám chỉ cuộc sống vĩnh cửu. Người ta hiểu được như vậy căn
cứ vào lời một thực khách: ‘phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên
Chúa’. Đức Giêsu soi sáng vấn đề những kẻ được chọn trong Nước trời đã thành
hình khi Ngài kể dụ ngôn các thực khách dự tiệc cưới.
1. Mời gọi.
Trong tất cả các dân
tộc, Israel là dân tộc được mời dự tiệc cưới trước tiên. Câu ‘xin mời đến vì
mọi sự đã dọn sẵn’, hàm chứa lời mời của Chúa khi Ngài đến nhập thể làm
người. Những gì có trước đó chỉ là chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị đã chấm dứt,
bữa tiệc đã sẵn sàng. Thời chuẩn bị đó chính là việc xuất hành khỏi Ai cập để
về Canaan và chinh phục đất hứa; là giao ước trên núi Sinai, là toàn bộ lề
luật, là sấm ngôn quan trọng của các tiên tri, là đền thờ. Ngoài ra còn là
hình ảnh của những vị vua tiêu biểu, là những khổ nhục thời lưu đầy, rồi là
vị Tiền Hô, sau cùng là những lời giảng thuyết và phép lạ của chính Đức
Giêsu.
Giờ đây, mọi sự đã sẵn
sàng. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để nhận quyền làm chủ thành thánh. Ngài tự
hỏi: không biết với những cái chuẩn bị đó, dân của Ngài đã thực sẵn sàng
chưa?
Giáo Hội với công việc
của mình, cũng là một sự chuẩn bị. Dĩ nhiên, đây là giai đoạn hoàn tất giao
ước cũ, những vẫn là chuẩn bị đối với sự ứng nghiệm dứt khoát. Phép rửa, một
cuộc tái sinh, chuẩn bị cho đời sống mới bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Tiệc
Thánh Thể chuẩn bị cho tiệc vĩnh cửu trên trời.
Cho nên, chúng ta cử
hành tiệc Thánh Thể cho tới khi ‘Chúa lại đến’. Bí tích Hôn phối chuẩn bị đi
đến một cộng đồng vĩ đại, sống và yêu thương dưới quyền quản trị của Thiên
Chúa. Bí tích Thống hối chuẩn bị việc Chúa đến, ân sủng chuẩn bị cho vinh
quang. Sau cùng, đau khổ chuẩn bị cho cuộc khải hoàn thêm vĩ đại và cái chết
chuẩn bị cuộc sống chân thực.
Giáo Hội chuẩn bị cho
Nước Thiên Chúa, hay đúng hơn Giáo Hội là Nước Thiên Chúa còn phôi thai.
2. Những người kiếu
từ.
Trong dụ ngôn, các
thực khách được mời không sẵn sàng. Vì cho rằng còn có những việc còn quan
trọng hơn, họ đã khước từ việc thiết yếu. Họ lo lắng đến những điều phụ thuộc
và vì thế bỏ qua việc chủ chốt.
Lời thoái thác của
người thứ nhất biểu hiệu não trạng duy vật. Một miếng đất mới tậu đối với y
còn giá trị hơn một lời mời danh dự. Israel muốn có một vị Thiên Sai đem lại
cho họ của cải vật chất. Đối với dân chúng, cơm bánh và vui chơi quan yếu hơn
cả Tôn giáo. Trong Giáo Hội cũng có rất nhiều người lấy việc thủ đắc đất đai
quan hệ hơn thủ đắc Nước Thiên Chúa. Đất đáng giá hơn trời, tiền bạc hơn tinh
thần, tạm bợ hơn vĩnh cửu.
Người thứ hai viện cớ
bận việc. Họ phải thử mấy cặp bò mới tậu. Đúng ra, họ có thể nhận lời nhưng
phải là lúc khác. Bây giờ, họ rất bận bịu. Chúng ta thấy hạng người này ở
nhiều nơi, nhiều lúc. Họ bị nô lệ cho công việc; tâm hồn không có lúc nào thư
thái.
Bị lôi cuốn vào guồng
máy hoạt động họ không còn thì giờ và thảnh thơi để lo đến việc trọng đại đời
đời và nghĩ đến vận mệnh đích thực của mình.
Sau cùng, những nhu
cầu của tình yêu và xác thể được người thứ ba đưa ra để kiếu từ. Nơi nhiều
người, tình dục thắng lướt cả những nhu cầu thiêng liêng, và bản năng đã ràng
buộc họ. Họ hoàn toàn chìm đắm trong dục tình và không còn gì là linh thiêng
nữa. Với họ, tôn giáo hình như là một vùng đất xa xăm, một thực tại lạ lùng.
3. Những người được
tuyển chọn
Tuy nhiên, Nước Thiên
Chúa cuối cùng cũng phải thành hình. Điều mà Đức Giêsu đòi hỏi gia chủ trong
đoạn trên thì chính Ngài sẽ thực hiện. Những người ‘ăn xin, què quặt, mù loà
và bất toại được mời vào dự tiệc’. Hạng người đáng thương bị các luật sĩ
khinh bỉ có cơ hội ở trong Nước Thiên Chúa. Những người bị các biệt phái bài
bác, thực tế lại là những kẻ được chọn.
Lời mời được tống đạt
một lần nữa, dọc theo đường đi và các bờ rào mà đến với những người không
quen, những người ở xa, những người chẳng có liên hệ gì cả. Trường hợp của
Israel đã đưa đến biện pháp hoạt động sứ vụ nơi dân ngoại. Họ gia nhập từng
đoàn. Trong thư gửi tín hữu Rôma, th. Phaolô bình luận mầu nhiệm này:
Theo lối so sánh của
thánh nhân thì: ngành cây Israel đã bị chặt khỏi thân cây Ô-liu (tượng trưng
cho Đức Kitô). Nhưng gốc cây không mất sinh lực. Ngành cây dân ngoại được
tháp vào đó và như thế cây Ô-liu đã sinh hoa kết trái không ngờ. Ở đây, mầu
nhiệm Thiên Chúa chọn lựa được bày tỏ rõ ràng.
Đó cũng là điều khích
lệ các Kitô hữu. Trong tiệc cưới trên Nước trời, người ta sẽ thấy có những
người vắng mặt: giáo hoàng, giám mục, linh mục, đan sĩ, tu sĩ, giám đốc hội
đoàn, các chức sắc trong Giáo Hội, những người nhiệt tâm hoạt động; việc họ
không có mặt khiến người ta ngạc nhiên, nhưng có tìm cũng vô ích thôi.
Bù lại, người ta thấy
có những kẻ không ngờ, họ không gia nhập Giáo Hội hữu hình, nhưng nối kết với
Đức Kitô trong tâm hồn mà không ý thức, như vậy cũng là thuộc về Giáo Hội.
Trong Giáo Hội, có những người bề ngoài chưa được tốt, nhưng vì có ý thức tội
lỗi của mình nên đã tìm được con đường về với Thiên Chúa nhờ hối cải và sám
hối.
Cũng có những người
đơn sơ, ngây thơ, sống âm thầm mà vác thánh giá, đồng thời cố gắng chu toàn
bổn phận của mình trong cuộc sống thường nhật. Những kẻ được chọn thực sự lại
khác với những người thiên hạ thường nghĩ. Và nhà của Chúa cũng sẽ đầy người…
Trong khi Chúa tiến về
Giêrusalem, và cảm thấy sức đề kháng của quần chúng. Lời huấn dụ của Ngài
ngày càng có tính chất trang trọng và nghiêm khắc, tuy nhiên vẫn có mầu sắc
lạc quan. Vì căn nhà Chúa đến để xây dựng thì Ngài sẽ dành cho những người
biết đền đáp tình thương của Ngài.
TỪ BỎ (14, 25-33)
Nếu trong đoạn trước,
khung cảnh bên ngoài của bữa tiệc khiến đoạn văn được thống nhất, thì ở đây,
mọi lời Chúa nói đều quy về một ý niệm sâu xa là sự thoát ly và từ bỏ.
Nhiều đám đông dân
chứng dấn bước theo Thày. Họ tưởng là noi gương Thày cũng dễ thôi, và trong
lúc hăng say nhất thời, mọi chuyện họ đều coi là thường. Chính vì lẽ đó, Chúa
Kitô, một cách từ tốn nhưng không kém phần nghiêm trọng, đã đặt ra cho thính
giả đang nghe Ngài, là các môn đệ, một điều kiện gắt gao.
1. Yêu sách
Người nào muốn theo
Ngài hẳn phải cởi bỏ mình khỏi những gì ràng buộc mình nhất. Người đó phải
cắt đứt liên hệ với gia đình,, tức là những liên hệ huyết nhục: ‘cha mẹ, vợ
con, anh chị em’. Tình gia tộc huyết thống đã được ghi khắc trong bản tính
loài người, và thêm đậm đà thắm thiết nhờ những tháng dài chung sống với
nhau.
Thế nhưng Thiên Chúa
còn quí giá hơn gấp bội, và hết thảy mọi quyền lời phàm nhân đều phải nhường
bước trước những quyền lợi Thiên Chúa. Quyền lợi của Thiên Chúa ràng buộc con
người đến độ mọi thứ liên hệ khác hoá ra vô hiệu.
Theo kiểu diễn tả lạ
kỳ của Kinh Thánh, thì Chúa là Thiên Chúa hay ghen. Tình yêu mà Ngài đòi hỏi
phải toàn diện và tuyệt đối, để về phần Ngài, tình yêu của Ngài cũng làm mãn
nguyện những kẻ được tuyển chọn. Người ta chỉ có thể hiểu được bí nhiệm trọng
đại đó, chỉ có thể tiến sâu vào ngôi thánh điện này một khi hoàn toàn thoát
ly khỏi tạo vật. Người ta chỉ vào phòng loan với Chúa một thân một mình mà
thôi.
Còn hơn thế nữa: con
người đó lại phải từ bỏ ‘chính bản thân mình’. Thân phận con người hoàn toàn
tự nhiên, với những ước muốn, những nhớ nhung, bản năng tự cao tự đại, lòng
ham sinh uý tử, địa vị của mình trong xã hội và đồng loại, tất cả những cái
đó phải được từ bỏ hoàn toàn.
Như cánh bướm kia
thoát thân từ caí kén, con người mới sẽ một lần nữa rời bỏ cung lòng người mẹ
để tái sinh trong cuộc sống mới. Đức Kitô còn đòi hỏi hơn nữa: con người đó phải
‘ghét’ tha nhân cũng như chính mình vậy. Như thế không chỉ có ý nói đến sự xa
cách về không gian, sự chấp nhận những thua thiệt, sự từ bỏ tiệm tiến và hầu
như không cảm thấy, nhưng đây là một sự từ khức mãnh liệt, có ý thức, đớn đau
ở mọi nơi mọi thời.
Khi gặp phải chống đối
hoặc ngay cả khi Thiên Chúa hay những nhu cầu linh thiêng coi như dửng dưng
xa cách, lúc đó con người sẽ phải lựa chọn, phải quyết định trước một ngã ba
đường nan giải.
Còn phải đi xa hơn
nữa: ‘Ai không vác khổ giá mình, ắt không thể là môn đệ Ta’. Bị đóng đinh có
nghĩa như bị xã hội coi như là nguy hiểm và đại ác. Thập giá đem lại cái gì?
Thưa, bị bạo lực nghiền nát, bị hành hạ, xua đuổi, chết chóc, một cuộc đời
kết thúc ô nhục và đẫm máu.
Trên tất cả, có một
lời soi sáng và biện minh cho yêu sách tiệm tiến đó: ‘Kẻ nào theo Ta, kẻ nào
muốn làm môn đệ của Ta’. ‘Ta’ và ‘của Ta’ ở đây ám chỉ Chúa Kitô. Theo Ngài
là bước đi trong con đường của Ngài, là được làm môn đệ của Ngài, là được dõi
bước theo Ngài. Ngài là một vị Thày thật cao cả, tình yêu thương của Ngài quá
mạnh mẽ,những điều Ngài đòi hỏi quả chính đáng, uy thế của Ngài mãnh liệt đến
độ mọi cái khác đều phải lùi bước.
Khi đã tận hiến hoàn
toàn cho Chúa, không thể nào sống dễ dãi, tiện nghi nữa, mà chỉ còn Thiên
Chúa độc quyền đòi hỏi và tình yêu hướng về đối tượng độc nhất.
2. Soi sáng
Giáo huấn này thật là
quan trọng, khiến Chúa Giêsu phải soi sáng bằng ba ví dụ. Thứ nhất: việc xây
tháp. Cũng như không thể xây một cái tháp mà không có một đồng xu dính túi,
thì người ta chẳng thể xây dựng đời sống theo Đức Kitô một cách tươi vui khi
không có sự từ bỏ hoàn toàn. Sự hy sinh phải được coi là điều kiện tiên
quyết, một giả thuyết nền tảng.
Thí dụ thứ hai là cuộc
chiến. Ông vua cần có binh lính mới chinh phục được chỗ này chỗ nọ; người môn
đệ cũng cần phải có sự từ bỏ để chiến đấu chống lại thù địch của Thiên Chúa.
Trong trận chiến trần gian, binh giáp là điều kiện tiên quyết thì hy sinh
cũng là điều kiện rất cốt thiết cho cuộc chiến đấu thiêng liêng: ‘Ai trong
anh chị em không từ bỏ hết thảy của cải mình đi thì không thể làm môn đệ của
Ta’. Trong hai thí dụ trên đây có một sự đảo lộn giá trị. Tiền bạc là một
động lực hữu hiệu để xây tháp cũng như muốn chiến tranh cần phải có ba quân
chiến sĩ.
Ta cũng phải kết luận
rằng: muốn phục vụ Đức Kitô, con người cần phải có những giá trị tích cực.
Nhưng hai hình ảnh lại có ý nghĩa trái ngược. Đối với thế gian, chiếm hữu là
cơ bản; còn trong việc theo gương Chúa Kitô, sự không-chiếm-hữu, sự từ bỏ mới
chính là điều quan trọng hơn hết. Chúa Kitô là và phải là tất cả. Từ bỏ đối
với Đức Kitô không nghĩa là một tặng phẩm với hậu ý được đền đáp.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỐNG KHỨ TẤT CẢ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Suy niệm của William
Barclay
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trong khi Chúa Giêsu
đi hướng về thành Giêrusalem, dân chúng đi theo càng ngày càng đông và sự náo
nhiệt phấn khởi càng tăng. Dân chúng tưởng rằng Ngài sắp lập một nước vinh
quang đầy quyền uy, họ mong được dự phần trong vinh hiển ấy. Để đánh tan hiểu
lầm, Chúa Giêsu quay lại phán bảo họ những điều kiện chính yếu để làm môn đệ
Ngài. Bằng cách rất sinh động, Ngài bảo họ rằng theo Ngài không phải là để
được quyền thế và vinh quang của thế gian này, nhưng phải có lòng trung thành
đến độ sẵn sàng chịu khổ như sự thống khổ của kẻ bị treo trên cây thập giá.
Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc
tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của
trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi
và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn
nói rằng tình không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu
mà chúng ta có đối với Ngài được. Có hai chân lý nổi bật trong đoạn này:
1. Có thể là người
theo Chúa Giêsu mà vẫn không phải là đầy tớ của Ngài, có thể là kẻ theo trại
quân mà vẫn không phải lính của vua, có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà
vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh
niên rằng: “Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông”. Vị giáo sư
thẳng thắn trả lời: “Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không
phải là một trong số học trò của tôi”. Có sự khác biệt giữa một người trong
lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội
Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn
đệ Chúa.
Những lời Chúa phán
thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả
một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ
bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu “khó
nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải
ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân.
Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ
gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt
khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.
Thật ra những lời này
cũng chỉ là lặp lại yêu sách mà Đức Giêsu đã đặt trong toàn bộ giáo huấn của
Ngài (x. Lc 6,27-35). Đây quả là lời đanh thép. Dầu động từ ghét hay khinh
thì cũng không diễn tả đúng được ý của Chúa, nhưng dầu sao những lời của Chúa
cũng rất mạnh, và không thể giản lược vào “ít yêu hơn” như có người muốn để
cho nó nhẹ đi. Lời rất khủng khiếp không phải vì nó được diễn tả trong thể
phủ định, nhưng vì Đấng nói ra cũng là Đấng từng yêu tha nhân như chính mình
và là người hiến mạng vì loài ngừơ. Lời Ngài chỉ phải hiểu đơn giản rằng đối
với Chúa không có thái độ nửa vời. Người ta có thể diễn dịch lời Chúa bằng
yêu hơn, yêu nhiều, hay đừng yêu bằng, một tình yêu vị kỷ cũng đừng yêu nửa
vời: chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu của Thiên Chúa” (Escriva). Chính
Công Đồng Vaticanô II cũng dạy các tín hữu: “Phải chuyên lo làm đẹp lòng
Thiên Chúa hơn đẹp lòng người ta, luôn sẵn lòng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô và
chịu bách hại vì sự công chính”. (TĐ 4) và trong hiến chế Mục vụ Công Đồng
dạy: “Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Ngài nêu gương để chúng ta theo
vết chân Người, nhưng Người còn mở đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống
và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới” (MV 22). Đường của người
Kitô hữu đi là theo chân Đức Kitô, là nên giống Ngài. Không có con đường nào
khác để theo Ngài ngoài con đường gúp Ngài vác thập giá. Kinh nghiệm cho hay
rằng đau khổ luôn có sẵn và bất hạnh cũng kèm theo nếu thiếu một phản ứng với
tinh thần đạo Kitô. Thập giá đâu phải là tấn bi kịch, thập giá là phương pháp
sư phạm Chúa dùng để thánh hóa ta qua đau khổ, để liên kết ta vào Chúa Kitô
và để ta được xứng đáng với vinh quang. Thế nên Đấng Đáng Kính Escriva đã reo
lên: “Chúc tụng đau khổ! Đáng yêu thay đau khổ! Thánh thay đau đớn!”
2. Phải tính cái giá
phải trả khi theo Chúa. Không muốn làm nản lòng những kẻ theo Ngài, nhưng
Ngài bảo họ phải tính toán trước cho kỹ. Ngài minh giải điều đó bằng hai hình
ảnh về người xây tháp và vị vua lâm chiến. Cái tháp mà người định xây đó có
lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó
có thể trông coi cà vườn kẻo trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật
đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính
toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. Chúa
Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào
rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải
sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ.
Qua những hình ảnh
minh họa này, Chúa cho chúng ta thấy nếu con người khôn ngoan cần phải tiên
liệu các rủi ro đi kèm theo với bất cứ công việc nào, thì người Kitô hữu còn
có lý do hơn để mà tự tình và quảng đại ôm lấy thập giá, vì nếu không thế sẽ
không theo Chúa Kitô được: “Người này bắt đầu mà lại không hoàn thành nổi”.
Lời phẩm bình không ai muốn nghe, mà nếu bạn muốn bạn sẽ không bao giờ là đối
tượng, vì bạn có đủ mọi phương tiện để hoàn thành việc nên thánh: “ơn dư dật
của Chúa và ý chí của bạn” (Escriva).
Nếu trước đó Chúa có
nói tới việc ghét cha mẹ và đến hiến mạng sống, thì giờ đây cũng vẫn đòi hỏi
cao độ ấy với sự từ bỏ của cải vật chất. Câu này là phải được áp dụng cho cả
hai dụ ngôn nêu trên. Cũng như một vua nhất định giao chiến dầu biết tình
hình ít quân là thiếu khôn ngoan, cũng thế một người đến theo Chúa mà lại
không từ bỏ của cải là điên khùng. Từ bỏ của cải ở đây phải thực tiễn và cụ
thể: tấm lòng phải cởi bỏ mọi trói buộc của cải trần gian mới có thể bước
theo Chúa như Chúa nói sau này một người không thể vừa thờ Chúa vừa thờ tiền
bạc (Lc 16,13). Không thiếu trường hợp Chúa đòi hỏi một số người sống đời
nghèo khó tuyệt đối và tự nguyện; còn đối với tất cả, Chúa mong muốn một sự
từ bỏ thực sự và quảng đại trong sử dụng. Nếu người Kitô hữu còn phải sẵn
sàng từ bỏ đến cả mạng sống, còn nói chi đến việc từ bỏ của cải: “Nếu bạn là
người của Chúa. Phải khinh chê của cải một cách cố chấp cũng như người thế
gian ngoan cố trong việc tìm kiếm nó” (Escriva).
Ngoài ra vì tâm hồn
muốn được đầy tràn Chúa, trước hết cần phải tống khứ ra ngoài tất cả những gì
cản trở: giáo lý Con Thiên Chúa đến trần gian dạy là phải khinh chê tất cả
các tạo vật, để thích ứng ta tiếp nhận Thần Thiên Chúa. Bao lâu tâm hồn ta
không từ bỏ được các tạo vật, thì không thể nào đón nhận được Thần Linh Ngài
và không thể biến đổi ta trong Ngài” (Gioan thánh giá, Montre du Cormel).
Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình
không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp,
sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón
tiếp chúng ta.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TRẢ GIÁ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
McCarthy
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Có những người hoài
bão những mục tiêu lớn trong đời, nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn thành những
mục tiêu ấy. Tại sao lại không? Bởi vì họ không muốn trả giá.
Có một câu chuyện về
một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục
tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người
giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố
gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ
ước – quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…
Cô từ chối đi làm ở
bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ
chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa
tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích
hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân
hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn
mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo
mới.
Và thế là cô đã đi dự
tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có
được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám
phá chuỗi hạt đã mất.
Họ tìm kiếm chuỗi hạt
khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự
thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất.
Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao.
Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau.
Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.
Giờ đây
Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả
món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho
cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên
ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món
nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô
gặp lại Marie trong đường phố.
“Ôi, sao bạn già đi
nhiều thế!” Marie nói.
“Tôi đã trải qua những
thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì
bạn”, Antoinette đáp.
“Vì tôi ư? Tôi không
hiểu”.
Rồi Antoinette nói với
Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy
nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn
đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?
“Vâng” Antoinette đáp,
“và bạn không bao giờ nhận ra đâu”
“Ôi, Antoinette đáng
thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ
là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan”.
Nếu ngay từ lúc đầu,
Antoinette chỉ cần bỏ ra phân nửa nỗ lực cho những gì mà cô mong ước trong
đời, thì cô đã có thể đạt được mà không phải phung phí những năm quí giá ấy.
Trái lại, cô đã dùng thời gian ấy của cô để nhìn ra cửa sổ và mơ mộng.
Đức Giêsu đã có một
mục đích cao cả trong đời, tức là thực hiện sứ vụ mà Cha Người đã giao cho
Người, sống vì điều đó và đã muốn trả bất cứ cái giá nào để hoàn thành mục
tiêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đang tiến về Giêrusalem. Người đã biết
điều gì đang chờ Người ở đó. Đau khổ, sự loại trừ và cái chết đợi sẵn ở cuối
cuộc hành trình ấy. Tuy nhiên Người mong muốn đối mặt với tất cả những điều
đó.
Và Người mong muốn các
môn đệ của Người cũng phải như thế. Người nói về cái giá của việc làm môn đệ.
Khi Người nói họ phải ghét cha mẹ mình, Người không định nói theo nghĩa đen.
Người nói với họ rằng nếu cần họ phải sẵn sàng hy sinh những vật thân yêu
nhất trong đời. Trong một số trường hợp (hiếm hoi), họ phải chọn giữa Người
và các người thân của họ.
Hai dụ ngôn ngắn làm
nổi bật việc theo Chúa là một ơn gọi nghiêm khắc, nó có thể có ý nghĩa của sự
bách hại và chết chóc. Trong lãnh vực này, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào
của đời sống (như kinh doanh và chính trị), người ta không thể bước vào một
cách mù quáng. Người ta phải tính toán cái giá phải trả trước khi bắt đầu, và
rồi xem mình có sẵn sàng đối mặt với nó hay không.
Mục tiêu mà Đức Giêsu
đặt ra trước chúng ta thì đáng giá – mục tiêu của một lối sống trung thực ở
đời này và của sự sống vĩnh cửu đời sau. Không có mục tiêu nào cao hơn mục
tiêu ấy. Điều đó không dễ dàng gì. Không một ai có thể là một môn đệ mà không
vác thập giá. Nhưng Đức Giêsu biết sự mỏng giòn của chúng ta. Người rộng ban
ân sủng của Người cho những người cố gắng đi theo Người một cách chân thành.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
THEO THẦY
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trong Tin Mừng chúng
ta thấy Đức Giêsu không giấu giếm các tông đồ thực tế. Người chỉ rõ những khó
khăn, gian khổ và những hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người.
Bằng những lời lẽ rõ ràng, Người nói với họ rằng công việc đó không phải dễ
dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền “Ôi chúng tôi đã không bao
giờ nghĩ rằng sự việc nó lại như thế này”.
Người ta có thể là một
người theo Đức Kitô nhưng không phải là môn đệ của Người. Bởi lẽ người ta có
thể đi dân công nhưng không phải là một chiến sĩ của đức vua. Người ta có thể
không phải gánh vác nặng nề mà vẫn đóng vai của mình. Người ta chỉ là một
người xí phần trong việc lớn. Người ta có thể là người chỉ biết nói giỏi mà
không làm.
Một lần nọ, có người
đến gần vị giáo sư danh tiếng để hỏi về một thanh niên: “Dù sao xin ông nói
cho tôi biết anh ta có phải là một sinh viên của Ông. Đúng không?” và vị giáo
sư trả lời: “Anh ấy dĩ nhiên có nghe tôi giảng, nhưng xin ông tin tôi, anh ấy
không bao giờ thật sự là sinh viên của tôi”.
Một trong những cản
trở to lớn của Giáo Hội là trong Giáo Hội có nhiều người theo Đức Kitô với
một khoảng cách an toàn, nhưng rất ít người thật sự là môn đệ, tức là những
người đang thực hiện lời Người.
Chúng ta hãy đối diện
với điều đó. Là một môn đệ của Đức Kitô không dễ dàng gì. Vai trò môn đệ có
một số yêu cầu thực tiễn mà người ta không thể tránh né nếu không muốn phản
bội lại Tin Mừng. Tuy nhiên có nhiều người đi nhà thờ một cách thoải mái
nhưng ít người quan tâm đến những người khốn khổ, nghèo túng và tiếng rên rỉ
của người nghèo. Ngày nay cũng thế, người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ nhiều
điều mà người khác coi là việc đương nhiên họ phải có.
Một vài môn đệ tan
biến đi khi họ được yêu sách, như tuyết tan dưới mặt trời. Những người khác
bị sự chống đối và phê bình tàn phá, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió
mạnh đầu tiên thổi tắt.
Khi nhà vua Trung Quốc
đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi; nhà vua ngạc nhiên khi biết
được rằng có hơn mười ngàn nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính
xác các nhà sư, nhà vua hỏi: “Ngài có bao nhiêu đệ tử?”
“Bốn hoặc năm” Lin Chi
đáp.
Đức Giêsu nói rằng
muốn đi theo Người, người ta phải suy xét với lương tri bình thường, với sự
thận trọng và tính toán cái giá phải trả. Chúng ta không thể gánh vác quá khả
năng của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì.
Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Chúng ta cần có
sự thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra
từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ
phải chiến đấu ở mọi điểm để đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ
họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ
của Người.
Khi nhìn vào các tông
đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho
những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể
có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người luôn luôn quảng đại với những người cố
gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
CHỌN CHÚA KITÔ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Niềm Vui Chia Sẻ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Odette, một cô gái
xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết
định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở
về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái
cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín
đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài.
Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào
khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ
cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô.
Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và
linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao
ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội
không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất
cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco
Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có
thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không
thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô.
Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định
của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc
mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy?
Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.
Thật vậy, khi vết
thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được
chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ táo bạo và xem
ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn nhất về lòng tin và tình yêu
của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu ca cả đó,
cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc
đẹp và chính đời sống của cô nữa.
“Ai theo Tôi mà không
dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể
làm môn đệ Tôi được”.
Cuộc đời con người là
một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa đan thành đời riêng của mỗi người.
Đối với người kitô, chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng
mình từng giây phút trong cuộc sống. Đôi khi nhìn lại những chọn lựa hằng ngày,
chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường chọn mình: sở thích của
mình, hạnh phúc của mình, tự do của mình. Chúng ta chọn tất cả những gì ít
nhiều dính dáng đến bản thân. Trong khi Kolbe chọn chết thay cho bạn tù torng
trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong cùi ở
đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta. Và
chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống để diễn tả niềm tin và tình yêu vào
Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Chọn lựa là phải từ
bỏ. Người ta không thể bắt cá hai tay. Người ta không thể phục vụ hai chủ.
Cũng không được đặt Chúa ngang hàng “cá mè một lứa” với tất cả những cái khác
để chọn lựa. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa la phải từ bỏ tất cả
những cái khác. Không được coi những liên hệ tình cảm gia đình hơn Chúa.
Không được coi tiền của vật chất hơn c. không được coi mạng sống mình hơn
Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên
trên tất cả mọi cái khác. Bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc ngăn cản quyền
chọn lựa ưu tiên đó đều phải bị loại trừ. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng
ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân yêu của chúng ta, dù là cha mẹ,
anh chị em, và yêu Chúa hơn cả chính bản thân mình, hơn cả mạng sống mình
nữa: “Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì
Thầy, thì sẽ cứu được sự sống” (Lc 9,24).
- Một người con tốt
nghiệp Đại học Sư phạm muốn đi phục vụ những con người như bị bỏ rơi ở một
nơi xa thành thị, đường đi khó khăn, trắc trở, thiếu thốn đủ thứ, từ cái ăn
đến nước uống… Người mẹ khóc lóc cản ngăn, sợ con cực, con khổ…
- Một công nhân làm
trong một xí nghiệp. Người công nhân biết rất rõ nội vụ tiêu cực làm thiệt
hại nặng nề tài sản của nhân dân. Im lặng để được yênt hân hay tố giác theo
tiếng nói của lương tâm, của lẽ phải, nhưng lại liều mình chuốc họa vào thân…
Theo Chúa trong những
trường hợp nầy là một thử thách, là thập giá. Nhưng đằng sau thử thách, đằng
sau thập giá là cuộc sống mới trong vinh quang.
Anh chị em thân mến,
Khách quan mà nói, lời
mời gọi của Chúa Giêsu thật là ngược đời và khó chấp nhận. Những lời đó vẫn
làm khó chịu không ít người. Nhưng cũng những lời tuyên bố ngược đời đó vẫn
không ngừng lôi cuốn bao người khác dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không
biết đâu là giới hạn.
Chúng ta có thể hiểu
và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ
lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường
của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta
cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu
và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới
có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng
những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với
Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng,
quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu
không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”.
Tuy nhiên, thưa anh
chị em,
Cần phải suy nghĩ, đắn
đo cẩn thận trước khi quyết định theo con đường Chúa Giêsu mời gọi. Vì đây là
một chọn lựa hết sức quan trọng. Nó liên hệ đến cả cuộc đời chúng ta. Đã bước
chân theo Chúa thì phải theo đến kỳ cùng. Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại
hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa
đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.
Theo Chúa không phải
là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu. Yêu là trung
thành. Yêu là cho đi, cho đi từ từ, cho đi mại, cho đi cả mạng sống. Đó mời
là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là biện
chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là
sống, tử nạn là phục sinh muôn đời.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
MỘT ĐÒI HỎI NHÂN
BẢN...
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Achille Degeest
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Trước hết chúng ta
minh định danh từ để tránh hiểu lầm. Đức Kitô không bao giờ phán rằng muốn
theo Chúa phải ghét cha ghét mẹ …… Ở đây là một sự sắp hạng, quan hệ tình cảm
thông thường phải đặt sau quan hệ tình cảm siêu nhiên. Tình nghĩa gia đình
phải đứng sau tình yêu mến Thiên Chúa. ‘Ghét’ ở đây phải hiểu theo nghĩa
‘giảm bớt tình quyến luyến’. Chúng ta ngạc nhiên thấy những đám rất đông đi
theo Đức Giêsu trên đường hành đạo của Người, mà con số những kẻ rời bỏ gia
đình trở nên môn đệ Chúa chẳng được là bao. Nhưng chúng ta hiểu ra khi thấy
Chúa nói lên những điều Chúa đòi hỏi. Không bao giờ chỉ vì muốn lấy lòng dân
chúng mà Chúa che giấu những đòi hỏi của Người. Với bất cứ ai, Chúa có một
cung cách quý mến là không đề nghị một thái độ đồng lõa với yếu hèn, trái lại
Người kêu gọi lòng hào hiệp của người ta. Tới ngày đông đảo dân chúng bỏ
Chúa, nộp Chúa cho quân dữ giết, Người không kết án dân chúng vì Người muốn
hy sinh mạng sống cho họ. Tới lúc đó, Chúa sẽ có những môn đệ xứng đáng với
sự đòi hỏi của Người, họ sẽ trở lại trong dân chúng làm chất men trong bột.
Bài đọc hôm nay của thánh Luca cho thấy Phúc Âm gần gũi đời sống tới mức nào.
1) Bất chợt Đức Giêsu
đến với con người trong đời sống cụ thể, trong khung cảnh sinh hoạt gia đình.
Chúa đem đến một sự việc cực kỳ mới lạ. Những tình cảm gia đình sâu đậm là
thế, chính đáng là thế, nay con người thấy còn có một điều quá lớn vượt lên
trên tình nghĩa gia đình. Do đó, hễ quyết tâm theo Đức Giêsu thì cũng quyết
tâm mở rộng đời sống cụ thể đón lấy một thực tại sâu rộng hơn, hiện thân hơn
những liên hệ gia đình cố hữu. Thánh Phanxicô, đấng thánh tôn trọng Phúc Âm
rất nghiêm chỉnh, nhờ kinh nghiệm sống theo Phúc Âm của ngài mà thốt ra hai
tiếng ‘cha’ và ‘mẹ’ khi ngài nói về Đức Kitô, trong miệng ngài từ ngữ ‘anh em’
mang nặng tình nghĩa đậm đà vượt xa tình huynh đệ thế gian. Tuy không ý thức
rõ rệt, ngài vẫn diễn tả được cao độ phẩm chất nhân bản trong đời sống theo
khuôn mẫu Phúc Âm. Phúc Âm vượt lên trên những tình cảm gia đình thông thường
nhưng không hủy bỏ chúng. Có thể nói rằng, mặc dầu cái khuôn mẫu tình cảm thế
gian vẫn được tôn trọng, có những liên hệ gia đình mới lạ được thiết lập qua
một sự thăng hoa, ở một chiều cao hơn. Chúng ta có thể thực tình nói đến ‘gia
đình trong Đức Kitô’.
2) Đòi hỏi của Đức
Kitô không có gì là phi nhân. Nghe nói đến ‘thập giá’ phải mang vác, người ta
có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Muốn có một sự hiểu biết đúng
đắn, thì trong đầu chúng ta thập giá phải đi liền với một tình yêu. Phải nhìn
thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp
nhận nổi thập giá. Tôi chọn lấy thập giá của Chúa thay vì tình yêu theo nhân
tính tự nhiên nhất, chính đáng nhất, là bởi vì thập giá phát xuất từ một tình
yêu thượng đẳng, nó thấm đượm sâu đậm cái điểm nhân tính nhất trong tôi, đó
là sự tự do lựa chọn, là tâm hồn dâng hiến. Thập giá Đức Kitô là bằng chứng
và cũng là bề nổi tình yêu của Chúa. Thập giá Chúa, tức là hy sinh của Chúa.
Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh? Ở đây, chúng ta chẳng
đang đứng trước một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất ư?
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đằng sau bài đọc thứ
hai ngày hôm nay là một khoảng thời gian thích thú. Một người nô lệ có cái
tên là Onesimus đã trốn thoát khỏi chủ của mình là Philêmôn, và anh chạy tới
chỗ Thánh Phaolô để được an toàn. Thánh Phaolô đã nồng nhiệt bảo vệ cho người
nô lệ bỏ trốn này, nhưng thánh nhân nhận biết một điều gì đó có giá trị cao
hơn là sự tự do của Onesimus đã được hoàn thành. Thánh nhân đã kêu gọi
Philêmôn, chủ của người nô lệ, hãy hành động như một môn đệ thật của Chúa
Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô dễ dàng
che giấu Onesimus hoặc nhân danh Đức Kitô đòi Philêmôn trả lại sự tự do cho
người nô lệ. Thay vào đó Thánh Phaolô đã gởi Onesimus về với Philêmôn và
những gì tôi tưởng tượng ra là sự tủi nhục của người nô lệ và sự ngạc nhiên
của người chủ. Qua người nô lệ, Thánh Phaolô đã gởi cho Philêmôn một bức thư
mà chúng ta đã nghe một phần trong bài đọc ngày hôm nay. Điểm chính của bức
thư là Phaolô đã không muốn cưỡng bách Philêmôn thực hành nhân đức, thay vào
đó thánh nhân chỉ muốn mời gọi ông hãy quảng đại. Tha thứ cho người nô lệ có
nghĩa là phó mặc cho quyền sở hữu rất giá trị thời đó. Đó là một thách đố cho
Philêmôn. Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nói rằng;”Tôi viết thư
này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo vì tôi biết rằng việc anh
sẽ làm còn làm hơn những gì mà tôi xin nữa”.
Thật sự chúng ta không
biết chắc Philêmôn đáp trả như thế nào, ông có giải phóng người nô lệ hay
không? Philêmôn có lẽ đã nhắc nhở Thánh Phaolô rằng việc nô lệ là hợp pháp và
ông ta có quyền để giữ người nô lệ của mình? Có phải ông đã phàn nàn rằng
Thánh Phaolô đã thật sự không hiểu về hoàn cảnh kinh tế của ông và người nô lệ
thì cần thiết cho sự thành công tài chính của ông không? Chúng ta không biết
Philêmôn có đáp trả như Thánh Phaolô mong đợi nơi ông như là người môn đệ của
Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta biết thế nào
là môn đệ Chúa Giêsu và chúng ta được kêu gọi hãy trở nên quảng đại trong
việc đáp trả của chúng ta, không phải là sống nhỏ giọt hoặc tìm kiếm những
miễn trừ mà những người Công Giáo phải làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh
cáo chúng ta qua ví dụ xây tháp và đi đánh nhau, chúng ta phải được sửa soạn
cho kinh nghiệm Kitô giáo của chúng ta. Nước Trời đã là một tài sản được hứa
ban trong tương lai. Trong lúc còn trên mặt đất này, chúng ta được mong đợi
trở thành những môn đệ trung thành, những người lắng nghe và chăm chú vào
những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì
không đáng làm môn đệ của Ta”.
Có lẽ thánh giá của
chúng ta là những đau khổ có liên quan đến việc phải từ bỏ những nô lệ của
chúng ta như là thói nghiện rượu, nghiện thuốc, hoặc là say xỉn, thánh giá
của chúng ta có thể giữ chăm chú kỷ luật mà chúng ta cần để lướt thắng những
chuyện đồn nhảm, để tha thứ những người nào đã đối xử bất công, hoặc là tử tế
hay là nghĩ tốt cho những người luôn luôn cho chúng ta là điên rồ.
Thiên Chúa không cưỡng
bách chúng ta trở nên đạo đức như Thánh Phaolô đã không cưỡng bách Philêmôn
phải tha thứ cho nô lệ của ông. Ngay khi điều xấu xảy ra với chúng ta, Thiên
Chúa cũng không cưỡng bách chúng ta phải chấp nhận nó như một thánh giá.
Chúng ta phải nỗ lực làm việc để thấy được chúng ta có thể quay trở một điều
đáng sợ trở thành một điều có giá trị, bằng việc kết hợp những đau khổ của
chúng ta với những đau khổ của Đức Kitô.
Trong mọi Thánh Lễ
chúng ta tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, như vậy qua bí tích
Thánh Thể, sự hy tế của Ngài là một thực tại trước chúng ta trên bàn thờ. Khi
chúng ta nghe những lòi: “Đây cũng là mình con nữa, cùng với Con Cha, con xin
dâng chính mình con cho Cha”. Khi đó chúng ta sẽ nghe những lời: “Đây là chén
Máu Ta”, chúng ta sẽ nói: “Đây là máu của con, con ước mong nó được đổ ra vì
yêu Cha, nếu Cha muốn như vậy”. Chúng ta phải được chuẩn bị để trở thành môn
đệ của Chúa Giêsu Kitô.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
THẬP GIÁ ĐỜI THƯỜNG
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Khi ngắm đàng thánh
giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:
- Chúng con kính lạy
và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên
hạ.
Và hôm nay, qua đoạn
Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:
- Ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.
Điều Chúa muốn là mỗi
người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để
không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.
Nói thế chúng ta cứ
tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi
vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi
người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà
mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc,
vô vị và đơn điệu lắm.
Dầu muốn dầu không,
một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá
của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta
sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả
hơn.
Người ta hỏi một anh
đạp xích lô như thế này:
- Anh đạp xích lô để
làm gì?
- Tôi đạp xích lô để
kiếm tiền.
- Vậy anh kiếm tiền để
làm gì?
- Tôi kiếm tiền để mua
gạo ăn?
- Mua gạo ăn để làm
gì?
- Để đạp xích lô.
Và chúng ta gọi đó là
một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu
không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn
ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta
phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích
lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và
của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm
những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta
đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.
Như vậy, chúng ta có
thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi
niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc... đều là một
thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái
lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ
là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải
cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng
ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi
vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang
phục sinh muôn đời với Chúa.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỪ BỎ HẾT
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Sống là chấp nhận từ
bỏ.
Có những điều xấu phải
từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải
bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc
sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ
và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc
kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta
sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao
giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho
ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái
tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn
lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi
hơn.
Kitô hữu là người đã
chọn theo Đức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là
chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả
dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh
thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên
thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống
từ bỏ như Đức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang
thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và
nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa
hẹp cùng với Đức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng
ta trở thành môn đệ Đức Kitô.
Nhưng để là môn đệ
đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ
nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng
như tháp Pizza.
Điều hôm nay chưa dính
bén, mai đã thấy khó gỡ.
Điều đã bỏ từ lâu, nay
lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và
cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được
nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây,
cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi
xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây
tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng
víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu
chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả
một tình yêu.
Khi yêu người ta vui
lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui
khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của
bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.
Có lần bạn đã rất vui
khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn
mất. Bạn hãy kể lại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống
cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là
một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa
tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi
những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con
khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh
phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra
khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những
đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm
được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống
cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
VÁC THẬP GIÁ THEO CHÚA
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯI TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
AI KHÔNG VÁC THẬP GIÁ
THEO TÔI, THÌ KHÔNG ĐÁNG LÀM MÔN ĐỆ TÔI
Suy Niệm
Chẳng ai có thể đi một
lúc hai con đường.
Cuộc sống luôn đặt con
người trước những lựa chọn, mà chọn là từ bỏ.
Từ bỏ trở thành quy
luật để sống và lớn lên.
Thai nhi không thể ở
mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm.
Đứa bé chẳng thể nào
trưởng thành, nếu nó sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những
cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u.
Có nhiều người không
có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Trong đoạn Tin Mừng
trên đây, Đức Giêsu đã nói ba lần câu: "thì không thể làm môn đệ tôi
được."
Chúng ta đã trở nên
môn đệ Đức Giêsu, nhưng để tiếp tục là môn đệ của Ngài, ta cần phải đặt Ngài
lên trên mọi giá trị khác.
Người Kitô hữu lớn lên
nhờ chọn lựa và từ bỏ.
Trung tâm điểm là Chúa
Giêsu, Con Thiên Chúa. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối.
Tiền bạc, của cải là
một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị tinh thần. Mạng sống
là một giá trị trổi vượt. Nhưng ngay cả những giá trị đó cũng phải được hy
sinh khi cần, để tôi chọn Đức Giêsu, Giá Trị của mọi giá trị.
Các thánh tử đạo đã
chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên chúng ta yêu
gia đình, yêu bè bạn, yêu trái đất nâng ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc
sống làm người với bao niềm vui và nước mắt. Nhưng ta phải yêu tất cả trong
Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, chúng ta chọn Chúa.
Như thế, tuy người
Kitô hữu gắn bó với tạo vật nhưng vẫn giữ một khoảng cách nào đó, để luôn
sống trong tự do, bình tâm.
Vấn đề là dám chọn và
tiếp tục chọn, không để cho tháp đã xây bị dở dang, không để cho cuộc tiến
quân bị ngừng trệ.
Vấn đề là dám đi tới
cùng, để tiếp tục trung tín với một Tình Yêu.
Phải cởi bỏ mình khỏi
những điều xấu, nhưng cũng phải tách mình khỏi nỗi đam mê lệch lạc một điều
tốt: yêu nó ngoài Chúa và trên Chúa.
Ước gì chúng ta tự cởi
trói mình mỗi ngày và nhờ ơn Chúa, chúng ta được tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, giới trẻ
hôm nay dễ bị lôi cuốn bởi thú vui nào? Đâu là những nguy hiểm của thú vui
đó?
Bạn có kinh nghiệm gì
về sự cám dỗ của một điều vốn là tốt, nhưng sau đó lại làm bạn bị nô lệ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo
Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, và Chúa
yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên
thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh
hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném
mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên
Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất
diệt của người một lòng theo Chúa.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
XIỀNG XÍCH
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dostoyevsky chỉ mới 20
tuổi khi ông viết cuốn sách đầu tiên nan đề Người Nghèo. Cuốn này đạt được
thành công lớn. Ông đã mau chóng trở thành nổi tiếng. Sự tâng bốc này có thể
dẽ dàng làm ông trở nên ngông cuồng nhưng cũng do sự kiện ấy, không bao lâu sau,
ông đụng chạm với chính quyền. Bị buộc tội một cách sai lầm là một người vô
chính phủ, ông bị bắt giữ và cùng mấy người khác bị kết án tử hình. Tuy
nhiên, bản án giảm xuống thành án tù và cùng với các bạn, ông bị đày đến
Xibêri. Dostoyevsky trải qua bốn năm lạnh lẽo ở đó. Mười năm trôi qua trước
khi ông cầm bút trở lại.
Kinh nghiệm ấy, thay
vì làm ông cay cú và tàn phá đời ông, đã làm ông phong phú rất nhiều. Giờ
đây, ông đã có mười năm đau khổ để rút tỉa sức mạnh và quyền bính cao cả. Bất
cứ lúc nào có người đến gặp ông và nói: “Ông lấy quyền gì để nói thay cho dân
chúng?” Thì ông chỉ việc
kéo ống quần cao lên
và chỉ cho người ta thấy những vết sẹo mà xiềng xích còn để lại. “Đây là
quyền của tôi” ông nói. Và những người đã hỏi ông phải im lặng.
Đối với những người tỏ
vẻ ái ngại về mọi đau khổ mà ông đã chịu đựng, ông nói “Nhà tù đã cứu tôi. Vì
có nhà tù, tôi đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Xibêri và sự giam
giữ đã trở thành một niềm vui to lớn đối với tôi. Chỉ ở đó, tôi mới có thể
sống một đời sống thanh khiết và hạnh phúc. Chỉ ở đó, tôi mới nhìn thấy mình
rõ ràng và đó là nơi tôi học biết Đức Kitô. Đó là một trường học tốt. Nó làm
đức tin tôi mạnh mẽ và làm tỉnh thức lòng yêu thương những người phải chịu
đau khổ với lòng nhẫn nại. Nó cũng làm mạnh mẽ tình yêu của tôi đối với nước
Nga, và mở mắt tôi để tôi thấy những phẩm chất cao cả của dân tộc Nga”.
Phaolô cũng khoe mình
về lòng tin của một môn đệ Đức Kitô. Ông cũng bị giam cầm và buộc phải mang
xiềng xích (Bài đọc 2). Điều này đã cho ông quyền bính khi ông nói về việc đi
theo làm môn đệ Đức Kitô.
Khi các thanh niên đến
gặp mẹ Têrêxa và bày tỏ ước muốn gia nhập cộng đoàn, mẹ không giấu giếm những
việc mà họ sẽ phải tham gia. Mẹ nói: “Công việc của chúng tôi rất nặng nhọc.
Chúng tôi phục vụ người nghèo và người không nhà hai mươi bốn giờ mỗi ngày”.
Cùng một cách ấy, Đức
Giêsu đã không giấu giếm những khó khăn, gian khổ và hy sinh mà Người đòi hỏi
nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng. Người nói với họ rằng
công việc đó không dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền: “Ôi,
chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng nó lại như thế này”.
Có cái gì đó giống như
lòng can đảm của người mù. Nhưng Đức Giêsu không biện hộ cho điều đó. Thật
vậy, Người làm cho người ta nản lòng. Người nói, khi đi theo Người phải suy
xét với lương tri, với sự thận trọng, tính toán cái giá phải trả, nhận định
xem mình có thể đảm nhận được việc gì.
Việc quan trọng nhất
khi bắt đầu là tự biết mình. Chúng ta không thể đảm nhận công việc vượt quá
khả năng của mình. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì.
Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Và chúng ta cần
có thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra
từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ
phải chiến đấu ở mọi điểm để tin theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại
bỏ họ. Và rõ ràng họ đã học hỏi từ những sự thất bại của họ. Chỉ sau khi Đức
Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.
Khi nhìn vào các tông
đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho
những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể
có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người, Người luôn luôn quảng đại với những
người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỪ BỎ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Nếu có dịp đọc kỹ các
sách Tin Mừng chúng ta thấy: Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất
của Chúa Giêsu đối với những môn đệ hay những kẻ theo Ngài có lẽ là việc từ
bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra
còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo
Ngài không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất, tình nghĩa ruột rà
máu mủ, mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình: “Kẻ nào đến với Ta mà
không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không
thể là môn đệ của Ta”. Chắc hẳn đây là một thách đố rất lớn và thật khó hiểu
đối với mỗi người chúng ta, mặc dù chúng ta là những người đã dấn thân theo Đức
Kitô. Thế thì chúng ta phải hiểu lời Chúa Giêsu nói hôm nay như thế nào?
Trước tiên, chúng ta
thấy những lời Chúa Giêsu nói hôm nay được lồng vào cuộc hành trình lên
Giêrusalem, và bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại”
phía đám đông cùng đi đường để dạy họ bài học về điều kiện phải có để làm môn
đệ Ngài.
Thật vậy, chỉ đến với
Đức Giêsu thôi chưa đủ. Đi theo Ngài bao gồm phải chấp nhận để cho những đòi
hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong
phạm vi những mối liên hệ gia đình, và sử dụng của cải vật chất là đề tài
quen thuộc của Luca. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới “liên hệ gia đình”.
Về vấn đề này, Đức
Giêsu tuyên bố không úp mở: Những ai đến với Ngài mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ
con, anh chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ngài. Ở đây,
Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa là “ghét bỏ” để diễn tả một lối nói nguyên
thủy bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói
mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là dứt bỏ, hay “thương ít hơn”. Như thế từ
ghét bỏ ở đây không có nghĩa thù ghét, loại trừ như chúng ta quen dùng, nhưng
ghét bỏ ở đây có nghĩa là “thương ít hơn”. Thánh Matthêu nói cách rõ ràng
hơn: “Kẻ nào yêu cha mẹ, yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta”.
Như vậy tất cả những
mối liên hệ của nhân loại dù chính đáng và thâm sâu đến đâu, ngay cả đến mạng
sống con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức
Kitô.
Hiểu như thế, chúng ta
thấy việc từ bỏ để đi theo Đức Kitô không phải là gánh nặng, không phải là
một sự liều lĩnh đến nỗi phải đi ngược lại với tình cảm tự nhiên vốn có nơi
con người. Điều Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là phải dành cho Người địa vị ưu tiên
hàng đầu, ưu tiên số một, nghĩa là phải yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn. Đòi hỏi của Đức Giêsu ở đây không cho phép chúng ta xem nhẹ
những liên hệ gia đình, liên hệ giữa người với người, nhưng Ngài muốn kêu gọi
mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm đó xuyên
qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.
Như thế, trở lại với
cuộc sống đời thường, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần có thái độ như thế nào
và tâm tình gì trước lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay?
Chúng ta biết rằng:
Kitô hữu là những người đã chọn con đường bước theo Đức Giêsu, chấp nhận đi
theo Ngài là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ. Ngài đòi hỏi
chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người
thân yêu, trên cả của cải, tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả
hiện tại và tương lai. Những điều này thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ
có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô
hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giêsu: “Ngài vốn là Thiên Chúa nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”.
“Ngài đã vâng phục ý Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết ô nhục trên
thánh giá: “Nếu có thể được thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý
con, một xin vâng ý Cha”.
Ngoài ra khi nhìn vào
lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao tấm gương khác đã đi trọn con
đường từ bỏ này: một Phanxicô Assisi, một con người có thể nói được là sống
trên nhung lụa, nhưng đã từ khước tất cả, cả ý định của người cha, và cuối
cùng dám lột bỏ cả y phục của mình trả lại người cha để bước theo tiếng gọi
của Đức Giêsu. Hay là như một Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng vượt qua biết bao
khó khăn gian khổ, để theo đuổi lý tưởng tận hiến cho Đức Kitô, và cuối cùng
đã trở thành một vị đại thánh của Giáo Hội. Gần và cận kề chúng ta hơn có lẽ
phải nói tới vị anh hùng tử đạo Việt Nam, thánh Nguyễn Hy Mỹ, trước tòa án
Nam Định, các quan dùng tình nghĩa vợ chồng con cái để làm lung lạc tình yêu
ngài, nhưng vị tử đạo trả lời: “Vợ con tôi, tôi yêu thật, song tôi còn hy
vọng sum họp với gia đình thân yêu trên thiên đàng”.
Tất cả mỗi người chúng
ta đang hiện diện nơi đây, chắc chắn mỗi người có hoàn cảnh riêng, khả năng
riêng, và một sở thích riêng… không ai giống ai, nhưng mỗi người chúng ta đều
được Thiên Chúa mời gọi để dấn bước theo Ngài. Chắc chắn Chúa không đòi hỏi
chúng ta làm gì vượt quá sức của chúng ta. Điều mà Thiên Chúa muốn mỗi chúng
ta hãy sống tốt giây phút hiện tại của đời mình trong tương quan với thế
giới, và với mọi người xung quanh xuyên qua tình yêu của Ngài.
Cầu chúc tất cả anh
chị em luôn sống trong tình yêu Chúa, và lấy Chúa làm đích điểm cho đời mình,
để trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể thốt lên như lời của
thánh tông đồ Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống
trong tôi”.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỪ BỎ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Con đường theo Chúa
vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo
Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải
từ bỏ tất cả: của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình. Đó
là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều
kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang
nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong
mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.
Trước hết, Chúa Giêsu
cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là
phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả
chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi
hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa
ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay
xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này
hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật
liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng
không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một
ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá
đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ,
phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Có nắm vững được những
yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính
toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt
hại.
Những người muốn đi
theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Tại
sao vậy? Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: từ bỏ hết, từ bỏ tất
cả, từ bỏ hoàn toàn. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải
có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết,
nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để
theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin
vào một mình Chúa mà thôi.
Điều kiện này có khó
quá không? Dĩ nhiên là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng
chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa,
dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ
xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa
trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân… Có
biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì
danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.
Nhưng đối với phần
đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia
đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ
bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi,
từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận,
những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi,
từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham
danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy
xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.
Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân
cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở
nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối
tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy
luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành
kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả
dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với
nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ
dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có
nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa.
Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc
nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những
cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc
chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho
Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm
đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa
để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh
kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình
thương, vì tình người, vì nước trời… có phải vậy không?
Trong xã hội chạy theo
văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có
tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã
biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để
mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần
từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng
thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho
đồng bào, cho đất nước… Chúng ta vào số người nào?
Để từ bỏ được chính
mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm vô bờ. Vì khi
từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế,
từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu
không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng
ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
TỪ BỎ
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
SƯU TẦM
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lời Chúa qua đoạn Tin
mừng vừa nghe xem ra như có vẻ chói tai và khó chấp nhận.
Thực vậy, theo lẽ
thường khi thâu nhận các môn đệ, người taluôn hứa hẹn những điều tốt đẹp,
nhưng Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ Ngài
phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh chị em, thậm chí còn phải “ghét” cả bản thân
mình nữa. Rồi lại còn phải từ bỏ của cải trần gian và vác thập giá mình hằng
ngày.
Đòi hỏi như thế, phải
chăng là quá đáng, không phù hợp với lòng người và cũng không thể thực hiện
được?
Con người thời nay bị
ảnh hưởng bởi não trạng thực dụng và hưởng thụ, nên rất dị ứng với sự từ bỏ
và thập giá.
Vì thế, có người đã
coi lời Chúa là lỗi thời và nên để nó chìm vào quên lãng. Có người chỉ muốn
tìm trong lời Chúa những gì êm ái, ngọt ngào, dễ nghe và dễ chấp nhận. Có
người cố gắng cắt nghĩ lời Chúa sao cho phù hợp với ý riêng của mình để bề dễ
thực hiện.
Nhưng thực ra, lời
Chúa vẫn là lời Chúa. Lời Chúa như một con dao sắc bén,cắt đứt thịt da và đâm
thấu tận tâm can. Lời Chúa luôn có tính cách đòi hỏi con người không được
thỏa hiệp, không được nửa nạc nửa mỡ, cũng không được lấp lửng bắt cá hai tay
và đi nước đôi, nhưng phải dứt khoát chọn lựa, phải quyết liệt thi hành cũng
như phải triệt để dấn thân.
Như thế, lời Chúa có
mâu thuẫn với lòng từ bi nhân hậu của Ngài hay không?
Thực vậy, Thánh Kinh
cho biết vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho con người có cha có mẹ, cũng
như có anh, có chị và có em để cùng chung sống dướii một mái ấm gia đình.
Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự cho con người được hưởng
dùng.
Nếu vậy thì đòi hỏi từ
bỏ có nằm trong chương trình của Thiên Chúa hay không? Nó có mâu thẫun với sự
tốt lành của Ngài hay không?
Chắc chắn là không,
bởi vì nếu chúng ta tin rằng Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, thì
chúng ta cũng tin rằng chính Ngài vừa dạy chúng ta phải biết yêu thương và
tôn trọng những sự vật trần thế, nhưng đồng thời cũng dạy chúng ta phải biết
từ bỏ.
Trong Phúc âm, đề tài
từ bỏ cũng được Chúa quan tâm không kém đề tài yêu thương. Và cả hai đều nằm
trong chương trình của Ngài.
Thực vậy, vì yêu
thương nên mới từ bỏ và từ bỏ để rồi được yêu thương nhiều hơn. Chính Ngài
cũng đã làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước.
Đúng thế, thánh Phaolô
đã diễ tả: vì yêu thương, Đức Kitô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy
thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân…Ngài vốn giàu sang, nhưng đã tự ý
trở nên nghèo hèn, để lấy cái nghèo hèn của mình mà làm cho chúng ta được trở
nên giàu sang.
Rõ ràng sự từ bỏ của
Chúa đã được liên kết với tình yêu, một tình yêu luôn muốn sự tốt lành cho
người khác. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu. Ngài tự hạ để
chúng ta được nâng lên. Ngài đã chết để chúng ta được sống.
Đó là một nghịch lý,
một nghịch lý hồng phúc như thánh Phanxicô Assie đã diễn tả:
- Chính khi hiến thân
là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính
khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Là Kitô hữu, chúng ta
không có một con đường nào khác để bước theo Chúa, ngoài con đường từ bỏ,
ngoài con đường thập giá. Và đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta đạt tới
ơn cứu độ muôn đời.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét