DÂNG HOA CAM ĐƯỜNG |
NHÀ THỜ TAM ĐẢO |
TĨNH TÂM LM. HÁT LÀO CAI TẠI NHÀ NGUYEN TAM ĐẢO |
LỄ AN TÁNG TẠI QUANG KIM |
ĐẠI HỘI LEGIO LÀO CAI |
DÂNG HOA CỘNG ĐỒNG TẠI NHÀ THỜ MỚI CAM ĐƯỜNG |
THÁNH LỄ TẠI NHA THO MOI CAM ĐƯỜNG |
NHÀ THỜ TAM ĐẢO |
THÁNH LỄ TĨNH TÂM TẠI NHÀ THỜ TAM ĐẢO |
ĐỨC CHA PET. TRẦN ĐÌNH TU, DAC TRACH HOI THUA SAI VN |
MỪNG LE THÁNH ANTÔN |
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ- C
Lời Chúa: St 14,18-20; 1Cr 11,23-26; Lc 9,11b-17
MỤC LỤC
1. Thái độ sống
2. Mình Máu Chúa
- Veritas
3. Mình Máu
Thánh Chúa Giêsu
4. Ngài cầm bánh
bẻ ra
5. Dâng lời chúc
tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ
6. Suy niệm của
Lm. Ignatiô Trần Ngà
7. Chạnh lòng
thương – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
8. Tham dự Thánh
Lễ
9. Để tưởng nhớ
Thầy
10. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
11. Loại bánh
con người khao khát - Achille Degeest
12. Từ bàn tiệc
của Chúa đến bàn ăn của anh em
13. Lương thực hằng
ngày - McCarthy
14. Thánh Thể
15. Chúa Giêsu
là niềm mong đợi của mọi người
16. Nạn đói và
sự hiệp thông – JKN
17. Lễ Mình Máu
Thánh Chúa - JKN
18. Thánh Thể
19. Thánh Thể
20. Thánh Thể
21. Mình Máu
Chúa Kitô – Lm. Phạm Thanh Liêm
22. Anh em hãy
liệu cho họ ăn – Đan Vinh
23. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
24. Chú giải của
Noel Quesson
1. Thái độ sống
Chúa Giêsu và
các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như đói cơm
bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang vắng.
Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn
khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.
Các môn đệ thì
đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái ăn và nghỉ
ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi bận tâm vất
vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng xáo trộn có
thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà nguyên số đàn
ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là không có những
siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn thức uống. Cảnh
giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng ấy hiển nhiên là
trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao giảng cho họ.
Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa Giêsu vào những
việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà xét, vào lúc này
không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy. Giải pháp riêng
xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho các môn đệ. Bởi
vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho họ ăn đi. Các
ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi chúng con
phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.
Nhưng Chúa Giêsu
thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã đi theo
Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu tìm cơm
áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông tìm Ngài
để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê. Nhưng
Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi làm
ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa
Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc
sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này.
Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại,
khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như
bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu
tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự
quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.
Và Chúa Giêsu đã
thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài, bởi vì Ngài đã
ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho kẻ khác: Các
con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy mà uống vì này là
máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của Chúa Giêsu: Các
con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là một nghi lễ,
nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự dấn thân vì
hạnh phúc của người khác.
2. Mình Máu Chúa
- Veritas
(Trích trong
'Hãy Ra Khơi')
Hôm nay, tôi
bỗng chợt nhớ đến một kinh nghiệm sống trong gia đình và thường được lặp đi lặp
lại mãi trong thời gian tôi 57 tuổi. Cứ mỗi lần mẹ tôi làm bánh hay cha tôi tát
các mương đìa quanh nhà bắt cá thì tôi thèm thuồng ngồi bên nồi bánh vừa chín
hoặc tiếc nuối những rổ tôm cá. Thèm thuồng vì rổ bánh chín mà mình muốn ăn
nhưng mẹ tôi lại cứ lấy đi phân chia, bảo tôi đem cho người này người nọ, hoặc
hối tiếc những con tôm, con cá mà mẹ tôi bắt đem cho các gia đình hàng xóm,
những người cần đến. Mỗi lần bảo tôi mang đi cho người khác thì tôi không muốn
cho đi, bấy giờ mẹ tôi lại bảo: "Con ạ, mình giữ lại ăn thì hết mà cho
người ta ăn thì còn mãi". Tôi không bao giờ quên lời nói đơn sơ này đi kèm
với chính hành động chia bánh, chia cá cho những người xung quanh.
Hôm nay đọc lại
đoạn Tin Mừng của lễ Mình Máu Thánh Chúa, kinh nghiệm gia đình tôi đã trải qua
và nhất là lời giải thích của mẹ tôi: "Mình ăn thì hết, người ta ăn thì
còn". Một lần nữa lại xuất hiện và giúp tôi phần nào hiểu thêm kinh nghiệm
mà các tông đồ đã trải qua ngày xưa trong biến cố được kể lại trong đoạn Tin
Mừng mà chúng ta vừa đọc qua. Vào thời điểm của biến cố, chắc chắn các tông đồ
đã được nhìn thấy nhiều việc làm của Chúa Giêsu để thực hiện tình thương đối
với con người. Những lời nhắn nhủ dạy bảo của Chúa đã đánh động các ngài là sẽ
không được sống ích kỷ, không được mơ ước vinh quang, danh vọng, địa vị cho bản
thân khi theo Chúa. Thế nhưng, khi phải đối diện với một nhu cầu cụ thể của
muôn người đang theo Chúa mà bị đói thì các ngài có phản ứng tránh né, thoái
thác, không muốn hy sinh làm một cái gì đó để giúp vào. Các ngài đã nhắc khéo
Chúa cho đoàn người ra về để họ tự lo giải quyết lấy vấn đề ăn uống. Chúa Giêsu
đã làm ngược lại, Ngài ra lệnh: "Các con phải cho họ ăn". Làm đồ đệ
của Chúa, nhất là trong địa vị các tông đồ thì càng không thể chối từ trước lời
mời gọi của tình bác ái liên đới. Và không để các tông đồ sống trong một thái
độ tiêu cực lâu hơn nữa. Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông cộng tác vào công việc
cho đi của Ngài. Trước hết, bằng việc chịu cực một chút, dấn bước hơn một chút
để ra khỏi cái tôi ích kỷ, để tổ chức đám đông ngồi xuống bãi cỏ thành từng
nhóm cho có trật tự.
Chắc chắn, đây
cũng là một công việc khá phức tạp so với phương tiện thời đó. Phức tạp hơn là
việc rửa chén quét nhà, rót cho người khách một ly nước, dù chỉ là một ly nước
lã, nếu phải ly nước trà lại càng phải hy sinh nhiều hơn nữa: "Con ạ, mình
ăn thì hết, người ta ăn mới còn". Không biết mẹ tôi đã học được lẽ khôn
ngoan này nơi đâu? Chắc chắn không phải nơi sách vở, vì mẹ tôi chỉ học xong
tiểu học, như vậy có thể là từ Chúa. Tôi không biết. Chúa Giêsu truyền cho các
tông đồ cầm lấy bánh và cá mà Ngài vừa chúc phúc để đem phân phối cho dân
chúng. Như mẹ tôi đã bảo tôi đem bánh, đem cá đi cho người xung quanh để họ
cũng được hưởng một bữa ăn ngon như nhà tôi lúc tát đìa hoặc làm bánh. Cử chỉ
Chúa Giêsu thực hiện và được mô tả trong đoạn Phúc âm của thánh Luca hôm nay
loan báo cho các môn đệ là Chúa sẽ thiết lập Bí tích Thánh Thể sau này. Chắc
chắn sau kinh nghiệm sống với Chúa, các tông đồ hiểu được bí quyết sâu xa của
Bí tích Thánh Thể, hy sinh chính bản thân mình như Chúa để nên của ăn đem lại
hạnh phúc vui mừng cho anh chị em.
Chúng ta có thể
nói, mừng lễ kính Mình Máu Chúa hôm nay như là ôn lại một kinh nghiệm gia đình,
kinh nghiệm đại gia đình Giáo Hội của chúng ta. Bí tích Thánh Thể là trung tâm
trong đời sống của mỗi người chúng ta cũng như là trung tâm của sinh hoạt Giáo
Hội. Mỗi người chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi ôn lại kinh
nghiệm gia đình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với các tông đồ ngày xưa, Ngài mời
gọi các tông đồ hãy cộng tác với Ngài để cho đi, cho đi chính Ngài, cho đi
chính bản thân của họ. Mỗi người chúng ta hôm nay cử hành lễ Mình Thánh Chúa,
chúng ta cũng được mời gọi cho đi chính mình như Chúa đã cho đi. Chúng ta tôn
thờ sự hiện diện của Chúa không đủ, chúng ta còn phải để cho Chúa sống trong
chúng ta, để Chúa cho đi trong chúng ta và chúng ta được mời gọi cho đi như
Ngài. Xin Chúa củng cố đức tin cho chúng ta, để chúng ta cho đi trong tình
thương bác ái, để chúng ta được sống như Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể mỗi
ngày như Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng
nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
3. Mình Máu
Thánh Chúa Giêsu
Lễ nào không
phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải đặt ra ngày
lễ hôm nay? Đó là vấn đề đã được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII và đầu
thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được phổ biến
ở mọi nơi. Trước đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh
vẫn cử hành thánh lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày lễ đặc
biệt để tôn thờ Chúa Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương
thực hàng ngày nên không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến
cuối thế kỷ XII, vì có người đặt vấn đề sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể,
Hội Thánh mới thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết.
Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự
nơi Thánh Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong
thái độ chầu Mình Thánh và kiệu Mình Thánh. Đó còn là những việc mà chúng ta
muốn làm hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của
chúng ta đối với bí tích Thánh Thể.
Nhưng cho dù
chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết bằng việc
kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ đầu. Và
những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
1. Bánh rượu
trong tay Melkisedek.
Bài sách Khởi
Nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa, thời của tổ phụ Abraham. Hôm ấy vị
tổ phụ đi giao chiến để cứu anh em mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn
thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôma ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện.
Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ.
Tác giả sách
Khởi Nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu truyện. Nhưng đây là ba câu đã
có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều có ý
nghĩa. Melkisedek, nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính. Và Salem không
những là tên được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng Hòa Bình.
Chắc chắn câu truyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại
Giêrusalem, ở ngay thời của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao
Giêrusalem, và để nói lên rằng: thủ đô của dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân
tộc đặt chân đến.
Hơn nữa, ở đây,
nơi đô thị 'Hòa Bình' này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật 'mầu nhiệm'. Ông không
phải chỉ là vua, mà còn mang danh hiệu là 'ông vua công chính'. Về sau người ta
đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến một kết luận:
ông như không cha không mẹ; ông đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất tăm hơi.
Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu truyện này.
Ông ra đón
Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôma đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là Vua
Salem, ông đã không nghênh đón 'người đại thắng khải hoàn' theo cung cách triều
đình, nhưng với tác phong là tư tế; vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng
đế cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông
chúc lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao. Ông dùng chính vị Chúa của
mình là Đấng Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc. Ông làm cho Abraham như
phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có lẽ hàng tư tế
Do Thái đã thích câu truyện này và muốn lợi dụng tối đa. Họ nhắc đi nhắc lại để
cho con cái Israel phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính
vị tổ phụ đã làm như thế!
Nhưng phần lớn
truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị Chúa Tối
Cao mà ông tôn thờ. Ngài là Đấng dựng nên trời đất, nên Ngài cũng là chính
Giavê, Chúa của dân Israel. Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy
Ngài là Chúa toàn năng của tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài.
Tất cả những tư cách này khiến con cái Israel –cũng như tổ phụ Abraham thấy
ngay Ngài cũng là Thiên Chúa của họ và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ
đầu vẫn là đô thị của Thiên Chúa.
Điều này cũng
nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ Đấng dựng
nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo, chứ tôn
giáo tự nhiên thờ Đấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải, nên vẫn
đáng trọng.
Tuy nhiên Cựu
Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisêdek như phụng vụ muốn cho
chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trên tay vị tư tế
mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Đấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh rượu sẽ
được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Đấng dựng nên
trời đất, ngay từ buổi đầu của lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh rượu
làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisêdek nói lên lòng tôn thờ tự
nhiên, chuẩn bị cho việc tôn thờ hoàn chỉnh sau này.
Do đó ngày nay
trong Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu 'là hoa mầu ruộng đất và lao
công vất vả của con người' để trở nên Mình và Máu Chúa Kitô. Thánh lễ của chúng
ta kiện toàn lễ dâng của Melkisêdek. Bánh rượu trên tay vị tư tế này đang chờ
được vị thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy, Thánh lễ của chúng ta đã bắt
nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua Melkisêdek và cho tới
nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng tất cả lịch sử làm của
lễ khi nhận lấy bánh rượu đã được dâng từ thời Melkisêdek để trở nên bánh nuôi
sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và Melkisêdek là
hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó có cả chúng
ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ tới vị tư tế xa xưa này. Mỗi khi
cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử. Chúng ta
muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đã biến đổi nên Mình
và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và hoàn chỉnh
mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này. Chúng ta
hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.
2. Bánh rượu
trong tay Chúa Giêsu.
Chắc chắn, khi
còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần cầm lấy bánh
rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ lại một lần,
lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Ngài ra đi chịu chết.
Lần ấy Người đã
cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến nỗi mỗi khi
nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ đến lần này và
lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần khác. Chính vì vậy
mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Đức Giêsu cầm lấy bánh
rượu ở bàn Tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể việc Đức Giêsu cầm
lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc này xảy ra
trước bữa Tiệc ly; nhưng như đã nói, môn đệ Chúa đã kể lại việc này theo 'khuôn
mẫu' của việc Người cầm lấy bánh rượu ở trong bữa ăn cuối cùng. Thành ra, chính
bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù câu truyện kể ở đây
đã xảy ra trước, nhưng đã được viết lại sau và theo kinh nghiệm bàn Tiệc ly.
Thánh Phaolô
viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật, đây là
điều người đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại cho
tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới có
thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ vẫn hội họp
nhau để cử hành 'bữa tiệc của Chúa'. Nhưng Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là 'của
Chúa' cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn,
cũng mang phần riêng của nhà mình tới. Người có nhiều thì ngồi chung với nhau
ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ những người khác. Những người này nghèo
hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách buồn bã. Người ta chỉ mượn 'Nhà của
Chúa' để mang đồ ăn của 'nhà mình' tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để
ăn uống chứ không cử hành 'bữa ăn tối' của Chúa nữa.
Thế nên để sửa
dạy giáo dân của Ngài, Phaolô nhắc lại thế nào là 'bữa ăn' đích thực của Chúa.
Người làm cho họ nhớ giáo huấn chân truyền. Và sự thật ấy thế này: trong đêm bị
nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy bánh và tạ ơn xong, Người đã bẻ ra và nói: "Này
là Mình Ta... vì các ngươi...". Cũng vậy về Chén, sau khi dùng bữa tối
xong, Ngài nói: "Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta, các ngươi hãy làm
sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta".
Chỉ trong mấy
câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Người nói rõ việc ấy xảy ra
trong đêm Đức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ gắn liền
với cuộc khổ nạn của Người. Và 'Bữa Ăn Của Chúa' luôn luôn mang sắc thái của
bữa Tiệc ly.
Đó cũng là bữa
ăn Vượt Qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi Ai Cập và tin
tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong tương lai cho
đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa từng loan báo.
Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là việc cốt
yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Đức Giêsu lại tuyên bố: đây là Mình
Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó là chén giao ước
mới. Do đó, rõ ràng Người đã tự coi, tự hiến mình nên Chiên Vượt Qua để mang
đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các môn đệ không
lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ của Chúa Giêsu đã khai trương thời đại mới.
Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của Người hôm
nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu, vì phải đợi đến ngày hôm
sau khi thấy Mình Ngài bị nộp và Máu Ngài chảy ra họ mới biết hết ý nghĩa.
Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người hôm
nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang
thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Đức
Giêsu đã bảo: 'Phải làm sự này mà nhớ đến Người'. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài,
nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được Giao Ước mới, phải
làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy bánh rượu mà làm như Ngài.
Thế mà giáo dân
Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô phải bảo họ 'mỗi lần anh em ăn bánh và
uống chén ấy, anh em loan báo sự chết của Chúa... anh em làm bất xứng, thì sẽ
mắc tội đối với Mình và Máu Chúa.
Những lời này
tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã trở nên
Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa hiện diện
nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời thánh Phaolô vừa nói đã đạt yêu cầu.
Nhưng mục đích của thánh Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của
Chúa nơi Thánh Thể; Người muốn rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có tâm
tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Đây là bữa ăn
Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho đến nay
với tâm tình tạ ơn, nhưng cũng với 'ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm khuyết để
ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và chén rượu.
Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ đến cuộc Tử
Nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh Người đã dâng
để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở lại.
Bánh rượu trên
tay Chúa, vì thế, không còn phải chỉ là bánh rượu như trên tay Melkisêdek nữa.
Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên, thì
trên tay Chúa Giêsu, bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và giao ước cũ. Đó
không phải chỉ là hoa mầu ruộng đất, nhưng còn là lao công vất vả của con
người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới, nhờ mầu nhiệm
Chúa Giêsu nơi bí tích bánh rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn thờ.
3. Bánh rượu
trên tay chúng ta.
Dĩ nhiên khi
dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì lời thánh
Phaolô nói với tín hữu ở Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục đích cuối
cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ 'Bữa Ăn Của Chúa', mà
còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành tiệc
Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Ở đây chúng ta
hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu của Đức Giêsu
nơi bàn Tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác mà Đức Giêsu
cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở bàn Tiệc ly và
dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả. Điều này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm
nay. Thánh Luca kể hôm ấy Chúa muốn thết đãi những người đi theo Chúa vào nơi
hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi... Rồi
Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt lên trời và chúc tụng trên
bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết đãi dân chúng.
Chúng ta bảo bữa
ăn này báo trước bàn Tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội Thánh; hay
chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn Tiệc ly đã cung cấp cho thánh
Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu truyện xảy ra trước? Dĩ nhiên câu truyện
này cũng có ý báo trước những việc xảy ra sau... nhưng chính những sự kiện xảy
ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu truyện xảy ra trước và cung cấp cho nó những
tài liệu để diễn tả.
Chúng ta không
cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì thánh Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể
trong Hội Thánh để thuật câu truyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem
ngoài các yếu tố báo trước bàn Tiệc ly và tiệc Thánh Thể, thánh Luca còn muốn
chú trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các Tông
Đồ. Lúc đầu họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân.
Nhưng được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn
sàng làm thêm. Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả mình xuống thành từng cỗ. Ngài
trao bánh cá cho họ phân phát... cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng
số 12 Tông Đồ.
Những điều ấy há
không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết
nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Mình
Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của ăn vật chất và tài
năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta không phải chia sẻ
những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn
thu lại được 12 giỏ vụn?
Chắc chắn Hội
Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên
khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ
vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên thánh Phaolô đã phải
nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta: chúng ta sốt sắng
tôn thờ Thánh Thể, nhưng có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để
không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế nên hôm nay
chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc, để khi long trọng tôn thờ Chúa trong
Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái, để mỗi lần cử hành bàn tiệc
của Chúa chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn tiệc thánh được Chúa
nuôi thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với anh em và
chia sẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ, chúng ta có bánh rượu là hoa
mầu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh nuôi sống và
của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
4. Ngài cầm bánh
bẻ ra
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Ăn uống là
chuyện bình thường của mọi sinh vật.
Khi tôi ăn uống,
đồ ăn thức uống trở thành tôi.
Tôi sống, tôi
hoạt động, tôi lớn lên, nhờ chút rau xanh, cá tươi, đậu trắng.
Tôi được nuôi
bằng trời cao, đất rộng và biển cả.
Từ lâu Đức Giêsu
mang một khát vọng lớn, đó là nuôi sống linh hồn con người, nuôi mọi tín hữu thuộc
mọi thời đại, và nuôi họ bằng chính bản thân Ngài, bằng cái chết và sự sống của
Ngài.
Ngài có mắc bệnh
hoang tưởng không?
Cái chết trên
thập giá và sự phục sinh vinh hiển cho ta thấy Đức Giêsu là con người bình
thường khi Ngài cử hành bữa Tiệc Ly tối hôm đó.
Ngài muốn ta
tham dự vào cuộc Vượt Qua của Ngài, Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho ta;
thành đồ ăn bằng cách biến tấm bánh thành Thịt Mình Ngài, thành thức uống bằng
cách biến rượu nho thành Máu Ngài.
Như thế ai ăn
Tấm Bánh và uống Chén Rượu đã được Ngài biến đổi nhờ quyền năng Thánh Thần,
người ấy nên một với Ngài.
Không phải Ngài
trở thành người ấy, cho bằng người ấy trở thành Ngài.
"Hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy."
Mỗi thánh lễ là
một lần nhớ đến và làm sống lại hy tế duy nhất năm xưa trên Núi Sọ.
Bí tích Thánh
Thể là một sáng kiến của Tình Yêu. Tình Yêu luôn có nhiều sáng kiến bất ngờ và
kỳ diệu.
Cần ngắm nhìn cử
chỉ bẻ bánh của Đức Giêsu.
Tấm bánh trở
thành Tấm Thân Ngài được bẻ ra và trao hiến trên thập giá.
Trong bài Tin
Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bẻ bánh để môn đệ phát cho dân.
Bẻ ra và trao đi
trở thành phép lạ nhân lên mãi.
"Anh em hãy
cho họ ăn đi."
Như các môn đệ,
chúng ta cũng lúng túng và bất lực trước cơn đói của con người hôm nay, đói cơm
bánh, đói tình thương, đói được tôn trọng.
Nếu chúng ta dám
trao cho Đức Giêsu tất cả những gì chúng ta có, dù chỉ là nhỏ nhoi; nếu chúng
ta chịu để cho Ngài bẻ ra, và làm vỡ tan mọi tính toán ích kỷ, thì chúng ta có
thể nuôi được cả thế giới.
Thỉnh thoảng bạn
nên cầu nguyện trước Thánh Thể. Bạn có thể học được nhiều điều.
Con Thiên Chúa
vinh quang rất mực, lại khiêm tốn hiện diện dưới dạng tấm bánh mong manh, lặng
lẽ, đơn sơ.
Tấm bánh không
biết nói, không sống cho mình.
Tấm bánh hiện
diện là để cho người ta thưởng thức, và tan biến ngay sau khi được hưởng dùng.
Chúng ta có thể
bắt chước lối hiện diện ấy của Chúa Giêsu Thánh Thể không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh lễ có làm
thay đổi đời bạn không? Việc rước lấy Đấng đã tự hiến qua cử chỉ bẻ bánh có
giúp bạn dám chia sẻ đời mình cho tha nhân không?
Để có một thánh
lễ Chúa Nhật đầy ý nghĩa, bạn thấy mình phải chuẩn bị trong cuộc sống ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm, ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân, và nhắc
con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện
diện ấy lan toả khắp nơi, để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ. Nơi xóm nghèo
mùa mưa nhớp nháp, nơi lớp học tình thương lúc chiều tà, nơi những trung tâm
phục hồi nhân phẩm, nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ, nơi khách
sạn năm sao, nơi quán bia đầu ngõ, nơi các tiệm cho mướn băng video, nơi tình
yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa,
trước hết, xin cho đời con là một ngọn đèn, xin cho chúng con là những ngọn đèn
màu đỏ, mời người ta dừng lại, trầm tư, và gặp được Chúa.
5. Dâng lời chúc
tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ
(Trích trong
'Mỗi Ngày Một Tin Vui' – R. Veritas)
Trong ngày lễ
kính Mình Máu Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng về phép lạ
bánh hóa nhiều. Đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Phúc Âm thuật lại. Đây cũng
là một phép lạ công khai trước mặt một số đông người. Năm chiếc bánh và hai con
cá trở thành lương thực nuôi khoảng năm ngàn người mà vẫn còn dư mười hai thúng
miếng vụn. Thánh sử Luca nhấn mạnh đến vai trò của nhóm Mười Hai trong phép lạ
này. Chính họ đã chủ động xin Chúa Giêsu giải tán đám đông để những người này
tìm chỗ ăn, chỗ ở. Và Chúa Giêsu dường như muốn đưa ra một thách đố cho nhóm
Mười Hai: "Chính các con hãy cho họ ăn". Hãy lo cho họ sau khi đã
được nghe giảng về Nước Thiên Chúa, được chữa lành khỏi mọi tật bệnh. Các môn
đệ thấy mình bất lực trước nhiệm vụ này dù mới đây họ đã được sai đi rao giảng
và chữa bệnh vàđã thành công. Điều duy nhất họ có trong tay là năm chiếc bánh
và hai con cá, nhưng chừng ấy thấm vào đâu so với nhu cầu của dân chúng: "Ở
nơi thanh vắng này, dù có tiền cũng không mua được đủ bánh". Chúa cần các
môn đệ nhìn nhận sự bất lực của họ, để rồi Ngài mời gọi họ cộng tác vào việc
nuôi sống dân chúng. Các môn đệ, theo lệnh của Chúa Giêsu, đã chia đám đông
thành từng nhóm nhỏ. Chính các ông đã trao bánh và cá cho Chúa Giêsu để rồi
nhận lại từ tay Ngài và trao cho đám đông. Phép lạ đã xảy ra trên bánh này khi
Chúa Giêsu chúc tụng và bẻ ra. Chúng ta không tưởng tượng nổi số lượng khổng lồ
bánh và cá đã phát sinh từ hành vi bẻ ra này. Bẻ ra và trao đi trở thành phép
lạ nhân lên không ngừng.
Có thể hôm nay
chúng ta cũng thấy mình đứng trước những nhu cầu lớn lao của con người. Nhân
loại vẫn ở trong tình trạng đói về nhiều mặt. Hàng giờ có biết bao trẻ em chết
đói trên thế giới này. Trong tay chúng ta chỉ vỏn vẹn vài tấm bánh nhỏ, chúng
ta lúng túng và thấy mình bất lực. Nếu chúng ta dám trao cho Chúa Giêsu tất cả
những gì chúng ta có; nếu chúng ta để cho Ngài thánh hóa những cố gắng nhỏ bé
của mình; nếu chúng ta chỉ coi mình là người cộng tac của Thầy Giêsu đến phục
vụ con người, thì phép lạ vẫn có thể xảy ra hôm nay. Chúng ta vẫn có thể nuôi
cả thế giới no nê và dư dật, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa.
Chúng ta đọc lại
câu 16 đoạn Tin Mừng trên: "Chúa Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông
dọn ra cho đm đông". Khi kể lại cử chỉ của Chúa Giêsu làm lúc lập bí tích
Thánh Thể, thánh Maccô cũng sử dụng bốn động từ trên đây. Và trong biến cố hai
môn đệ về Emaus, chúng ta cũng thấy thánh Luca dùng lại bốn động từ này:
"Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ". Cử chỉ
quen thuộc này đã làm cho hai môn đệ nhận ra Chúa Giêsu. Giáo Hội thời khai
sinh hẳn đã thấy sự liên hệ giữa phép lạ bánh hóa nhiều và bí tích Thánh Thể.
Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đều dùng một cử chỉ mà mời người khác ăn
tấm bánh Ngài trao cho. Rất có thể ý định lập bí tích Thánh Thể được khơi mào
từ sau phép lạ bánh hóa nhiều. Những chiếc bánh vật chất như đã giảm cơn đói
cho một số người nhất định trong một thời gian nhất định. Mana ngày xưa trong
sa mạc cũng không cho người ta sự sống sau cái chết.
Bữa tiệc ly
không phải là một hành vi đột xuất không suy nghĩ trước. Trái lại, Chúa Giêsu
đã phải bận tâm với mơ ước nuôi cả nhân loại, nuôi họ bằng chính bản thân Ngài
và ban cho họ sự sống vĩnh cửu: "Này là mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con.
Này là chén máu Thầy, sẽ đổ ra cho các con". Chúa Giêsu mời chúng ta ăn
tấm bánh và uống chén rượu đã được thánh hiến để có dịp tham dự vào cái chết và
sự phục sinh của Ngài; vào chính bản thân Ngài. Bí tích Thánh Thể là sáng kiến
của một tình yêu biết tìm kiếm.
Cựu ước đã hứa
rằng trong những ngày sắp đến, Thiên Chúa sẽ nuôi dân Người dư dật. Chúa Giêsu
đã làm trọn lời hứa đó phần nào qua phép lạ bánh hóa nhiều. Nhưng đó cũng chỉ
là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Khi thông hiệp
với Chúa Kitô Phục Sinh với hình bánh và hình rượu, chúng ta còn cần đến đức
tin, chúng ta mong chờ ngày được tham dự bữa tiệc ở Nước Trời, nơi chúng ta
thông hiệp trọn vẹn với Ngài, không qua bức màn đức tin nữa nhưng diện đối
diện. Chúa Giêsu đã bẻ bánh nhiều lần trong cuộc đời của Ngài. Đời Ngài được
kết tinh trong hành vi bẻ bánh. Tấm bánh trong bữa tiệc ly đã trở thành tấm
thân Ngài được bẻ ra và trao cho con người qua cái chết trên thập giá:
"Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy". Giáo Hội thời khai sinh đã
không quên mệnh lệnh đó, họ tiếp tục cử hành bí tích Thánh Thể mà họ gọi là lễ
bẻ bánh tại các nhà riêng của tín hữu. Bẻ bánh trở thành nét đặc trưng của cộng
đoàn Kitô sơ khai. Nghi thức này thường được cử hành vào ngày Chúa Nhật, ngày
thứ nhất trong tuần.
Xin Chúa giúp
chúng ta gặp Ngài trong lễ bẻ bánh.
6. Suy niệm của
Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong
'Cùng Đọc Tin Mừng')
KHI NGƯỜI TA
BIẾT CHIA BÁNH CHO NHAU THÌ THẾ GIỚI SẼ KHÔNG CÒN NẠN ĐÓI
Phép lạ bánh là
phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả
thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14, 13-21 và15, 32-38.) và Mác cô (6,35-44 và
8, 1-10) Luca ( 9, 12-17) và Gioan (6, 1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy
chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là:
khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái
đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển... được
Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao
có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều
người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư
dật nên mới xảy ra tình trạng "người thì ăn không hết, người thì làm không
ra".
Một chủ tiệc hào
phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có
một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực
phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, cho
con cháu... thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay
cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực
trên đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu cùng nhường nhau mà ăn,
thì không ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay,
có những người nắm trong tay những nhà máy lớn, nắm bắt công nghệ tiên tiến nên
đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người không có phương tiện
sản xuất, không thủ đắc những công nghệ mới đành phải chịu cảnh thiếu đói.
Qua phép lạ bánh
hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số
bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ
mà còn dư.
Hôm ấy, dân
chúng theo Chúa Giê-su, say mê nghe lời Ngài giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày
tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giê-su giải tán đám đông để họ kịp trở về các
làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giê-su bảo
các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Chúng
con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn
người ăn?"
Thế rồi
"Chúa Giê-su truyền cho dân chúng ngồi xuống, Ngài lấy năm chiếc bánh và
hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để
các ông dọn ra cho đám đông."
Các môn đệ trố
mắt nhìn Chúa Giê-su kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi
thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Noi gương các môn đệ, trong đám đông cũng có một số người mang theo chút lương
thực dự phòng, cũng mang phần ăn ít ỏi của mình ra mà trao cho người bên cạnh.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với
nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì
phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được
chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết
còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng
như hũ bột của bà goá Sa-rép-ta. Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn
đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi
trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Ê-li-a truyền
dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không
vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi.
(I Vua 17, 7-16).
Nếu hôm nay,
nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giê-su: "Các con hãy cho họ ăn" để
rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn
nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể
của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và
tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà
không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo.
Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ
ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả
lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì
đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".
Mẹ Têrêxa kết
luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
7. Chạnh lòng
thương – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích trong
'Cùng Nhau Suy Niệm')
Mỗi người chúng
ta đã từng nghe, từng nói những câu mời gọi sống tình liên đới và chia sẻ bác
ái với nhau trong tình làng nghĩa xóm như: "Lá lành đùm lá rách", hay
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải thương nhau
cùng". Sự liên đới đồng cảm với nhau trong tình thần "Tứ hải giai
huynh đệ" để có thể "thương người như thể thương thân". Đó là
những lời răn dạy của tổ tiên, là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống của người
dân Việt chúng ta. Một dân tộc đặt chữ tình lên trên mọi mối quan hệ giữa người
với người để có thể "tối lửa tắt đèn có nhau". Thế nhưng, có mấy ai
đã thực sự sống điều đó? Có mấy ai đã thực sự sống đùm bọc lẫn nhau? Tại sao
một nền văn hóa tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam mà lại có sự chênh
lệch giầu nghèo quá lớn như ngày hôm nay? Ở giữa những phồn hoa của nền kinh tế
thị trường hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời đói rách bần cùng, kiếm ăn từng
bữa, đôi khi cũng chỉ được bữa cơm, bữa cháo! Ngày nay khi xã hội thay đổi,
cuộc sống người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc. Thì ở đâu đó rất gần chúng ta
vẫn còn có những mảnh đời lạnh giá cả về thể xác lẫn tâm hồn. Họ là những người
vô gia cư bị xã hội đẩy ra bên lề xã hội. Họ là những em bé bị bỏ rơi, bị lợi
dụng đang ăn xin, bán vé số, lượm ve chai. Họ là những người tật nguyền không
có tiền để đến bệnh viện đành chấp nhận sống lây lất qua ngày ... Họ là những
con người nghèo đang chờ từng hạt cơm rơi hay từng nghĩa cử bác ái của chúng
ta.
Song le, cái
đói, cái nghèo không chỉ đến với một vài cá nhân nhưng đôi khi cũng bám vào cả
một làng, một xã. Theo báo Nông Nghiệp Việt Nam, trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên -
Huế, có một ngôi làng mà cư dân phải đối mặt với nạn đói quanh năm. Đó là làng
Trung Chánh, xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, một ngôi làng không ruộng, không vườn,
ăn không đủ no, trẻ con không được đến trường. Báo Nông Nghiệp ghi nhận về tình
cảnh khốn khổ của dân làng này qua đoạn ký sự như sau.
Làng Trung Chánh
nằm sát đầm Cầu Hai, phá Tam Giang. Cuộc sống ở đây chỉ theo đuổi con tôm, con
cá ở đầm. Khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cả thôn từ già đến trẻ lại kéo
nhau "gieo mình" xuống đầm, xuống biển mưu sinh. Cứ như vậy, người và
lưới rong ruổi khắp các con đầm, kênh, lạch và ra tận biển từ đêm đến sáng hôm
sau. Trong làng chỉ còn lại những người già yếu và trẻ con 3-4 tuổi trong những
căn nhà lụp xụp, xiêu xẹo, dột nát.
Làng Trung Chánh
6 giờ sáng, khi những "chuyến đò đêm" trở vào bờ. Cả thôn náo nhiệt
tiếng í ới gọi nhau, đàn ông xả lưới, đàn bà quảy hàng đi chợ, trẻ con hò nhau
phụ giúp bố mẹ nhặt từng con tôm, con tép còn sót lại. Đã từ lâu dân Trung
Chánh hình thành nên thói quen bất đắc dĩ là mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm:
"Cả thôn này không có bữa cơm trưa, bữa tối, thường thì chỉ ăn "bữa
cơm chính" vào lúc 8-9 giờ sáng, rồi sau đó cả làng cùng đi ngủ, đến tối
lại đi làm" một người dân tên Hạnh tâm sự như thế. Và cái tên "làng
đói" cũng ra đời từ đó. Buổi trưa, cả thôn không có lấy một nhà nổi lửa.
Không gian đìu hiu, chỉ có bóng dáng những đứa trẻ con đầu tóc vàng hoe vì
nắng, vì gió tụ tập quanh những bóng tre. Chúng vẫn chưa đến tuổi làm nghề nên
vẫn còn được chơi đùa thoả thích. Còn cha, mẹ, anh chị của chúng đã tranh thủ
ngủ lấy lại sức sau một đêm dài thức trằng trên đầm, trên phá.
Cũng theo báo
Nông Nghiệp Việt Nam, khi kể về chuyện nợ của người dân trong thôn, cư dân Mai
Thị Gái chua xót nói với phóng viên "Chú không tin cứ đi hỏi mười người
trong thôn này thì có đến... mười một người mắc nợ. Khổ lắm chú ơi. Hồi trước
còn có cơm mà ăn, nhưng mấy tháng nay, nhiều gia đình đã chuyển sang...ăn
cháo".
Xem ra làng
Trung Chánh đang thiếu một tấm bánh được chia sẻ, được trao ban cho họ. Đất
nước chúng ta đang ngày một giầu có vật chất nhưng lại nghèo tấm lòng. Nghèo
đến mức chỉ tìm kiếm của cải cho mình mà vẫn chưa bao giờ thỏa mãn. Nghèo đến
mức chẳng nghĩ rằng mình có khả năng cho đi. Nghèo đến mức chỉ nghĩ vun quén
cho bản thân mà quên rằng mình còn có bổn phận chia sẻ cho anh em trong tình
liên đới anh em một nhà. Cái đói, cái nghèo lận vào cuộc đời người dân làng
Trung Chánh vì không được sự quan tâm của cộng đồng xã hội. Nếu "một con
ngựa đau cả tàu bỏ cỏ" thì cả một làng đói khổ sao cả một dân tộc không
chạnh lòng với những đói khổ của anh em mình?
Hôm nay lễ Mình
Máu Thánh Chúa là dịp để chúng ta nhìn lên tình yêu của Chúa. Chúa đã trao ban chính
sự sống của mình cho thế gian được sống. Chúa còn trao ban cả Máu Thịt Ngài để
trở nên của ăn của uống cho chúng ta. Có người cho rằng bánh và rượu làm sao
trở nên Thịt và Máu của Chúa Giê-su được. Thực ra, chúng ta ăn bánh và rượu vẫn
biến đổi thành thịt và máu của chúng ta thì Chúa Giê-su cũng có thể biến bánh
và rượu trở nên Máu Thịt Ngài. Điều quan yếu không dừng lại ở việc bánh và rượu
trở nên Máu Thịt Ngài mà hệ tại ở việc Ngài trao ban chính sự sống đó cho chúng
ta. Để "ai ăn bánh này sẽ không chết muôn đời". Như vậy, bánh và rượu
trở nên Mình và Máu thì dễ, điều quan yếu là chúng ta có dám trao ban chính sự
sống đó cho tha nhân hay không?
Nguyện xin Mình
và Máu Thánh Chúa cũng biến đổi chúng ta trở nên giống Chúa. Giống Chúa ở trái
tim biết chạnh lòng thương xót trước những khổ đau của anh em. Giống Chúa ở tấm
lòng sẵn sàng làm bất cứ điều gì để vơi đi nỗi khổ của anh em trong tình liên
đới chân thành. Giống Chúa ở việc cũng trở thành tấm bánh được sẻ chia cho tha
nhân được sống hạnh phúc. Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện cao dẹp của
chúng ta để mỗi cuộc đời chúng ta thực sự là tấm bánh đem lại cho nhân thế sự
no thỏa và niềm vui, hạnh phúc. Amen.
8. Tham dự Thánh
Lễ
Nhân ngày lễ
kính Mình và Máu thánh Đức Kitô hôm nay, tôi muốn đưa ra một câu hỏi để chúng
ta cùng nhau suy nghĩ, đó là: Người Kitô hữu có cần phải đi tham dự Thánh lễ
hay không?
Việc tham dự
Thánh lễ đối với nhiều người, dù chỉ trong ngày Chúa nhật, cũng đã là một gánh
nặng, một việc cực chẳng đã mới phải làm mà thôi. Dĩ nhiên hơn một tiếng đồng
hồ ở trong nhà thờ chẳng ăn nhằm chi với đời sống, với những tính toán làm ăn
và hưởng thụ của họ.
Nhưng nếu người
Kitô hữu là người suốt tuần cảm thấy mình là phần tử của Dân Chúa và ý thức
rằng thiên đàng không gì khác hơn là mọi người được hiệp nhất với Chúa và hiệp
nhất với nhau, thì làm sao người đó lại không hân hoan đi về nhà Chúa, lại
không cảm thấy mình cần phải có mặt trong cuộc gặp gỡ đầy tình mến thương, là
Thánh lễ.
Nếu người Kitô
hữu là người luôn ý thức sứ mạng của mình ở giữa lòng cuộc đời, là phải chu
toàn những nghĩa vụ trần gian từ trong gia đình đến ngoài xã hội, thì làm sao
người ấy lại không cảm thấy mình cần phải đến trước mặt Chúa, thú tội cùng anh
chị em và xin mọi người cầu khẩn cho mình trước tôn nhan Chúa?
Nếu người Ki tô
hữu là người suốt tuần muốn được ánh sáng đức tin soi cho thấy mọi sự và tìm
hiểu ý Chúa trong mọi hoàn cảnh và trong mọi biến cố, thì làm sao người ấy lại
không cảm thấy mình cần phải đến lắng nghe và suy gẫm lời Chúa?
Nếu người Kitô
hữu là người suốt tuần không nhắm mắt và bịt tai lại, nhưng đã biết nhìn thấy
những khổ đau vật chất cũng như tinh thần ở chung quanh mình, đã biết chia sẽ
những niềm vui cũng như những nỗi buồn với mọi người anh em, và nếu người đó đã
từng mang trong cõi lòng niềm hy vọng thúc đảy mọi người tiến đến sự giải thoát
của Đức Kitô, thì làm sao người ấy lại không mang niềm hy vọng và nỗi chờ mong
đó, hợp với những ý nguyện trong Thánh lễ mà dâng lên Thiên Chúa toàn năng?
Nếu người Ki tô
hữu là người luôn ý thức rằng mọi sự mình có từ mảnh vườn và hạt lúa đến vợ
chồng và con cái...đều do Chúa ban, còn mình thì có nhiệm vụ khai thác đất đai
để giúp ích cho mọi người, thì dĩ nhiên người ấy sẽ hiểu vì sao Thánh lễ lại
được gọi là lễ tạ ơn và vì sao mình phải cảm tạ Đức Kitô, Đấng phụng thờ Chúa
Cha cách hoàn toàn hơn bất kỳ một người nào khác.
Nếu suốt tuần,
sự lao động được quan niệm như là một việc thờ phượng Thiên Chúa, nếu những
công lao khó nhọc và những nỗi đau buồn trong tuần đã được biến thành một của
lễ thiêng liêng, thì chúng ta hiểu được vì sao cần phải đem tất cả những lễ vật
xuất phát từ lòng cuộc đời ấy kết hiệp với của lễ tinh tuyền của Đức Kitô mà
dâng lên cho Thiên Chúa.
Việc dâng lễ và
rước lễ chỉ có ý nghĩa và giá trị, đồng thời trở nên niềm vui mừng và hy vọng,
nếu như trước và sau khi đến nhà thờ, chúng ta cảm thấy mình chỉ có một nghĩa
vụ là yêu mến Thiên Chúa trong anh em và yêu mến anh em trong Thiên Chúa, khi
đó chúng ta mới cảm thấy rằng chúng ta không có cách nào hơn để sống, ngoài
việc kết hiệp với Đấng đã vì yêu thương mà hiến mình trên thập giá và hiện đang
sống để chuyển thông sức mạnh tình yêu ấy cho mỗi người chúng ta.
Bởi đó, hãy
siêng năng tham dự thánh lễ và sốt sắng rước lễ, nhờ đó chúng ta sẽ kín múc
được những lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn, mà thánh lễ đem lại cho mỗi người
chúng ta.
9. Để tưởng nhớ
Thầy
(Trích trong
'Manna')
Suy Niệm
Trong thư thứ
nhất gởi tín hữu Corintô, viết năm 57, thánh Phaolô cho chúng ta một chứng từ
cổ xưa về bí tích Thánh Thể mà ngài gọi là bữa ăn của Chúa. Ngài khẳng định
rằng ngài chỉ là người truyền đạt lại những gì mình đã lãnh nhận từ truyền
thống Giáo Hội.
Bí tích Thánh
Thể là một sáng kiến của Đức Giêsu trong bữa ăn vào đêm Người bị nộp.
Tấm bánh thành
Mình Thầy: hãy cầm lấy mà ăn.
Chén rượu thành
Máu Thầy: hãy cầm lấy mà uống.
Đức Giêsu còn
mời ta làm lại những gì Người đã làm:
"Anh em hãy
làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ Thầy."
Giáo Hội đã vâng
lời từ 20 thế kỷ. Có biết bao thánh lễ đã được cử hành trên mặt đất. Thánh lễ
nào cũng là một bữa ăn do Chúa thết đãi, và cũng là một nghi thức tưởng nhớ cái
chết của Chúa.
Không thể tách
rời thánh lễ với cái chết của Đức Giêsu. Mình Thầy sẽ bị nộp, Máu Thầy sẽ đổ ra
vì anh em.
Rước lễ là rước
lấy Đấng đã chết vì loài người, như thế là hiệp thông vào cái chết thập giá.
Mỗi lần dự lễ,
chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết. Nhưng Đấng đã chết cũng là Đấng đã sống
lại, Đấng đang ngự bên hữu Cha và sẽ đến trong vinh quang. Rước lễ chẳng phải
là rước một thi hài người chết, mà là đón lấy Đấng đang sống và đang ban sự
sống.
Dự thánh lễ là
dự một bữa ăn như bữa Tiệc ly, là tham dự vào hy tế năm xưa trên Núi Sọ. Chính
vì thế ta không nên dự lễ với hai bàn tay trắng. Cần đem theo tấm bánh của mình
trong ngày qua, tuần qua. Tấm bánh làm từ lúa của đất, công của người.
Chúa Giêsu cần
tấm bánh của tôi, để Người biến đổi. Thánh Thần cần tấm bánh của tôi, để Người
thánh hoá.
Chúa Kitô không
từ trời cao ngự xuống tấm bánh. Đúng hơn, Người nâng tấm bánh lên tới Người, và
biến nó thành lương thực thần linh nuôi tôi. Như thế, tấm bánh thánh mong manh
nhỏ bé lại là nơi hội tụ của cả Thiên, Địa, Nhân. Vũ trụ, con người và Thiên
Chúa gặp nhau, hoà quyện.
Bí tích Thánh
Thể góp phần biến đổi cả vũ trụ loài người. Những gì là tự nhiên, nay được thần
hoá, được biến đổi tận căn mà vẫn không đánh mất chính mình.
Lễ vật tôi dâng
lên Chúa, Chúa trao lại cho tôi. Bánh bởi trời cũng là bánh bởi đất...
Mỗi phút trên
trái đất, có bao tấm bánh được trao đi.
Trong mỗi tấm
bánh bình thường được bẻ ra và trao đi, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh
Mình Chúa.
Chính nhờ được
nuôi bằng bánh thánh tại bàn thờ, mà ta có thể chia sẻ cho tha nhân tấm bánh
vật chất, và những tấm bánh tinh thần.
Hãy dâng tất cả
những gì thuộc về trái đất và con người, để Đức Kitô biến đổi thành Tấm Bánh
Khổng Lồ dâng lên Cha.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm
của bạn, rước lễ đem lại lợi ích gì cho cuộc sống?
Thánh lễ trở nên
nhàm vì chúng ta thường đi xem linh mục làm lễ, và chẳng mang theo một lễ vật
nào. Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự thánh lễ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Chúa
là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con
càng đói; càng uống, con càng khát; càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào
trong cổ họng con hơn cả tầng mật ong, vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên
đời.
Lúc nào con cũng
thấy đói khát và ước ao, vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát
con hay con nghiền nát Ngài? Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con, con cảm thấy
cả hai.
Chúa đòi con nên
một với Ngài, đòi hỏi đó làm cho con đau đớn, vì con không muốn từ bỏ những
thói quen của con để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ
ơn Chúa, ca ngợi và tôn vinh Chúa, bởi đó là sự sống đời đời cho con.
Ruy Broeck
10. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
THÁNH LỄ TRONG
NHÀ THỜ VÀ THÁNH LỄ NGOÀI CUỘC ĐỜI
Đức Hồng Y
Hellder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ đạo. Khi đến nơi,
Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất, đấm ngực khóc lóc than van
như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức
Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm
đổ Mình Thánh Chúa ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật
là một sự phạm thánh ghê gớm.
Thế nhưng trong
bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm cho mọi người kinh ngạc khi Ngài nói: Tại
sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục
mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô
gia cư, trong các trẻ em không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than
khóc? Anh chị em không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là
Thân Mình Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức
Hồng Y không có ý coi thường phép Mình Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta
một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó phải là cử
hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử hành cả ngoài cuộc đời nữa.
Đọc bài Tin Mừng
hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:
1- Diễn tiến
phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn biến một Thánh Lễ. Nếu Thánh Lễ
gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phục vụ Thánh Thể thì trong bài tường thuật
hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân
chúng được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh đã được
chúc phúc. Đây quả là một Thánh Lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh Lễ không
có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.
2- Cử chỉ và lời
nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập phép Mình Thánh Chúa và khi
dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn văn trên đều tả
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ.
Tại sao có sự
trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu rằng: Bí tích không chỉ là
một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời,
phản chiếu đời sống và đem lại lợi ích cho đời sống.
Nếu trong Thánh
Lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì ngoài cuộc đời, Người đã
ban lương thực nuôi thân xác.
Nếu Thánh Lễ là
một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã tổ chức một
bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50 người để họ chia sẻ với nhau không chỉ
cơm bánh mà còn tâm tư tình cảm nữa.
Nếu trong Thánh
Lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình bánh rượu, thì ngoài cuộc
đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh giá.
Nếu trong Thánh
Lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát, thì ngoài cuộc đời, thân
xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ nhúc, đòn vọt, đóng đinh.
Quả thật Chúa
Giêsu đã dâng Thánh Lễ không chỉ trong nhà thờ, mà Người còn dâng Thánh Lễ
ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản
thân mình. Người chỉ cử hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở
thành bí tích. Người không chỉ bẻ ra một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra
để ban phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị. Thái
độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.
Làm sao ta có
thể gọi Thánh Lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn còn giữ trong lòng những
thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự tiệc Thánh Lễ nếu chung quanh ta còn
biết bao anh em đói khổ, thiếu thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh Lễ nếu trong
cuộc đời ta không hiến mình cho anh em?
Khi truyền lệnh:
"Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Chúa Giêsu không chỉ
truyền cho ta cử hành Thánh Lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh
Lễ cả ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm
nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình vì anh em.
Việc cử hành
Thánh Lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử hành Thánh Lễ trong nhà
thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài cuộc đời, những nghi lễ trong nhà
thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối và phản chứng.
Xin cho bí tích Thánh Thể trở thành một sự thực trong đời sống.
Xin cho chúng ta biết thờ lạy Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn
nơi những anh em bé mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một
bí tích, chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1. Theo bạn, thế
nào là tích cực tham dự Thánh Lễ?
2. Rước lễ đem
lại những ơn ích nào cho đời sống thiêng liêng của bạn?
3. Bạn đã dâng
Thánh Lễ trong cuộc đời chưa?
11. Loại bánh
con người khao khát - Achille Degeest
(Trích trong
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Trên bình diện
giai thoại, nên nhắc đến một chú giải mới đây cho rằng đám đông theo Chúa là
một cuộc tập họp có dáng dấp quân sự... Theo lối nhìn ấy, tưởng nên phụ đề thêm
cho đủ bộ: Chúa chữa lành các bệnh nhân, vậy có nên nghĩ Chúa điều hành một sở
y tế không? Phải nói lên như vậy để chúng ta chú ý đến sự cần thiết đọc các bản
văn Kinh Thánh với tinh thần khách quan, không nên quên rằng nguy cơ là ở chỗ
để óc chủ quan làm cho hiểu sai ý nghĩa Kinh Thánh. Phê phán thẳng thắn với một
tâm hồn thanh khiết, là điều kiện phải có cho sự khảo cứu những tác phẩm nghiêm
chỉnh – đức tính ấy rất cần cho người đọc Kinh Thánh.
Ý định Thiên
Chúa trong sáng như thanh thiên bạch nhật, hiển hiện qua đoạn Phúc Âm thuật lại
phép lạ hóa bánh thành nhiều. Đức Giêsu đáp ứng những khát vọng sâu xa của nhân
loại bằng ân huệ sinh hóa bánh ăn và bằng chính bản thân Chúa lôi cuốn dân
chúng. Bài đọc hôm nay dễ hiểu, chỉ cần lưu ý ba chi tiết hấp dẫn:
1) Đức Giêsu
niềm nở với đám đông dân chúng theo Người.
Đức Giêsu là
Thầy được dư luận rộng rãi đồn đại. Ai cũng muốn đến gần để xem để nghe. Tới
một lúc, Chúa muốn lui ra một chỗ riêng biệt. Dân chúng đoán biết ý Chúa, vội
đến đó trước chờ Người. Thấy thế, Chúa tỏ ra niềm nở với họ. Chúng ta có thể
tưởng tượng Người có lẽ hơi bực mình, muốn nghỉ ngơi một lát vì mệt mỏi. Chúa
để đám đông vây quanh, như thể 'nuốt' lấy Người. Có ý kiến cho rằng linh mục
của Đức Giêsu Kitô được ơn kêu gọi trở nên một người bị 'nuốt'. Đối với Chúa,
điều nhận xét này đúng vô cùng. Chúa ban cho dân chúng một của ăn thiêng liêng
lâu bền hơn của ăn vật chất. Vậy của ăn mà loài người khao khát nhất là của ăn
thiêng liêng. Môn đệ Đức Kitô không được bao giờ quên rằng người xung quanh có
quyền đòi hỏi nhiều ở mình, mình phải niềm nở, phải tiếp tế cho những ai đói
khát.
2) Chúa nói với
họ về Nước Thiên Chúa. Và bảo các môn đệ: "Hãy cho họ ăn".
Cho họ của ăn
nào? Họ cần cả hai thứ, bánh phần hồn lẫn bánh phần xác. Con người là một bản
thể vừa vật chất vừa siêu nhiên. Nước Thiên Chúa dưới thế gồm những con người
cần có lương thực nuôi thân. Kitô hữu nào muốn trở nên môn đệ Đức Kitô trong sự
thật, kẻ ấy phải cố gắng phân phát của ăn vật chất cho những ai đói về thể xác,
nhưng không được quên rằng họ cũng đói về phần hồn. Thế giới ngày nay thiếu ăn,
kêu gọi chúng ta giúp đỡ – Đức Giáo Hoàng không ngớt nhắc nhở chúng ta điều ấy.
Chúng ta làm gì về mặt thực tế cho những kẻ ăn không đủ no? Thế giới đang kêu
gọi những người có trách nhiệm về Phúc Âm. Chúng ta có đem Phúc Âm thật đến cho
những kẻ đói khát sự thật không?
3) Bánh được Đức
Giêsu hóa thành nhiều là tiền-ảnh về Bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu tự hóa
thành nhiều như Người đã hóa năm chiếc bánh thành vô số của ăn. Phép lạ bánh là
dấu chỉ khiến chúng ta ý niệm về quyền năng vô biên của Thiên Chúa đem phục vụ
cho một tình yêu vô biên. Không có dấu hiệu yêu thương nào lớn hơn hiến mạng
sống mình. Đức Giêsu hiến mạng sống Người, hơn thế nữa, Chúa tặng tất cả bản
thân Chúa cho nhân loại. Chúa dùng quyền năng vô biên của Người phục vụ cho sự
hiến tặng ấy. Chúa tự hóa thành nhiều để hiến cho mỗi người chúng ta. Khi hàng
ngàn người rước lễ, có hàng ngàn con người riêng biệt, chính Đức Kitô hiến toàn
thân cho mỗi người rước Mình Thánh Chúa lúc đó.
12. Từ bàn tiệc
của Chúa đến bàn ăn của anh em
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Trên thế giới
ngày nay đang xảy ra hai sự kiện rất thời sự, nhưng cũng rất bi thảm và chua
cay: đó là cảnh một số người dư tiền thừa của, ăn uống lu bù... Và bên cạnh đó,
một thảm cảnh trái ngược khác: đó là hàng triệu người thiếu ăn, hay không có gì
để ăn... Ngay hôm nay đây, có những vùng rộng lớn trên thế giới-như Phi Châu-
đang thiếu ăn đến độ không sống nổi, bên cạnh những người khác đang phung phí
tiền của một cách phi nhân... Ăn uống tràn trụa, ăn chọ bội thực, ăn quá mà
chết, và người ta đã chết vì ăn quá nhiều cũng như biết bao nhiêu người khác đã
chết vì không có gì ăn!..
Trong hai thực
trạng bi thảm đó, có chung hậu quả nầy là: cái chết. No quá mà chết. Đói quá mà
chết. Tại sao lai chết? Vì hai nhu cầu không được đáp ứng: nhu cầu thứ nhất,
người ta muốn biết sống để làm gì? Tại sao lại sống? Vì thấy đời sống phi lý,
nên người ta ăn để mà chết, ăn cho nó nổ tung cái bụng ra cũng được! Nhu cầu
thứ hai, người ta muốn có cái gì ăn để sống. Sống bằng cái gì? Câu hỏi nầy lệ
thuộc hoàn toàn vào câu hỏi thứ nhất: sống để làm gì? Qua Bí tích Thánh Thể,
Chúa Giêsu trả lời: người ta sống với nhau và chia sẻ với nhau. Thánh Thể Chúa
ban cho chúng ta để thúc đẩy chúng ta chia sẻ tình yêu với anh em của mình. Nếu
chúng ta thực hiện được điều nầy là giải quyết được nạn đói trên thế giới.
Trong thư gửi
tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô vừa cho chúng ta một chứng cớ rất xa xưa về Bí
tích Thánh Thể, "Bữa tiệc của Chúa". Bốn sách Tin Mừng cũng ghi lại
những nét chính yếu về Bữa Tiệc nầy. Các tín hữu Côrintô vẫn hội họp nhau để cử
hành "Bữa tiệc của Chúa", nhưng Thánh Phaolô thấy chẳng có vẻ gì là
"Tiệc của Chúa" cả. Gần giống các bữa tiệc tôn giáo của dân ngoại,
bởi vì ai đến dự cũng đem phần ăn riêng của nhà mình đến. Người có nhiều thì
ngồi chung với nhau ăn nhậu say sưa thoải mái, bên cạnh đó những người nghèo
hơn đem theo phần ăn ít ỏi hay chẳng có gì, ôm bụng đói meo ngồi chờ... Người
ta chỉ mương "Nhà của Chúa" để đem đồ ăn của "nhà mình" đến
ăn nhậu. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành
"Bữa ăn tối của Chúa" nữa.
Vì vậy, để sửa
dạy giáo dân của ngài, thánh Phaolô phải nhắc lại thế nào là "bữa ăn"
đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại điều ngài đã nhận được nơi Chúa
Giêsu để truyền lại cho tín hữu, đó là: Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy
bánh và tạ ơn xong, Ngài đã bẻ ra trao cho các môn đệ mà nói: "Nầy là Mình
Thấy sẽ bị nộp vì anh em". Cũng vậy, sau khi dùng bữa tối, Chúa Giêsu cầm
chén rượu trao cho các ông mà nói: "Chén này là Giao Ước mới trong Máu
Thầy. Anh em hãy làm lại việc nầy mỗi khi uống mà nhớ đến Thầy".
Chỉ trong mấy
câu vắn tắt, Thánh Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc đó xảy
ra trong đêm Chúa Giêsu bị nộp. Cho nên việc ban bánh rượu nầy cho các môn đệ
gắn liền với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và "Bữa ăn của Chúa" luôn
luôn mang sắc thái của Bữa Tiệc Ly cũng là Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do Thái.
Trong Bữa Tiệc Vượt Qua nầy, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên cửa là
việc cốt yếu. Vậy mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Chúa Giêsu lại nói:
"Đây là Mình Ngài sẽ bị nộp và đây là Máu Ngài sẽ đổ ra". Rõ ràng
Chúa Giêsu đã tự coi, tự biến mình nên Chiên Vượt Qua để đem đến ơn cứu độ mà
các tiên tri từng loan báo. Ngài đã thay thế Bữa Tiệc Vượt Qua của người Do
Thái bằng Bữa Tiệc của Người hôm nay.
Vậy mà giáo dân
Côrintô đâu có làm như vậy. Thánh Phaolô phải bảo họ: "Mỗi lần anh em ăn
bánh và uống chén nầy, anh em loan báo cái chết của Chúa cho đến khi Ngài trở
lại. Anh em làm bất xứng thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa". Những
lời nầy tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh và rượu
đã trở nên Mình và Máu Chúa. Nhưng mục đích của Thánh Phaolô không phải chỉ nói
đến sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể mà còn khuyên chúng ta vì tính chất
linh thiêng của bữa ăn như vậy, nên phải cử hành Tiệc Thánh để gia tăng tình
yêu: Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn huynh đệ.
Đây mới là ý
nghĩa của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: Trước khi làm phép lạ nhân bánh ra
nhiều để nuôi 5.000 người ăn, chưa kể đàn bà và trẻ em, Chúa Giêsu bảo các tông
đồ: "Anh em hãy cho họ ăn đi!". Các ông ngạc nhiên, lúng túng và bắt
đầu tính toán: chúng ta chỉ có năm cái bánh và hai con cá; hay là phải đi mua
thức ăn cho cả đám đông nầy? Làm sao nuôi nổi tới năm ngàn đàn ông, còn đàn bà
và trẻ em chưa kể? Chỉ mua bánh cũng phải tốn ít ra là 200 đồng. Nhưng mua ở
đây vì đây là hoang địa? Chính Philip là người đang cố tìm câu trả lời. Các ông
định giải tán dân chúng để họ tự tìm lấy thức ăn và chỗ ở cho yên chuyện, vì
trời sắp tối rồi. Thấy các ông thú nhận sự bất lực của mình, Chúa Giêsu bảo các
ông chia đám đông thành từng tổ 50 người, rồi Ngài lại cầm lấy bánh và cá, chúc
tụng Chúa, bẻ ra và trao cho các ông đem phân phát cho dân chúng. Tất cả mọi
người đều được ăn no và cuối cùng còn thu lại được 12 thúng bánh vụn.
Những điều đó
đáng chúng ta suy nghĩ. Trong Bàn Tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải biết
nghĩ đến nhu cầu cảu anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa sẽ giúp. Máu
Thịt Ngài, Ngài còn trao cho chúng ta để chia sẻ huống nữa là của cải vật chất
và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người chúng ta. Chúng ta sợ
mất mát thiệt thòi sao, khi thấy cuối cùng còn thu lại được mười hai thúng bánh
dư thừa?
Vì vậy, hôm nay
chúng ta phải đi từ bàn tiệc của Chúa đến bàn ăn của anh em; đi từ chia sẻ Mình
Thánh Chúa đến chia sẻ tình hiệp thông bác ái huynh đệ trong việc xây dựng đời
sống cụ thể: cơm ăn, áo mặc, nhà ở... cho mọi người. Chắc chắn Giáo Hội ban đầu
đã hiểu rằng bàn tiệc của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh đệ, nên khi cử hành
Mầu nhiệm Thánh Thể, Giáo Hội cũng tổ chức việc chia sẻ nâng đỡ đời sống vật
chất. Giáo Hội Côrintô đã quên việc hiệp thông huynh đệ trong Bữa Tiệc Thánh
Thể, nên Thánh Phaolô đã khiển trách họ nặng nề: "Họ vẫn chia rẽ nhau, vẫn
không chia sẻ cho nhau; người giàu thì ăn uống no say, còn người nghèo thì ôm
bụng đói meo ngồi chờ" (1Cr 11).
Người ta phải
sống với nhau và chia sẻ cho nhau. Chúng ta sốt sắng dự lễ, rước lễ, tôn thờ
Thánh Thể, nhưng chúng ta có biết chia sẻ với nhau một cách thực tế không, để
trên thế giới ngày nay không một ai phải thiếu thốn quá, đang khi những người
khác thì no đầy; để không còn xảy ra thảm cảnh những người chết vì bội thực bên
cạnh những người chết vì không có gì để ăn!
Nơi Bàn Thánh
chúng ta được nuôi dưỡng bằng sự sống của Chúa. Sự sống mới nầy phải đưa chúng
ta đến với anh em và chia sẻ với anh em. Các bí tích không phải là những phương
tiện để chúng ta được cứu sống mà còn để chúng ta thành những người đi cứu hộ
kẻ khác nữa. Bởi đó, tất cả những gì làm cho mọi người liên kết, hoà hợp, yêu
thương nhau phải thúc đẩy chúng ta không ngừng. Chúa Giêsu đã không chết vì hận
thù, nhưng Ngài chết vì tình yêu, thì trong Bữa Tiệc Thánh Thể nầy Chúa Giêsu
cũng muốn dạy chúng ta phải biết sống và chết vì tình yêu như Ngài.
13. Lương thực
hằng ngày - McCarthy
Suy Niệm 1. ĐỂ
TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY
Vào lúc này hay
lúc khác, tất cả chúng ta không được ai biết đến hoặc làm lơ. Điều ấy làm chúng
ta rất khổ sở. Chúng ta cảm thấy việc chúng ta làm không được thừa nhận và
chính chúng ta bị đối xử như thể chúng ta thật sự không có gì đáng kể.
Nhưng có một
điều còn tệ hơn việc chúng ta không được biết đến. Chúng ta có thể bị bỏ quên.
Điều này còn làm chúng ta khổ sở hơn. Điều đó không chỉ ở chúng ta có ít giá
trị mà ở chỗ không có giá trị nào cả. Như thể chúng ta đã không hiện hữu.
Đức Giêsu cũng
muốn đước tưởng nhớ. Đêm trước khi Người sắp chết, khi Người ngồi ăn với các
môn đệ, Người cầm lấy bánh và nói: Đây là mình Thầy bị nộp vì các con: Rồi
Người cầm lấy chén rượu nho và nói: "Này là chén máu Ta... Các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy".
Dĩ nhiên, Đức
Giêsu không đòi các môn đệ tưởng nhớ chỉ vì nhu cầu riêng của Người. Người cũng
nghĩ đến các môn đệ của Người. Họ cũng cần nhớ đến Người. Vì tình yêu của Người
đối với họ. Người đã để lại cho họ một phương thế đặc biệt để họ nhớ Người tức
là Thánh Thể.
Mỗi lần chúng ta
cử hành Thánh Lễ, chúng ta nhắc lại một vài việc làm và lời nói kỳ diệu của
Người. Chúng ta suy nghĩ về những điều ấy và áp dụng vào đời sống chúng ta.
Nhưng Thánh Lễ còn kỳ diệu hơn thế nữa.
Khi chúng ta nhớ
đến theo cách ấy, Người trở nên hiện diện với chúng ta. Không phải bằng thể
chất, nhưng là hiện diện thật.
Qua Thánh Thể
một dây liên kết được hình thành ở giữa chúng ta, với kết quả là chúng ta có
thể bước vào sự thân mật sâu xa với Người hơn cả khi Người hiện diện bằng thể
chất. Chúng ta không chỉ giao tiếp với Người nhưng ở trong sự hiệp thông với
Người, một sự hiệp thông thánh thiện.
Trí nhớ là một
khả năng quý giá. Nó liên kết chúng ta với người khác và các biến cố không còn
hiện diện với chúng ta nữa. Nếu chúng ta ấp ủ hồi ức về những người chúng ta
yêu mến, họ trở nên hiện diện với chúng ta. Họ không chỉ là một hồi ức nhưng
còn là một sự hiện diện mà chúng ta cảm thấy hơn là nhìn thấy. Khi tưởng nhớ
đến họ, chúng ta tiếp tục thu hoạch một mùa gặt từ những gì họ đã gieo trồng
khi họ còn sống giữa chúng ta.
Tưởng nhớ đến
Đức Giêsu còn sinh lợi hơn biết bao, đặc biệt trong cách mà Người yêu cầu chúng
ta nhớ đến Người.
Suy Niệm 2.
TRONG ĐÊM NGƯỜI BỊ PHẢN BỘI.
Đêm hôm trước
ngày Người chết, Đức Giêsu ngồi vào bàn tiệc với các Tông đồ. Nhóm nhỏ quy tụ
xung quanh bàn tiệc gợi lên sự gần gũi, thân mật, ấm cúng, tín thác và yêu
thương. Nhưng nếu có phản bội bước vào trong khung cảnh ấy thì sự chia cắt tình
cảm càng sâu xa hơn, và tổn thương gây ra càng nhiều hơn. Khi sự rạn nứt xảy ra
giữa những người rất thân nhau thì sự giải quyết gay go hơn so với những người
không thân nhau đến thế.
Giuđa cũng đã có
mặt. Tại sao ông ta lại tham dự bữa Tiệc Ly khi mà ông ta đã có ý định phản bội
Đức Giêsu? Có lẽ, ông ta muốn tạo ra cảm tuởng rằng mọi việc vẫn bình thường,
và do đó Đức Giêsu sẽ không có chút nghi ngờ nào.
Bản tường thuật
của bữa Tiệc Ly của Phaolô là bản cổ nhất mà chúng ta có trong Tin Mừng. Ông
viết: "Trong đêm Người bị phản bội, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc
tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: Anh em hãy cầm lấy bánh mà ăn, đây là Mình Thầy,
hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy".
Một câu đập vào
mắt của chúng ta. Đó là "Trong đêm Người bị phản bội". Chính trong
đêm ấy chứ không phải một đêm nào khác. Thay vì đoạn tuyệt với các Tông đồ,
Người cho họ một dấu chỉ của tình yêu Người: Người ngồi ăn bữa tối thân mật với
họ. Rồi Người nói: "Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy". Đó là
cách mà họ phải nhớ đến Người. Chính trong đêm đó, một người trong bọn họ đã
phản bội Người.
Chúng ta không
nên nghĩ rằng Đức Giêsu không bị sự phản bội của Giuđa làm tổn thương. Người đã
bị tổn thương một cách sâu xa. Thánh Gioan nói rằng khi Người bắt đầu nói về kẻ
phản bội "Người đau buồn sâu sắc". Và chắc chắn là thế. Người đã đích
thân tuyển chọn và đào tạo Giuđa. Giuđa đã nghe những lời Người giảng dạy và
chứng kiến những phép lạ của Người. Giuđa là một người trong vòng thân cận. Thế
mà giờ đây, ông ta định phản bội Người. Sự phản bội của một người bạn càng gây
ra nhiều sự tổn thương và khó khăn hơn khi đối phó với sự phản bội của một kẻ
thù.
Đối phó với sự
phản bội là một việc rất gay go. Tuy nhiên, những người bị phản bội có thể có
được niềm an ủi từ sự kiện Đức Giêsu đã cảm thấy bị phản bội như thế nào. Họ
không thể cho rằng mình không bị phản bội làm tổn thương. Đức Giêsu cho thấy
Người bị tổn thương như thế nào và đã bộc lộ bằng lời nói. Điều quan trọng là
chúng ta phải đối phó với sự tổn thương như thế nào. Nó có thể làm cho chúng ta
chua chát hơn và cám dỗ chúng ta trả thù.
Dù cảm thấy bị
tổn thương, Đức Giêsu không trả đũa Giuđa. Người cũng đã từ chối bêu xấu ông ta
trước mặt những người khác. Nhưng khi đưa cho Giuđa miếng bánh nhỏ (một cử chỉ
bạn bè), Người để ông ta biết rằng Người biết kế hoạch của ông ta. Và khi từ
chối lấy tay chỉ thẳng vào ông ta, Người để cánh cửa mở rộng cho ông ta quay
lại với tập thể.
Điều Giuđa làm
cũng gây ra sự tổn thương cho các Tông đồ khác. Dẫu sao, ông ta cũng là một
người của họ. Họ đã tin tưởng ông ta và cùng ông ta chia sẻ mọi việc. Họ nghĩ
rằng họ biết ông ta, nhưng ông ta đã trở mặt làm một kẻ phản bội. Khi phản bội
Giêsu, ông ta cũng đã phản bội họ.
Chúng ta không
nhớ đêm ấy vì sự phản bội của Giuđa. Chúng ta nhớ đêm ấy vì ơn lành mà Đức
Giêsu để lại cho chúng ta dù rằng có sự phản bội đó. Thánh Thể sẽ giúp đỡ chúng
ta bình phục trước sự phản bội mà bàn tay người khác đã gây ra cho chúng ta. Và
Thánh Thể cũng giúp chúng ta không trở thành kẻ phản bội của bất kỳ ai khác.
14. Thánh Thể
Thánh Kinh đã
dùng thật nhiều hình ảnh để diễn tả về bữa tiệc Thánh Thể. Nào là hình ảnh
Manna, Bánh bởi trời, nào là hình ảnh chiên vượt qua... Và gần chúng ta hơn hết
là hình ảnh của phép lạ bánh hóa nhiều. Tất cả những hình ảnh ấy được thực hiện
một cách viên mãn nơi Đức Kitô khi Ngài tuyên bố:
- Ta là bánh
hằng sống... Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống.
Chính Chúa Giêsu
đã trở nên của ăn cho tâm hồn mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thực vậy,
Bí tích Thánh Thể chính là một sáng kiến tình yêu vĩ đại nhất của Chúa Giêsu.
Ngài đã thiết lập mầu nhiệm tình yêu này để thông ban cho con người một hồng ân
cao cả, đó là nhờ mình và máu Ngài mà chúng ta được thông hiệp vào sự sống thần
linh. Thánh Thể còn là hy tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất được dâng lên
cho Thiên Chúa. Qua cái chết và sự Phục sinh, Đức Kitô đã trở nên của lễ hoàn
hảo.
Nhưng lễ tế này,
giờ đây còn được tái diễn trong thánh lễ. Hy tế ấy vẫn tồn tại và hiện thực,
mặc dù biến cố ấy đã xảy ra cách đây hai mươi thế kỷ. Bí tích Thánh Thể là
nguồn mạch sự sống, bổ dưỡng cho tâm hồn chúng ta như lời Chúa đã nói:
- Thịt Ta thật
là của ăn và máu Ta thật là của uống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.
Dân Chúa đang
trên đường lữ thứ trần gian cần phải được bổ dưỡng bằng lương thực thần linh
này để đạt tới bờ bến bình an.
Bí tích Thánh
Thể còn là nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, sự sống đời đời là gì nếu không phải là
ơn cứu độ Chúa dành cho chúng ta. Bí tích Thánh thể còn là sợi dây liên kết mọi
người chúng ta lại với nhau như lời thánh Phaolô:
- Tất cả chúng
ta cùng ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng thông phần một nguồn sức sống
thần linh là Đức Kitô.
Tuy nhiên, Bí
tích Thánh Thể chính là bí tích của đức tin. Muốn lãnh nhận, chúng ta phải có
đức tin. Chỉ có đức tin mới giúp chúng ta nhận ra bộ mặt của Đức Kitô trong
Giáo hội. Chỉ qua lăng kính đức tin, chúng ta mới nhận ra Chúa Giêsu thực sự
hiện diện trong Bí tích Thánh Thể. Không có đức tin mọi hành vi phụng vụ đều bị
coi là mê tín. Bí tích chỉ có ý nghĩa và tác sinh hiệu quả khi chúng ta có một
đức tin sống động, một tình thương chan hòa và ơn sủng Chúa trao ban.
Và sau cùng,
Thánh Thể chính là hình ảnh của bữa tiệc cánh chung. Khi tham dự Thánh Thể,
được ăn và uống mình máu Thánh Chúa Giêsu, được tham dự vào sự sống của Thiên
Chúa. Được Đức Kitô tan biến và thấm nhập vào tâm hồn chúng ta, được sống bằng
chính sức sống của Thiên Chúa. Và như vậy, đời sống vĩnh cửu đang có và triển
nở nơi người tín hữu để rồi tiến đến tình trạng viên mãn trong ngày sau hết.
Vì những ý nghĩ
cao cả ấy, việc cử hành thánh lễ, phải là trung tâm của mọi hoạt động phượng tự
của Giáo hội, cũng như phải là chóp đỉnh của đời sống người tín hữu, như Công
đồng Vatican II đã xác quyết:
- Mọi bí tích,
mọi việc tông đồ, mọi chức vụ của Giáo hội đều qui về Bí tích Thánh Thể. Thánh
Thể là khởi nguồn và chóp đỉnh của mọi việc rao giảng Tin Mừng và là dấu chỉ
của sự hiệp nhất.
Thế nhưng còn
chúng ta, chúng ta đã nghĩ gì về Bí tích Thánh Thể và nhất là chúng ta đã đáp
trả tình thương to lớn mà Chúa Giêsu Thánh thể đã dành cho chúng ta như thế
nào.
15. Chúa Giêsu
là niềm mong đợi của mọi người.
Cuộc gặp gỡ tình
yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta ở trang Tin Mừng này hay Tin Mừng nọ đôi khi
là một kế hoạch lớn, một cuộc đối diện khá thân mật với Ngài và đôi khi là một
kế hoạch tổng thể trong đó chúng ta chiêm ngưỡng Ngài từ xa hơn. Đó là trường
hợp ngày hôm nay.
Không có trần
thuật nào quen thuộc với chúng ta hơn là trần thuật bánh hóa nhiều. Có sáu trần
thuật như thế trong Tin Mừng! Ngày hôm nay, lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cố
gắng đi ngay vào việc suy niệm Thánh Thể, nhưng như thế, sẽ làm hạn hẹp những
quan điểm rộng rãi của thánh Luca.
Từ đầu thánh
Luca không ngừng loan báo biến cố: ngày hôm nay hoàn tất những lời hứa của
Thiên Chúa, ngày hôm nay Đấng Thánh của Chúa đã đến, những việc lạ lùng xảy ra,
Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài.
Đối diện với
những kẻ thù địch và những kẻ bỏ rơi Chúa Giêsu, thánh Luca ghi lại lần cuối
cùng quang cảnh ở Galilê: Chúa Giêsu và đám đông phấn khởi. Đó là sự suy niệm
của chúng ta, nhưng còn mở rộng ra, hết sức rộng: Chúa Giêsu, niềm mong đợi của
tất cả mọi người.
Thánh Luca sắp
giúp chúng ta thấy Chúa Giêsu như là Đấng quy tụ và làm cho phỉ nguyện. Lời đầu
tiên của bài Tin Mừng là: "Dân chúng", lời cuối cùng: "Tất cả ăn
no nê". Việc hóa bánh thành nhiều về mặt lịch sử đúng là một phép lạ, năm
ngàn người được nuôi sống với năm chiếc bánh và hai con cá. Tôi ái ngại cho
những người mà điều này làm cho khó chịu. Đức tin của họ thiếu động lực. Nhưng
đàng sau phép lạ có dấu chỉ lớn về cơm bánh: Chúa Giêsu làm cho những người đói
được no nê.
Ngày quy tụ Dân
Chúa, Ngài tổ chức Dân Chúa, nhóm Mười Hai hiện diện trong trần thuật này,
nhưng điều được nói đến nhất chính là quyền bính bình lặng và mạnh mẽ, ảnh
hưởng của Ngài. "Xin Thầy giải tán dân chúng!", nhóm Mười Hai lo lắng
nói với Ngài. Không, Ngài ở lại thì chúng ta cũng ở lại, không có kẻ nào khác
Ngài là người quy tụ ở dưới đất cũng như trên trời.
Ngài nói: Ngài
giảng dạy Nước Trời, thánh Luca giải thích như thế. Thánh Luca cho thấy kế
hoạch vĩ đại của Thiên Chúa. Chúng ta mất thời giờ khi chúng ta tìm kiếm một
ông thầy mặc khải khác.
"Ngài mang
lại sức khỏe". Ở đây nữa, đàng sau các phép lạ, phải thấy dấu chỉ này là
việc chữa lành các tâm lòng, sự dứt ra khỏi tội lỗi, sự giải thoát lớn, sức
khỏe của con cái Chúa.
"Mọi người
đều ăn no nê, và người ta thu lại được mười hai thúng bánh vụn!" dấu hiệu
của cơm bánh, chính là thức ăn thần diệu, làm phỉ nguyện và dư dật. Chúa Giêsu
nói với những người lầm lẫn về dấu chỉ này: "Cơm bánh, chính là Ta! Ai đến
với Ta sẽ không bao giờ đói; ai tin Ta sẽ không bao giờ khát" (Ga 6,35)
Chúng ta sẽ đi
đến Chúa Giêsu thật ngày mà chúng ta xác tín rằng chỉ có Ngài mới có thể xoa
dịu cơn đói chủ yếu của đám đông dân chúng. Cơn đói được sống, được hiểu cuộc
sống, được rút ra các mật ngọt từ đó, và đi tới niềm vui tối hậu mà vì đó chúng
ta cảm thấy rõ rằng chúng ta đã nhận lãnh sự sống và những đói khát vô bờ bến.
Chính Ngài là Sự Sống và là Cơm Bánh.
Cảm thấy những
điều đó ở trong đám đông để thoát khỏi nếu cần một sự sùng tín Thánh Thể được
sống quá riêng tư với Ngài. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa Giêsu khi chúng ta rất
muốn tất cả đều yêu mến Ngài.
16. Nạn đói và
sự hiệp thông – JKN
Trình thuật phép
lạ hoá bánh ra nhiều là trình thuật nền tảng và quen thuộc của Tin Mừng, vì 4
Tin Mừng đều thuật lại câu chuyện này (Mt 14, 13-21; Mc 6, 30-34; Lc 9,10-17;
Ga 6,1-14). Xét về chi tiết thì mỗi tác gỉa thuật mỗi khác tùy theo quan điểm
riêng của từng tác giả, nhưng tổng quát sự kiện xẩy ra thì giống nhau.
Thánh Luca cho
chúng ta chiêm ngắm một vị Chúa đầy tình thương, tình người và kêu gọi chúng ta
chia sẻ để có thể hiệp thông vời Chúa và liên kết với anh chi em.
1) Chúa Giêsu,
Đấng thương cảm trước "cái đói, cái khát" của con người.
Những ai đã trải
qua cái đói, khát thì mới thấy sự đáng thương, bi đát của người bị đói. Vì thế,
phải đặt mình vào vị trí của những người đi theo Chúa Giêsu vào buổi chiều hôm
ấy thì mới thấy được tình trạng thê thảm như thế nào khi không có cái gì để bỏ
vào bụng. Có lẽ những người này đang trong tình trạng đói lả. Và Chúa Giêsu
không thể nào làm ngơ trước tình trạng đáng thương ấy của "đám đông".
Họ đói khát vì đi theo Người, vì chăm chú nghe Lời Người. Chúa Giêsu không chỉ
giải quyết cái đói thiêng liêng: Người nói với họ về nước Thiên Chúa (c.11b) mà
Người còn giải quyết cái đói vật chất của đám đông đang theo Người: chữa lành
những ai cần được chữa lành và cho mọi người được ăn no nê (c.17a)
2) Chính anh em
hãy cho họ ăn
Phản ứng sửng
sốt củ các môn đệ như bị gáo nước lạnh dội thẳng vào người là bình thường, vì
làm sao họ có thể cung cấp thực phẩm cho số người như thế (riêng đàn ông đã đến
gần 5 ngàn). Vì vậy, khôn ngoan nhất là giải tán để họ có thể tìm lương thực
nơi các làng mạc chung quanh. Trong Gioan thì Chúa Giêsu là người đầu tiên bày
tỏ sự lo lắng này (Ga 6,5) chứ không phải các môn đệ; và đây có lẽ cũng là cách
của chúng ta hôm nay. Nhưng khi được Chúa gợi ý cho dân ăn, thì các ông đã
nhiệt tình như muốn đóng góp tất cả. Năm chiếc bánh và hai con cá như thế là
tất cả chất liệu mà các ông có thể có để cung cấp cho Người (5+2=7: một con số
diễn tả sự viên mãn, trọn vẹn). Trong bữa ăn Thánh Thể, Chúa muốn chúng ta phải
biết nghĩ đến nhu cầu của anh chị em và rồi chính Người sẽ cung cấp chất liệu
để ta chia sẻ (Lc11,14).
Thực ra chính
Chúa Giêsu mới là Đấng làm cho con người được no thoả. Các môn đệ xưa kia đã
cộng tác với Thầy mình vàhôm nay là Giáo Hội mà trong đó mỗi người chúng ta
được kêu gọi như là cánh tay nối dài của Chúa. Chúng ta chỉ có thể trở thành
tấm bánh được bẻ ra và được trao ban cho anh chị em mình một khi dám đi ra khỏi
cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, so đo, tính toán, cố bám lấy chức, quyền, địa vị hay tìm
kiếm một chỗ ở an toàn để yên thấn, để được kính nể... Chính vì vậy, cộng đoàn
mặc dù không đói cơm bánh nhưng lại là nơi đói khát tình người, tình huynh đệ;
và thế giới hôm nay tưởng chừng như sung túc thì lại trở thành nơi thiếu cơm
bánh và đầy bất công. Một thế giới tuởng chừng là ngôi nhà chung của mọi người
thì lại là nơi chất chứa nỗi cô đơn, tuyệt vọng.
Bao lâu
"cái tôi"của ta còn quá lớn thì không thể ngả mình thành từng nhóm
(câu 14a) và lại càng không thể bảo mọi người ngả mình xuống được (c.14b), tức
là vẫn còn chia rẽ, vẫn còn thiếu tình huynh đệ. Nếu sau khi hiệp thông với
Chúa trong thánh lễ (rước lễ) mà không không thể chia sẻ cơm bánh vật chất, cơm
bánh thiêng liêng với anh chị em mình thì Mình Máu Thánh Chúa vẫn còn xa lạ với
chúng ta vì chúng ta chưa thực sự hiệp thông với Chúa Giêsu Thánh Thể là tấm
Bánh được bẻ ra và được trao ban cho nhân loại thông qua các tín hữu.
17. Lễ Mình Máu
Thánh Chúa - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đến
có phải để lo chuyện ăn uống cho dân chúng không? Tại sao Ngài lại làm chuyện
ấy? Động lực nào thúc đẩy Ngài làm chuyện ấy?
2. Nơi Đức
Giêsu, tình yêu của Ngài đối với dân chúng hay bản tính Thiên Chúa của Ngài làm
nên phép lạ?
3. Nơi bí tích
Thánh Thể, chúng ta học được bài học gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu
quan tâm đến nhu cầu cụ thể của dân chúng
Ta thấy hoạt
động của Đức Giêsu được phối hợp giữa việc rao giảng Tin Mừng và việc thỏa mãn
những nhu cầu cụ thể của dân chúng: "Đức Giêsu tiếp đón dân chúng, Ngài
nói với họ về Nước Thiên Chúa, và chữa lành những ai cần được chữa". Điều
mà Ngài rao giảng không phải là một cái gì xa vời đối với dân chúng, mà là một
cái gì thiết thực, phù hợp với những khát vọng của họ. Đó là Tin Mừng về Nước
Thiên Chúa, một tin vui về việc họ được giải phóng, được thoát khổ và hạnh
phúc, là điều mà họ hằng mong ước. Đó là thứ Tin Mừng "cho kẻ nghèo
hèn", Tin Mừng giải phóng "cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù
được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v. v..." (Mt 4, 18).
Việc rao giảng
ấy luôn luôn đi kèm với nỗi quan tâm lo lắng của Ngài đến những nhu cầu cụ thể
của dân chúng. Nhờ sự quan tâm và những hành động cụ thể ấy, dân chúng cảm thấy
được Ngài yêu thương, chăm nom săn sóc. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy tình yêu
nhân bản của Ngài:
Thấy trời đã
tối, các môn đệ đề nghị Đức Giêsu giải tán để họ tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn.
Nhưng Ngài bảo các ông: "Anh em hãy cho họ ăn". Thật là một quan tâm
đầy tình người. Và sau đó Ngài đã làm một phép lạ cả thể.
2. Tình yêu có
thể làm nên những phép lạ
Chúng ta đừng
nghĩ rằng Ngài làm như vậy vì Ngài có khả năng làm phép lạ. Còn chúng ta, không
làm phép lạ được, nên có gặp trường hợp tương tự, ta sẽ không dám làm như Đức
Giêsu, là quan tâm đến nhu cầu cụ thể ấy của dân chúng. Đôi khi chúng ta phải
nghĩ ngược lại, chính vì Ngài yêu thương, quan tâm thật sự đến nhu cầu của
người khác và quyết tâm thỏa mãn những nhu cầu ấy với bất cứ giá nào, nên Ngài
mới làm nên những phép lạ. Chúng ta không làm được những phép lạ, vì chúng ta
không thật sự yêu thương và quyết tâm giải quyết những nhu cầu của anh em chúng
ta. Nguyễn bá Học có nói: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi,
mà khó vì lòng người ngại núi e sông". Trong bối cảnh này, câu ấy có
nghĩa: Đừng sợ rằng ta không thể làm được điều gì giúp anh em, mà hãy sợ rằng
ta không đủ tình thương, không dám hy sinh vượt khó, không dám chấp nhận gian
khổ để thỏa mãn những gì cần thiết cho anh em mình.
Tình thương thật
sự có thể làm nên những phép lạ. Nhiều trường hợp trong lịch sử chứng minh điều
ấy. Nếu ta thật sự yêu thương, quan tâm và nhất quyết giúp đỡ anh em mình khi
họ cần, chắc chắn ta vẫn luôn luôn làm được một cái gì đó ích lợi cho họ. Nếu
không đủ tình thương để làm nên phép lạ, thì hãy cố gắng làm tối đa trong khả
năng của mình. Nếu không đủ tình thương để cố gắng tối đa, thì chí ít cũng nên
làm những gì tối thiểu: có còn hơn không! Nếu ta hoàn toàn thờ ơ không làm gì
cả trước nhu cầu thực tế của anh em, thì tình yêu của ta có hơn gì những người
mà ta cho là phường tội lỗi? Trong họ, biết bao người đã tỏ ra có nhiều tình
thương hơn ta (xem dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, Lc 10,29-37).
3. Đừng chỉ quan
tâm đến nhu cầu thiêng liêng của người khác, mà không quan tâm đến nhu cầu cụ
thể và thiết thực của họ
Mục đích chính
của Đức Giêsu khi đến trần gian là để rao giảng Nước Trời, chứ không phải là để
cứu đói, chữa bệnh, trừ quỷ, hay nói chung là cứu khổ về phần xác. Nhưng Ngài
đã quan tâm rất nhiều tới những việc này. Thánh Phê-rô đã nói lên điều ấy:
"Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma
quỉ kiềm chế" (Cv 10,38).
Rất nhiều Kitô
hữu lo lắng đến những nhu cầu thiêng liêng của người khác: lo cho người ta biết
Chúa, biết sống đạo đức, ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ, biết chăm sóc đến
đời sống nội tâm, v.v... Điều ấy rất quí rất tốt, và cũng hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, trong số những Kitô hữu nhiệt thành ấy, có khá nhiều Kitô hữu chỉ
quan tâm lo cho tha nhân những việc thiêng liêng ấy mà thôi, không hề nghĩ đến
những nhu cầu thiết thực, cụ thể trước mắt và rất cấp bách của những người gần
gũi chung quanh họ. Chính vì thế, những người được họ quan tâm lo những việc
thiêng liêng, không cảm nhận được tình thương của họ một cách cụ thể. Điều ấy
làm cho những cố gắng tốt đẹp của họ về mặt thiêng liêng bớt hữu hiệu.
Thiết tưởng một
người được đức ái đích thực thúc đẩy, sẽ không phục vụ tha nhân theo kiểu
"công chức", nghĩa là chỉ phục vụ một số đối tượng nào đó, trong một
khía cạnh nào đó, trong một số giờ nào đó mà mình được chỉ định phục vụ. Vì
thế, họ không quan tâm phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh
khác, vào những giờ khác, cho dù có những người cần được họ chăm sóc, phục vụ,
nhưng lại vượt ngoài những hạn định ấy. Người có tình yêu đích thực vẫn có thể
chọn một loại đối tượng để phục vụ, trong một khía cạnh nào đó mà mình chuyên
môn, v.v... Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết mà đức bác ái đòi hỏi,
người ấy vẫn có thể phục vụ những đối tượng khác, trong những khía cạnh khác,
vào bất kỳ giờ giấc nào. Một người có tình yêu đích thực, có đức ái đích thực,
không tự giới hạn lòng yêu thương, sự phục vụ của mình, nhất là trong những
trường hợp đặc biệt cần đến lòng yêu thương và sự phục vụ của mình. Một người
chuyên phục vụ tha nhan về mặt tâm linh, vẫn nên quan tâm đến những nhu cầu cụ
thể của họ.
4. Hãy noi gương
Thánh Thể
Nói tới Thánh
Thể, chúng ta thường nghĩ tới việc phải làm sao để nhận được từ Thánh Thể những
ơn cần thiết cho mình. Nhưng thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua một bài học
tuyệt vời và rất quan trọng của Thánh Thể là sự quên mình và tính vị tha. Không
có gì tỏ ra quên mình và vị tha cho bằng trở nên của ăn cho người khác, hay sẵn
sàng để cho người khác "ăn" mình. Thật vậy, đồ ăn hiện hữu vì người
ăn nó, chứ không hiện hữu một chút xíu nào vì bản thân mình cả. Tất cả mọi sự,
để trở thành đồ ăn thì đều phải chết đi mới có thể nuôi sống người ăn mình. Bản
chất của đồ ăn chính là chết đi để nhờ đó người khác được sống, bị tiêu diệt để
nhờ đó người khác tồn tại. Thông thường, chúng ta có khuynh hướng bắt người
khác phải vì mình, biến họ thành phương tiện hay công cụ phục vụ cho mình. Biến
mình thành đồ ăn thì hoàn toàn đi ngược lại khuynh hướng thông thường ấy: sẵn
sàng hiện hữu vì người khác, sẵn sàng chấp nhận làm phương tiện hay công cụ vì
hạnh phúc đời này hay đời sau của những người mình yêu thương. Danh ngôn Pháp
có câu: "Aimer, c'est permettre d'abuser" (yêu là cho phép người mình
yêu lợi dụng mình).
Cả cuộc đời Đức
Giêsu là một thứ đồ ăn: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn
vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy
để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con
người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con
người trở nên thánh thiện, v.v... Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người
khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất "là của
ăn"một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn
Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu
cầu chúng ta: "Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến
Thầy". Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài
trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là
những người sống gần mình nhất.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu
Thánh Thể, xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn, để con bắt chước Chúa, là
trở nên của ăn cho những người chung quanh con, bằng cách quên mình đi để sống
vì họ, cho họ.
18. Thánh Thể
Nhân ngày lễ
kính Mình Máu Thánh Đức Kitô hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý nghĩ
đơn sơ về bí tích Thánh thể. Vậy bí tích Thánh thể là gì?
Trước hết, bí
tích Thánh thể là một bữa tiệc huynh đệ.
Thực vậy, không
phải tình cờ mà Đức Kitô đã thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn. Như
chúng ta đã biết ăn uống là một việc làm sơ đẳng của con người, là một như cầu
cần thiết cho sự sống. Nhưng hơn thế nữa, ăn uống còn biểu lộ một tính cách xã
hội nữa.
Đúng thế, mời
nhau cùng ngồi vào bàn ăn là muốn diễn tả một tâm tình gắn bó nào đó. Chẳng hạn
trong gia đình, khi một người không còn muốn ngồi ăn chung cùng với những người
khác,, thì lúc bấy giờ tình cảm đã bị sứt mẻ nặng nề và nghiêm trọng.
Chúa Giêsu đã
thiết lập bí tích Thánh thể trong một bữa ăn và như một bữa ăn, nhờ đó chúng ta
được liên kết, được gắn bó muật thiết với Chúa và với nhau.
Thật là không bình
thường khi người ta ngồi vào bàn ăn mà lại chẳng ăn uống gì cả. Đành rằng có
khi vì một lý do nào đó chúng ta không thể ăn uống được, nhưng vẫn ngồi vào bàn
với anh em bạn bè, để biểu lộ tình cảm của chúng ta. Song đó chỉ là một việc
chẳng đặng thì đừng, vạn bất đắc dĩ mà thôi.
Cũng thế, bình
thường khi tham dự bàn tiệc Thánh thể, chúng ta cần phải rước mình và máu thánh
Đức Kitô, trừ khi có những lý do chính đáng, những ngăn trở thực sự.
Lại cũng là một
chuyện không bình thường, nếu chúng ta đến tham dự cùng một bàn tiệc Thánh thể
mà lại thờ ơ lãnh đạm với nhau, thậm chí còn bất hòa và chia rẽ cùng nhau.
Quả là một thiếu
sót to lớn khi chúng ta đến tham dự thánh lễ mà lại không để ý, không quan tậm
tới người khác, cũng như không muốn chung tiếng chung lòng với nhau để tham dự
một cách tích cực và sốt sắng. Thân xác ở đây mà cõi lòng thì lại ở tận những
đâu đâu, hay chỉ loay hoay cầu nguyện riêng một mình, hoặc giũ thinh lặng thừ
đầu chí cuối.
Quả là không
bình thường khi bàu khí thánh lễ thiếu vắng tình huynh đệ, thiếu vắng sự hòa
hợp, thiếu vắng sự vui tươi. Vậy chúng ta cần phải làm gì để thánh lễ trở nên
trung tâm của mọi sinh hoạt trong giáo xứ?
Tiếp đến Thánh
thể là bí tích tưởng niệm hy tế thập giá của Đức Kitô.
Đúng thế, thánh
Phaolô đã viết:
- Mỏi lần ăn
bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng
việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
Phụng vụ ngày lễ
hôm nay cũng đã dựa vào những tư tưởng trên để cầu nguyện:
- Lạy Chúa, Chúa
đã trối lại cho chúng con bí tích huyền diệu để kỷ niệm cuộc khổ nạn Chúa.
Bí tích Thánh
thể chính là một đài tưởng niệm sống động cho cuộc thương khó. Trong phòng tiệc
ly, Đức Kitô đã phó mình cho chúng ta qua hình bánh và rượu, trước khi phó mình
cho chúng ta qua cái chết đẫm máu trên thập giá.
Đồng thời khi
thiết lập bí tích này, Ngài đã hoàn toàn qui hướng về cái chết: Này là mình
Thầy sẽ bị nộp vì các con... Này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra
cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Như vậy, mỗi khi
cử hành thánh lễ, Giáo hội diễn lại sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, diễn
lại mầu nhiệm ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Vì thế, khi đi
tham dự thánh lễ, chúng ta không phải chỉ tham dự một bữa tiệc, mà còn liên kết
chặt chẽ với hy tế thập giá, đồng thời hiến mình làm của lễ dâng lên Chúa Cha.
Thế nhưng, dù
dưới khía cạnh một bữa ăn, hay dưới khía cạnh một hy tế, bí tích Thánh thể vẫn
mãi mãi là một bí tích của tình yêu, bởi vì hy tế thập giá chính là cao điểm
của tình yêu cứu độ, như lời Đức Kitô đã phán:
- Không ai yêu
hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó, sống
thánh lễ là phải tiêu diệt tính ích kỷ, sự chia rẽ và tất cả những gì đối
nghịch với tình yêu của Đức Kitô và tình yêu của anh em đồng loại.
Sống thánh lễ là
phải ràng buộc mình vào trong tình yêu, là phải làm cho đời mình trở nên phù
hợp với những đòi hỏi của tình yêu, là phải sống bác ái yêu thương.
Hãy biến cuộc
đời thành một thánh lễ nối dài bằng những hy sinh cho nhau và vì nhau.
19. Thánh Thể
Có một bữa ăn
của Chúa Giêsu đã được cả bốn sách Tin Mừng ghi lại và thêm một chỗ thứ năm nữa
cũng ghi lại, đó là trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô. Đó là bữa
ăn cuối đời Ngài, bữa tiệc ly, lúc Ngài giã từ các môn đệ thân yêu để lên đường
chịu khổ nạn và chết. Trong bữa tiệc này, Chúa Giêsu đã làm một việc rất quan
trọng: biến bánh miến thành thịt Ngài và biến rượu nho thành máu Ngài để nuôi
linh hồn muôn người. Đây chính là phép Thánh Thể, là Bí tích Mình Máu Thánh
Chúa Kitô.
Chúng ta hãy
nhìn lại việc cao trọng này. Hôm ấy là ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh
không men, là tuần lễ chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của người Do thái. Chúa Giêsu
gọi Phêrô và Gioan đến và trao cho hai ông công tác dọn tiệc mừng lễ Vượt Qua.
Vâng lời Ngài, hai ông đi vào thành mượn được một căn phòng rộng rãi và chuẩn
bị mọi sự cần thiết cho bữa tiệc. Đến chiều ngày thứ năm, Chúa Giêsu cùng đoàn
tông đồ tới đó dự tiệc, gồm những tuần rượu, những món ăn cổ truyền, xen lẫn
với việc đọc các thánh vịnh. Sau khi nhắn nhủ các môn đệ nhiều điều xoay quanh
vấn đề chính là hãy yêu thương nhau, rồi Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói trước
mặt các môn đệ rằng: "Tất cả các con cầm lấy mà ăn: Này là mình
Thầy". Chúa trao cho các môn đệ cùng ăn. Rồi Chúa cầm lấy chén rượu và
nói: "Tất cả các con cầm lấy mà uống: Này là chén máu Thầy". Chúa
trao cho các môn đệ cùng uống. Với những lời nói và những cử chỉ trịnh trọng
đó, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể. Rồi Chúa còn truyền cho các môn đệ:
"Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy", tức là Chúa ban quyền cho
các môn đệ được làm việc cao quí này để tưởng niệm đến Ngài. Như thế, trong bữa
tiệc lịch sử này và cũng là thánh lễ đầu tiên do Chúa Giêsu cử hành, Chúa đã
thiết lập Bí tích Thánh Thể và ban quyền chức linh mục cho các tông đồ.
Từ đó trở đi cho
đến ngày nay và cho tới tận thế, trong thánh lễ, khi linh mục trịnh trọng lặp
lại những lời của Chúa Giêsu: "Này là mình Thầy", "Này là chén
máu Thầy", tức thì bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu nữa,
nhưng là Mình và Máu Chúa Kitô. Đây là một chân lý cao siêu vượt quá sự hiểu
biết của lý trí loài người. Bởi vì trước và sau khi đọc lời truyền phép, chúng
ta có nhìn xem, đụng chạm tới hay nếm bánh và rượu chưa truyền phép và đã
truyền phép, chúng ta không thấy có gì khác nhau. Nhưng theo đức tin thì lại
khác xa nhau một trời một vực: một đàng là Mình Máu Thánh Chúa Kitô, một đàng
là một tấm bánh nhỏ bé, một chút rượu tầm thường. Vì thế, chúng ta gọi đây là
một Bí tích và là một mầu nhiệm đức tin.
Để củng cố đức
tin của chúng ta vào Bí tích kỳ diệu và cực thánh này, Thiên Chúa đã làm nhiều
phép lạ tỏ tường để minh chứng cho mọi người biết trong Phép Thánh Thể có Chúa
Kitô thật sự và hoàn toàn. Sau đây là hai phép lạ điển hình.
Phép lạ xảy ra ở
làng Bônsênna nước Ý. Phép lạ này đã lưu lại cho chúng ta lễ Kính Mình Máu
Thánh Chúa Kitô. Có phép lạ này bởi vì Chúa muốn dẹp tan sự băn khoăn, nghi ngờ
của nhiều người về sự Chúa Kitô hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Đó là vào
năm 1263, một linh mục người Đức cử hành thánh lễ tại nhà thờ thánh Christiana
đồng trinh tử đạo. Đến khi bẻ bánh thì đột nhiên bánh thánh ấy biến thành Thịt
và Máu thật sự, trừ phần nhỏ linh mục cầm trong tay. Những giọt máu ở Bánh
thánh chảy loang ra thấm ướt khăn thánh. Linh mục ấy gấp khăn thánh lại, nhưng
gấp đến đâu máu chảy ra đến đó và in lại dung mạo Chúa Kitô rõ ràng.
Một phép lạ khác
xảy ra với thánh Antôn Pađua. Có một người Do thái, tên là Bônvilô, không tin
và thường nhạo báng Phép Thánh Thể. Thánh Antôn nói thế nào ông ta vẫn cứ thế.
Một hôm, ngài nói với ông ta như là một cuộc thách thức: "Nếu con lừa ông
cưỡi mà quì xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình trong hình bánh thì ông có tin
không?"Ông ta cho là một câu nói chơi và nhận lời thách thức. Hai ngày
liền, ông ta không cho lừa ăn, rồi dẫn tới chợ để có đông người chứng kiến. Giữa
một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua. Con lừa
quên đói, không ngó ngàng gì đến lúa mạch, quay sang thánh Antôn quì xuống gật
gật đầu thờ lạy Chúa cho đến khi thánh Antôn kiệu Mình Thánh đi. Mọi người quì
xuống thờ lạy Chúa và hoan hô thánh Antôn.
Đối với chúng
ta, trên lý thuyết, tất cả chúng ta đều tin Chúa Giêsu hiện diện thật trong
Phép Thánh Thể, thì trong thực hành, chúng ta hãy sống đức tin đó. Xin đề nghị
hai điều: Thứ nhất, mỗi khi bước vào hay bước ra nhà thờ, chúng ta hãy nghiêm
trang, cung kính cúi sâu đầu để bái chào và thờ lạy Chúa. Thứ hai, mỗi khi đi
dâng thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ và chuẩn bị cẩn thận trước khi rước
lễ và cám ơn sau rước lễ, vì đó là cách hiệp dâng thánh lễ đầy đủ và tốt đẹp nhất.
20. Thánh Thể
Hôm nay, cùng
với Giáo Hội chúng ta long trọng cử hành thánh lễ tôn kính Mình Máu Thánh Chúa
Kitô. Thánh lễ này nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng Chúa Kitô đã và đang trao ban
chính Mình Máu Ngài làm lương thực không hư nát để ban sự sống cho chúng ta,
tiếp nhận chúng ta vào hiệp thông sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đồng thời
thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhớ rằng: chúng ta luôn được Thiên Chúa mời gọi hãy
ra công làm việc vì của ăn không hư nát này và hãy cùng Ngài trao ban sự sống
cho người khác bằng đời sống bác ái yêu thương, hy sinh phục vụ.
Chúng ta biết
rằng, mọi sinh vật trong đó có con người cần thức ăn vật chất để sống, tồn tại
và phát triển thân xác, con người lại còn trổi vượt hơn các loài sinh vật khác
nhờ có đời sống lý trí và tinh thần. Chính đời sống lý trí và tinh thần làm cho
con người ra con người và sống ngày càng ra người hơn, nhân bản hơn trong mối
tương quan với người khác và vũ trụ vạn vật. Đời sống này cũng cần có lương
thực phù hợp là tri thức và văn hóa. Không có tri thức và văn hóa, con người sẽ
phải sống trong lạc hậu, u mê chẳng hơn con vật là mấy.
Thế nhưng, con
người không chỉ có thể xác, lý trí và tinh thần, con người còn có tôn giáo,
nghĩa là con người còn có đời sống niềm tin, đời sống giúp con người vươn lên những
tương quan cao hơn, lớn hơn, chi phối mọi tâm tư, tình cảm và sinh hoạt đó là
đời sống thông hiệp với thần minh hay Thiên Chúa. Đối với chúng ta, những người
tin vào Chúa Kitô thì đời sống đức tin giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm thông
hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa tình yêu. Chính đời sống này không
những làm cho chúng ta nên hoàn thiện mà còn hoàn thiện tốt lành như Thiên Chúa
là Cha Tốt Lành trên trời, và chúng ta đến đón nhận sự sống đời đời của Thiên
Chúa.
Lương thực cho
đời sống này chính là Đức Kitô. Ngài là bánh bởi trời ban sự sống đời đời: Ai
ăn thịt và uống máu Ngài thì có sự sống đời đời. An và uống chính mình máu Ngài
sẽ không còn phải đói khát.
Chúng ta cần cơm
gạo để sống, cần trau dồi tri thức và văn hóa để làm người thì chúng ta cũng
cần phải tiếp nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô để sống đức tin, để nên thánh.
Cũng như mọi
lương thực khác, Mình Máu Thánh Chúa tuy là hồng ân Thiên Chúa ban tặng nhưng
không, nhưng Ngài vẫn mời gọi sự nỗ lực cộng tác của con người tìm kiếm và tạo
tác nên lương thực cho đời sống của mình.
Tin Mừng hôm nay
thuật lại, phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều không phải từ không ra có, nhưng từ
năm chiếc bánh và hai con cá là phần đóng góp của con người. Cũng vậy, bánh và
rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa được hiến dâng trên bàn thờ chính là hoa màu
ruộng đất, sản phẩm của cây nho và lao công khó nhọc của con người. Thiên Chúa
không muốn làm một mình dù Ngài có thể, nhưng Ngài muốn con người chúng ta cộng
tác với Ngài. Được cộng tác với Ngài chính là hồng ân, là vai trò tuy nhỏ bé
nhưng hết sức cao quí và sinh hiệu quả được dành riêng cho chúng ta trong mầu
nhiệm Thánh Thể. Chính từ bánh, từ cá, từ đời sống của chúng ta mà Thiên Chúa
đã tháp nhận vào ơn huệ Bí tích thánh Thể, làm nên Thánh Thể Đức Kitô.
Phần đóng góp
công sức của chúng ta chẳng đáng là bao so với nguồn lương thực lớn lao này,
tuy nhiên, không có phần của chúng ta, Bí tích Thánh Thể sẽ chỉ là ma thuật.
Đức Kitô sẽ biến đổi, thánh hiến sự đóng góp nhỏ nhoi, khiêm hạ của chúng ta
thành nguồn lương thực dồi dào cho mọi người.
Vì thế, chúng ta
hãy nỗ lực góp phần cộng tác với Thiên Chúa. Chúng ta đóng góp không chỉ bằng
của cải vật chất, nhưng cần thiết hơn còn bằng chính đời sống lao động khó nhọc
để phục vụ người khác; bằng chính việc chu toàn bổn phận hằng ngày của mỗi
người và bằng chính đời sống yêu thương, chia sẻ bác ái.
Chúng ta cộng
tác với Thiên Chúa không phải chỉ tìm kiếm lương thực cho riêng mình, nhưng còn
cho anh em khác nữa. Thiên Chúa trao ban cho chúng ta, Ngài cũng đồng thời mời
gọi chúng ta trao ban cho người khác. Đón nhận lương thực để rồi chuyển hóa
thành sự sống tình yêu. Thánh Thể phải được chuyển hóa thành năng lượng tình
yêu.
Thiên Chúa không
làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chỉ một mình Người có bánh hay chỉ cho
các môn đệ thân tín của Ngài, nhưng là cho mọi người. Thánh Thể cũng không chỉ
dành cho một ai, một số người nào đó nhưng là cho mọi tín hữu. Không phải chỉ
chúng ta no đủ phần hồn phần xác mà còn phải biết chia sẻ cho anh em khác nữa.
Chia sẻ ở đây không có nghĩa là đi trao Mình Chúa cho người khác, nhưng là trao
chính sự sống của mình. Vì một khi đã đón nhận Thánh Thể chúng ta đón nhận
chính Đức Kitô để Ngài ở trong ta và ta ở trong Ngài: "Tôi sống nhưng
không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi". Đời sống Đức Kitô
là đời sống của yêu thương và hiến mình cho người khác. Đón nhận Ngài thì cũng
chỉ có một đời sống như Ngài mà thôi, đó là sống cho và vì người khác trong yêu
thương và phục vụ.
Nếu chỉ biết đón
nhận mà không biết trao ban, không triển nở ơn thánh thì coi chừng mắc phải
chứng bệnh "béo phì ân sủng". Ngày nay, người ta sợ hội chứng béo phì
vì sẽ làm tăng mỡ máu đưa tới xơ cứng động mạch, nhồi máu cơ tim, gây khốn khổ
cho cuộc đời và nguy hiểm cho sinh mạng. Cho nên, phải giảm ăn thậm chí sợ ăn
và tăng cường hoạt động để tiêu bớt mỡ, giảm bớt trọng lượng.
Cũng thế, nếu bị
"béo phì ân sủng"sẽ có nguy cơ đưa tới xơ cứng trái tim yêu thương
khiến cho không triển nở được tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Và lúc đó,
việc tham dự thánh lễ cũng trở nên máy móc, theo thói quen nhàm chán, thậm chí
ngại và sợ thánh lễ, đôi khi còn xúc phạm vì ý chẳng ngay lành. Nếu như thế,
thì thật khốn cho ai ăn và uống Mình máu Thánh Chúa cách bất xứng. Nói như
thánh Phaolô: "An uống như thế là ăn uống án phạt mình"chẳng lợi gì chỉ
thêm nguy hại mà thôi.
Do đó, cần phải
sống như Chúa: cho đi chính mình, trao ban chính sự sống mình. Lương thực Thánh
Thể, nguồn sự sống phải được chuyển hóa tiêu hao thành tình yêu, thành bác ái
hy sinh để cuộc sống mỗi người và mọi người luôn được no nê ân sủng, tình yêu
và sự sống của Thiên Chúa.
Hãy đón nhận
Thánh Thể là nguồn lương thực của đời sống Kitô hữu, là của ăn không hư nát
mang lại sự sống đời đời. Hãy lao công khó nhọc vì của ăn không hư nát này và
hãy cùng nhau chia sẻ của ăn ấy trong tình bác ái huynh đệ để thực sự chúng ta
được sống và sống dồi dào.
21. Mình Máu
Chúa Kitô – Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu đã làm
phép lạ hoá bánh ra nhiều để thêm sức cho những người đã theo và nghe Ngài
giảng dạy. Phép lạ hoá bánh ra nhiều, là dấu chỉ của bí tích Thánh Thể sau này.
Đức Giêsu như
gương mẫu
Các tông đồ nhắc
nhở Đức Giêsu: "xin Thầy cho dân chúng về để họ tìm chỗ trọ quanh đây và
kiếm thức ăn vì ngày đã tàn". Dường như dân chúng ham mê nghe Đức Giêsu
giảng, và chính Đức Giêsu cũng rất thích giảng dạy dân chúng đến quên cả thời
gian.
Điều các tông đồ
có thể làm được, là nhắc nhở Đức Giêsu về nhu cầu thể lý của con người. Và Đức
Giêsu nói: "Anh em hãy cho họ ăn". Cho dân chúng ăn, đâu phải là
nhiệm vụ của các tông đồ, và cũng vượt khả năng của chính các ông: "chúng
con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Hãy bảo họ ngồi thành nhóm
khoảng năm mươi người. Và Đức Giêsu đã cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn rồi bẻ ra trao cho các môn đệ, để họ phân
phát cho dân chúng. Đức Giêsu không chỉ quan tâm đến khát vọng thiêng liêng của
dân chúng, nhưng Ngài còn thông cảm và để ý đến cả nhu cầu thể xác của con
người nữa.
Đức Giêsu:
"cầm lấy, ngước mắt lên trời, dâng lời tạ ơn...". Những việc bình
thường hằng ngày, ngay cả như "ăn uống", Đức Giêsu cũng vẫn làm với ý
thức sâu xa về Thiên Chúa. Và cũng chính thói quen này giúp hai môn đệ Emmau
nhận ra Đức Giêsu. Đây là điều mỗi người cần học nơi Đức Giêsu: đối diện với
thực tại, hướng lên Thiên Chúa, chúc tụng và xin Ngài giúp để biết phải làm gì
và làm như thế nào trong mọi hoàn cảnh.
Đức Giêsu nuôi
dưỡng con người bằng chính Mình Máu Ngài
Đức Giêsu trong
đêm Ngài bị bắt, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra trao cho
các môn đệ và nói: này là mình thầy, hiến tế vì anh em. Đức Giêsu đã bị trao
nộp và bị giết vì tội con người, Ngài trở nên của ăn của uống cho con người của
mọi thời đại.
Ngày xưa dân Do
Thái đi trong hoang địa được nuôi bằng manna, người thời Đức Giêsu được Ngài
hoá bánh ra nhiều để nuôi họ, còn ngày nay Ngài nuôi con người bằng chính thịt
máu Ngài. Con người ngày nay còn hạnh phúc hơn cả con người ngày xưa và ngay cả
con người thời Đức Giêsu nữa. Tuy vậy, mấy ai nhận ra diễm phúc này?
Qua bí tích
Thánh Thể, con người nhận ra tình yêu vô cùng của chính Đức Giêsu đối với con
người. Ngài sẵn sàng trở thành của nuôi con người, để được tan biến trong con
người, để làm con người được thần hoá, được thông phần bản tính Thiên Chúa. Của
ăn vật chất con người dùng, trở thành thịt máu con người; còn bí tích Thánh Thể
con người dùng, làm con người được "trở nên thịt máu Đức Giêsu", được
"thánh hoá", được thần hoá, được trở nên con Thiên Chúa.
Dâng hiến chính
mình
Đức Giêsu đã
dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa và cho con người qua cái chết trên thập giá
và được thể hiện trước cách bí tích qua bí tích Thánh Thể. Và qua điều này Ngài
mời gọi con người của mọi thời đại trở nên giống Ngài: yêu thương đến quên
mình, đến dâng hiến chính mình cho con người.
Trong lịch sử
Giáo Hội, có rất nhiều người đã anh dũng dâng hiến chính mạng sống để làm chứng
cho Chúa. Ở Việt Nam đã có cả hơn một trăm ngàn người dám chết để làm chứng cho
đức tin, cho Thiên Chúa. Các thánh và chân phước tử đạo là nhân chứng hùng hồn
cho tình yêu Thiên Chúa và con người.
Những người dâng
mình cho Chúa, cũng là những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con
người. Ơn gọi không khởi đầu với con người và cũng không được kết thúc bởi con
người. Chính Thiên Chúa là sáng kiến của mọi ơn gọi và đặc biệt của ơn gọi dâng
hiến; cũng chính Thiên Chúa là Đấng bảo vệ và phát triển ơn gọi dâng hiến. Ơn
gọi dâng hiến là ơn gọi của tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Tình yêu không
triển nở, sẽ bị chết. Mỗi người sống đời dâng hiến hãy luôn cầu xin, để tình
yêu của họ với Thiên Chúa và con người luôn phát triển. "Xin Chúa làm cho
con yêu Chúa và yêu con người".
Câu hỏi gợi ý
chia sẻ:
1. Bí tích và
phép lạ khác nhau như thế nào?
2. Bạn có năng
lãnh nhận bí tích Thánh Thể không? Tại sao?
3. Xin bạn chia
sẻ tâm tình và kinh nghiệm thiêng liêng của bạn với Đức Giêsu nơi bí tích Thánh
Thể.
22. Anh em hãy
liệu cho họ ăn – Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA
1) Ý CHÍNH:
Thánh Luca thuật
lại phép lạ Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Trước nhu
cầu của đám đông, các môn đệ đề nghị giải tán để mỗi người tự lo liệu đồ ăn chỗ
ngủ của mình. Nhưng Đức Giêsu lại truyền cho các ông: "Anh em hãy liệu cho
họ ăn đi". Sau đó, các ông chỉ kiếm được năm cái bánh và hai con cá. Nhưng
Đức Giêsu đã xử dụng số lượng ít oi này để nhân ra nhiều gấp bội mà cho dân
chúng được ăn no. Số bánh dư thu lại được mười hai thúng. Số người ăn hôm ấy
khoảng chừng 5000 người đàn ông.
2) CHÚ THÍCH:
- Khi ấy, Đức
Giêsu nói với dân chúng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được chữa.
Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa Người rằng: "Xin
Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây tìm chỗ trọ và
kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng"(Lc 9,11b-12):
+ Đức Giêsu nói
với dân chúng về Nước Thiên Chúa: Nước Thiên Chúa hay Nước Trời là trọng tâm
các bài giảng của Đức Giêsu. Luca nhắc đến bài giảng trước phép lạ nhân bánh ra
nhiều là nhằm ám chỉ đến Thánh Lễ Giáo Hội cử hành sau này có hai phần chính là
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể.
+ Chữa lành
những kẻ cần được chữa: Lời giảng luôn được kèm theo phép lạ chữa bệnh. Đó là
đặc điểm cách thức truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu và là khuôn mẫu cho Giáo
Hội về phương cách truyền giáo sau này.
+ Xin Thầy cho
đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây tìm chỗ trọ và kiếm
thức ăn: Câu nói của các môn đệ cho thấy: Tuy quan tâm đến nhu cầu ăn uống ngủ
nghỉ của dân chúng, nhưng các ông không muốn lãnh trách nhiệm giúp đỡ họ cách
cụ thể.
- Đức Giêsu bảo:
"Chính anh em hãy cho họ ăn". Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn
vẹn năm cái bánh và hai con cá. Trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho
cả đám dân này". Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với
các môn đệ: "Anh em hãy bảo họ ngả mình thành từng nhóm khoảng năm mươi
người một"(Lc 9,13-14):
+ "Chính
anh em hãy cho họ ăn": Đức Giêsu trao trách nhiệm cho các môn đệ là phải
lo phục vụ dân chúng cả về thể xác nữa. Đây cũng là lệnh truyền cho các tín hữu
hôm nay là không những phải thương yêu về linh hồn mà còn phải thương yêu cả về
thể xác nữa như kinh thương người có mười bốn mối, trong đó có thương xác bảy
mối như sau: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ
liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ làm tôi, chôn xác kẻ chết.
+ "Chúng
con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá": Bánh và cá là thức ăn
thường ngày của dân chúng miền Galilê. Năm chiếc bánh và hai con cá là của một
bé trai (x. Ga 6,9). Số lượng thức ăn này là quá ít so với số đông dân chúng.
Điều này nói lên khả năng hữu hạn của các môn đệ. Nhưng Đức Giêsu lại muốn xử
dụng sự cộng tác nhỏ bé này để làm phép lạ lớn lao.
+ Anh em hãy bảo
họ ngả mình thành từng nhóm khoảng 50 người một: Có bản dịch ngả mình thành
từng giường. Từ ngữ diễn tả thói quen của người xưa ở Cận Đông: người ta lấy tư
thế nằm nghiêng khi ăn uống.
+ họp thành từng
nhóm: Gợi lại kỷ niệm việc Môsê tổ chức dân Do thái trong sa mạc thời kỳ xuất
hành. Đây được coi như cách tổ chức lý tưởng của dân Thiên Chúa (x. Xh
18,21.25). Ở đây nói lên ý Đức Giêsu muốn các môn đệ tổ chức đám đông ô hợp thành
từng cộng đoàn. Các ông trở nên những "thừa tác viên"phục vụ cộng
đoàn.
- Các môn đệ làm
y như vậy, và bảo mọi người ngả mình xuống. Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái
bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho
các môn đệ, để các ông dọn ra cho đám đông. Mọi người đều ăn và ai nấy được no
nê. Những miếng vụn còn thừa, ngươi ta thu lại được mười hai thúng (Lc
9,15-17):
+ Các môn đệ làm
y như vậy: Các môn đệ có nhân đức vâng lời: Mau mắn làm theo lời Đức Giêsu dạy,
dù lúc ấy các ông chứ biết Đức Giêsu sắp làm gì.
+ Đức Giêsu cầm
lấy năm cái bánh và hai con cá...: Theo phong tục của người Do Thái: trước bữa
ăn, người gia trưởng thường đọc một kinh cảm tạ Thiên Chúa về những ơn lành
Chúa đã ban. Ở đây Đức Giêsu cũng làm việc cầu nguyện này bằng các nghi lễ
phụng vụ Thánh Thể: Cầm lấy bánh, ngước lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và
trao cho môn đệ. Những cử chỉ này giống như khi Người lập Bí Tích Thánh Thể tại
phòng Tiệc Ly vào tối thứ Năm Thánh (x. Lc 22,19) và trong bữa ăn với hai môn
đệ tại làng Emmau (x. Lc 24,30).
+ Trao cho các
môn đệ, để các ông dọn ra cho đám đông: Ở đây các môn đệ đóng vai trò trung
gian giữa Đức Giêsu và dân chúng. Ngày nay các linh mục cũng có vai trò như vậy
trong các cộng đoàn và các xứ đạo.
+ Mọi người đều
ăn, và ai nấy được no nê...Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười
hai thúng: no nê và miếng thừa ở đây nói lên sự dồi dào của đồ ăn. Điều này gợi
lên bữa tiệc Thiên Sai mà Isaia đã báo trước: "Ngày ấy, trên núi này, Đức
Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu
ngon"(Is 25,6). 12 thúng đầy tương ứng với 12 môn đệ khi nó đang phục vụ
dân chúng. Các môn đệ thu nhặt lại là để gợi ý rằng bữa ăn này sẽ được mở rộng
để đón những thực khách đông đảo hơn nữa sau này.
II. HỌC SỐNG LỜI
CHÚA:
1) LỜI CHÚA:
"Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời,
dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám
đông"(Lc 9,16):
2) CÂU CHUYỆN 1:
"Mình Thánh ở trong lòng tôi".
Thời kỳ cách
mạng Pháp, một cha xứ miền Bờ-ta-nhờ (Bretagne) đưa Mình Thánh Chúa cho một gia
đình, đi theo giúp cha là một cậu bé tên là Ben-gia-min (Benjamin). Bấy giờ cha
xứ bị bọn lính canh phát hiện đuổi theo. Ngài vội trao Mình Thánh đựng trong
một hộp nhỏ cho cậu bé. Sau đó cha bị bắt và bị giết chết. Cậu bé Ben-gia-min
vừa chạy trốn vừa mở hộp ra rước Mình Thánh Chúa. Sau đó cậu cũng bị bắt và bị
tra hỏi nơi cất giấu Mình Thánh Chúa. Cậu hiên ngang chỉ tay vào người mình mà
nói rằng: "Mình Thánh đang ở trong lòng tôi đây Các ông hãy mổ ra mà
lấy". Bọn lính điên tiết liền đâm chết cậu bé và chôn vùi sơ sài hai xác
chết ở dưới gốc cây sồi cổ thụ. Một thời gian sau, khi cuộc cách mạng bị thất
bại, một hôm một cơn lốc đã đánh đổ cây sồi kia, để lộ ra hai xác chết của cha
xứ và cậu bé giúp lễ. Người ta cũng phát hiện ra Mình Thánh Chúa vẫn đang còn
sáng ngời trên thân xác cậu bé.
3) CÂU CHUYỆN 2:
Ngày hạnh phúc nhất là ngày Rước Lễ Lần Đầu
Khi hoàng đế
Napoléon của nước Pháp, người đãtừng chinh phục cả Au châu, bị thua trận và bị
đày sang đảo Xanh Hê-len (Sainte Hélène), cùng đi theo ông là một nhà chép sử.
Người viết tiểu sử này luôn để ý ghi nhận mọi chi tiết xảy ra trong cuộc đời
của ông vua Napoléon. Một hôm, khi biết ngày cuối cùng của Napoléon sắp đến, và
vào lúc ông ta vui vẻ thoải mái nhất, người viết sử kia mới hỏi hoàng đế rằng:
"Thưa ngài, xin ngài cho biết trong cuộc đời của ngài, khi nào ngài cảm
thấy được hạnh phúc nhất?". Nghe xong câu hỏi, Napoléon không vội trả lời,
ông ra đứng bên cửa sổ nhìn ra biển xanh ở xa xa một hồi lâu, rồi thở dài và
quay lại nói với người viết tiểu sử rằng: "Trẫm nhớ ngày hạnh phúc nhất
trong cuộc đời của trẫm không phải là ngày trẫm lên ngôi hoàng đế, cũng không
phải là ngày trẫm dành chiến thắng trong các trận đánh ở Au châu hay Bắc Phi.
Ngày ấy đã xảy ra từ khi trẫm còn bé, cách đây đã lâu lắm rồi. Đó chính là ngày
trẫm được Rước lễ Lần Đầu".
SUY NIỆM:
+ Bí tích Thánh
Thể là một sáng kiến của Chúa Giêsu. Người đã thiết lập bí tích này trong bữa
ăn cuối cùng với các môn đệ trước khi chịu khổ nạn. Tấm bánh trở thành Mình
Người sau lời truyền phép: "Này là Mình Thầy...Hãy cầm lấy mà ăn".
Chén rượu trở thành chén Máu Người sau lời phán: "Này là chén Máu
Thầy...Hãy cầm lấy mà uống". Cuối cùng Người còn truyền cho các Tông đồ:
"Anh em hãy làm việc này để tưởng nhớ Thầy". Từ đó, Giáo Hội đã vâng
lời Chúa cử hành Bí Tích Thánh Thể trong Thánh Lễ. Thánh lễ chính là bữa tiệc
thánh với hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, và là một nghi thức để
tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người.
+ Người ta không
thể tách rời Thánh Lễ với cái chết của Chúa Giêsu dựa vào lời Người: "Đây
là Mình Thầy sắp bị nộp...Đây là chén Máu Thầy sắp đổ ra vì anh em". Rước
lễ là rước Đấng đã chịu chết vì loài người và là sự hiệp thông vào cái chết của
Chúa Giêsu.
+ Mỗi phút giây
qua đi, có biết bao tấm bánh được bẻ ra để nuôi sống thân xác con người. Trong
mỗi tấm bánh ấy, chúng ta thấy có bóng dáng của tấm bánh Mình Thánh Chúa. Nếu
ta siêng năng lãnh nhận bánh Mình Chúa trên bàn thờ, chúng ta sẽ dễ dàng chia
sẻ tấm bánh vật chất cho tha nhân. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, chúng ta hãy dâng
lên Chúa những sự vất vả lao nhọc, những đau khổ về thể xác cũng như tâm hồn,
những người thân yêu ruột thịt và những người bệnh tật nghèo khó...như lễ vật.
Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần sẽ biến những lễ vật đó trở nên Bánh Thánh nuôi
dưỡng đức tin của chúng ta và đem lại ơn cứu độ muôn đời cho chúng ta.
5) THẢO LUẬN:
Thánh Lễ là một bữa tiệc thánh. Vậy khi tham dự Thánh lễ, chúng ta phải ăn mặc
thế nào cho xứng đáng? Cần đến sớm hay trễ? Cần ngồi trong nhà thờ hay đứng
ngoài canh giữ xe và nói chuyện với nhau? Khi dự lễ cần giữ thái độ nào: nghiêm
trang hay hút thuốc, đùa nghịch? Cần Rước lễ thế nào: sốt sắng hay máy móc
chiếu lệ?
23. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
HOÁ BÁNH RA
NHIỀU HAY BẺ BÁNH
Phép lạ về bánh
rất ăn khớp với mạch văn. Ngoài việc nó được đưa vào một cách hợp lý –ngày đã
bắt đầu tàn, phải nghĩ đến chuyện ăn uống- trình thuật sắp gián tiếp trả lời
cho câu hỏi mà Hêrôđê tự đặt ra cho ông; nếu không có một tước hiệu nào được
gán cho Chúa Giêsu ở đây, thì dấu chỉ lạ lùng Ngài đã thực hiện cũng đưa nhóm
Mười Hai (và độc giả) vào đúng hướng. Duy nhất chỉ có phép lạ này trong suốt sứ
vụ ở Galilê, được tường thuật trong ba bản Nhất Lãm mà cũng thấy có cả ở Gioan
nữa. Hơn thế, Mc 8,1-10, được Matthêu lấy lại, có một bản dịch với bảy bánh,
bảy thúng và bốn ngàn người. Như vậy, được thuật lại sáu lần trong các Tin
Mừng, "phép lạ làm quà" này theo một sơ đồ mà cách Các Vua đã sử dụng
tới ba lần khi nói về Êlia và Êlisê: dù người ta không đòi hỏi, vị ngôn sứ đã
do sáng kiến của riêng mình mà trao tặng những của cải vật chất (bột mì, dầu,
bánh) một cách kỳ diệu. Người ta cũng nhấn mạnh đến sự dư dật của quà tặng.
Trong trình thuật mà bản văn chúng ta cảm hứng theo, chính Êlisê tuyên bố: Chúa
phán như thế này: Người ta sẽ ăn no mà còn dư thừa (2V 4,43 xem cả ở 1V 17,14).
Trái với đoạn văn song song của Ga 6, Luca không đọc ở phép lạ hoá bánh theo
ánh sáng của các trình thuật thời xuất hành nói về manna và ông cũng không
trình bày Chúa Giêsu như Môsê mới trao ban bánh của thời kỳ cuối cùng.
Ngày đã bắt đầu
tàn. Về mặt thời gian, ghi chú này cũng là một thoáng nhìn đầu tiên hướng về
bữa ăn ở Emmas (24,29) sẽ được nói rõ hơn trong phần tiếp theo của bản văn.
Tính cách cho không của dấu chỉ mà Chúa Giêsu sắp làm đến từ sự kiện là nếu địa
điểm là nơi hoang vắng, cũng có các làng mạc và nông trại quanh đây; nhóm Mười
Hai có thể đi mua thực phẩm dù đó là một chi phí khá lớn (c.13). Trong khi giải
quyết vấn đề thực phẩm, phép lạ sắp xảy ra không giải quyết vấn đề chỗ ở, như
cũng đã được nhắc đến... Lời đối đáp của Chúa Giêsu giống như lời của Êlisê
(2V4 – Lc 9,13-17). Tính cách lớn lao của quà tặng được ban phát đến từ sự khác
biệt giữa những con số; Chúa Giêsu là một Ngôn Sứ vĩ đại đến độ ta không thể so
sánh Êlisê với Ngài được.
Lệnh được ban
các môn đệ bảo mọi người ngồi xuống làm cho các ông đóng vai trò trung gian.
Các ông đã trình bày với Thầy về nhu cầu của đám đông (c.12); trong chốc lát;
họ sẽ đưa bánh và cá từ bàn tay Chúa Giêsu đến cho dân chúng. Trình thuật không
chứa đựng lời tiên tri để nói lên ý nghĩa của những gì đang xảy ra (khác với 1V
17,14; 2V 4,13); ý nghĩa được cung cấp cho độc giả bằng bốn trong năm đương
thời mô tả những cử chỉ của Chúa Giêsu. Cầm lấy, tạ ơn (ở đây là dâng lời chúc
tụng), bẻ ra, trao cho là những từ ngữ dùng cho bữa tiệc cuối cùng ở 22,19. Màu
sắc của phép lạ còn rõ nét hơn khi Luca dùng những từ ngữ "bẻ ra / bẻ
bánh" để chỉ những buổi tiệc Thánh Thể của Giáo Hội (24,30.35; Cv 2,42-46).
Hơn nữa, không có từ "tăng lên nhiều"; chỉ có chuyện bẻ ra và phân
phát bánh thôi. Được nhắc đến hai lần, nhưng các con cá lại ở vào thế phụ
thuộc, vì lý do các động từ liên quan đến bữa tiệc Thánh Thể được dùng ở đây.
Cuối cùng nơi mà năm trình thuật khác trong Tin Mừng nhắc đến "chúc tụng
Chúa" hoặc "tạ ơn Chúa", chỉ có Luca nói chúc lành cho thực
phẩm. "Bằng lời chúc lành", Chúa Giêsu chuyển trao sức mạnh của ngài
sang bánh và cá như khi chữa bệnh, một quyền năng xuất phát từ Ngài và làm cho
phép lạ xảy ra (F. Bovon). Trái với các trình thuật chữa bệnh, ở đây không có
thể phát biểu ý kiến về biến cố dựa trên một trình thuật như thế.
2V 4,44 ghi chú:
"Tên đầy tớ phân phát trước mặt mọi người: họ đã ăn và còn dư lại theo lời
Thiên Chúa". Ở đây cũng vậy, thêm vào việc mọi người ai nấy được no nê là
còn thừa những miếng bánh đã bẻ ra (dịch sát: những miếng vụn, cũng là một từ
của bữa tiệc Thánh Thể); tất cả là mười hai thúng. Cuối cùng thì mỗi người
trong nhóm Mười Hai (xc.12) mang một thúng đầy. Như vậy là một cách đọc có tính
tượng trưng đã rộng mở...
Không hề có một
phản ứng nào về phía đám đông, dường như họ không biết đến những gì vừa xảy ra.
Trái lại, phản ứng của nhóm Mười Hai sẽ xảy ra ngay tức khắc; phép lạ hoá bánh
ra nhiều chuẩn bị cho lời tuyên xưng của Phêrô liền ngay sau đó.
24. Chú giải của
Noel Quesson
Hôm nay là
"Lễ Mừng Thiên Chúa"! Từ đó xem ra kỳ lạ, nhưng được tuyển chọn để
nói lên mầu nhiệm "Mình và Máu Đức Kitô", là dấu chi vĩ đại, là bí
tích thiêng thánh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Vì thế để gợi
lên cho ta thấy bí tích Thánh Thể quan trọng này, Giáo hội đã chọn, để năm nay
chúng ta đọc lại một phép lạ liên hệ đến "vật chất": đó là phép lạ
hóa bánh ra nhiều. Làm như thế có phải là giảm nhẹ mầu nhiệm không? Có lẽ đó là
điều gây cho ta nhiều ngỡ ngàng. Với tinh thần duy lý, chúng ta không thường
hiểu sai, khi muốn vật chất hóa bánh ra nhiều một cách triệt để, hãy thiêng
liêng hóa bữa tiệc Thánh Thể đến cùng sao? Thực sự, chúng ta sẽ nhận ra rằng,
hai thứ bánh đó liên kết với nhau. Để nói lên Đức Giêsu cho đám đông dân chúng
đói bụng ăn no nê, Luca sử dụng chính những công thức của Bữa Tiệc ly... Nhưng
ông cũng sẽ diễn tả Thánh Thể như một bữa ăn huynh đệ, đòi phải phục vụ lên
nhau cách cụ thể.
Có lẽ chúng ta
cần nhận ra rằng, "bánh của Thiên Chúa" đòi ta phải thương tới anh em
mình, tới "bánh của con người"... hoa quả và ruộng đất công lao của
con người! Vì lòng thương yêu chúng ta, khi trao nộp Mình và Máu Ngài, Đức
Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy làm như thế. Làm sao Thánh Lễ của chúng ta lại có
thể thoát ra ngoài thế gian được?
Đức Giêsu đã nói
với đám đông về nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
Ngay những lời
mở đầu, Luca đã tiếp tay rất nhanh, để độc giả của ông, những Kitô hữu sống
Thánh Thể mỗi Chúa Nhật, hiểu rõ ý nghĩa biểu tượng của trình thuật ông sẽ kể.
Cũng như trong thánh lễ, bữa ăn mà Đức Giêsu sắp cống hiến cho đám đông, bắt
đầu bằng một "Phụng vụ Lời Chúa". Cần phải hiện diện tại đó ngay từ
đau để được dưỡng nuôi bằng chính Giêsu đó, Đấng "nói về nước Thiên
Chúa" và "chữa lành những ai cần được chữa". Phải, dấu chỉ của
bánh che giấu một khuynh hướng biểu tượng sâu sắc mà ta cần phải hiểu ý nghĩa
vượt trên thực tại vật chất trực tiếp. Lương thực sắp được trao ban, không chỉ
nhằm tới làm dịu cơn đói phần xác, dù rằng trước hết nó đóng vai trò đó. Con
người không chỉ sống bằng cơm bánh! Cơn đói khát của con người không phải chỉ
là những lương thực trần gian. Lát nữa họ có nhận ra Đấng sẽ ban cho họ
"bánh bởi trời" (Ga 6) không?
Đức Giêsu
"nói đến nước Thiên Chúa". Do đó, đây là Lời giải thoát con người, là
Ngôi Lời cứu độ con người, là sứ điệp mở lối cho con người tới Thiên Chúa. Hỡi
con người giá như người biết nhu cầu đích thực của ngươi? Giá như ngươi biết
rằng, sự "no thỏa" duy nhất và thực sự của người là chính Thiên Chúa.
Người được tạo thành để hưởng hạnh phúc vô biên, mà các hạnh phúc trần gian chỉ
là một thứ hình ảnh mờ nhạt. Vậy, bạn đừng hài lòng vì những thứ bánh ngọt, món
rau đỗ, hay món thịt bò với khoai tây rán...
Đức Giêsu
"chữa lành những ai cần được chữa". Đó là kiểu nói đầy tính mạc khải.
Luca biết rằng có lẽ mọi người đều cần đến việc chữa lành như trên, mà Đức
Giêsu sẽ mang đến. Nhưng rõ ràng, có quá nhiều người còn đang đóng kín trong
tiểu vũ trụ con Người riêng tư của họ, thường không cảm nhận được những giới
hạn sâu xa của mình, như tội lỗi và định mệnh phải chết. Họ cứ tưởng mình là
"mạnh khỏe"! Thế mà, Đức Giêsu không đến với người mạnh khỏe, những
kẻ công chính, nhưng đến với kẻ đau bệnh và tội lỗi (Lc 5, 31). Đó thực là "hồng
ân cứu độ của Thiên Chúa, sắp được biểu trưng trong lương thực mầu nhiệm có sức
làm no thỏa và vô cùng phong phú... mà Đức Giêsu (theo tiếng Hê-brơ danh của
Ngài có nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ") sẽ trao ban cho "những ai
cần đến"! phần tôi, tôi có thuộc vào những người đó không?
Ta cũng đã thấy,
tại điểm nào mà kiểu giải thích nhằm đơn giản hóa sự việc, muốn tìm hết cách để
hợp lý hóa phép lạ, và cố nói lên rằng, Đức Giêsu đã thuyết phục dân chúng để
họ đưa ra những đồ dự trữ mà họ cất giấu, do đó gợi lên một thái độ chia sẻ
chung. Kiểu giải thích này không nghiêm chỉnh. Nó biến Tin Mừng thành một thứ
tiểu thuyết màu mè, dù đã đưa ra được một bài học liên đới khá tốt.
Cũng thật là ấu
trĩ khi nghĩ rằng, Chúa là Đấng không ngừng làm cho các đồng bắng trên thế giới
đẫy rẫy những mùa gặt từ vài hạt lúa, lại có thể gặp lúng túng khi hóa bánh ra
nhiều từ năm chiếc bánh... Thánh âu Tinh đã phát biểu như thế.Nhưng chúng ta
hãy đi xa hơn. Nếu đó là ơn cứu độ, là sự sống đời đời, thì chỉ mình Thiên Chúa
mới có thể ban tặng "Hỡi con người nếu ngươi nhận ra ân huệ Thiên Chúa
ban" (Ga 4, 10). Ôi, hỡi chị phụ nữ xứ Samari, cơn khát khao của chị không
phải là cơn khát ở nước giếng này! (Ga 4,15) Còn tôi, tôi có đói khát không?
Ngày đã bắt đầu
tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giêsu thưa người rằng: "Xin Thầy cho đám
đông về, để họ vào làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn,
vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng...".
Vẫn là nết nhạy
bén của Luca. Dừng lại những chi tiết vật chất của cảnh tượng trên, có nghĩa là
bỏ quá điều cốt yếu. Làm sao những người quen thuộc Kinh Thánh lại không nhận
ra trong thứ bánh được trao ban cho dân chúng "trong hoang địa": Một
nhắc nhở đến phép lạ "man na" kỳ diệu trong Xuất Hành? Đức Giếsu là
Môsê mới, "nhà giải phóng" mới, Đấng,"cứu khỏi vùng đất tử
thần" hoang địa!
Không phải nhờ
đi đến các nông trại làng mạc mà đám đông được cứu sống... nhưng chính là nhờ ở
lại với Đức Giêsu! Hỡi các tông đồ, các ông đã nhầm lẫn khi kiếm tìm giải pháp
trong phạm vi nhân loại.
Nhưng Đức Giêsu
bảo: "Chính anh em hãy cho họ ăn. Các ông đáp: "Chúng con chỉ có vỏn
vẹn năm cái bánh và hai con cá... trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả
đám dân này". Quả thực, có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giêsu nói với
các môn đệ: "Anh em hãy cho họ ngả lưng thành từng nhóm khoảng năm mười
người một". Các môn đệ làm y như vậy và cho mọi người ngả lưng xuống.
Ta không thể
không ngạc nhiên, về những vai trò mà Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ thể hiện:
thế nhưng chính Đức Giêsu sắp "ban bánh"... và nhóm Mười Hai sắp phân
chia bánh. Trước hết, họ được trao cho trách liệm tổ chức đám đông ô họp thành
"cộng đoàn" có cơ cấu. Họ được Đức Giêsu thiết lập như các "thừa
tác viên", nghĩa là những "người phục vụ". Làm sao các cộng đoàn
thời Luca lại không hiểu được ám chỉ đó! Trình thuật mang tính đồng quê trên
đây chắc chắn hàm chứa nhiều màu sắc phụng vụ hơn chúng ta tưởng, nếu ta không
dừng lại ở vẻ bề ngoài.
Đức Giêsu cầm
lấy năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và
trao ban cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông.
Hiển nhiên là
những từ trên được Luca chọn lựa, để nhắc lại nghi thức phẩm trật và phụng tự
của Thánh Thể. Diễn tiến bốn cử chỉ Thánh trên đây, cũng sẽ được Luca thuật lại
trong bữa tiệc ly thứ Năm Thánh và trong bữa ăn tại làng Em-mau:
Tại hoang địa
(Lc 9, 15)
Đức Giêsu cầm
lấy năm cái bánh...
Ngài chúc
lành...
bẻ ra...
và trao ban...
Tại phòng Tiệc
ly (Lc 22,19)
Ngài cầm lấy
bánh...
dâng lời tạ
ơn...
bẻ ra....
và trao ban...
Tại Em-mau (Lc
2430)
Ngài cầm lấy
bánh...
dâng lời chúc
tụng.....
bẻ ra...
và trao cho
họ...
Những lời trên
không chắc chắn buộc chúng ta phải dừng lại trên lối giải thích, các Kitô hữu
đầu tiên đã làm trước việc hóa bánh ra nhiều nổi tiếng mà các Tin Mừng không
tường thuật cho ta ít hơn sáu câu đối chiếu (Mt 14, 13.21 và 15, 32.39 Mc 6,
30.40 và 8, 1.10 Lc 9, 10.17 Ga 6, 1,15). Khi linh mục, thừa tác viên phục vụ
của Đức Giêsu lặp lại giữa chúng ta, trong cộng đoàn, bốn cử chỉ trên đây của
Đức Giêsu, thì chính Người đang thực sự làm lại và: hiện diện giữa chúng ta.
Thánh lễ có thể giúp ta, trong Đức tin gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, Đấng chiến
thắng sự dữ và tử thần, do đó là Đấng cứu chuộc con người. Bánh được bẻ ra và
trao ban, đó là dấu chỉ mà "Thiên Chúa ở cùng chúng ta. "Bánh đó
chính là bản thân của Đức Giêsu được trao ban cho ta... là chính con người
nhiệm mầu, như hai đoạn văn liền kể trước sau với trình thuật hóa bánh ra nhiều
gợi lên cho ta: "ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện lạ như thế?
Hêrôđê tự hỏi (Lc 9, 7.9)... "Anh em bảo Thầy là ai?". Đức Giêsu hỏi
các bạn hữu, ngay khi Người làm phép lạ trên đây (Lc 9, 18.27). Nếu chúng ta
không trả lời câu hỏi về căn tính của Đức Giêsu trên đây, thì "dấu chỉ
bánh" vẫn còn giữ vẻ hời hợt bên ngoài. Như thế có phải là các Kitô không
cần quan tâm đến sự đói khát vật chất của mình không? Cộng đồng chủng người trẻ
của Taizé trả lời rằng việc phụng thờ và công cuộc phát triển liên kết với
nhau. Việc bạn chia sẻ cơm bánh, thái độ dấn thân để thay đổi xã hội, cử chỉ
cho kẻ đói ăn, hành động phục vụ kẻ khác... những việc làm như thế rất quan
trọng. Trước hết bạn hãy thực hiện những công tác đó! Nhưng bạn cũng đừng quên
tôn thờ, gặp gỡ con người của Đức Giêsu Đấng cứu độ... Nếu không, bạn có thể
làm thất vọng anh em mình về điều họ đang cần nhất. Họ là làm no thỏa cái bụng,
họ cần sự thỏa mãn mà Thiên Chúa sẽ mang đến nếu bạn biết trao cho họ. Bởi vì,
bánh hằng ngày của con người (không có gì tầm thường hơn là bánh!), cần phải
trở nên Minh Thánh Đức Kitô. Không được phung phí bánh của con người. Một mầu
nhiệm đang ẩn giấu ở đó.
Mọi người đều
ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười
hai thúng.
Không được vứt
đi một mảnh nào của đời người, một miếng nào của tầm thường, một giây nào của
mỗi ngày... từ khi Thiên Chúa đã nhập thể vào đó! Lạy Chúa là Chúa tể càn khôn
- chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu ruộng đất và
công lao của con người, xin dâng lên Chúa để bánh này trở nên bánh tràng sinh
nuôi dưỡng chúng con!
Nhưng chúng ta
cũng biết rằng, lúc đó đám đông chưa hiểu gì. Họ muốn tôn Ngài làm vua, gán cho
Người vai trò của Đấng Mêsia, theo quan điểm chính trị, đóng khung Người trong
phạm vi nhân loại! Người đã không nhận. Người "lánh mặt đi lên núi"
(Ga 6, 15) và "Người bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia" (Mc
6, 45).
Xin ban cho
chúng con lương thực hằng ngày... lương thực này và lương thực kia!
Sưu tầm