Đức THÁNH CHA PHANXICO TAI ASSISI |
Đức THÁNH CHA GIOAN PHAOLO II TAI ASSISI - ĐẠI HỘI LIÊN TÔN |
LỄ CƯỚI CỦA ANH PHAOLO NGUYỄN TẤT THÀNH VÀ CHỊ MARIA TẠ THI THƯƠNG |
TÂY BẮC |
QUÀ TRUNG THU CHO MƯỜNG KHƯƠNG |
TRÙM THẮNG, (ĐỨNG) NGƯỜI BỊ ĐÁNH DÃ MAN |
ĐỨC CHÀ JOS. ĐINH ĐỨC ĐẠO GIAMS ĐÔC ĐẠI HỌC CÔNG GIÁO VN |
GIÁO ĐIỂM PHONG HẢI |
GIÁO ĐIỂM CỐC MỲ |
GIÁO HỌ VIỆT HẢI (THƯỜNG HUẤN BCH) |
THƯỜNG HUẤN BCH GX LÀO CAI |
NGÀY HỒNG PHÚC CHÂU SƠN |
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6,11-16;
Lc 16, 19-31
MỤC LỤC
1.
Tiền
2.
Tiền bạc
3.
Liên đới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4.
Cho thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
5.
Suy niệm của Vinh Sơn Dương Văn Đức
6.
Bạn hữu của Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
7.
Hãy nghe các ngài
8.
Khoảng cách – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
9.
Giấy thông hành Nước Trời – Thiên Phúc
10.
Ông Dives và anh Lazarô – Vincent Travers
11.
Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ
12.
Niềm hy vọng của nhân loại
13.
Có một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
14.
Hai khuôn mặt trái ngược nhau
15.
Môi trường đức tin – Achille Degeest
16.
Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn
17.
Giàu có và nghèo khó – McCarthy
18.
Bác ái bắt đầu từ nhà mình - McCarthy
19.
Chú giải của R. Gutzwiller
20.
Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?
21.
Dại dột
22.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
23.
Chúa nhật 26 Thường Niên
24.
Suy niệm của JKN
25.
Cuộc sống trần thế không phải là tất cả
26.
Chú giải của Noel Quesson
27.
Chú giải của Fiches Dominicales
1.
Tiền
Cách
đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một
định nghĩa về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất
sẽ được trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau
và đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại
đồng, với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên
thiên đàng là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc
là không thể được.
Thật
là một câu định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên,
hay biết mà giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói
tới. Nó cũng giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật
chất lại khó được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ
câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận
thấy: Ladarô không phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không
phải vì giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì
anh đã không oán trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống
trong cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã
sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn
thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.
Và
như thế tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và
đường lối của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công
là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa
nữa. Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống
theo quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự
viên cần thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa
là luôn ý thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên
phải mở rộng cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là
được cứu rỗi.
Và
trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được
cứu độ vì đã biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc
làm, quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng
thời kẻ không có một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn
bất chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến
Chúa và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút
hiện tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể
sống như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện
nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.
2.
Tiền bạc
Tại
sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu
trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù
sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp
đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một
chút của bố thí dư thừa.
Xem
thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban.
Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng
đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu.
Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ
những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã
bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính
những hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta
thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm
phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho
tàng ở đời sau.
Để
giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu
chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ
bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông
chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng,
đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người
yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn,
nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các
túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm
lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm
một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn
hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để
rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn
ngoan và cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai
em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian,
nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có
được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta
không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách
hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy
biết chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho
những người túng thiếu...
Điều
này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét
Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các
ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị
cầm tù, các ngươi đã viếng thăm... Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta
sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân
thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư
cho cuộc sống mai sau.
3.
Liên đới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Toàn
cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng
đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người.
Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ
mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể
thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà
còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên
đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi
người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài
Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều
người bất mãn tự hỏi: "Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục.
Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt
ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?".
Vâng,
giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích
cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào
cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng
nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy
cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.
Khi
đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con
chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh
niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời
đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã
ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã
trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm
thường xưa cũ.
Nguy
cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người
có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có,
người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người
chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có
nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ
mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi
thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát
ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông
thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu
có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất
những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu
bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình
liên đới.
Nguy
cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh
phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba
Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất
cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết
chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là
người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng
của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới
là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây
giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông
nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới,
thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô.
Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông
chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được
vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông
biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không
tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua
dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng
sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không
bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách
nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người
chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập
luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những
cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với
những anh em thiếu thốn.
Lạy
Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh
con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở
trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ.
Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người
nghèo khổ không?
2)
Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu
nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3)
Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm
cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4)
Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?
4.
Cho thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích
dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Có
một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ
ruộng, bên cạnh đó, một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền
cởi đôi ủng để trên bờ ruộng, cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc
giận người nông dân, nhưng người giám hộ nói với cậu rằng: "Con chớ làm
cho người tá điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt
hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau,
và xem thử ông ta sẽ làm gì?"
Cậu
bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã
mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một
lát sau, người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền
trong đó ông đã vội qùy xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp
ông trong lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân
vô danh.
Nhìn
được tất cả những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc.
Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Vâng,
có ai đó nói rằng: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh". Phúc đức được
tích luỹ nhờ trao ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế nên, người
có phúc là người biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng đại, biết
chia sẻ cho người cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết cho đi, cậu
mới hiểu được đâu là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới của những
kẻ quyền qúy, những kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái khổ đau
của cuộc đời "bán lưng cho trời" nơi giai cấp nông dân nghèo hèn. Cậu
càng không cảm nghiệm được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi do công
khó mình làm ra. Có lẽ, lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời của
người nông dân khi nhận được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được giá
trị của sự trao ban. Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy
được phúc đức cho đời này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời
không có sự trao ban. Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết
nghĩ cho mình và sống cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui
của sự trao ban. Kẻ vô phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức
cho cuộc đời bằng hành vi bác ái yêu thương.
Bài
Phúc âm hôm nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro
nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo
khó thì ngược lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu
vắng tình người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời
của họ tuy cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách
biệt với nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa,
kẻ đói rách bần cùng. Bài phúc âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không
khuyến khích sống nghèo đói. Bài Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với
anh em. Giầu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với
mảnh đời bất hạnh của đồng loại. Phúc âm không nói đến việc ông xua đuổi người
nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ
với thái độ bàng quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông,
nhưng ông đã làm lơ khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng
không một chút chạnh lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là
sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến
thiếu trách nhiệm liên đới với tha nhân. Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành
phúc đức, thế mà ông đã bỏ lỡ cơ hội mua lấy phúc đức đời sau.
Song
le, Lagiarô không phải vì nghèo mà lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không
thất vọng về cuộc đời. Anh không oán trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc
sống vốn dĩ đầy khó khăn đối với anh. Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng,
làm bạn với những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì
thái độ chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi
khổ đau đời này và an hưởng hạnh phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người
xưa có câu: "Phú nhân bất nhân - Bần bất nghĩa". Giầu có hay khinh
người, và nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên
đàng nếu không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà
cha ông ta đã từng khuyên con cháu mình "đói cho sạch rách cho thơm",
và "không ai giầu có ba đời", thế nên cần phải biết sống có đức, để
đề phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là
người kytô hữu phải biết thể hiện đức ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù
giầu hay nghèo mỗi người đều phải biết sống vì người khác, và cho người khác.
Dù sang hay hèn vẫn phải toả lan đức ái trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như
thánh Phaolô tông đồ đã nói: "Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc. Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả". Đức ái sẽ giúp chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo
cho hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đức ái sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân
và tiến vào bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ
thưởng phạt chúng ta tùy theo mức độ thể hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay.
Amen.
5.
Suy niệm của Vinh Sơn Dương Văn Đức
Có
một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn
chế nhạo, bắt nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm
cha cậu nhặt được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết... con chó được
đặt nằm xuống gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ
dáy này, cậu dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm
ngoài cửa kêu ăng ẳng thảm thiết.
Cha
cậu nghe tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với
cậu bé. Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói:
"Tại sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?". Cậu bé nói: "Bởi vì
chân con có tật, con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con".
Người cha lúc đó mới ôn tồn nói: "Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên
chúng bắt nạt con. Còn bây giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại
sao con lại không biết thương cảm nó?". Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước
mắt, một lúc sau cậu ẵm con chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó... Sau này
cậu bé trở thành vị bác sĩ nổi tiếng nhân hậu, được mọi người yêu thương và
kính trọng.
Câu
chuyện cho thấy người cha ở đây đã thật khéo léo để biết cách dạy con mình trở
thành người biết yêu thương và nhờ đó người con đã thành nhân và được mọi người
quí mến.
Quả
thực tình yêu thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành
con người đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng
ta đang tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng
nhau tiến nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa
Giêsu nói đến trong bài giảng trên núi: "Phúc thay ai có lòng thương xót
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương".
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã
không tỏ lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi
dành cho con người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.
Người
phú hộ phải "chịu cực hình" không phải vì ông còn nhiều của cải,
nhưng vì ông đã không biết "sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước
Trời", mà bạn hữu ở đây không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp
hang ngày. Thực sự, tiêu chuẩn để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay
nghèo, nhưng hệ tại nơi việc sống bác ái với anh chị em.
Tội
của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe,
không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của
người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải
làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào
một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu.
Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Thánh
Augustinô có lần đã nói rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn mày đang cần
đến hồng ân Thiên Chúa: "Anh em giàu có với những của cải tạm bợ, nhưng
anh em cần những thứ vĩnh cửu. Điều mà anh em làm với những ai khẩn cầu anh em
thì Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện như thế với anh em... Hãy đong đầy cho những
người anh em đang túng thiếu, để sự túng thiếu của anh em cũng được đong
đầy".
Là
những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện
với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, tôi và bạn đến lượt
mình, ta phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác,
bởi vì mức độ ta cho sẽ trở thành mức độ mà ta nhận.
Có
một bạn sinh viên đã tâm sự trên Tuổi Trẻ Online như sau: "Dưới cái nắng
của buổi trưa tháng 3, tôi đang vội vã đi bộ từ trường Đại học Nhân văn ra Thư
viện Trung tâm Đại học Quốc gia. Trên đường, một cô bé chừng 16-17 tuổi kéo tôi
lại với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: "Đây là sản phẩm của các em khuyết
tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ". Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát
tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: "Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu
là xin tiền chứ mua bán gì". Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng
như được bạn bè cảnh báo về mấy người "giả mạo" này. Nhưng đi rồi,
tôi vẫn cố ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt
hai lớp khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và
mời một bạn sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ
thầy tôi từng nói: "Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi,
lỡ đường để xin tiền nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy
lòng mình mới thanh thản...". Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm
nhưng lại ngại, đành tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh
tình nguyện hay đang là tình nguyện viên cho mái trường ấy. Vậy mà tôi..."
Tâm
trạng của người bạn trẻ này chắc cũng phản ánh thái độ vô cảm mà chúng ta đôi
khi vướng phải trong cuộc đời, khi chúng ta dửng dưng trước những con người
đáng thương. Đó cũng là thực trạng nơi trái tim chai cứng của nhân loại thời
nay trước những đau khổ của đồng loại quanh mình. Suy nghĩ của bạn sinh viên
một lần nữa lại gợi lên trong chúng ta hình ảnh của Tin mừng Lc 16, 19-31:
Người phú hộ giàu có, ngày ngày yến tiệc linh đình, cao lương mỹ vị, nhưng ngay
bên lại tồn tại một anh Lazarô nghèo nàn chết trong đói khổ, không được trợ
giúp.
Ở
đây cho thấy, không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm
điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt
ta không để ý sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận
nhỏ, lòng trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ
tạo nên hố ngăn cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là
chính Thiên Chúa. Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo
mà chết đi, mất đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.
Lạy
Chúa, Chúa đã dạy cho chúng con biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên
mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo chúng con có biết yêu thương tha nhân
hay không. Xin Chúa dắt chúng con luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ:
Biết nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối,
hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì chúng
con biết Thiên Đàng không dành riêng cho một mình con. Nhưng con chỉ có thể
tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương – Amen.
6.
Bạn hữu của Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa
thương người giàu
Tôi
không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo
Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án
lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương
những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ,
để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo
cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên
tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng
cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu
có toa rập với những người có chức có quyền "đang nằm trên giường ngà,
thõng thượt trên sạp gụ" "ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung
điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức". (Am 6,4-6). Họ
đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo
mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào
tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái
cho dân nước theo kiểu "hòn đất ném đi hòn chì ném lại", hoặc
"thả con tép bắt con tôm". Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng
đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc
tùng say xỉn "chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ" (Am
6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền
chức ăn chơi "Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác
bè lũ quân phe phởn".Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu
đây trong thế giới hôm nay:"ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo
có ngày lãnh đao". Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri
Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã
có câu: "nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức". Giàu nhờ cậy quyền cậy
thế nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng,
dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu
thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên
Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương,
giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con
đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng
khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu.
Nói như Thánh Nicolas: "họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả
trứng", cũng vậy, "họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an
thân". Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ
nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của
tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả
vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu "lụa là gấm vóc, ngày
ngày yến tiệc", có mắt mà không thấy "Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy
mình nằm trước cổng nhà ông" ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy
đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng
không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo
không "khóc than kêu cứu" hay "làm đơn xin" gì cả, nhưng
anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ
cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng
trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm
sâu cõi lòng.
Vậy
tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các
bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu,
nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn
một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai
nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng
đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một
cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong
lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa
cứu người nghèo
Với
những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu
trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo
đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng
cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay
với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không
chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm
chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay
không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái
thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa "thấy
ai hoạn nạn thì vui mừng", nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu
đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là "ông trời có mắt",
"lưới trời lồng lộng" hoặc "Chúa phạt nhãn tiền" là không
hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro
nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: "chấp nhận
cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau", mà quên
một điều quan trọng là: "chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng
ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau". Không đợi người giàu thực thi
đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật
giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người
ổ chuột... như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu
có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ
chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý
khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ
có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải
như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi
chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì
những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh "nghèo lòng bác
ái", vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng
"Tin Cậy Mến".
Từ
"Lazaro" tiếng Do Thái có nghĩa là "Thiên Chúa cứu giúp".
Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người
nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng
người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu "khó vào nước trời"
hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ
ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông
và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta
và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của
Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì
để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được "Thiên Chúa cứu giúp",
được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa.
"Thiên Chúa cứu giúp người nghèo"- không phải những người nghèo vì họ
nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có.
Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được "Chúa thương cứu
giúp", được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.
7.
Hãy nghe các ngài
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn
nầy có thể chia thành ba phần: - Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên
trần gian (16,19-21); - Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); - Tình
trạng cực hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về
việc sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc
đời nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời
bên kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa
người khiêm hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ
(6,20-26), và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc
sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian
Trong
hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương
phản nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có
của người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua
(x. Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những
đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ
"mang" ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo
quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông
"làm yến tiệc", euphrain#, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái
độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng
thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương
phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói "tên
là" (1:5.13.26.27.31...), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt
Thiên Chúa. Hơn nữa, tên "Lazarô" có nghĩa là "Thiên Chúa trợ
giúp". Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của
ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét
của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người
giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của
người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có:
đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động
từ "ước muốn" nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài.
Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi
xuống. "Cái bàn" gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy
người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của
ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà
ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số
phận của hai người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn
nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa
người giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm
mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc
sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng
như người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau.
Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có
"được chôn cất". Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8).
"Lòng Abraham" là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm
dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18;
13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có
Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô
nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp
với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38).
Trong khi đó, người giàu có "được chôn cất", ám chỉ ông nằm giữa
những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói
"trong âm phủ" (c. 23). "âm phủ" là giang sơn của người
chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch
với "âm phủ" là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình
cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội
dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh
cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30).
Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình
bày thêm.
Lời
thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): "xin thương xót tôi" (c. 24). Lời nầy
trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39),
và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu
chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo
ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực
hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ.
Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh
bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy
Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong
câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ "hãy nhớ
lại". Ông nói đến "điều tốt" và điều xấu", như là sự tương
phản giữa hai người (c. 25). "Điều tốt" ở đây là của cải đời nầy
(6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, "bây giờ"
hai người. Động từ "an ủi" (c. 25) nhắc lại lời "Khốn cho các
người giàu có, vì các người đang được an ủi" (6:24). Người giàu có đã được
an ủi đời nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau.
Đây là một trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham
nói đến sự phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một
"vực thẳm" "được đặt ra" (ở thể thụ động); không thể có
hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có
bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.
Lời
thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến
bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình.
Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh
em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi
khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi
ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh "Hãy
nghe" phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách
gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không
để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan
tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm
đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời
thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa
cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ "hoán cải" nếu như
được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép
lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán
cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu
không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện
ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca
sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo
ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là
phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian
không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi
đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.
8.
Khoảng cách – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ
ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất
gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược
nhau.
1.
Khoảng cách đời này
Người
phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm
vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên
cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một
chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục
trần gian.
Hai
con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một
cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong
tình người.
Thánh
Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý
cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu
và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong
một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê
say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ
có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn
tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình
thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
2.
Khoảng cách đời sau
Cái
chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau
cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới
chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ
đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm
luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người
mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không
thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài
xin với Abraham "sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con
cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt."
3.
Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng
cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải
chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất
hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc
sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người
nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ
hưởng phúc thiên đàng?
Chắc
chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi
và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn
khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo
để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương
16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người
phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa
khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội
phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là "mackeno" (mặc kệ nó)
trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi
Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người
ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà
không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình,
quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ
đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội
hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa
ngục.
Trong
bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự
trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không
biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép
kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính
họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết
đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách
con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô
không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ
phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó
thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là "Thiên Chúa là
Đấng phù trợ tôi". Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới
mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con
người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép
kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi
cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót
thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo
nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn
thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn
là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là
người nghèo.
Chúa
Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên
Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo.
Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa,
tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời
gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý
tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo
khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và
sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để
trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn
tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương
Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ
đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin
mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn
còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người
Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở
rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững
hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất
hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy
Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết
sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
9.
Giấy thông hành Nước Trời – Thiên Phúc
(Trích
dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Ngày
xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại
chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến
tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa
dị thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một
hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm,
từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư
trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và
được biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào
hố rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào
đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự
việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
-
Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng
thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn
đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
Thiên
Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm
đến từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung
chung, nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân
vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của
Người, với những ơn riêng mà người khác không có được. Mỗi một con người là một
bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người
phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã
không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm
nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người
phú hộ phải "chịu cực hình" không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì
ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi
trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người
phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải,
nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết
cậy dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ".
Vậy
tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không
nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng
cực. Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ
ra mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer,
người đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu
giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình:
"Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang
đau khổ?"
Sẽ
có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải
là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và
thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ
có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới
sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào
muôn kiếp.
Sẽ
có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn
nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên
"trong lòng Abraham" vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời
giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu
tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: "Chúng ta không thể thờ ơ
vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo
khó Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa... Các bạn
đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc.
Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng
tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người
nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia
đình các bạn".
Lạy
Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy: "Những người giàu có đã đánh cắp của người
nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa". Xin cho chúng
con biết san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì
giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin
dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa
ban. Amen.
10.
Ông Dives và anh Lazarô – Vincent Travers
Có
hai nhân vật trong câu chuyện này. Trước hết là người giàu có, tạm gọi là
Dives. "Dives" tiếng La-tinh, có nghĩa là "giàu có". Ông ta
sống trong sự giàu sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong một đất nước mà
thường dân may mắn lắm mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân
vật thứ hai là anh Lazarô nằm trước cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất
đau yếu bệnh hoạn. Mình mẩy anh đầy ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ
sức chống đỡ những con chó ngoài đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời
đó trên bàn ăn không có dao nĩa và khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong
những gia đình phong lưu, những miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn.
Họ rửa tay bằng cách lau chùi tay trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt
cho vào thùng đựng rác. Chính đó là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ
Lazarô đang mong đợi để nuôi sống mình.
Câu
chuyện anh Lazarô và ông Dives nhắc tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ
thoã và ông trưởng giả đi chung trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói:
"Ông ơi,ông sặc mùi hôi." Ông kia đáp lại: "Thưa bà, tôi xông
mùi thối, còn bà đánh hơi."
Do
đó, anh Lazarô là hình ảnh của sự nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình
ảnh của sự bê tha ăn uống. Nên để ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên
người đàn ông nghèo khó nhưng người giàu sang thì lại không có tên. Trong nền
văn hoá ngày nay, người giàu sang cũng như người nổi tiếng thì đều có danh
xưng, còn người nghèo hèn thì vô danh tiểu tốt.
Điều
đó cho thấy Chúa Giêsu chú trọng đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã
dành nhiều thời giờ cho những kẻ bị bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ
không phải với những người nổi tiếng.
Vai
trò đảo ngược
Rồi
cả hai người đều chết. Người giàu có rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên
thiên đàng, ở trong lòng tổ phụ Ápraham. Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối
thoại giữa ông nhà giàu với tổ phụ Ápraham.
Từ
dưới vực sâu hoả ngục, người giàu có đã kêu lên: "Lạy tổ phụ Ápraham, xin
thương xót con và sai anh Lazarô nhúngđầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con
cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!" (Lc 16, 24).
Tổ
phụ Ap-ra-ham đã trả lời: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận
phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây
giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa
chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên
các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không
được." (Lc 16, 25-26)
Ông
nhà giàu lại thưa: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến
nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ,
kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!" (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp:
"Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại,
họ cũng chẳng chịu tin." (Lc 16, 31)
Khỏi
phải nói ra, ai cũng rõ là người giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh
Lazarô. Nhưng xét theo nhiều khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người
xấu. Ông đã không bạo hành đối với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh
đáng xuống hoả ngục. Ông cũng không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước
cổng nhà mình. Ông cũng không báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm
tra vệ sinh về anh ta như là một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông
không chống đối việc anh Lazarô chìa tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ
thị cho đầy tớ ném bánh mì dơ ở nơi khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi
vào nhà thì đều phải đi qua nơi anh Lazarô nằm trước cổng.
Tội
lơ là chểnh mảng
Ông
Dives không bao giờ nhận ra anh Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong
những năm tháng đó, khi anh ngồi ăn xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở
dưới hoả ngục, ông cũng không đếm xỉa đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những
người ở trong hoả ngục không thay đổi bao giờ.
Phần
người giàu có, ông nghĩ về anh Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua
câu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha
con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ
lại cũng sa vào chốn cực hình này!" (Lc 16, 27).
Anh
Lazarô chỉ là một con người tùy tiện đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ
được sử dụng mà thôi. Anh không phải là một con người đáng được kính trọng.
Lazarô chỉ là một đồ vật được sử dụng và đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống
hoả ngục.
Tội
lỗi của người giàu có đối với anh Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên
làm! Những tội lỗi tệ hại nhất của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là
chểng mảng và đó là những tội mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính
là những tội của ông Dives. Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý
thức vì không gây nên thương tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng
ta có thể là ông Dives đối với người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em,
người làng giềng, đối với những trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những
bạn đồng nghiệp trở thành trò cười cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải
chúng ta cố ý tàn nhẫn. Điều đó hiếm khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn
những người khác. Nhưng có những người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần
chết mòn về mặt thể xác, tình cảm, tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có
những việc chúng ta có thể làm cho họ, nhưng đã không làm.
Tôi
có dịp trò chuyện với một người láng giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa
trong nhiều năm. Tôi hỏi cảm tưởng của ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà
thương như vậy. Ông trả lời: "Khi cha liên hệ với nhà thương lâu dài như
con đây, cha sẽ nhận thấy điều khác biệt lớn lao giữa những kẻ đối xử với cha
như một con người và những kẻ đối xử với cha như một trường hợp y khoa trong
bệnh viện."
Lòng
trắc ẩn
Rồi
đây khi tôi gặp gỡ một người ăn xin hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ.
Tôi sẽ nhận ra họ như một con người và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc
thật chính đáng, có thể làm được là tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời
"không" khi họ xin tiền, nếu tôi nói một cách dịu dàng, bởi vì tôi
biết rằng tiếng "không" cũng là một từ ngữ của yêu thương!
Bài
học của Thánh Luca nhấn mạnh điểm này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi
tùy thuộc nơi chỗ đứng của lòng trắc ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta.
11.
Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ
(Trích
dẫn từ 'Hãy Ra Khơi' – Veritas)
Một
câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến
cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong
một gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân
của con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia
đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay
phải nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa
trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến
người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con
hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó
kết bạn với con.
Đã
có lần Chúa Giêsu tuyên bố: "Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các
ngươi". Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ
giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần
gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái
ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày
ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên
là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng
Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách
tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an
phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho
những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta
hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho
Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu
có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu
có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có
những gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương
nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta
rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước
Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy
mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời
chỉ dành cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi
trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực
như thánh Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong
lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài.
Điều này đẵ được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại
qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
Chúng ta không thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi
vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng
không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin
và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa
ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công chính hơn.
Thánh
thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm
và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không
đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả
thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có
cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc
nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng
như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng
kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và
được hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao
nhiêu người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu
thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng
ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại
và hiền hòa.
Xin
Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm
tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi
người chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết
mọi người.
Xin
mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.
12.
Niềm hy vọng của nhân loại
(Suy
niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Kẻ
đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc
1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ
Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn "Phú ông và
Lazarô."
Hai
con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống.
Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú
ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày
yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong
thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Thế
giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau
vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới
người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ
bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những
miếng bánh "lau tay" đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn
"có lòng" hơn phú ông khi không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến
liếm các mụn ghẻ cho anh ta.
Thời
xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau
tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang
trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên
những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh
"lau tay" mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn
làm ngơ, vô tình.
Nhưng
rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì
được đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu.
Lazarô được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải
chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ
hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là
tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.
Ân
phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh
xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật "ăn mày" trong dụ
ngôn trên. Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như
thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù
đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho
anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham--cha những kẻ tin.
Còn
người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra
lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận
gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái
độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh.
Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng
phải vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không
làm gì cả cho kẻ khốn cùng.
Không
phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự
đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không
hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi
không thể qua được.
Người
nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn
nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.
Một
nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một
là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú
trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.
Hai
là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo
nằm ngay bên cổng nhà mình.
Hoả
ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách
Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời
sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng:
"Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).
Nếu
tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan
Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm
đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp
đời đời cho tôi.
Dụ
ngôn "Phú ông và Lazarô" là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ
vật chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu
gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ
Têrêsa Calcutta có nói: "Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể
chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả
chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay
yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ
theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu
mực cho việc phán xét sẽ được đưa ra."
"Chúng
ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của
nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử
với họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên
Chúa. Và Ngài sẽ nói: "Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và
những gì ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."
"Kẻ
bé mọn" không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là
những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng
không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai
trao ban.
Thế
nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.
13.
Có một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích
dẫn từ 'Manna')
Suy
Niệm
Tài
sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát
triển.
Bill
Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên
Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho
cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi
nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện
thực của thế giới.
Hố
sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng
lớn.
Có
800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được
chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn
tiệc rơi xuống.
Ông
nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có
Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn
mãn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn
cách.
Không
cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo
dài mãi đến đời sau.
Hỏa
ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một
giọt nước.
Vực
thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông
nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc
chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ
sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều
nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình
đẳng.
Các
nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món
nợ không sao trả hết.
Ông
nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ
những gì mình nhận.
Giàu
không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có
bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng
giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép
kín, tự mãn, hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng
ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên
môn, giàu thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm
vui, ơn Chúa.
Hãy
tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia
sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước
gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những
Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của
chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu
người nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không?
Nếu
bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo
trên thế giới không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc
áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người
thiếu thốn.
Lạy
Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những
Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có
bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con
hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó
nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con
phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy
Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho
mọi người có quyền hưởng.
Cha
để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế
giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin
dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
14.
Hai khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích
dẫn từ 'Manna' – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy
Niệm
Dụ
ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc,
một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến
quấy rầy.
Hai
người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa
nhau.
Ông
nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì
ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô
đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.
Cái
chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không
phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép
lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu "hợp pháp", đã không chấp
nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.
Ông
nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay
hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không
phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng
tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy
vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế
giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa
thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính
tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu
chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố
sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn
nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người,
sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi
người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời
người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng
thành viên mãn trong nhân cách.
Dù
người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ
Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên
Chúa (x. 1Ga 3,17).
Gợi
Ý Chia Sẻ
Con
người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha
nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?
Ai
cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn
có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình
con, đang cần đến con.
Bất
cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần
dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý
nghĩa.
Dần
dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm
khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám
ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần
đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau
thêm giàu có.
Cám
ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công
trình cứu độ.
Xin
cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến
trao. Amen.
15.
Môi trường đức tin – Achille Degeest
(Trích
dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Phần
đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng
dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình
phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động
lòng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào
khía cạnh thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng
được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc
sống vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian
khiến cho tâm hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận
hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận
đức tin hay không –chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin
nảy rễ trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1)
Tự do của tâm hồn.
Đây
là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian
và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên
địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn
bản của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa
trước hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt;
tiền bạc làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến.
Khi con người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù
quáng về hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng
gọi của đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi
hỏi của đức công bằng. Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc
thấy vắng thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là
thường, chẳng đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do
làm một con người thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2)
Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận.
Sự
thể tiến trình mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự
như mấy người Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra
cho họ trong ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối
cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết. Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà
không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể
không tin. Rất nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà
goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin
vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không
có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp
nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền
thông đức tin.
3)
Đức tin sống động thì có tình yêu thương.
Luật
truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương
yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm
chí khả năng yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng
thời cũng là một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn
mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm
hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.
16. Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn
(Trích
dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)
Trong
suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ
ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: "Tôi là ai trong dụ ngôn
đó?". Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người
giàu có không hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong
câu chuyện không có tên (ông ta có biệt danh là "Dives" từ này trong
từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho
chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa
mãn với những gì mình đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi
cổng nhà mình, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất
đói và ông ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ
xuống đất nhưng không có mà ăn.
Cũng
có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng
ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có
những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả
chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù
thiêng liêng chứ không theo một cách thể lý.
Không
có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có
những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã
thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh
của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ
không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày
kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.
Thiên
Chúa đã thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao,
là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực
thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi
Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc
của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục
Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên
Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như
là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của
Ngài đã đổ ra vì chúng ta.
Cách
thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông
nhưng chúng ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần.
Chúng ta là những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử
với chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà
Chúa Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô
trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người
phú hộ, người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với
những người bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng
Lazarô sẽ làm bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có
thể cho những người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng
không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những
Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên
Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối
với những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương
hướng đến mọi người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng
của Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: "Lạy Cha, chúng
con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ". Lời kinh phụng vụ
tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với
mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày cho chúng ta trong
người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.
17.
Giàu có và nghèo khó – McCarthy
Ông
phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài
tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày,
Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông
phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.
Thật
vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ.
Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn;
Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian;
Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác
nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
Ladarô
sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ
nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được
đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh
sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn
của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm
được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ
nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể
dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh.
Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm
hồn ông lại.
Ladarô
thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ
còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta
hiểu điều đó.
Một
nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài
công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một
tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
-
Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.
-
Phải. Ông ta đáp.
-
Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?
-
Nói thật với chú bé là tôi không biết.
-
Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?
-
Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.
-
Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?
-
Đúng thế!
-
Tôi ước gì tôi...
Nhà
doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp "Tôi ước gì tôi có một người
bạn như thế". Nhưng cậu bé lại nói: "Tôi ước gì tôi có thể là một
người bạn như thế".
Và
ông ta kết luận: "Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa
và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy
nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu
giàu sang hơn mình... Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn
của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi
một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời
tôi".
Ông
phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm
hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông
không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những
con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.
Người
giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm
tổn thương. "Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình
yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến" (Mẹ
Têrêxa).
Khoảng
cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ.
Những đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một
phóng viên hỏi một thiếu niên: "Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?".
"Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi". Câu trả lời là như thế.
18.
Bác ái bắt đầu từ nhà mình - McCarthy
Một
tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ,
ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu
cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông
quyết định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm
đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải
giúp cho người nghèo cái gì.
Vừa
mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt
đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy
hoàn cảnh khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài
xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù
hoàn cảnh của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông
đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì
nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những
kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng
ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi
nào đó?
Khi
về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí
lúc ban sáng. "Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt
ngày trong cái nắng cháy da!", ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động
lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối
hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác.
Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là
người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết
rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ
Têrêxa nói: "Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước
hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở
xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở
gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc
– yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp
xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi
bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những
"triệu" người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần
gũi".
Mẹ
Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: "Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn
về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó
hàng trăm người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp
hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở
đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế
nào để trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế
kia – còn người đàn ông đó thì đã chết.
"Tôi
không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân.
Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một
người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ
không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong
đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một
giọt. Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế".
Người
giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày
trước cổng nhà mình.
CÂU
CHUYỆN KHÁC
Một
tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây
thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: "Xin thầy cho con viên ngọc
quý".
-
Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
-
Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối,
con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên
giàu có mãi".
Tu
sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. "Đây có lẽ là
viên ngọc mà anh nói đến", ông nói và đưa nó cho người dân làng. "Tôi
tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó".
Người
đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương,
viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt
đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta
trở lại gặp vị tu sĩ và nói: "Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy
hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm
thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế".
Người
giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời
sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
19.
Chú giải của R. Gutzwiller
KHÓ
NGHÈO và SANG GIÀU.
Trong
Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề 'hư mất' kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn
người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn
người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.
Ở
đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa
người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không
có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu
hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn.
Khi nói 'Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn' cho đỡ đói. Người ta
nghĩ nên thêm: 'Nhưng không ai thèm cho'. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn
nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ
ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi
thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ
bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người
Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công
bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố
gắng hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên
dương gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người
lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt
đẹp, có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội
lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa
Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay
gắt với xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một
cách không kiêng nể.
Hai
nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một
người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho
đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới
bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược.
Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu
muôn vàn đau khổ.
Thịnh
vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa;
cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa
ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn
khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho
nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết
trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng
thụ là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an
nghỉ trong lòng Abraham cũng thế...
Cũng
không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước
ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng
và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng
của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới
trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.
Giải
thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt
phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ... Ngày nay tầm quan trọng của
nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người
khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc
sướng, sẽ được coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.
Vở
kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng
ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công,
'đã làm được một cái gì' và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống
của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không
nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy
nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức
Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người
chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên
Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau,
sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ
thành quyền thế và ngược lại.
'Chúa
hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban
của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng'. Đức Kitô đã đến trần gian và
Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không
tin và cũng không muốn tin Ngài... Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của
thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú
hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ
hoàn toàn thay đổi.
Thực
họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.
20.
Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?
Chúng
ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có
sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có
trở nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca
thích loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết
và viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:
"Người
nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và
người ta chôn ông".
Chúng
ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn
đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có "xấu
xa", nhưng đơn giản chỉ là "một người giàu có" và thậm chí sáu
người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong
khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả
chúng ta: "Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống".
Người
giàu có không "thấy" Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp
đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không "thấy" gì cả.
Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người
láng giềng nói: "Chúng ta đâu có thấy gì!". Không phải tất cả những
người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ
không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ
chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối
với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta "thấy" Ladarô, ông
cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng
sự hiểu đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết
sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng "hạnh phúc" trước đây:
Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua "vực thẳm lớn lao" được.
Vì
không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo
cho các anh em của ông.
-
"Lạy tổ phụ Abraham,... xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa
vào chốn cực hình này!", ông nói với Abraham như thế.
Abraham
nói: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị
đó".
Người
giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà .... Cần phải khua chiêng
gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.
-
Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó
là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:
Bài
học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là
"mũi nhọn". Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa
Giêsu nói qua Abraham: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ".
Thậm
chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng
không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo
Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo
trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn...
-
Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có
Mô-sê và các Ngôn Sứ.
Tôi
phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng
Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng?
Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?
21.
Dại dột
Bài
Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là
số phận của nhà hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở
đời này, người phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi
ngày, sống trụy lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái
hoài, một người hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước
cổng nhà người giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.
Hai
nhân vật này không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau:
người nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có
quan hệ với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và
người giàu cũng chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên
thần đến đưa người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất
đàng hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có
nhiều vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy
nói có thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược:
Ladarô được thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất
hạnh.
Qua
dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một
tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần
nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời
này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước
hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc
không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú
hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên
việc giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là
một tội, nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi
tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên
thần tượng, thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu
có chỉ biết ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những
người nghèo khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên
hết, hơn cả tình nghĩa. Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem
lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn
nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước
trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải
vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta
có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không
phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu,
nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ,
thương giúp người hành khất đói rách, nghèo khổ.
Ngược
lại, nghèo khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là
không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối
tội đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có
thể làm cho người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng,
trộm cắp, láo xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn,
xa cách Chúa, coi nhẹ linh hồn mình... Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi
có biết bao người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước,
tham lam đủ thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do
đó, không phải nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp
tinh thần, có tâm hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng
ta thấy: công phúc của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết
chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp
nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc
chính đáng đề thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Đàng
khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của
với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để
xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây
dựng yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được
ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai
sau nữa trên nước trời.
Ngược
lại, ai khư khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho
người khác, nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên
Chúa xét đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ
cho ông Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ
được thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên
ông đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.
Lời
Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống
theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi
tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta:
đừng lo lắng quá mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng
buồn chán, vì chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ
hai, Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất,
đó là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là
sử dụng để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay
mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình
đóng góp tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
22.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
ĐỜI
SỐNG MỚI SAU CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ
Nhiều
người chê Ki-tô hữu là dại, vì các Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên
đời, lại còn chuốc vất vả vào thân khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người
này nghĩ vậy, vì họ chỉ biết đến họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao
anh em nghèo đói sống bên họ. Thế nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người
chỉ biết sống cho mình, chỉ biết sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở
thành người dại sau khi chết.
Ai
cũng phải chết
Không
phải ai cũng giầu, cũng đẹp, cũng có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng
cho mọi người: ai cũng phải chết. Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai
mang theo gì với mình ngoại trừ chính con người của mình: không tiền bạc, không
người thân, không quyền lực, không sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi,
chết cũng trần trụi.
Cái
chết làm con người trở lại với con người thực của mình. Cái chết giúp người ta
nhận ra sự thật, và cố gắng sống cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn
quan này, cái chết không chỉ là mối họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai
đang sống, vì qua nó, con người nhận ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là
điểm mà mỗi người sẽ đến. Chỉ lo đi bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo
hoàn tất nhiệm vụ của mình, thì quả là người dại biết bao.
Cái
chết làm người ta đi vào vĩnh cửu
Thời
gian thật là quý. Vì người ta có thể xây dựng và hoàn thành con người của mình
một cách tuyệt vời. Con người mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này.
Khi chết rồi, mình không còn thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là
thời gian của mỗi người, thuộc về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và
hình thành con người mình theo như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình
thành đời mình, nếu không phải chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm
cho người ta ra khác, được sống hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi,
quý như thế nào.
Cũng
khó mà diễn tả tại sao cái chết lại làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan
của thánh Ynhã Loyola, ma quỷ và những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối
và nguyền rủa Thiên Chúa. Thái độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng
của người đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh
em của ông ta còn đang sống, nên đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết
rằng, bởi vì đây là dụ ngôn, nên không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được
giải thích. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để
khi chết được hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống
của mình, với những lời dạy dỗ của những người được sai tới với họ. Họ không cần
phải chờ người chết hiện về, hoặc thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những
người sống với chúng ta, những người nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng.
Không ai thay thế họ cho chúng ta. Đừng đòi người chết hiện về để nói.
Hôm
nay là ngày hồng phúc, hôm nay là ngày cứu độ
Hôm
nay, với những điều kiện tôi có và hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi,
tôi phải sống cho ra người, hình thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin,
không có gì, vẫn có thể hình thành con người của anh ta cách trọn vẹn. Những
người làm vệ sinh đường phố, những người quét rác ngoài đường, những giám đốc
xí nghiệp lớn, hay những bác sĩ kỹ sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời
mình. Nếu một bác sĩ không tận tâm cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó
cũng tương tự như người giầu không có lòng thương với người nghèo ăn xin
Ladarô. Nếu một công nhân quét đường mà không làm tròn bổn phận của mình, thì
cũng dở như một giám đốc xí nghiệp không cố gắng để xí nghiệp được trao cho
mình phát triển. "Không có nghề dở, chỉ có người dở". Trước mặt Chúa,
bác sĩ và công nhân vệ sinh trong bệnh viện đều ngang nhau. Và ngay cả trước
mặt con người, một người làm phu vệ sinh nhưng thương yêu và giáo dục con nên
người, thì tốt hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà không dành giờ để thương yêu
và giáo dục con cái họ. Chính trong việc làm, và trong việc giáo dục con cái,
hình thành nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng như hình thành con người vĩnh
cửu của mình trong đời sống mai hậu.
Tài
nguyên của cải, là của Cha trên trời cho tất cả mọi người. Không ai được lợi
dụng tài năng của mình để bóc lột người khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi
người; và tài năng là để phục vụ mọi người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang,
không chắc đã tốt bằng người công nhân xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc
mỗi người dùng tài năng Chúa ban cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu
Chúa ban cho họ 5 nén, họ phải làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén,
Ngài chỉ đòi tôi làm lời 1 nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác.
Nếu không có người phu quét đường và những người trồng và săn sóc cây trong
công viên, cuộc đời đã không đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường
phố, không chỉ làm đẹp phố phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh
phúc. Họ có thể là những người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Theo bạn, Thiên Chúa có công bằng khi để mỗi người đều phải chết không? Tại
sao?
2.
Người giầu và người nghèo, ai dễ hạnh phúc hơn? Tại sao?
3.
Có ai hình thành đời bạn giúp bạn không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế
nào?
23.
Chúa nhật 26 Thường Niên
**
Nhiều người có ý nghĩ rằng: Thiên Chúa nhân từ vô cùng, thì chắc chắn Ngài
không phạt ai mãi mãi trong hỏa ngục, và do đó, không có hoả ngục! Đó là một ý
nghĩ sai lầm! Bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu đã xác quyết có hỏa ngục, nơi
giam cầm mãi mãi những người cố tình phạm trọng tội, nhất là tội thiếu yêu
thương, không muốn chia xẻ những gì mình có cho người túng thiếu, khổ cực! và
hình phạt vô cùng thảm khốc sẽ đến cho họ sau kiếp sống vắn vỏi này!
Chúa
Giêsu kể một dụ ngôn đặc biệt nói đến hai hạng người trong xã hội thời Chúa
Giêsu cũng như ngày nay: Một hạng người trọc-phú, và một hạng người bần cùng
khốn khổ nhất trong xã hội, hạng người rất đáng chúng ta thương xót! Thế nhưng
số phận đời đời của 2 người mà Chúa nói tới, hoàn toàn đảo ngược sau khi họ
chết!
Người
phú hộ: Ăn mặc toàn gấm vóc lụa là, quần áo lộng lẫy, ngày nào cũng yến tiệc
linh đình, ăn toàn cao lương, mỹ vị, không thiếu sơn hào hải vị. Ông là một
người giầu, một trọc phú điển hình thời Chúa Giêsu, giầu theo kiểu đại phú gia
La-Mã lúc bấy giờ. Ông quá giầu: Vì ngày nào cũng yến tiệc linh đình, không như
những người giầu vừa vừa, chỉ mở đại tiệc dăm ba lần trong năm!
Lazarô:
Một người cùng khổ nhất trong xã hội, vừa ốm đau, ghẻ lở khắp mình, phải đi ăn
xin cơm thừa canh cặn của những người khá giả để sống qua ngày! Lazarô và nhà
phú hộ là hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược: Một người quá giầu còn Lazarô lại
ở mức cùng tận của cái nghèo! Tên Lazarô có nghĩa là Chúa thương giúp. Trong
Tin Mừng có 2 người khác nhau cùng có tên là Lazarô: một người mà Tin Mừng
Thánh Gioan nói tới trong đoạn XI, là em của Bà Martha và Maria, được Chúa cho
sống lại sau khi đã chết 4 ngày. Còn Lazarô là người cùng khổ mà Chúa Giêsu nói
tới. Ông là người duy nhất được Chúa đặc biệt nói rõ tên trong các câu chuyện
Tin Mừng.
**
Giầu không phải là tội, tuy nhiên, giầu mà không biết chia xẻ, không biết xót
thương những người nghèo khổ, thì đó mới là tội. Người phú hộ, quá dư thừa,
ngày nào cũng yến tiệc linh đình, đồ ăn thừa mứa, trong khi Lazarô chỉ ước ao
những mụn bánh rớt xuống từ bàn ăn của ông phú hộ, nhưng cũng không ai thèm
cho! Mà Lazarô có ở đâu xa, ông nằm ăn xin ngay bên cổng của người phú hộ, thế
nhưng ông phú hộ đã không thèm để mắt tới! Nếu ông ta đã quan tâm thì đâu
Lazarô có phải túng thiếu, khổ sở tận cùng như thế! Ông ta chỉ cần sai đầy tớ
đem cho Lazarô chút cơm thừa, canh cặn thì Lazarô đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng
mơ ước quá nhỏ bé đó đã trở thành ảo vọng, vì ông phú hộ đâu thèm xót thương
thân phận hẩm hiu thê thảm ấy, thê thảm còn hơn con vật nữa! Một cảnh thật thê
lương: Lazarô nằm teo-tóp, chốc lở đầy mình, không một ai thương cảm, chỉ có
những con chó đến liếm những mụn ghẻ chốc của ông mà thôi! Mà sự cảm thông,
chia xẻ đây có làm bớt đi gia tài kếch xù của ông ta đâu! Và sự chia sớt này
chỉ cần ông ta để tâm một chút thì đã dễ dàng đem lại hạnh phúc cho Lazarô,
nhưng ông ta đã không làm!
**
Người phú hộ ăn uống dư thừa, tiêu sài hoang phí cho riêng mình nhưng từ chối
chia xẻ cả những đồ ăn thừa mứa đối với Lazarô, một người đói nghèo, cùng khổ,
để làm giảm bớt một chút nào tình cảnh nghèo khó... Đó là một trọng tội đối với
Thiên Chúa. Ông không thèm để mắt tới một người khốn cùng, túng đói, khốn khổ
hơn cả một con vật, ngày ngày ăn xin ngay trước cổng nhà mình, thì làm sao đáng
Chúa xót thương?
**
Trong đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu vẽ ra 2 cảnh hoàn toàn trái ngược: Một
cảnh ở trần thế: đó là cảnh tưng bừng náo nhiệt, ăn sài cao lương mỹ vị dư thừa
nơi nhà ông phú hộ, với cảnh cùng khổ của của Lazarô, thiếu thốn cả những gì
cần thiết nhất để sống còn. Một cảnh khác ở kiếp sau: Đó là cảnh hạnh phúc bất
tận nơi Thiên Quốc mà Abraham, Lazarô và các con Chúa được hưởng sau kiếp sống
vắn vỏi này, đối chiếu với cảnh lửa hồng nung nấu, tuyệt vọng hoàn toàn của
người phú hộ bị trầm luân muôn kiếp.
Bị
nung nấu trong lửa chẳng hề tắt, ông phú hộ chỉ dám xin tổ phụ Abraham sai
Lazarô nhúng một đầu ngón tay vào nước để nhỏ xuống, cho ông ta đỡ khát một
chút, nhưng không được, vì có một vực thẳm ngăn cách 2 bên, không thể có ai còn
giúp đỡ nhau được nữa! Bởi vì đã hết giờ Cứu Độ! Sự chết đã vĩnh viễn đóng kín
mọi cánh cửa hy vọng nơi các linh hồn bị trầm đọa muôn kiếp! Không còn cơ hội
để thay đổi số phận được nữa! Sự ngăn cách giữa Thiện-ác trong kiếp sau là sự ngăn
cách vĩnh viễn, không bao giờ có thể thay đổi được!... Khi còn đang sống, thì
bất cứ lúc nào, chúng ta lắng nghe và thực thi Lời Chúa để sống Yêu Thương, thì
số phận tức khắc thay đổi, nhưng sau khi chết, thì hoàn toàn bất di bất dịch:
Hoặc thiên thu hạnh phúc hay đời đời khốn khổ!
**
Ở đời này, có khi chúng ta cũng gặp nhiều nghịch cảnh, túng thiếu, gian
truân... nhưng nếu cứ bước đi tren đường giáo huấn của Chúa để sống trong tình
thương, yêu Chúa và tha nhân, thì chắc chắn, tương lai tốt đẹp sẽ đến, Thiên
Chúa sẽ trọng thưởng các con của Ngài thiên thu hạnh phúc trên Nước Trời. Muốn
thế, chúng ta đừng nhắm mắt, bịt tai trước những thống khổ, túng thiếu của tha
nhân, nhất là những người cùng khổ bên cạnh chúng ta.
Sự
đau khổ túng thiếu đời này chưa phải là cùng tận, chỉ là một thử thách chóng
qua, chúng ta cứ vững tâm sống trong Thánh Luật Yêu Thương của Chúa, thì tương
lai rực rỡ sẽ đến và thay đổi hoàn toàn số phận chúng ta trong Cõi thiên thu
vĩnh hằng!
24.
Suy niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Người giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay có phạm một tội ác nào không? Ông phải
chịu hình phạt nơi âm phủ vì lý do gì? Đó có phải là một tội không?
2.
Làm ngơ hay lãnh đạm trước những đau khổ, cùng quẫn, cảnh áp bức mà người thân
mình đang phải gánh chịu một cách bất công mà không ra tay can thiệp khi có
thể, có phải là tội lỗi không? Đó có phải là thiếu tình yêu? Và như thế, có thể
vào được Nước Trời là nơi chỉ dành cho những người biết yêu thương thật sự
không?
Suy
tư gợi ý:
1.
Chúng ta chỉ là những người quản lý những gì chúng ta có
Tất
cả những gì chúng ta đang có trong tay, dù là vật chất hay tinh thần (đức độ,
tài năng, chức quyền, địa vị, hay của cải, tiền bạc, v.v...) cũng đều do Thiên
Chúa ban. Ngài muốn chúng ta tạm thời quản lý để làm những việc ích lợi cho
Thiên Chúa và tha nhân, tức làm lợi cho Nước Trời. Chúng không phải là của ta,
vì nếu chúng thật sự là của ta, thì chúng cũng phải theo ta về đời sau. Nhưng
trong thực tế, khi lìa cuộc đời, ta phải để lại tất cả cho người khác. Do đó,
xét cho cùng, chúng ta chỉ là những người quản lý tạm thời những gì chúng ta
đang có, và phải sử dụng chúng theo ý muốn của người chủ đích thực của chúng là
Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta
quản lý chúng. Người quản lý nào không sử dụng của cải tiền bạc của chủ đúng
theo ý chủ, nghĩa là không làm lợi cho chủ mà chỉ làm lợi cho mình, sẽ bị đuổi
việc hoặc phải chịu trách nhiệm về cách quản lý sai trái ấy.
Trong
dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người phú hộ bị hình phạt dưới âm phủ, chịu lửa
thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm một tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng
của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình. Ông ta "mặc toàn lụa
là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình", bỏ mặc người nghèo ở ngay trước
cổng nhà mình "sống chết mặc bay!", phải chịu "mụn nhọt đầy
mình", "mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta", "thèm
được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no" mà không hẳn
được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giàu có khác – nghĩ rằng
những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ
thế nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn
vô tội khi không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với
ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ
cả: ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại đâu!
Nhưng
việc ông phải chịu phạt dưới âm phủ chứng tỏ cách suy nghĩ như thế là hoàn toàn
sai lầm. Tuy dù ông không có hành động tích cực hay cụ thể nào gây bất công cho
ai, nhưng việc chỉ dùng của cải Thiên Chúa ban để hưởng thụ một mình mình, hay
một mình gia đình mình, đồng thời làm ngơ hoặc không đếm xỉa gì đến những đau
khổ của những người nghèo túng, bị áp bức chung quanh mình, thì ông đã phạm một
tội rất nặng rồi. Vì tiền bạc của cải ông có, thật ra đâu phải là của ông khiến
ông có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông chỉ là người quản lý, và ông phải
quản lý làm sao để chứng tỏ ông có tình thương, để làm lợi cho Nước Trời, là
thứ xã hội lý tưởng trong đó mọi người luôn yêu thương nhau. Có thế ông mới
xứng đáng được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, vốn chỉ dành cho những con
người có tình yêu thương thật sự. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng
(Mt 25,31-46), rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng
thể vào được Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, "xưa Ta đói, các ngươi đã
không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã
không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi
tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng" (Mt 25,42-43).
2.
Của cải vật chất trên nguyên tắc là để mọi người hưởng dùng
Thiên
Chúa tạo dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng
dùng. Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa
hợp lý, khiến cho xã hội còn nhiều bất công: "kẻ ăn không hết, người lần
chẳng ra". Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai
được cơ chế xã hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách
rất hợp pháp, phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là
những người gặp cảnh cùng quẫn. Đó là nghĩa vụ mà lương tâm tự nhiên của con
người đòi hỏi, không cần phải nại đến luân lý Ki-tô giáo. Cổ nhân ta có những
câu như "Lá lành đùm lá rách", "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn", "Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
người trong một nước phải thương nhau cùng". Việc xây dựng một xã hội công
bằng, trong đó của cải được phân chia hợp lý, hay việc chống bất công, cũng là
nghĩa vụ của mọi người, nhất là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều khả
năng làm việc ấy một cách hữu hiệu (những người có tài năng, chức quyền, có địa
vị trong xã hội và Giáo Hội...)
Thiên
Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa công bằng và yêu thương, Ngài đã cho Con
Một Ngài xuống thế để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời và
khởi đầu xây dựng nước ấy, trước hết tại trần gian, và sau đó là trên trời.
Nước Trời là một xã hội hay Giáo Hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử
với nhau không chỉ hợp với lẽ công bằng, mà còn phải đầy tình yêu thương nữa.
Những người ích kỷ, chỉ biết hạnh phúc một mình, đầy đủ một mình, những người
chủ trương ai chết mặc ai, ai khổ mặc ai, không thể là đối tượng của Nước Trời.
Vì thế, những người theo Ngài, tức các Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tiếp nối công
việc của Ngài là làm chứng và xây dựng cho Nước Trời. Làm chứng là chính mình
sống đúng tinh thần công bằng và yêu thương của Nước Trời ngay trong chính môi
trường mình đang sống. Xây dựng là làm sao để trong môi trường mình sống ngày
càng có nhiều người sống tinh thần ấy. Thiết tưởng mọi Ki-tô hữu cần ý thức và
quan tâm tới chiều kích xã hội và giáo hội này.
3.
Những người giàu có, hạnh phúc, cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo
túng, đau khổ
Qua
bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời
những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm
ngơ trước những đau khổ, thế cùng quẫn, tình trạng bị áp bức, bóc lột mà những
người chung quanh ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ
thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có
thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức
xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải
chịu trước mắt mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta hành động như
anh nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay, an tâm "mặc toàn lụa là gấm vóc,
ngày ngày yến tiệc linh đình" trong ngôi nhà khang trang đầy tiện nghi,
không thèm đếm xỉa đến nỗi cùng quẫn của những "Ladarô, mụn nhọt đầy mình,
thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống mà ăn cho no" đang nằm trước
cổng nhà mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta khoanh tay ngồi nhìn
những kẻ ác tự do gây bất công cho những kẻ thế cô, khi mà chúng ta có thể dùng
tài năng hay địa vị của chúng ta để can thiệp.
Chúng
ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những gì Thiên Chúa ban mà chúng ta
lại không sử dụng để làm lợi cho Ngài và tha nhân. Dụ ngôn về nén bạc cho chúng
ta biết điều ấy (xem Mt 25,14-30; Lc 19,12-27): Kẻ nào đem chôn nén bạc Chúa
trao, dù chỉ là một nén, mà không sinh lợi ích cho Ngài, thì sẽ Ngài bị kết án:
"Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó,
sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (Mt 25,30). Do đó, chúng ta không thể tự hào
mình vô tội chỉ vì mình không hề làm điều gì bất công. Coi chừng chúng ta là kẻ
tội lỗi đáng kết án chỉ vì đã không làm những gì lương tâm và tình yêu thương
đòi buộc phải làm, dù bởi lười biếng hay hèn nhát...
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, con cảm thấy mình chưa đủ tình thương đối với Cha cũng như với đồng loại,
vì con chưa dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của
cải, hay chấp nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người
thân đang đau khổ chung quanh con bớt đau khổ. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn
và hạnh phúc của riêng con, coi sự an toàn và hạnh phúc của con hơn tất cả. Xin
ban cho con có nhiều tình yêu hơn, vì có đủ tình yêu, con sẽ làm được tất cả
những gì Chúa muốn, những gì lương tâm và tình yêu đòi buộc. Amen.
25.
Cuộc sống trần thế không phải là tất cả
(Suy
niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)
Nếu
con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa
và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về
cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
1.-
Ngữ cảnh
Tại
đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là "vốn ham hố tiền
bạc". Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận
xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than
trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình,
đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với
chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều
này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố
tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách
bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy
bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về
việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài
dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức
Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ
ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những
lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c.
14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng
các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời
(16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn
liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ
không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17).
Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm
sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức
Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của
Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là
Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.
Vì
không có một từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể
hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi trước nó.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2)
Cuộc đối thoại (16,23-31):
a)
Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
b)
Phần hai: Sứ điệp cho "năm người anh em" và cho các môn đệ Đức Giêsu:
lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.-
Vài điểm chú giải
-
mặc toàn ... (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô,
"mặc", cho hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
-
lụa là gấm vóc (19): dịch sát là "gấm tía và vải lanh mịn". Theo ngôn
ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông
vua.
-
Ladaro (20): Do từ Híp-ri 'El'âzâr, có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ".
-
được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu "cũng chết, và
người ta đem chôn", tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô
không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.
-
anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự
tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
-
âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của
người ta sau cái chết. "Hadês" là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm
phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có
nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ "nhìn thấy". Đối
với người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất
tử, linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không
có mặt trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
-
ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang "ở dưới", tượng trưng cho
tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.
-
lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất
thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức
này tương tự với công thức "lòng kề lòng".
-
Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: "Thiên Chúa an
ủi" Ladarô.
-
đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là "đã cắt ngang định sẵn một vực
thẳm" (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: "Thiên Chúa đã
định sẵn một vực thẳm".
-
Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): "Môsê và các ngôn sứ" là tên gọi
bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp
nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn
anh em ông nhà giàu.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông
nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó
là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông
nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một
điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương
trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không
thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: "Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui
chơi cho đã" (Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc:
mỗi ngày ông đều mặc "gấm tía và vải lanh mịn", chứ không chỉ vào một
số ngày đặc biệt. "Gấm tía" rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương
giả mới dám dùng. "Vải lanh mịn" cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại
Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính
mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là
một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào
nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một
ông vua.
Các
thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như "bôi bác"
người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải
và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính
bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh
ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng
hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế
rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người
nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một
tên, "Ladarô" có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ", một cái tên
có ý nghĩa đối với "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù"
(x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa
sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây
đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh
nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật,
què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và
các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật,
ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô
đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách
rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu
vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa
những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng
chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó.
Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một
tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức
tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một "kết thúc
mở". Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này
có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi
người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định
rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là
những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một
bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên
kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt
nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn
lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là
một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng
việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
*
Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng
cái tên "Ladarô", có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ", Đức
Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn
cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết,
anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng
trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến
cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói
gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến
một tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về
cuộc sống sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và
không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những
tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc
sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một
thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy
ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các
hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của
đời sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo
túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và
tổ phụ của dân Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới
ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy
chó làm bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự
hiệp thông thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu,
trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến
ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức
uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần
gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống,
nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi
nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng không được nhận. Trong cuộc sống trần gian,
ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh
tế. Với của cải của ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức
ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong
đó ông phải chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính
ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác
giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ,
còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được
hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông
nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ
muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không
theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất
phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời
ông nhà giàu kêu "lạy cha Abraham (của con)" xin giúp đỡ và lời tổ
phụ Abraham nói "con (của ta)" để từ chối cho hiểu quan hệ thân
thương này vẫn không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời
kêu cứu của ông cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và
Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần
gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây giờ, "giữa chúng ta đây và các
con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không
được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được" (c. 26), nghĩa là
không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt.
Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là
sau khi chết, không còn có thể thay đổi được nữa.
Chúng
ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà
là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất
cả mọi con dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho
ông nhà giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống
ở đời; còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ
còn Ladarô được an ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp
lý do vì sao đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình
trạng bị dày vò lúc này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong
cuộc sống trần gian và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô
không bị buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ
suốt đời, nên nay anh được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích
một điều: không phải vì sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không
thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý
do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể
vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: "giữa chúng ta đây và các con", tổ
phụ Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy
định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông
thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
*
Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho "năm người anh em" và cho các môn
đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông
nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa
ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay
đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người
này đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách
thức thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh
em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời:
"Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó".
"Môsê và các Ngôn sứ" là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh
được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng
ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không
vâng theo "Môsê và các Ngôn sứ", Lời Chúa, với luật căn bản là mến
Chúa yêu người.
Nhờ
trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của
Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến
đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã
khẳng định: "Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không
vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời
[...]. Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển [...]. Thật vậy, lời đó ở rất gần
anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành"
(Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối
với những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức
Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của
Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui
cho riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông
nhà giàu không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông
nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết
trở về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói;
giá trị của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu
trả lời của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu
người ta không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về
cũng chẳng lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con
tim sống trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở
đây với nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ
hoán cải!
+
Kết luận
Trong
bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của
cuộc đảo lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các "anh
em" (c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất
linh hồn vì những thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm
thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người
nghèo, vì tuy trên trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn
có thề hoàn toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức
Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các
hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai
không nhìn sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết
sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo,
cần phải quy hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường
duy nhất để tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên
Chúa.
Còn
có một hướng suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn
này, phải chăng tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức
Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng
về sự "không nghe" này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy
chiếu về Đức Giêsu.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Hai người ở cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ
việc nằm vất vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như
không hề có Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào
"phát triển", người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với
các nhu cầu của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc
rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi
điều gì! Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
2.
Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu
của cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải
là tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế
nào, để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu
không muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của
chọn lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi
vì liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3.
Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên
vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong
thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải
cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được
mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi
các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng
ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ
làm gì cho họ?
4.
Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức
Giêsu đã ra sức thúc bách người ta "thay đổi ngay bây giờ". Không có
một giáo huấn nào của Tân Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết.
Lời Chúa có đó để hướng dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta.
Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã
trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người
thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng
giúp lay tỉnh được.
5.
Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để
thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn
còn có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan
đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ
các cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng:
"Giêsu ơi, xin nhớ đến tôi" (Lc 23,43).
26.
Chú giải của Noel Quesson
Đức
Giêsu đã nói dụ ngôn này: "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm
vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình"
Đức
Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng... giữa những
người quá giàu, và những người quá nghèo.
Lại
có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà
giàu
Chúng
ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể
nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên "Ladarô". Trước
mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây
là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý
nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El'azar có nghĩa là "Thiên Chúa - phù
hộ". Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị... chê trách. Đó là ông
ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều
Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần
gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm
được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con
chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng
ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà,
người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa
hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một "vực thẳm" phân cách
giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín
trên chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải
sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta "thấy được"
những người khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước
cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức
Giêsu đưa lên sân khẩu.
Ngày
3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã
áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: "Những làn
sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người
mất hết niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn
không tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và
tinh thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp
nập giữa những tòa nhà bằng bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta
sống với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi
thứ cơ bản nhất... Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ
dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng
càng làm trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn"
Đó
đúng là điều Đức Giêsu đã nói:
Những
mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?
Thế
rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà
giàu cũng chết, và người ta đem chôn. "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực
hình"
Vậy
đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người
nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là
một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu
trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng
lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông
nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế
thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh
bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả
lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói
rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy
anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau,
người này xa cách người kia.
Ông
ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong
lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: 'Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con,
và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở
đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ
nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh
này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người
không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung
(!) như một âm phủ bao la ("Shéol") với những thân thể (!), những cái
lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những
người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những
hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính
ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.
Ông
Abraham đáp: 'Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con
rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an
ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các
con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không
được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được'
Đức
Giêsu một lần nữa tái khẳng định "đặc quyền của những người nghèo"
bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat):
"Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay
trắng" (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương
trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại
mối phúc thật và mối họa: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho
các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh
báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).
Đối
với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
1.
Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần
gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
2.
Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người
nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng
ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa
cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như
ở trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con
người "tự phán xử mình ngay từ trần gian này".
Hình
phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người
ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa
là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: "cái
cổng nhà" hắn phân chia hai thế giới đã trở thành "vực thẳm".
Tôi
có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi
mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình
trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa
ngục.
Người
nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi "bữa tiệc của
Thiên Chúa" nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã
"mở lòng mình ra cho những người khác". Đức Giêsu đã mạc khải cho
chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một
người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa
con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình
để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông
nhà giàu nói: 'Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha
con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ
lại cũng sa vào chốn cực hình này'
Chi
tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những
hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành
nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án
nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng
để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông
Abraham đáp: 'Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị
đó.' Ông nhà giàu nói: 'Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu
có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối'
Vậy
một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường.
Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập
giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số
Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu
từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông
Abraham đáp: 'Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có
sống lại, họ cũng chẳng chịu tin'
Thật
vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những
không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy
họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy
nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm
nhường lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm
nhìn thấy các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh
tôi)...
Nhưng
Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một
cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín
lòng họ... sau cùng làm họ "không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên
Chúa". Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô
cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất
cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của
người khác và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ... bị
giam hãm trong của cải của họ... Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể
ép buộc một ai yêu mến.
Để
kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo
khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho
những người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: "Tôi đâu có phải là ông vua
dầu hỏa".
Hãy
nhìn kỹ lòng mình... Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn
có nghèo không?
27.
Chú giải của Fiches Dominicales
GIỮA
CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Đừng đào thêm vực thẳm.
Trên
hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em
đồng loại - Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản
gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen
tên quản gia ấy và mời gọi "con cái ánh sáng" phải biết hành động "khôn
khéo" giống như "con cái đời này": "Hãy dùng tiền của bất
chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào
nơi ở vĩnh cửu ".
Giờ
đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, "vốn ham hố tiền
bạc" (họ quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và
"cười nhạo Đức Giêsu". Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết
cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt
trái, qua câu chuyện về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây
là dụ ngôn của riêng Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một
giàu, một nghèo.
Người
thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: "một viên phú
hộ kia", thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi
ông. Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi - chuyện hy hữu trong tất cả những
dụ ngôn của Đức Giêsu - và là một cái tên có nghĩa biểu tượng:
"Ladarô", có gốc từ chữ "Ê-lê-a-da", nghĩa là "Thiên
Chúa phù trợ".
Không
chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là
"một người nghèo", "người nghèo" nói chung, không ai thấy
không ai nghe. Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ
"ác ôn", rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm
đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn
trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới
"người nghèo khó nằm trước cổng nhà mình", thế thôi ở đây chúng ta
chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là
thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ "mặc lụa là gấm vóc, ngày
ngày yến tiệc linh đình". Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của
người nghèo khó, "nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình", "thèm được
những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng
được"; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới
đó, chỉ có một "ngưỡng cửa", một ranh giới, ngày càng được đào sâu
một cách vô hình, được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông
xuống với cái chết đồng thời của cả hai nhân vật: "Thế rồi người nghèo nàn
chết... ông nhà giàu kia cũng chết"
2.
Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh
hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì
làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành
vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược.
Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng
ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây
hưởng thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình
nay phải ở "dưới âm phủ, đang chịu cực hình". Ông năn nỉ tổ phụ
Abraham sai Ladarô - ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn
sống trên đời - "nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho
mát".
Muộn
quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông
nữa. Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ
của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một "vực
thẳm" mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt
qua. Thua xa sự "khôn khéo" của người quản gia bất lương của Chúa
nhật vừa qua, ông đã không biết "làm bạn" với Ladarô, để được anh
"đón rước vào nơi ở vĩnh cửu".
Theo
nhận định của H. Cousin: "Vực thẳm" chia cách giữa những người đang
được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ,
thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô
đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì
để lấp cho đầy
3.
Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu
chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em
còn sống trên trần.
Họ
có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người
nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước
tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. "Xin tổ phụ sai anh Ladarô,
ông nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này".
Bởi nếu có sự can thiệp của ai đó "từ cõi chết" hiện về với họ,
"thì họ sẽ ăn năn sám hối". Ao tưởng thôi - câu trả lời cho ông - nếu
nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu
"Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe": Luật Môsê và các
Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư'?
Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với
kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị
Luật (15,7-11) truyền dạy: "Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em
lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở
rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh
em". Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng
mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là
những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và
Tv 145 hôm nay)
Bài
học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm
cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay
động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là
nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết
luận: "Đại diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên
phú hộ tưởng tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không
được. Lầm to! Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không
thể thay lòng đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật
và các Ngôn sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu
chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta
chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc
chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày
cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con
người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại
trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.
BÀI
ĐỌC THÊM:
1.
Sức mạnh của Tin Mừng.
"Không
mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên
Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người
Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn "ham hố tiền bạc là... cười nhạo Đức
Giêsu". Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới
mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: "Thiên
Chúa biết lòng các ông". Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm
phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được
giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như "đất
trời" vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra
để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước
Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam
hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức
Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng
nước trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ.
Viên phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh
Ladarô, xưa bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế
đà hoàn toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo
tỉnh ngộ sớm. Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết
hiện về để đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. "Chúng ta có Môsê va các Ngôn
sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó!". Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng
của chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta
khó tránh được thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình
xuống và biết nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức
mạnh của Tin Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra
sức mở mắt cho chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc
chiến của Tin Mừng.
2.
Trên những nẻo đường của tình liên đới
(G.
Bouche, trong "Le ciel sur la terre", trg 61).
Nỗi
khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với
bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng
than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi
không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu
giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối
thiểu, hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng
ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi
hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái
gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp
tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung
gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những
nhu cầu cấp bách
nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống
hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù
biết rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu
tranh cho một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo
được làm chủ vận mạng của mình.
Chúng
ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh
tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền
lợi, luật pháp, công ước.
Góp
tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới,
của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho
chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái
ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều
nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau
hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên
Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải,
chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn...
Phải
chăng Thiên Chúa mới đúng là "người từ cõi chết" đến kêu gọi chúng ta
như thế?
Sưu
tầm