HỘI THỪA SAI VIỆT NAM - BAN CHÚA NHẬT I MUA CHAY NĂM C
MỤC LỤC
1. Tinh thần sa mạc
2. Ra đi
3. Cám dỗ - ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
4. Cú nhẩy ngoạn mục –
Thiên Phúc
5. Chiến đấu với ma quỷ
– R. Veritas
6. Không chỉ nhờ cơm
bánh
7. Chỉ thờ phượng một
mình Người
8. Tiến tới một tình yêu
chân thật hơn, tinh tuyền hơn
9. Đời là cuộc chiến
không ngừng
10. Chúa ăn chay và bị
cám dỗ
11. Một cuộc lữ hành đức
tin
12. Hãy chọn Chúa – Lm.
Jos Tạ Duy Tuyền
13. Chúa cần tấm lòng
thành – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
14. Sống là chiến đấu
15. Chống lại cám dỗ -
McCarthy
16. Chiến đấu với cám dỗ
17. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
18. Chú giải của Noel
Quesson
19. Trong sa mạc - R.
Gutzwiller
20. Phương cách ma quỉ
dùng để cám dỗ ta - JKN
21. Satan
22. Nhận biết
23. Chú giải của Fiches
Dominicales
1. Tinh thần sa
mạc.
Trước khi bắt đầu cuộc
sống công khai, Chúa Giêsu đã vào trong sa mạc, và suốt 40 đêm ngày, Ngài đã ăn
chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Và như chúng ta đã biết,
sa mạc là một vùng đất bao la, hoang vắng, không cây cối, không nhà cửa, không
người và cũng không vật. Chỗ nào cũng chỉ là bãi cát mênh mông. Chúa Giêsu đã
cầu nguyện và ăn chay trong sa mạc như thế. Hết sức thanh vắng, hết sức khó
nghèo. Với thái độ từ bỏ tối đa, với niềm tin cậy và phó thác tuyệt đối. Tinh
thần sa mạc như thế là điều chúng ta cần phải thực hiện trong cuộc sống của
chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận ơn sủng củac.
Hình như chúng ta cũng
có được đôi chút kinh nghiệm về chuyện này. Chẳng hạn có những lúc chúng ta như
bị đẩy vào một sa mạc tinh thần như khi chúng ta bị cô đơn. Có những lúc chúng
ta tự tạo ra một sa mạc tinh thần như khi chúng ta sống nội tâm. Thời gian
trong sa mạc tinh thần là những tháng ngày thuận tiện để suy nghĩ, cầu nguyện
và trút bỏ cái tôi cũ kỹ. Mặc dù nhờ cầu nguyện và chay tịnh trong tinh thần sa
mạc, chúng ta có thể tập được nhiều thói quen tốt, có thể uốn nắn sửa đổi lại
nhiều khuyết điểm hay là có thể nghĩ tới Chúa nhiều hơn, thế nhưng chúng ta vẫn
phải tỉnh thức. Bởi vì chính lúc ấy ma quỷ sẽ quan tâm đến chúng ta nhiều hơn.
Cơn cám dỗ dành cho
chúng ta, tuy vẫn giống như các cám dỗ của Chúa Giêsu, nhưng sẽ được hiện đại
hoá. Kẻ cám dỗ chúng ta không phải là quỷ dữ, mà rất có thể là chính lòng nhiệt
thành của chúng ta. Nội dung của cám dỗ không phải là những gì phàm tục sống
sượng, nhưng lại là những đề nghị có vẻ đạo đức. Mục đích đưa ra không thấy ghi
trong 7 mối tội đầu, nhưng lại nằm trong cả một chương trình đạo đức lớn.
Chẳng hạn thay vì bị cám
dỗ biến đá thành bánh, thì chúng ta sẽ được khuyến khích ham muốn một thứ quyền
lực kinh tế nào đó, với hy vọng để mở rộng Nước Chúa. Thay vì bị cám dỗ quỳ lạy
ma quỷ để nắm trọn quyền cai trị thế giới, thì chúng ta sẽ được khuyến khích
thoả hiệp với một thế lực xã hội nào đó để có được một thứ quyền lực chính trị
với hy vọng sẽ dễ bảo vệt và phát triển quyền lợi Giáo Hội. Thay vì bị cám dỗ
nhảy từ đỉnh cao đền thờ xuống, mà không hề hấn gì nhờ quyền phép thiêng liêng,
thì chúng ta sẽ được khuyến khích hăng say phô trương quyền lực thiêng liêng,
với hy vọng xây dựng uy tín cho đạo của mình. Tất cả chỉ nhằm làm sáng danh
Thiên Chúa của tôi và Giáo Hội của tôi.
Trong những trường hợp
như vậy, nếu chúng ta không cầu nguyện và ăn chay trong tinh thần sa mạc như
Chúa Giêsu đã làm, thì chúng ta sẽ không dễ dàng nhận ra đâu là những chước cám
dỗ và đâu là những phương thế phải dùng để đối phó với những cám dỗ ấy.
2. Ra đi.
Cuộc đời là một chuyến
đi không ngừng. Sinh ra là giã từ cái êm ấm của lòng mẹ để đi vào một thế giới
xa lạ. Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ để đi vào một cuộc đời đầy bấp bênh và thử
thách. Khi về già, con người cảm thấy mình đứng vên bờ của vĩnh cửu, lại một
lần ra đi dứt khoát.
Lịch sử ơn cứu độ, qua
đó Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta cũng được trình bày như một cuộc ra đi. Khởi
đầu là cuộc ra đi của tổ phụ Abraham. Ông đã bỏ lại đàng sau tất cả để đi về
phía trước với không biết bao nhiêu gian nan vất vả. Nhưng tiêu biểu hơn cả
chính là cuộc ra đi của dân Do Thái. Bốn mươi năm trong sa mạc đã trở thành
biểu tượng của không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ chuyến đi nào cũng đều
gặp phải. Trong ký ức của dân Do Thái, bốn mươi năm sa mạc ấy không ngừng được
ôn lại để ý thức hơn về những thanh luyện mà con người cần phải trải qua để
sống tốt đẹp hơn.
Kinh nghiệm ấy Chúa
Giêsu cũng muốn trai qua trong cuộc lữ hành trần thế của Ngài với 40 đêm ngày
trong sa mạc. Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu
cuộc hành trình dẫn tới cái chết và nhớ đó thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân
loại.
Trong cuộc hành trình
đầy chông gai và thử thách này, Ngài cũng đã gặp phải thử thách và cám dỗ. Nếu
dân Do Thái ngày xưa đã gục ngã một cách thảm hại, thì hôm nay Chúa Giêsu đã
chiến thắng một cách vinh quang. Tất cả ba cơn cám dỗ đều quy về một điểm chung
đó là quyền lực và danh vọng.
Đối lại với con đường ma
quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường khiêm hạ của thập giá. Đối lại với
con đường của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn con đường của vâng
phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là sự chiến
thắng của lòng tin tưởng và phó thác, của sự khiêm nhường và vâng phục.
Với chúng ta cũng vậy,
đời sống đức tin của chúng ta được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Cũng
chào đời, lớn lên và ra đi không ngừng.
Thiết lập mùa chay, Giáo
Hội muốn chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu, bởi vì cuộc lữ
hành trần gian của chúng ta không thể không đi qua sa mạc cát nóng. Thử thách
và gian nan là chuyện không thể thiếu vắng.
Cùng với Chúa Giêsu,
Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy vượt qua sa mạc cuộc đời với những thử thách ấy
một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ với những sai lỗi và
khuyết điểm, với những ích kỷ và nhỏ nhoi, với những thất vọng và buông xuôi.
Đồng thời hãy tin tưởng
và phó thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta không bước đi và chiến đấu một cách đơn
độc lẻ loi, bởi vì có Chúa Giêsu cùng bước đi và cùng chiến đấu với chúng ta.
Hơn thế nữa, Ngài chính là sức mạnh của chúng ta. Cùng bước đi với Chúa, chúng
ta không còn phải lo lắng và sợ hãi chi nữa.
3. Cám dỗ -
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Cám dỗ là chuyện xưa như
trái đất. Từ khi có con người, đã có cám dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai
ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái, khi bị nô lệ dưới ách
người Ai cập thì muốn được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc,
phải chịu đói khát, lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để được no ấm. Nhưng có
thể nói, 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi
thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
+ Cơn cám dỗ thứ nhất:
thoả mãn tức khắc mọi nhu cầu.
Sau khi Đức Giêsu ăn
chay 40 đêm ngày. Ma quỷ đề nghị Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề
nghị hợp lý. Đói thì phải ăn. Muốn ăn thì phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách
nào mới là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất là
không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu cầu của mình.
Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con người. Nhu cầu của con
người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ
thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
+ Cơn cám dỗ thứ hai:
muốn có quyền lực thống trị.
Ma quỷ biết Đức Giêsu
muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên trần gian.
Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỷ là hợp lý. Cứ có quyền thống trị
trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất
công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ cần quỳ xuống thờ lạy ma quỷ, vua quan dân
chúng các nước sẽ răm rắp tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám
dỗ muôn đời của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây
chiến để tranh giành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta
không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh tế, khoa
học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt. Cơn cám dỗ về
quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn mãnh liệt hơn.
+ Cơn cám dỗ thứ ba: tìm
những điều kỳ lạ.
Muốn những chuyện thần
kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên động địa. Muốn có những thành công lẫy
lừng. Cơn cám dỗ này thúc đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây
tháp Ba ben từ ngàn xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám
dỗ ấy ta thấy ma quỷ thật vô cùng tinh khôn và hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất,
ma quỷ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho dục vọng. Xúi giục con người chỉ tìm
thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự sống xác thịt. Đức
Giêsu đã vạch trần âm mưu của ma quỷ khi Người cho biết con người không chỉ có
đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm giá con người
khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu cầu thân xác để chăm lo
cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai,
ma quỷ muốn biến con người thành nô lệ cho tham vọng, nô lệ cho ma quỷ. Vì ham
hố chức quyền, vì mưu cầu danh vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô
lệ cho ma quỷ. Vì tham vọng mà đánh mất chính mình. Đức Giêsu vạch trần âm mưu
đen tối của ma quỷ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ
cho ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên Chúa. Chỉ có thờ
phượng Thiên Chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do trong tâm
hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba,
ma quỷ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng. Điên cuồng đến chống lại Thiên
Chúa. Dùng Thiên Chúa để phục vụ cho những ước vọng ngông cuồng của mình. Không
đến với Chúa trong tâm tình của người con thảo đối với Cha hiền. Đức Giêsu đã
vạch trần âm mưu của ma quỷ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu
thảo. Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không
bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo chứ không
bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỷ hiểm
độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm giá con người khi khiến con người làm
nô lệ cho dục vọng đến cướp mất tự do của con người khi xúi giục con người nô
lệ cho ma quỷ. Và sau cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên Chúa, không coi
Thiên Chúa là cha. Cám dỗ càng hiểm độc vì ma quỷ đã khéo léo học những âm mưu
thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của những nhu
cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám
dỗ của ma quỷ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra để trói buộc con người trong
vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm
độc hơn. Muốn chống trả được những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Đức Giêsu dùng
những vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và luôn
sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để
chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn đã gặp nhiều cơn
cám dỗ, bạn đã chống trả những cơn cám dỗ như thế nào?
2. Có những việc lúc đầu
bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của
ma quỷ không?
3. Bạn có ý thức rằng ma
quỷ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới ngày nay không?
4. Mùa Chay này, bạn sẽ
làm gì để phòng chống âm mưu ma quỷ?
4. Cú nhẩy ngoạn
mục – Thiên Phúc
(Trích trong 'Như Thầy
Đã Yêu')
Vua nước Thục có tính
tham lam. Vua Huệ Vương, nước Tần, muốn xâm chiếm nước Thục, nhưng vì khe núi
hiểm trở, không thể đem quân sang đánh. Huệ Vương sai lấy đá tạc hình con trâu
để gần địa giới nước Thục, mỗi ngày bỏ vàng sau đuôi con trâu và phao tin đồn
rằng: "Trâu đãi ra vàng".
Tiếng đồn ấy đến tai vua
Thục. Ông liền sai xẻ núi lấp khe và cho năm người lực sĩ vào rừng kéo con trâu
về.
Huệ Vương sẵn lối đi,
đem quân tiến đến cướp được nước Thục. Vua Thục vừa mất nước, vừa hại cả mình,
để lại trò cười cho thiên hạ. Thế chẳng phải là tham chút lợi nhỏ mà để thiệt
mất cái lợi to ư?
Vua Thục vì tham vàng mà
mất nước, và số vàng kia cũng lọt vào tay quân thù. Thiên hạ cười chê ông dại
khờ. Nhưng thật ra thì ai cũng đã hơn một lần khờ dại như ông. Ai cũng đã không
ít lần bị cám dỗ giống ông, nếu không phải là vàng thì cũng là của cải, sắc
dục, danh vọng, quyền uy.
Bị cám dỗ là thân phận
của con người. Đức Giêsu đã từng bị cám dỗ, vì Người muốn chia sẻ trọn vẹn kiếp
người, Người muốn nên đồng số phận với con người, và Người đã thắng cơn cám dỗ
để nêu gương cho con người.
Cám dỗ thứ nhất là cám
dỗ về cái đói. Cơn cám dỗ về manna (Xh 16) mà dân Chúa đã bị thử thách trong
hoang địa. Đó cũng là thử thách từng ngày của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta
chỉ tìm thỏa mãn những khao khát của thể xác, những nỗi thèm thuồng vật chất
đang cào cấu trong ta, thì chúng ta đã thất bại ngay trong cơn cám dỗ đầu tiên.
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4). Vâng, con người còn
có những giá trị cao quý khác cần phát huy, đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ
đẳng nhất của: cơm, áo, gạo, tiền.
Cám dỗ thứ hai là cám dỗ
về quyền hành thế gian. Cám dỗ thờ ngẫu tượng, bò vàng (Xh 32,42) của dân
Israel nơi hoang địa. Không chỉ hôm nay mà rất nhiều lần trong cuộc đời, Đức
Giêsu đã bị cám dỗ này tấn công. Dân chúng luôn kéo Người vào cơn cám dỗ trở
nên một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, một vị vua trần gian đầy quyền lực
vinh quang. Nhưng Người đã nhất mực khước từ. Người muốn trở nên "tôi
tớ" của Thiên Chúa (Ga 13,1-20). Cơn cám dỗ về quyền hành cũng là cơn cám
dỗ của tất cả mọi người. Ai trong chúng ta cũng muốn thống trị kẻ khác, muốn áp
đặt ý kiến của mình trên anh em.
Đây cũng là cơn cám dỗ
về sự nghi ngờ Thiên Chúa. Vì Người thường hay vắng mặt, nên chúng ta dễ chạy
theo những vị thần giả hiệu, chúng có tên là của cải, sắc đẹp, kiến thức, tài
năng... Đức Giêsu nhắc cho chúng ta lời Kinh Thánh: "Ngươi phải bái lạy
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người" (Lc
4,8).
Cám dỗ thứ ba là cám dỗ
đòi kiểm chứng, đòi xem những dấu lạ điềm thiêng (Xh 17), đòi thấy những cú
nhẩy đẹp mắt, những pha ngoạn mục: Đó là cơn cám dỗ trên nóc đền thờ
Giêrusalem. Cũng chính nơi đây, Đức Giêsu sẽ chịu một cơn thử thách hết sức
nặng nề: đó là cơn cám dỗ muốn thoát cái chết: "Nếu có thể được, xin tha
cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Dường như Chúa Cha "đã bỏ
rơi" Người. Cuối cùng thì Đức Giêsu đã không dùng quyền năng của mình để
trốn tránh thân phận con người phải chết. Người đã từ chối nhẩy một cú đẹp mắt,
cũng không xuống khỏi thập giá một cách ngoạn mục. Người tin tưởng vào tình yêu
của Cha, Người tuyệt đối trung thành và trọn vẹn vâng theo ý Cha.
Đức Giêsu đã chiến đấu
với các cơn cám dỗ và Người đã hoàn toàn chiến thắng, để nêu gương cho chúng ta
trong những cơn thử thách. Cám dỗ nào cũng ngọt ngào hấp dẫn; thử thách nào
cũng đòi phải chọn lựa. Điều quan trọng là chúng ta có nhận ra cái đắng đót
chua cay trong cái vỏ ngọt ngào hấp dẫn đó không! Chúng ta có dám chọn theo
Chúa hơn là theo ma quỷ? Chọn yêu anh em hơn là yêu chính mình? Chọn điều thiện
hơn là cái ác?
Lạy Chúa, chúng con sẽ
trưởng thành hơn sau mỗi lần chiến thắng, sẽ kinh nghiệm nhiều hơn sau mỗi cơn
thử thách. Nhưng xin Chúa đừng để chúng con thất vọng sau mỗi lần vấp ngã, đừng
bao giờ chúng con bỏ cuộc sau những lần thất bại.
Xin cho chúng con luôn
tin tưởng chỗi dậy, tiếp tục chiến đấu cho dù phải hy sinh mạng sống, vì chính
Đức Giêsu đã sẵn lòng chịu chết để trung tín với Chúa Cha.
Xin ban thêm sức mạnh để
chúng con chiến thắng các cơn cám dỗ nhờ ăn chay và cầu nguyện. Amen.
5. Chiến đấu với
ma quỷ – R. Veritas
Có một câu chuyện vui
dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta
phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say – hai là đốt nhà
của mình – ba là giết chết vợ mình.
Quá hoảng sợ, người đàn
ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất.
Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra
can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba
việc mà tên quỷ đã đề ra.
Ma quỷ có rất nhiều mưu
mô xảo kế, khi cám dỗ người nào, chúng vận dụng hết mọi thủ đoạn để hạ gục
người đó. Vì thế, khi cám dỗ Chúa Giêsu, ma quỷ đã dùng chính Lời Thiên Chúa để
dụ dỗ Người, nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của ma quỷ. Trái lại, Ngài cũng
đã dùng Lời của Thiên Chúa để cho ma quỷ phải bẽ mặt và bỏ đi.
Quả thật, satan là tên
xảo trá. Hắn dùng ngay lời Chúa Cha vừa tuyên bố về Chúa Giêsu ở sông Giođan để
cám dỗ Người. Hắn khích Người dùng quyền năng của Con Thiên Chúa để thỏa mãn
những nhu cầu riêng tư, nhất là khi việc này xem ra không phương hại đến ai.
Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy của satan một cách dễ dàng như chúng tưởng.
Tuy Người đang đói, nhưng cơn đói không là lý do thúc đẩy Người đi tìm thỏa mãn
bằng mọi cách. Người trưng dẫn câu chuyện Thiên Chúa cho dân Israel ăn manna
trong sa mạc, để cho tên quỷ biết rằng Thiên Chúa là Đấng nuôi sống con cái
Ngài. Điều quan trọng không chỉ là cơm áo mà thôi. Chúa Giêsu trích dẫn lời
sách Đệ Nhị Luật để đáp lại lời satan: "Người ta sống không phải chỉ nhờ
cơm bánh". Thất bại trong cám dỗ đầu tiên, satan lại bày ra mưu kế khác.
Chúa Giêsu không chịu thua vì cái bụng thì hắn đánh vào cái đầu.
Tin Mừng theo thánh Luca
kể tiếp như sau: "Quỷ đem Chúa Giêsu lên cao và chỉ Người thấy tất cả các
nước thiên hạ, rồi nó nói với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị
cùng với vinh quang, lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao
cho tôi và tôi muốn trao cho ai tùy ý. Vậy, nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ
thuộc về ông". Satan thật ghê gớm, hắn biết Chúa Giêsu đã quyết định giữ
trọn đời mình để thiết lập nước trời mới nơi trần thế, hầu đem lại hạnh phúc
đời này và đời sau cho con người. Một lý tưởng thật tuyệt vời. Nhưng để thực
hiện thì gian lao vất vả lắm, lại không biết có thành công hay không. Satan dụ
dỗ Chúa Giêsu quy phục quyền bính của hắn. Đổi lại, hắn sẽ cho Người chinh phục
cả thế gian một cách dễ dàng. Satan đã lầm to, Chúa Giêsu thật sự quyết tâm
sống chết cho nước Thiên Chúa, nhưng nước này phải được thiết lập bằng việc thi
hành thánh ý Thiên Chúa Cha chứ không bằng việc tuân phục một quyền lực nào
khác. Để đáp lại satan, Chúa Giêsu nhắc lại rằng: "Thiên Chúa mới là Đấng
nắm chủ quyền trên các dân tộc", và Chúa Giêsu trích lời trong sách Đệ Nhị
Luật để đáp lại: "Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa ngươi và phải thờ
lạy một mình Người mà thôi". Lần cuối cùng, satan quay lại tấn công trái
tim Chúa Giêsu: "Nếu Thiên Chúa đã gọi ông là con thì hãy thử xem Người có
thật lòng yêu thương che chở ông không hay Người sẽ bỏ mặc ông trong cảnh gian
truân".
Thánh Luca kể tiếp:
Quỷ đem Chúa Giêsu đến
Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: "Nếu ông là Con
Thiên Chúa thì đến đây mà gieo mình xuống đi, vì đã có lời chép rằng:
"Thiên Chúa sẽ truyền cho các thiên sứ lo cho bạn để luôn luôn gìn giữ
bạn". Lại còn chép rằng: "Thiên sứ sẽ ra tay nâng đỡ cho bạn khỏi vấp
chân vào đá". Đợt cám dỗ thứ ba này satan không chỉ trưng dẫn lời thánh
vịnh 91 một lần, mà đến những hai lần để thuyết phục Chúa Giêsu nghe theo hắn.
Song lập trường của Chúa Giêsu nào có xoay chuyển. Người tiếp tục dùng sách Đệ
Nhị Luật thuật lại lời Thiên Chúa cảnh cáo sẽ tiêu diệt kẻ nào dám thách thức
Ngài để đáp lại lời satan: "Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi".
Chúng ta vừa cùng có mặt
bên Chúa Giêsu khi Người đối đầu với ba cơn cám dỗ của ma quỷ. Chúng ta đã thấy
phần nào thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của satan và cũng đã thấy lập trường kiên
định của Chúa Giêsu khi Người chống lại hắn.
Tấm gương mà Chúa Giêsu
vừa nêu sẽ giúp chúng ta có được thái độ vững vàng khi phải chiến đấu với mưu
chước ma quỷ. Là những người sống lăn lộn giữa lòng đời, chúng ta thường xuyên
phải đối phó với những cám dỗ của ma quỷ. Chúng thường tập trung vào ba lãnh
vực: quyền lợi vật chất, tham vọng thống trị và nhu cầu tình cảm. Mưu mô xảo kế
của satan thì thiên hình vạn trạng. Xã hội văn minh phát triển thì các cơn cám
dỗ của satan phát triển theo. Chúng mặc đủ mọi hình thức, khi thì dịu dàng mời
mọc, khi thì đe dọa hung hãn. Chúng thường tạo cho chúng ta cảm giác hợp lý,
được phép khi đưa ra những lập luận có vẻ vô hại. Nhất là trong thời đại hôm
nay, khi lợi thú cá nhân được đề cao quá mức và nhu cầu hưởng thụ của con người
được kích thích đến mức tối đa. Cái bụng, cái đầu và con tim của chúng ta luôn
luôn phải đối mặt với những lời rỉ tai hay những cuộc biểu dương ồ ạt của sự
dữ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
biết rõ con chỉ là những thụ tạo mỏng dòn, lại phải sống lăn lộn giữa bao cạm
bẫy của satan. Ma quỷ thì tinh ranh xảo quyệt, còn con thì thường lơ là mất
cảnh giác, xin Chúa luôn ở kề bên con mỗi khi con gặp cơn cám dỗ. Xin Chúa nhắc
con nhớ rằng chỉ có thánh ý Chúa Cha mới là tiêu chuẩn tuyệt đối trong đời
người Kitô.
6. Không chỉ nhờ
cơm bánh.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Làm người ở đời là chấp
nhận thân phận cám dỗ.
Con người vừa mang trong
mình khát vọng vươn tới Tuyệt Đối, vừa thấy mình luôn bị một mãnh lực kéo trì,
nên đời người lúc nào cũng phải chiến đấu giằng co, chỉ một chút lơi lỏng yếu
mềm là sa ngã.
Con người cao cả khi
thắng được cám dỗ trong ngoài.
Lúc buông theo cái tôi
dễ dãi tầm thường, tôi chẳng là tôi. Chỉ khi tôi vượt qua tôi, tôi mới thật là
mình.
Tôi chỉ là tôi khi tôi
vươn tới Chân, Thiện, Mỹ.
Trong mùa Chay, ta hãy
để Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Hãy cùng với Đức Giêsu sống trong cô tịch, cầu
nguyện và ăn chay, để có khả năng nhận ra các cơn cám dỗ quen thuộc.
Biết mình bị cám dỗ thật
là một ơn, vì ma quỷ chẳng phải là một con vật có đuôi lộ liễu.
Những cám dỗ của Đức
Giêsu cũng là của tôi hôm nay.
Cám dỗ đầu tiên đánh
thẳng vào điểm yếu của Ngài.
Sau một thời gian dài
nhịn ăn, Ngài thấy đói. Cái đói làm tê liệt, và đụng đến bản năng sinh tồn.
Điều duy nhất cần đối với người đói là tấm bánh. Đức Giêsu đã thắng được cơn
cám dỗ này. Ngài không phủ nhận sự cần thiết của vật chất, nhưng con người
không chỉ sống nhờ cơm bánh.
Lợi nhuận trong kinh tế
là điều quan trọng, nhưng không được quên các giá trị văn hoá, luân lý, tôn
giáo... Lắm khi cái đói vật chất vẫn chi phối chúng ta. Người ta dễ hiểu sai
câu: "Có thực mới vực được đạo."
Chúng ta vẫn bị cồn cào
bởi những thèm thuồng: chính đáng và không chính đáng, cá nhân và tập thể,
nhưng đừng để mình thoả mãn cơn đói bằng mọi giá.
Cám dỗ thứ hai là một
cám dỗ thô bạo và hấp dẫn: bái lạy ma quỷ để được quyền lực và vinh quang.
Có nhiều người nhẹ dạ đã
tin vào lời hứa hão này. Bao đế quốc, bao nhà độc tài đã trôi đi trong dòng
lịch sử.
Đức Giêsu chẳng muốn
nhận quyền từ ai khác ngoài Cha. Chỉ Cha mới là Đấng duy nhất để Ngài thờ
phụng.
Cơn cám dỗ thứ ba có vẻ
đạo đức, kỳ thực lại là dấu hiệu của sự thiếu lòng tin.
Tôi đưa mình vào tình
huống hiểm nghèo, để bắt Chúa hành động.
Nhảy xuống từ nóc Đền
Thờ mà không chết, quả là ngoạn mục! Chúng ta vẫn thích Chúa làm chuyện ngoạn
mục cho đời ta. Chúng ta không thích sống trong lòng tin êm ả, như đứa con biết
rõ Cha thương mình, không đòi kiểm chứng.
Tiền bạc, của cải, sắc
đẹp, khoái lạc, bằng cấp, tự do, quyền lực, uy tín, danh dự, chủng tộc, khoa
học, kỹ thuật: tất cả những giá trị trên đều đáng quý. Nhưng nếu tôi tôn chúng
lên hàng Tuyệt Đối viết hoa, và thờ chúng như một ngẫu tượng, thì tôi và thế
giới sẽ như kim tự tháp lật ngược.
Ước gì Chúa giúp tôi tự
cởi trói mình mỗi ngày, để tôi càng lúc càng tự do đến gần Đấng Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có tin ma quỷ không?
Ma quỷ là ai? Bạn có thấy sức cám dỗ của ma quỷ không?
Ma quỷ thường tấn công
vào chỗ yếu của ta. Bạn có biết rõ những chỗ yếu của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, bị cám
dỗ là thân phận của con người, nhưng thắng được cám dỗ là nhờ ơn của Chúa.
Cuộc sống hôm nay cho
chúng con bao cám dỗ ngọt ngào, làm khuấy động những thèm khát nơi chúng con.
Cám dỗ chiếm đoạt và sở
hữu.
Cám dỗ thống trị bằng
quyền uy hay tri thức.
Cám dỗ sống buông thả
theo bản năng tự nhiên.
Cám dỗ nào cũng hứa cho
chúng con ít nhiều hoan lạc, nhưng thật ra lại làm chúng con nghèo nàn vì tự
giam mình trong cái tôi ích kỷ.
Xin cho chúng con thắng
được các cơn cám dỗ nhờ tỉnh thức và cầu nguyện, nhờ chay tịnh và làm chủ bản
thân.
Xin cho chúng con dám
lội ngược dòng với thế gian, để đi vào con đường hẹp của Chúa, con đường nghèo
khó khiêm nhu, con đường hy sinh phục vụ.
Ước gì chúng con được
lớn lên trong tình yêu Chúa, sau những lần chiến đấu vất vả cam go. Và ngay cả
khi yếu đuối ngã sa, xin cho chúng con can đảm đứng lên, vững tin vào lòng Chúa
tín trung tha thứ. Amen.
7. Chỉ thờ
phượng một mình Người
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Bị cám dỗ là điều chẳng
mấy hay ho. Chúng ta ít khi muốn kể ra những cơn cám dỗ của mình. Dường như chỉ
người yếu đuối mới dễ bị cám dỗ. Ấy thế mà Con Thiên Chúa lại bị cám dỗ như ta.
Ngài muốn đồng hành với chúng ta trong từng cơn cám dỗ, trên đường về quê trời.
Ngài đã mang lấy trọn vẹn phận người mong manh, Ngài đã chiến đấu và chiến
thắng.
Mùa Chay là thời gian
thuận tiện để chúng ta nhận diện cơn cám dỗ riêng của bản thân.
Có khi chúng ta tưởng
Satan là chuyện bịa đặt, tưởng thế giới không bao giờ là thế gian, hay tưởng
thân xác mình chẳng còn bằng xương thịt.
Phải nhận ra cơn cám dỗ
dưới trăm ngàn bộ mặt, tuỳ người, tuỳ tuổi tác, tuỳ hoàn cảnh riêng tư. Nhưng
mọi cơn cám dỗ đều khép kín con người, khiến ta không còn mở ra trước Thiên
Chúa và tha nhân.
Cần nhìn sâu vào những
cơn cám dỗ của Đức Giêsu để thấy đó vẫn là những cám dỗ muôn thuở.
Biến đá thành bánh để
làm dịu cơn đói, chuyện đó đâu có gì xấu. Nhưng Đức Giêsu đã không muốn dùng
quyền năng Cha ban để tự lo cho bao tử của mình.
Ngài cũng không phục lạy
ma quỷ để được làm chủ cả thế gian với bao quyến rũ. Ngài cũng chẳng cần nhảy
từ nóc Đền Thờ xuống để kiểm chứng tình yêu của Cha. Ngài không muốn cứu nhân
loại bằng cách nhảy xuống, giữa tiếng vỗ tay của bao người đứng dưới.
Ngài muốn cứu con người
bằng cách bị treo lên thập tự, giữa những tiếng nhục mạ cười chê.
Đức Giêsu thật là Con
Thiên Chúa vì Ngài đã trung tín với Cha đến cùng.
Cuộc sống văn minh cho
chúng ta nhiều cám dỗ hơn, ngọt ngào hơn, hấp dẫn hơn, tinh vi hơn.
Cơn cám dỗ nào cũng đặt
chúng ta trước sự chọn lựa, và chọn lựa nào cũng đòi từ bỏ, hy sinh. Bởi vậy
cơn cám dỗ lại có thể làm tôi lớn lên và cứng cáp hơn sau mỗi lần chiến thắng.
Ước gì tôi không bị mắc
bẫy Satan nhờ noi gương Đức Giêsu trong ăn chay, cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, loại cám dỗ
nào đáng sợ hơn cả? Bạn đã làm gì để thắng được loại cám dỗ đó? Qua báo chí,
truyền hình... bạn thấy con người ở cuối thế kỷ 20 bị cám dỗ về những điều gì?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa
rất đáng mến, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với
uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương
tích, biết làm việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần
thưởng nào ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
8. Tiến tới một
tình yêu chân thật hơn, tinh tuyền hơn.
(Trích trong 'Lương Thực
Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Thử thách là mối nguy
cho tình yêu, nhưng cũng nhờ nó mà tình yêu mạnh hơn, vì trong cơn thử thách sự
tự do của con người luôn luôn hướng đến tích cực. Thử thách giống một nốt nhạc
đối vị làm nổi bật giai điệu thánh thót trầm hùng và sứ truyền cảm của bản hoà
tấu. Đức Giêsu đã muốn chịu thử thách của cám dỗ. Suốt cuộc đời trần thế của
Người, Chúa gặp thử thách, nó là đối vị với ý định bên trong của Người. Tất cả
con người Chúa hướng tới mục đích hoàn tất ý muốn của Cha. Chúa đã muốn đối đầu
với thử thách trong tư thế lãnh đạo Giáo Hội. Chúa đã chịu thử thách, tất nhiên
Giáo Hội của Chúa và mỗi tín hữu thành phần Giáo Hội cũng phải qua cầu thử
thách và phải phản ứng như Chúa. Giống Thày, tín hữu phải dùng thử thách làm
dịp thử lửa tôi luyện một tình yêu lớn mạnh hơn, nghĩa là thực hiện một sự gia
nhập vững bền hơn vào thánh ý của Cha qua trung gian Đức Kitô.
Thử thách có những hình
thức chính yếu nào?
1) Trước hết, là từ chối
thân phận làm người với tất cả thực chất của nó. Ma quỷ cám dỗ Chúa, nài Chúa
hãy dùng quyền năng thần linh của Chúa để thoả mãn một nhu cầu vật chất của
Người là đói thì cần có của ăn. Biết bao phen chúng ta chẳng nghe thấy người ta
nói: Thiên Chúa đáng lẽ phải làm thế này thế nọ để thiết lập sự bình đẳng, để
mọi người có cơm ăn áo mặc, để khỏi lao động vất vả, v.v... Thiên Chúa trả lời
rằng nhân loại được ban cho một trí tuệ, một ý chí, một thân thể để tuỳ tiện sử
dụng. Thảm trạng con người là ở chỗ khác. Hoạt động làm cho người ta quên mất
rằng con người không chỉ sống bằng lương thực vật chất. Đức Giêsu không muốn bỏ
thân phận làm người của Chúa cho nên Chúa từ khước biến đá thành bánh ăn. Tuy
nhiên Chúa nói thêm rằng con người cũng sống bởi bác ái, tình liên kết, công
bằng và tình thương – và thứ bánh này do Thiên Chúa ban cho, thiếu của ăn thiêng
liêng thì của ăn nuôi xác cũng sẽ thiếu, hoặc sẽ hư đi.
2) Hình thái khác của
thử thách là muốn liên hiệp Thiên Chúa với những tính toán mờ ám. Ma quỷ ngỏ ý
muốn giúp Chúa, với điều kiện: "Nếu Ngài sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho
Ngài quyền bá chủ thế giới". Đây là chước cám dỗ thường xảy ra.
Những luận điệu nào bàn
kế cho Giáo Hội: "Nếu chịu liên minh với thế gian, Giáo Hội sẽ thu phục
được thế gian?". Giọng lưỡi nào xui chúng ta: "Nếu bạn khôn khéo điều
đình thu xếp với Sự Thật, với bổn phận, v.v... bạn sẽ làm được điều này điều
nọ?" –Nhưng mệnh lệnh của Đức Giêsu là: "Ngươi sẽ chỉ tuân phục Thiên
Chúa mà thôi"
3) Một xu hướng nữa là
muốn thay thế những phương tiện của Thiên Chúa bằng những phương tiện khác
thường. Chủ trương cứu độ của Đức Kitô, tức là Tin Mừng về một thế giới tốt
hơn, lan truyền bằng nhưng phương tiện người ta mệnh danh là "nghèo
nàn", trong đó có nhục nhã, đau khổ và chết. Con người nhất là con người
có nhiều kiến thức, luôn luôn có khuynh hướng lựa chọn những phương tiện có
nhiều uy thế. Chẳng hạn, uy thế của một triết lý nào đó mà trùm lấp Phúc Âm thì
kéo theo một rủi ro lớn, có thể thay đổi ý nghĩa và tinh thần Phúc Âm, cho dẫu
những người chất phác thán phục hết sức trước "thắng lợi" của nó. Một
mệnh lệnh khác của Chúa Giêsu là: "Ngươi chớ cám dỗ Thiên Chúa là Chúa
ngươi", nghĩa là chớ lợi dụng quyền năng Thiên Chúa vào những việc gì ở
ngoài công cuộc của Người.
9. Đời là cuộc
chiến không ngừng
(Suy niệm của Lm. Jos.
Phạm Thanh Liêm)
Mùa chay khởi đầu với
thứ tư lễ tro và kéo dài 40 ngày. Chúa Nhật thứ sáu mùa chay là Lễ Lá, khởi đầu
tuần thánh tưởng niệm cuộc tử nạn phục sinh của Đức Yêsu. Mùa chay dọi lại cuộc
hành trình của dân Chúa trong hoang địa 40 năm trước khi vào đất hứa, cũng như
biến cố Đức Yêsu ăn chay cầu nguyện 40 ngày trước khi khởi đầu sứ mạng rao
giảng công khai, và cụ thể chuẩn bị tâm hồn tín hữu hôm nay chuẩn bị đón mừng
mầu nhiệm Đức Yêsu tử nạn phục sinh.
Thiên Chúa can thiệp
trong lịch sử dân tộc Việt Nam
Bài đọc thứ nhất cho
thấy người Do Thái mỗi năm trình diện trước nhan Chúa với hương hoa mình thu
lượm được, và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Đấng can thiệp vào lịch sử dân
tộc: Cha tôi là người Aram đã sống ở Aicập, bị hà hiếp và chúng tôi đã kêu lên
Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng chúng tôi khỏi ách nô lệ... Thiên Chúa đã
kiến tạo và dìu dắt dân Do Thái qua Abraham, Isaac và Môsê...
Người Việt Nam cho mình
là con rồng cháu tiên, con cháu Lạc Long Quân và Âu Cơ, con cháu vua Hùng với
bốn ngàn năm văn hiến...! Đó là cách nói của người Việt Nam về chính mình,
nhưng dù nói cách nào chăng nữa thì cuối cùng, người Việt Nam vẫn là con Thiên
Chúa, vẫn được Thiên Chúa tạo dựng, và Ngài đã làm một số người Việt Nam trở
nên những bậc anh hùng, dám hiến dâng mạng sống để làm chứng Thiên Chúa đang
hiện diện và hướng dẫn dân tộc Việt Nam.
Những gì dân tộc Việt
Nam đang là đang có, đều là ân điển Thiên Chúa ban. Lịch sử dân Do Thái là lịch
sử Thiên Chúa yêu thương tất cả loài người qua dân tộc Do Thái, cũng tương tự
vậy lịch sử dân tộc Việt Nam là chuỗi những biến cố các anh hùng dân tộc đã
thực hiện trong tình yêu của Chúa, qua các triều đại vua Hùng, qua bà Trưng bà
Triệu, qua một ngàn năm sống dưới sự cai trị của người Tàu mà không bị đồng hóa
hoặc tiêu diệt. Thiên Chúa hiện diện nơi lịch sử dân tộc Việt Nam với nét nhịn
nhục, sự kiên cường và tính anh hùng bất khuất của người Việt Nam. Thiên Chúa
yêu thương người Do Thái, và Ngài cũng yêu thương người Việt Nam không kém gì
người Do Thái. Dân tộc Do Thái là mẫu, là hình ảnh, để giúp các dân tộc khác
nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi mỗi dân tộc.
Thiên Chúa yêu thương và
gần gũi mọi người thuộc mọi dân tộc
Thiên Chúa nói với con
người qua lương tâm của mỗi người, và Ngài đã nói với con người qua lịch sử dân
Do Thái cũng như qua các ngôn sứ, và trong thời cuối cùng Ngài đã nói với con
người qua chính Con Một của Ngài là Ngôi Lời nhập thể. "Lời rất gần ngươi,
ngay nơi miệng và trong lòng ngươi". Nếu ai muốn nghe tiếng Chúa, ắt có
thể nghe được vì Thiên Chúa rất gần con người.
"Nếu ngoaì miệng
tuyên xưng Đức Yêsu là Chúa, và trong lòng tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh
Ngài từ cõi chết, thì được cứu". Tin vào Đức Yêsu, thì được cứu, dù người
đó là Do Thái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, vì "tất cả những ai kêu cầu danh
Thiên Chúa đều được cứu".
Xin cho mỗi người nhận
ra Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với từng người, và với dân tộc mình
trong dòng lịch sử.
Đời là cuộc chiến
Đức Yêsu cũng không được
miễn trừ khỏi cuộc chiến. Đã là người, ai cũng phải chiến đấu. Cuộc chiến thể
lý, không phải ai cũng phải đương đầu; nhưng cuộc chiến thiêng liêng hay nội
tâm thì ai cũng phải trải qua. Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu trải qua cuộc
chiến của Ngài:
• Ngài đói, và có cám dỗ
muốn ăn, muốn có gì để ăn, muốn biến đá thành bánh để ăn. Tại sao không biến đá
thành bánh để ăn, khi tất cả để phục vụ con người, đặc biệt khi mình đói? Cám
dỗ trở nên cực kỳ mãnh liệt khi ý tưởng "nếu không được ăn bây giờ thì
mình sẽ mất sức và như vậy không biết mình còn có thể sống được nữa
không"!
• Con người nếu để tự
do, không biết cái gì xảy ra. Tại sao không dùng quyền lực để thống trị con
người? Tại sao không làm vua và cưỡng bức tất cả mọi người phải được rửa tội,
như vậy danh Chúa có cả sáng và dễ dàng hơn không? Tại sao lại cho con người tự
do? Tại sao không dùng quyền lực để bắt người ta làm điều tốt?
• Nếu tôi nổi tiếng và
được người ta kính phục, thì khi tôi giảng về Thiên Chúa người ta sẽ nghe, và
Chúa sẽ được vinh danh hơn. Làm sao để lấy được lòng tin và kính phục của con
người? Tôi có thể nhảy từ đỉnh đền thờ xuống, và giảng cho người ta một bài về
Thiên Chúa, và người ta sẽ nghe lời tôi giảng! Nhưng nhảy xuống thì tan xương
nát thịt. Tại sao Thiên Chúa không can thiệp? Tại sao Thiên Chúa không sai
thiên thần đến đỡ chân tôi?
Đức Yêsu đã phải chiến
đấu với ma qủy, với chính khuynh chiều thân xác của con người. Và Ngài đã
thắng, Ngài chấp nhận chương trình Thiên Chúa về con người, Ngài chấp nhận luật
lệ tự nhiên Thiên Chúa đã xếp đặt, Ngài không biến đá thành bánh, Ngài tôn
trọng tự do của con người, Ngài không thách thức Thiên Chúa và đòi Thiên Chúa
làm theo ý riêng mình. Con người ngày nay cũng có những cám dỗ tương tự như
Ngài ngày xưa, có lẽ là:
Tại sao tôi không được
phá thai khi đó chỉ là một tế bào trong thân xác tôi? Tại sao tôi không được
cloning (sinh vô tính) khi tôi không có con, khi tôi muốn có người nối giòng?
Tại sao con người không được làm những thí nghiệm về con người (tái tạo con
người khi cho phôi và tinh trùng gặp nhau, xem nó phát triển như thế nào, và
v.v... rồi có thể hủy những "thai nhi" như vậy)?
Tại sao tôi không được
thỏa mãn mình khi người khác đồng ý, khi tôi có tiền và người khác cần tiền,
v.v...?
Tại sao tôi không được
coi những giá trị "đa số người đời thừa nhận" làm giá trị của tôi,
chẳng hạn tiền bạc, địa vị, danh vọng...
Mỗi người trong cuộc
sống thường ngày, phải chiến đấu với ma qủy, với chính mình, với thế gian và
những giá trị của nó. Xin Chúa giúp, để mỗi người chúng ta vượt qua chính mình,
để chúng ta trở nên giống Đức Yêsu, nên thánh mỗi ngày trong từng hành vi quyết
định của chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, con người
hôm nay bị cám dỗ về điều gì nhất? Làm sao để vượt qua?
2. Có gì lợi ngay ở đời
này khi vượt qua chính mình, khi thắng được "cám dỗ"?
3. Dân tộc Do Thái có
chỗ đứng đặc biệt trong chương trình của Thiên Chúa. Theo bạn, dân tộc Việt Nam
có chỗ "đặc biệt" trong chương trình của Thiên Chúa không? Xin mời
bạn chia sẻ chỗ đứng đặc biệt của dân tộc Việt Nam trong chương trình của Thiên
Chúa, nếu bạn "thấy"!
10. Chúa ăn chay
và bị cám dỗ
(Trích trong 'Suy Niệm
Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Có một nhà thần bí nọ
trở về thành phố sau một thời gian dài sống trong sa mạc, bạn bè và người thân
vây xung quanh rối rít hỏi thăm và xin ông tả lại cho họ nghe về kinh nghiệm mà
ông đã có về Thiên Chúa. Ai cũng hỏi: "Thiên Chúa ra sao?". Nhưng làm
sao ông có thể diễn tả kinh nghiệm của tâm hồn bằng lời nói được. Bị gạn hỏi
mãi, sau cùng ông đưa ra cho họ một công thức thật mơ hồ và bất toàn, với hy
vọng khiến cho ai đó không được thỏa mãn, với câu hỏi "quyết định tìm vào
sa mạc sống kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa" như mình. Mọi người mừng rỡ ghi
chép công thức ấy và biến nó trở thành một văn bản thánh. Họ buộc mọi người
phải thuộc bản văn đó như Kinh Tin Kính, và không nề quản hy sinh gian khó vượt
trùng dương để loan báo cho các dân, các nước công thức ấy. Và có người trong
bọn đã hy sinh cả mạng sống cho công tác loan truyền này nữa. Nhưng không ai
tìm được cho mình kinh nghiệm sống về việc gặp gỡ Thiên Chúa cả. Đó là điều
khiến cho nhà thần bí nọ vô cùng buồn sầu và hối hận, và ông đã thầm nghĩ rằng:
Thà đừng nói gì cả có phải hay hơn không?".
Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa không phải là
một văn bản, mà là một bản vị, một nhân vật sống động có các liên hệ thân tình
với loài người. Đó là sứ điệp mà các bài đọc Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay đề
cập đến.
Sách Đệ Nhị Luật
(26,4-10) là bản văn đúc kết niềm tin của dân Do Thái vào Thiên Chúa mà học giả
Beinha Fuegat gọi là kinh tin kính lịch sử của Israel. Nó diễn tả kinh nghiệm
của cuộc gặp gỡ giữa dân Do Thái và Thiên Chúa trong thời khai sinh ra lịch sử của
họ. Trong cuộc Xuất hành khỏi Ai Cập, vào khoảng năm 1250 (trước tây lịch) dân
Do Thái mới ý thức được họ là một dân tộc bao gồm 12 chi họ khác nhau, dưới sự
lãnh đạo của Môisê, họ cảm nhận được các mối dây liên hệ với nhau. Cho tới lúc
đó, họ chỉ có một ý thức dân tộc mờ nhạt, biết mình thuộc về chi họ này, chi họ
kia, giữa dòng giống Do Thái và sống riêng rẽ nhau. Nhưng họ chưa có ý thức
quốc gia, nghĩa là chưa có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có
tổ chức, có ý thức về mình như là một dân tộc có chủ quyền, có tổ chức, có đất
nước và một mệnh lệnh chung. Nhờ có biến cố Xuất Hành, người Do Thái mới ý thức
được rằng: Họ là một dân tộc thực sự, và Giavê Thiên Chúa của cha ông tổ tiên
họ trước hết là Đấng đã giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ ở Ai Cập.
Kinh nghiệm về Thiên
Chúa giải phóng ấy được cô đọng lại trong một công thức tuyên xưng lòng tin của
họ vào Thiên Chúa. Hình ảnh Giavê Thiên Chúa như là Đấng Tạo Hóa chỉ có về sau
này, khi Israel suy tư về nguồn gốc con người và vũ trụ vạn vật, hay nói cách
khác những gì được nhắc đến trong kinh tin kính trên đây của sách "Đệ Nhị
Luật" đều là kết quả các kinh nghiệm của cuộc gặp gỡ sống động của dân Do
Thái với Thiên Chúa. Chúng được làm khung trong bối cảnh của lễ nghi phụng tự
dâng tiến lên Thiên Chúa các hoa trái đầu mùa. Khi cử hành các lễ nghi phụng tự
là dân Do Thái sống trở lại kinh nhgiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong suốt dòng lịch
sử dài của họ kể từ thời các tổ phụ. Các biến cố ấy giờ đây được trở thành nền
tảng niềm tin của họ.
Phụng vụ là cách thế
nhắc nhớ dân Do Thái biết các điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm để giải phóng và
cứu thoát, hướng dẫn che chở họ trong dòng lịch sử. Chính vì thế, tiếng Do Thái
dùng để dâng lễ vật đầu mùa gọi là lễ "tưởng nhớ". Sự kiện toàn dân
mang lễ vật đầu mùa tiến đến với Thiên Chúa là diễn tả cách đáp trả liên lỉ lời
kêu mời của Thiên Chúa.
Đây là cách thế mà dân
Do Thái xưng tụng Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên họ, chọn lựa họ, giải
phóng họ khỏi Ai Cập và đưa họ vào miền đất hứa, nơi họ đang sinh sống. Đối với
Israel thì Thiên Chúa tạo Hóa là Thiên Chúa của biến cố Xuất Hành, Đấng trao
ban cho họ miền đất hứa và sẽ gửi Đấng Cứu Thế đến. Bàn tay tạo dựng của Ngài
cũng là bàn tay và cánh tay của Đấng quyền uy giải phóng họ khỏi kiếp sống tôi
đòi bên Ai Cập, và hướng dẫn chở che họ trong 40 năm lang thang trong sa mạc để
tiến về miền đất hứa. Bàn tay ấy giờ đây cũng giang ra đón nhận những hoa trái
đầu mùa mà dân Do Thái tiến dâng lên Ngài. Những hoa trái nảy sinh từ lòng đất
mà Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi ông là chính họ.
Việc cử hành phụng vụ
như thế trở thành thời điểm, trong đó các hành động riêng rẽ của Thiên Chúa đã
chiếm hữu, sắp xếp, thống nhất trở lại cho có thứ tự lớp lang và giải thích như
là các hành động cứu độ, chứ không phải chỉ là lịch sử các biến cố tầm thường,
vô nghĩa.
Qua trình thuật Chúa
Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc (Lc 4,1-13) thánh sử Luca muốn cho chúng ta thấy
Chúa Giêsu khai mào một cuộc xuất hành mới là giải phóng loài người khỏi ách
thống trị của Satan, của sự dữ, của tội lỗi, các chước cám dỗ của chúng, và cái
chết như là hậu quả cay đắng cuối cùng của vòng xích oan nghiệp ấy. So sánh với
tường thuật cám dỗ của Phúc Âm thánh Mathhêu, chúng ta thấy tường thuật của
thánh Luca có ba đặc điểm sau đây:
1. Vai trò của Thánh
Thần trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời
Chúa Giêsu đều được ghi dấu bởi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đối với thánh
sử trong kinh nghiệm Phục Sinh và trong lịch sử của Giáo Hội, Chúa Thánh Thần
không phải là sức mạnh như diễn tả trong Kinh Thánh Cựu Ước, mà là một bản vị,
là Đấng hướng dẫn cuộc đời Chúa Giêsu và hoạt động trong lòng thế giới. Chính
Ngài đã dẫn đưa Chúa Giêsu vào sa mạc và trợ lực Chúa Giêsu trong cơn thử thách
nơi sa mạc. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ từ bỏ con đường khổ giá mà Thiên Chúa Cha
đã vạch ra, để đi theo một con đường khác hấp dẫn hơn, ngoạn mục hơn và dễ dàng
hơn.
Chúa Giêsu phải chọn con
đường nào đây? Dùng quyền năng cứu thế của mình thỏa mãn các nhu cầu vật chất
và hiện sinh, như biến đá sỏi thành bánh mà ăn, chứ không cần phải lao nhọc vất
vả hay sống theo luật công bằng hoặc tinh thần liên đới chia sẻ làm gì; hay là
dùng các phép lạ cả thể để lôi kéo tín đồ cho nó mau lẹ và kết quả, chứ tội gì
mà phải khổ nhọc rao giảng gieo vãi hạt giống vào tâm hồn con người và thôi
thúc họ đối chiếu cuộc sống hằng ngày với giáo huấn sự thật làm gì. Hoặc dùng
bạo lực và mọi thứ sức ép vật chất và tinh thần để lôi kéo đông đảo môn đệ và
tín đồ. Đủ mọi thứ cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường khổ đau. Đối
với thánh Luca thì chiến thắng của Chúa Giêsu trên các chước cám dỗ trước ngày
công khai loan báo Tin Mừng nước trời, báo trước cho biết chiến thắng sau cùng
của Chúa Giêsu khi chịu chết treo trên Thập Giá.
2. Đặc điểm thứ hai
trong trình thuật Phúc Âm của thánh Luca là vai trò quan trọng của thành
Giêrusalem. Toàn Phúc Âm thánh Luca trình bày cuộc đời Chúa Giêsu như là một
cuộc lữ hành tiến về Giêrusalem, nơi Chúa Giêsu sẽ thực hiện công trình cứu
chuộc trần gian qua cuộc tử nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Do đó,
thánh sử Luca đặt cám dỗ thứ ba trong bối cảnh thành Giêrusalem, nơi ơn cứu độ
được thành toàn. Do đó không có chương ngại nào kể cả các chước cám dỗ mà ma
quỉ được phép cản trở hành trình ấy của Chúa Giêsu.
3. Sa mạc: trong sa mạc
của cuộc Xuất Hành xưa kia, dân Do Thái đã lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa. Họ đã
ngã thua trước cám dỗ và khước từ Thiên Chúa là Đấng giải phóng minh. "Lẩm
bẩm" là từ Kinh Thánh Cựu Ước dùng để diễn tả thái độ chống lại Thiên
Chúa, phản đối Ngài. Họ muốn gợi ý cho Thiên Chúa phải hành động thế nào để
giải phóng mình. Trong sa mạc, Chúa Giêsu đã không nhượng bộ mà nghe theo lời
ma quỉ cám dỗ, hay theo cách thế nó đề nghị. Mặc dù đói khát và khổ sở, Chúa
Giêsu vẫn luôn vững tin vào lòng yêu thương quan phòng ấp ủ của Thiên Chúa Cha,
mà không đòi yêu sách là phải trông thấy các dấu chỉ cụ thể của tình yêu thương
quan phòng ấp ủ, như diễn tả bằng lương thực, của cải giàu sang, chức quyền và
thành công trong đời.
Trong thư gởi tín hữu
Rôma (Rm 10,8-13), thánh Phaolô tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Phục
Sinh mà khẳng định với chúng ta rằng: "Mọi người đều có thể đạt được ơn
cứu độ". Điều kiện duy nhất là tin nhận Chúa Giêsu Kitô, là sống Tin Mừng
cứu độ của Ngài mỗi ngày trong đời. Hãy để cho lòng tin vào Chúa Giêsu đâm rễ
sâu trong tâm trí chúng ta. Hãy biết nghiền gẫm Lời Chúa. Hãy để cho Lời Chúa
thánh thót nhỏ giọt trong con tim, trong tâm trí chúng ta và uống lấy Lời ấy.
Hãy dành cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể của Thiên Chúa một chỗ nhất trong
tâm trí chúng ta và hãy thực thi giáo huấn của Chúa trong đời.
Một khi đã thấm nhuần
Tin Mừng của Chúa, chúng ta hãy tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô Phục
Sinh, và đem hết nghị lục rao truyền Chúa Kitô và Lời Ngài cho mọi người khác.
Và cách tuyên xưng lòng tin hữu hiệu nhất, trước hết và bây giờ cũng là gương
sống cụ thể của chúng ta.
11. Một cuộc lữ
hành đức tin
(Trích trong 'Suy Niệm
Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Đời là một cuộc ra đi
không ngừng. Sinh ra là giã từ cái ấm êm của lòng mẹ để đi vào thế giới xa lạ.
Lớn lên là từ bỏ tuổi thơ đầy mơ mộng để đi vào cuộc đời với không biết bao
nhiêu bấp bênh và thử thách. Khi tuổi về già đến, con người lại thấy mình đứng
bên bờ của vĩnh cửu, lại một lần ra đi vĩnh viễn, dứt khoát. Cuộc đời không bao
giờ là một dòng sông êm ả, chúng ta không ngừng phải trải qua không biết bao
nhiêu đổi thay. Lần vào cuộc ra đi không ngừng ấy, cuộc sống đức tin của chúng
ta cũng được định nghĩa như là một cuộc lữ hành. Khởi đầu cuộc sống đức tin
cũng là một sự chào đời để lớn lên và ra đi không ngừng. Lịch sử ơn cứu độ, qua
đó Thiên Chúa hướng dẫn cuộc lữ hành của chúng ta cũng được trình bày như một
cuộc ra đi.
Ở khởi đầu là cuộc ra đi
của tổ phụ Abraham, đó là cuộc ra đi mẫu mực. Abraham đã bỏ lại đàng sau tất cả
để đi về phía trước với không biết bao nhiêu bấp bênh và thử thách. Nhưng điển
hình nhất trong các cuộc ra đi của lịch sử cứu độ chính là cuộc ra đi của dân
Israel... Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc đã trở thành biểu tượng của
không biết bao nhiêu thử thách mà bất cứ một cuộc lữ hành nào cũng đều phải có.
Trong ký ức tập thể của
người Do Thái, 40 năm sa mạc ấy không ngừng được ôn lại để ý thức hơn về những
thanh luyện mà con người cần phải trải qua, để sống tốt đẹp hơn, để sống tiến
bộ hơn, để sống xứng đáng với nhân phẩm của con người hơn. Kinh nghiệm 40 ngày
sa mạc ấy, Chúa Giêsu cũng muốn trải qua trong cuộc lữ hành trần gian của Ngài.
Rời bỏ khung cảnh êm đềm của làng Nagiarét, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc hành trình
dẫn đến cái chết và nhờ đó, thực hiện được công cuộc cứu rỗi nhân loại. Trong
cuộc hành trình đầy chông gai và thử thách ấy, Chúa Giêsu cũng muốn sống lại
kinh nghiệm của 40 năm sa mạc. Ngài đã chịu thử thách. Nhưng nếu dân Do Thái đã
bắt đầu gục ngã một cách thảm thương, thì Chúa Giêsu lại chiến thắng. Chiến
thắng một cách vinh quang. Tựu trung, ba cơn cám dỗ mà Ngài đã chịu đựng đều
quy về một mối đó là quyền lực và danh vọng. Đối lại với con đường dễ dãi mà ma
quỷ đề ra, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của thập giá. Đối lại với con đường
của quyền bính và danh vọng, Chúa Giêsu đã chọn lấy con đường của khiêm hạ và
vâng phục, và vâng phục cho đến chết. Sự chiến thắng của Chúa Giêsu là chiến
thắng của lòng tin tưởng phó thác trên sự tự phụ mù quáng. Sự chiến thắng của
Chúa Giêsu là chiến thắng của tự do trên những quyền lực tăm tối trong tâm hồn
con người.
Nếu cuộc hành trình của
dân Do Thái là một hành trình tiến về vùng đất tự do, thì cuộc hành trình của
Chúa Giêsu là cuộc hành trình tiến về tự do của tâm hồn. Nếu người Do Thái qua
cuộc hành trình đã trở thành một dân tộc tự do, thì Chúa Giêsu qua cuộc hành
trình để trở thành mẫu mực cho con người tự do, và qua cuộc thử thách trong sa
mạc Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cuộc hành trình tiến về tự do nào
cũng đòi hỏi hy sinh, chiến thắng và thanh luyện.
Thiết lập Mùa Chay, Giáo
Hội muốn cho chúng ta sống lại kinh nghiệm sa mạc của Chúa Giêsu. Cuộc lữ hành
trần gian của chúng ta không thể không đi xuyên qua những vùng sa mạc khô cằn,
nóng cháy. Thử thách, gian lao là chuyện không thể thiếu được trong cuộc lữ
hành. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta vượt qua sa mạc của những
thử thách ấy một cách can đảm và dứt khoát. Dứt khoát với nếp sống cũ khiến
chúng ta lê lết trong ích kỷ nhỏ nhoi, dứt khoát với nếp sống cũ đầy dẫy những
thất vọng buông xuôi. Cùng với Chúa Giêsu, Giáo Hội mời gọi chúng ta phó thác
tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa. Chúng ta không chiến đấu và hành trình một
cách lẻ loi, Chúa Giêsu đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta không chiến đấu
bằng sức mạnh và khí giới riêng của chúng ta, chúng ta có Chúa làm sức mạnh cho
chúng ta.
Nguyện xin Thánh Thể
Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy trong thánh lễ hôm nay, trở thành sức mạnh
và can đảm để giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành.
12. Hãy chọn
Chúa – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền.
Danh - Lợi - Thú, đó là
ba ham muốn chi phối toàn bộ đời sống con người. Đó cũng chính là ba nguyên
nhân gây nên biết bao khổ đau cho nhân thế. Kẻ được người thua cũng đều có thể
phải đau khổ vì nó, đều cảm nghiệm rằng những bất hạnh mà mình đang phải gánh
chịu đều vì tiền, vì lạc thú, vì quyền lực. Nhìn vào xã hội, ở nơi này nơi kia
đang xảy ra những bất hoà, tranh chấp, có khi giết hại lẫn nhau và làm khổ cuộc
đời nhau cũng chỉ vì tiền, vì tình và vì quyền. Ngay trong gia đình cũng có thể
bị đảo lộn những nề nếp gia phong bởi quá tôn thờ nó. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ
từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ. .Anh em bạn hữu bất hoà
với nhau cũng chì vì tình, vì tiền và vì quyền. Vì nó mà người ta chà đạp lên
nhau, người ta làm khổ nhau và làm hại lẫn nhau.
Thực vậy, có những kẻ vì
tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền mà
đánh mất tính người. Nhưng có lễ cái cám dỗ nguy hiểm nhất của đời người chính
là đồng tiền. Vì nhiều người cho rằng: "có tiền là có tất cả".
Vì tham lam đồng tiền mà
họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha
nghĩa mẹ, tình nghĩa vợ chồng cũng không bằng ma lực đồng tiền. Vì "Còn
tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Có biết bao kẻ đã
bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người
với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ, vì thế dân gian mới có
câu : "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - ba ông đứng lại, ông tiền cao
hơn".
Ngày xưa, có người nước
Tề thích vàng đến nỗi mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi
tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chay đi. Người ta bắt anh ta lại và
hỏi:
+ Tại sao giữa đám đông
mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
+ Lúc thấy vàng, tôi đâu
còn thấy ai nữa. Trước mắt tôi chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột
nên họ sẵn sàng mạo hiểm lao vào, bất chấp đó là hiểm nguy, là lửa cháy có thể
tiêu huỷ cả tính mạng. Vì tiền họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù
phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, tham
nhũng miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay,
thánh Mattheu miêu tả đến những cám dỗ mà ma quỷ đã bày ra cho Chúa Gie6su. Nó
cám dỗ Chúa Giê-su vì nó biết Chúa Giêsu sau 40 ngày nhịn ăn nên rất đói, rất
cần đến nhu cầu ăn uống. Nó đã khơi dậy nơi Chúa sự quay lưng lại với Chúa Cha.
Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó
hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những
hòn đất, hòn đá cũng biết thành của ăn. Từ sỏi đá cũng thành cơm mà vượt xa hơn
nữa là nắm gọn trong tay cả và dân thiên hạ. Có kẻ hầu người hạ. Có cơ hội
hưởng dùng mọi vinh hoa phú quý trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã
thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp
dẫn này, nhưng hôm nay màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con
duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giê su. Ngài không những đã khước từ những lời mời
mọc của ma quỷ mà còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì hiện hữu ở trần gian
này đáng giá hơn con người, đến nỗi phải cúi mình mà thờ lạy nó. Chỉ có Thiên
Chúa mới xứng đáng cho con người tôn thờ. Và chỉ khi nào sống và thực hiện ý
Chúa mới làm cho con người trở nên cao đẹp hơn mọi loài trên trần gian.
Những cám dỗ mà ma quỷ
tuy thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công
con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về
lòng thương xót và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một so
sánh, tính toán thiệt thua và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ là:
danh vọng, tiền tài, lạc thú. Kết quả là nhiều người vì ham tiến, ham sắc, ham
lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma quỷ. Từ một chàng thanh niên nhà quê hiền
lành chất phác bỗng biến thành một con người lòng mang dạ sói, sẵn sàng giết
hại đồng loại. Từ một cô gái đoan trang mực thước rồi bỗng một hôm lại trở
thành một tú bà chuyên nghiệp của lầu xanh.
Thực vậy, dưới sức nặng
và sự lôi kéo của sự dữ, mỗi người chúng ta đều phải trải qua kinh nghiệm của
thánh Phaolo: "việc thiện tôi muốn thì tôi lại không làm. Điều ác tôi
không muốn nhưng tôi lại làm. Ở khởi đầu mùa chay, khi cho chúng ta chiêm ngắm
Chúa Giêsu chiến thắngị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân
phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta
xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Ý thức thân phận yếu
hèn để ta luôn biết trông cậy vào ơn Chúa giúp chúng ta vượt qua thử thách của
đam mê danh lợi thú. Đồng thời, biết theo gương Chúa, chúng ta hãy tỉnh thức
trong từng giờ từng phút, trong từng biến cố buồn vui của cuộc sống, luôn biết
chọn lựa giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị mong manh của đời này. Hãy chọn
Chúa và thợ phượng Chúa hơn là chọn danh lợi thú và làm nô lệ cho những đam mê
thấp hèn. Xin Chúa là Đấng đã chiến thắng cám dỗ giúp chúng ta học nơi Chúa để
sống quy phục Thiên Chúa và thực thi theo thánh ý Ngài. Amen.
13. Chúa cần tấm
lòng thành – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi qùy trước mặt
Chúa, chúng ta chẳng biết nói gì, thưa gì với Chúa. Thông thường khi gặp hoạn
nạn, khi gặp khó khăn chúng ta dễ tâm sự với Chúa, hay đúng hơn là chúng ta còn
có chuyện để nói với Chúa, còn bình thường thì chẳng biết nói gì với Chúa, nếu
không mượn những lời kinh thuộc lòng thì có lẽ chúng ta cũng chỉ tới với Chúa,
độ dăm ba phút rồi mau chóng chào Chúa ra về.
Đức HồngY FX Nguyễn Văn
Thuận, Ngài đã kể câu chuyện như sau:
Có một người nông dân
tên là Jim, hằng ngày vác cuốc đi làm ngang qua nhà thờ, cậu đều vào nhà thờ
rồi đi ra. Sự kiện được lập đi lập lại nhiều lần, đến nỗi nhiều người thắc mắc,
không hiểu Jim vào nhà thờ nói gì với Chúa mà mau lẹ thế. Họ mới hỏi Jim: Anh
vào nhà thờ cầu nguyện sao lại nhanh thế? Anh đã nói gì với Chúa?
Jim đã trả lời: Tôi chỉ
vào nhà thờ làm dấu rồi nói với Chúa. "Lạy Chúa, có Jim đây" rồi tôi
đi ra.
Sự kiện được tiếp diễn
cho đến khi cậu Jim đã thành ông lão, nằm kiệt quệ trên giường bệnh. Lúc đó
hàng xóm láng giềng đến thăm hỏi ông và họ ngạc nhiên khi thấy bên giường ông
luôn có một cái bàn, một cái ghế và một ly nước. Họ hỏi ông: Nhà không có
khách, sao ông vẫn để một ly nước. Ông nói: "Ngày xưa khi còn trẻ hằng
ngày tôi vẫn đến với Chúa và nói với Chúa: Lạy Chúa, Jim đây. Cho tới bây giờ,
tôi đã già không còn có thể đến với Chúa được nữa, nên Chúa vẫn hằng ngày đến
với tôi và nói: Jim ơi, có Chúa đây".
Thực vậy, cầu nguyện
không phải là mình nói thật nhiều với Chúa, hay là tìm những lời thật hay, thật
văn chương để nói với Chúa, nhưng điều quan yếu là biết dành một thời gian cho
Chúa. Khi chúng ta đón nhận một món quà, không phải vì nó có một giá trị vật
chất to lớn mà mình vui, nhưng là vượt lên trên món qùa là cả tấm lòng người
cho dành cho mình. Món quà tuy nhỏ nhưng người cho với cả tấm lòng yêu mến thì
cao qúy hơn những tặng phẩm cao sang mắc tiền mà thiếu tấm lòng chân thành. Vì
quà tặng chỉ là tượng trưng cho tấm lòng người cho. Đó là một sự quan tâm, một
tình yêu mà người cho dành cho chúng ta. Việc chúng ta cầu nguyện với Chúa cũng
thế. Điều quan yếu không phải là cầu nguyện như thế nào, hay bao nhiêu lần
trong ngày mà là tấm lòng chúng ta dành cho Chúa như thế nào? Cầu nguyện vì
tình yêu, vì lòng yêu mến Chúa hay đó chỉ là thói quen, làm cho qua lần chiếu
lượt, hời hợt cho xong.
Hôm nay Chúa muốn chúng
ta làm các việc đạo đức: ăn chay, cầu nguyện, làm việc lành phúc đức phải phát
xuất từ tấm lòng chân thành chứ không phải là những hình thức bên ngoài. Chúa
đả phá thái độ phô trương, giả hình của nhóm biệt phái. Họ ăn chay, họ cầu
nguyện, họ làm việc lành nhằm mục đích phô trương thân thế của mình. Họ làm
những việc này vì bản thân họ chứ không phải vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân.
Họ làm việc lành vì muốn khoe khoang sự giầu có của mình. Họ cầu nguyện vì muốn
được người khác khen ngợi. Họ ăn chay chỉ nhằm che mắt thiên hạ về đời sống
thiếu đạo đức của mình.
Thiên Chúa là Đấng thấu
suốt mọi sự. Ngài có thể nhìn thấu tâm can của con người. Ngài cần tấm lòng chứ
không cần lễ vật. Ngài đã từng đề cao đồng tiền bà góa nghèo mà xem thường của
bố thí dư thừa nơi người giầu. Ngài đã từng nhìn đến lễ vật chân thành của Abel
và bỏ qua lễ vật chiếu lệ của Cain.
Phải chăng Ngài cũng
đang chờ đợi nơi lòng thành của chúng ta? Ngài không cần chúng ta mang danh là
người ky-tô hữu mà thiếu đời sống đạo. Ngài càng buồn hơn khi chúng ta mang
danh là người ky-tô hữu nhưng vẫn gian tham, trộm cắp, vẫn gian dâm, chồng nọ
vợ kia. . . Ngài cần chúng ta đến dâng lễ vật với tấm lòng hòa bình, vì khi
ngươi dâng lễ vật mà chợt nhận ra mình có bất hòa với anh em, thì hãy để của lễ
lại trên bàn thờ mà về làm hòa với anh em trước đã. Ngài không muốn chúng ta
đến nhà thờ mỗi ngày mà lòng chúng ta lại xa Chúa. Ngài không cần chúng ta ăn
chay với hình thức bên ngoài mà cần phải chay tịnh về tâm hồn luôn khước từ
những ước muốn bất chính, những ham muốn tầm thường. Ăn chay có ích gì khi mà
tâm trí chúng ta vẫn nuôi dưỡng những tư tưởng bất chính? Ăn chay càng không có
ích khi chúng ta vẫn để tính xác thịt lôi kéo chúng ta vào đường tội lỗi.
Ước gì mỗi người chúng
ta bước vào mùa chay với tầm lòng chân thành ước muốn sửa đổi bản thân. Ước gì
những hình thức đạo đức bên ngoài như: ăn chay, cầu nguyện, việc lành luôn là
hành vi được phát xuất từ lòng thành dâng cho Chúa. Xin đừng làm những việc đạo
đức chiếu lệ cho qua. Điều này chẳng thêm ơn ích gì trước mặt Chúa. Đôi khi còn
mang tội vì giả hình và gian dối. Xìn đừng đến với Chúa mà thiếu lòng hoán cải,
thiếu ước muốn hoàn thiện. Điều này sẽ làm chúng ta ngày càng xa cách Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn có một tấm lòng chân thành với Chúa để mỗi
lời kinh, mỗi việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa. Amen.
14. Sống là
chiến đấu.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Trong chuyến viếng thăm
Giáo Hội tại Lituani vào tháng 9 năm 1993, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
đến cầu nguyện tại một ngọn đồi nổi tiếng của nước nầy, thường được mệnh danh
là "Ngọn đồi Thập Giá".
Ngọn đồi này nằm tại một
ngôi làng hẻo lánh. Qua suốt dòng lịch sử của dân tộc, cứ mỗi lần có một người
dân trong làng ngã gục ngoài mặt trận thì toàn dân trong làng tập trung lại để
tưởng niệm và dựng lên một cây thập giá. Dưới thời Nga Hoàng cũng như dưới thời
Liên Xô đã có không biết bao nhiêu người dân làng ngã gục để bảo vệ nền độc lập
của xứ sở. Binh lính và công an đã làm mọi cách để triệt hạ thập giá khỏi ngọn
đồi. Trong ba thế kỷ liền, ngọn đồi thập gái đã không ngừng bị san bằng bởi
những bàn tay vô đạo. Nhưng cứ đêm đến, người dân trong làng lại lẳng lặng dựng
lên những cây thập giá khác. Cuộc chiến của thập giá cứ tiếp diễn như thế cho
đến khi tự do được thực sự vãn hồi. Ngày nay khách hành hương tìm đến ngọn đồi
thập giá nầy để nhận ra biểu trưng của một niềm tin sắt đá, của khát vọng tự
do, và cuối cùng, của chiến thắng.
Có niềm tin hay không,
có sống đạo hay không, dường như ai cũng có ý thức được rằng cuộc đời là một
trận chiến. Giáo Hội không ngừng mời gọi các Kitô hữu chúng ta sống lại cuộc
chiến đấu của Chúa Giêsu trong sa mạc. Mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm
chiến đấu của Chúa Giêsu, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống niềm
tin Kitô là một cuộc chiến đầu trường kỳ.
Các sách Tin Mừng Nhất
Lãm đều kể rằng sau khi được tấn phong bên bờ sông Giođan, Chúa Giêsu vào sa
mạc đương đầu với Satan. Thánh Marcô chỉ nói vắn tắt rằng, Chúa Giêsu ở trong
sa mạc 40 ngày và chịu Satan cám dỗ. Còn thánh Matthêu và Luca lại kể rõ ba
chước cám dỗ của Satan, nhưng theo thứ tự hơi khác nhau. Theo thánh Luca, những
chước cám dỗ của Satan phải được giải thích trong mối liên hệ chặt chẽ với cuộc
tử nạn thập giá của Chúa Giêsu. Các chước cám dỗ nhằm lôi kéo Chúa Giêsu đi
trệch đường lên thành Giêrusalem dẫn đến đỉnh đồi thập giá. Chính vì để nhấn
mạnh ý nghĩa của đỉnh đồi thập giá ở Giêrusalem mà thánh Luca đã sắp xếp lại
thứ tự các chước cám dỗ, để cho chước cám dỗ sau cùng xảy ra ở Giêrusalem là đích
điểm của con đường Ngài đã dứt khoát chọn lựa ngay từ đầu sứ vụ Cứu Thế.
Do đó, Thánh Luca sắp
xếp cám dỗ thứ nhất là Satan thách đố Chúa Giêsu biến sỏi đá thành cơm bánh ăn:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy làm cho đá nầy trở thành bánh đi!" Ý
đồ của Satan là xúi Chúa Giêsu vận dụng quyền năng Thiên Chúa trao cho Ngài để
phục vụ bản thân mình trước đã. Nhưng Chúa Giêsu đã từ chối. Ngài là Con Thiên
Chúa không phải để phục vụ bản thân mình, nhưng để làm công việc Thiên Chúa
trao cho Ngài. Ngài đến để phục vụ và làm theo ý Đấng đã sai Ngài. Satan muốn
xúi Chúa Giêsu lấy mạng sống riêng của mình làm cứu cánh, chỉ có mạng sống là
đáng quý, chỉ có bản thân là đáng trọng, không còn gì quý và cao cả hơn nữa.
Dân Israel khi ở trong
sa mạc cũng đã bị cám dỗ như vậy. Khi họ hết lương thực, họ quên tất cả giá trị
của cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, tất cả niềm tự hào được trở thành người tự do.
Trước nguy cơ chết đói, họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: Thà làm nô lệ mà được ăn
no hơn được tự do mà phải chết đói. Nhưng Thiên Chúa đã muốn cho họ thấy: còn
có một cái gì đáng quý trọng hơn nữa, hơn cả mạng sống: "Người ta không
sống nhờ cơm bánh mà thôi, mà còn nhờ Lời Chúa nữa" (Đnl 8,3). Chúa Giêsu
dùng lời ấy để khẳng định rằng: mạng sống trần gian không phải là tất cả đâu. Ngài
đã lãnh nhận cuộc sống làm người không phải để khư khư giữ lấy, nhưng là để cho
đi, để hiến mình cho mọi người được sống.
Cám dỗ thứ hai là Satan
hứa sẽ trao cho Chúa Giêsu mọi quyền lực và vinh quang của các vương quốc trên
trần gian nầy, nếu Chúa Giêsu chịu thờ lạy nó. Cái "xạo" của Satan là
ở chỗ nó cho rằng nó là bá chủ mọi vương quốc trần gian và có quyền ban quyền
lực và vinh quang cho Chúa Giêsu. Satan muốn Chúa Giêsu nhìn nhận rằng: chỉ có
quyền lực và vinh quang của mọi vương quốc trên trần gian này là đáng quý. Chúa
Giêsu muốn được hưởng thì cứ thờ lạy là xong ngay. Để trả lời Satan, Chúa Giêsu
phán: "Mi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa của mi, và mi chỉ phải thờ
phượng một mình Ngài mà thôi" Đnl 6,13). Sau nầy, Philatô sẽ phải công khai
nhìn nhận rằng: Chúa Giêsu chẳng hề có dụng ý tranh cướp quyền lực và vinh
quang của Đế quốc Rôma.
Dân Israel khi xưa đã
đúc bò vàng để thờ thay vì thờ phượng Thiên Chúa. Đó là tội bất trung của
Israel đối với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dứt khoát trả lời Satan: Mi không phải là
Thiên Chúa. Quyền lực và vinh quang trên trần gian không phải là tất cả. Chỉ có
Thiên Chúa mới đáng thờ lạy, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lực và vinh quang
thật để ban cho Ngài.
Cám dỗ thứ ba là Satan
xúi Chúa Giêsu thử thách quyền năng Thiên Chúa; vận dụng quyền năng Thiên Chúa
để mở một con đường tắt mà hoà thành sứ mạng; nếu Chúa Giêsu nhảy từ đỉnh cao
của đền thờ Giêrusalem xuống mà an toàn thì tất nhiên mọi người sẽ theo Ngài.
Chúa Giêsu không theo đường tắt Satan đề nghị. "Ngài hạ mình vâng phục cho
đến nỗi bằng lòng chết và chết trên thập giá" để thực hiện công cuộc của
Chúa Cha. Ngài mời gọi ai muốn theo Ngài thì hãy bỏ mình đi, vác thập giá của
mình mà đi theo Ngài.
Dân Israel trong sa mạc
khi thiếu nước uống, họ đã thử thách Thiên Chúa. Chúa Giêsu đáp lại Satan:
"Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa của ngươi" (Đnl 6,16). Chúa Giêsu đã
không thử thách Thiên Chúa nhưng hoàn toàn tin tưởng và phó thác trọn vẹn cho
Thiên Chúa khi Ngài đi vào con đường tuyệt vọng nhất – con đường thập giá.
Chúa Giêsu đã chiến
thắng hết mọi chước cám dỗ của Satan. Trong suốt thời gian Chúa Giêsu rao
giảng, ma quỷ tiếp tục thua dài hết keo này đến keo khác. Nó không còn chước
nào để cám dỗ Ngài nữa. Cuối cùng Satan nhập vào Giuđa Iscariôt (một trong mười
hai môn đệ) để nộp Ngài. Trong cuộc giao chiến này, Satan sẽ cướp được mạng
sống của Chúa Giêsu. Nếu quả thật không có gì khác ngoài cuộc sống trần gian
thì Satan đã thắng rồi. Nhưng chính lúc cướp được mạng sống của Chúa Giêsu,
Satan đã đại bại, bởi vì Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu từ trong cõi chết sống lại
và đặt Ngài làm Chúa, khiến cho mọi loài trên trời dưới đất khi nghe Danh Giêsu
thì phải quỳ gối mà tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, để làm vinh danh Thiên Chúa
Cha. Đây là cuộc chiến thắng dứt khoát và vĩnh viễn.
Đọc lại đoạn Phúc âm này
vào ngày Chúa Nhật đầu Mùa Chay, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta suy nghĩ về
cuộc sống Kitô hữu như một cuộc chiến đấu với Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng
Satan, làm con Thiên Chúa. Nhưng chúng ta còn phải thể hiện bản chất con Thiên
Chúa ấy trong cuộc sống. Chúng ta phải đích thân chiến thắng Satan trong cuộc
sống của chúng ta. Chúa Giêsu đã chiến thắng để cho chúng ta có thể chiến thắng
nhờ Thánh Thần Ngài ban cho, nhưng không hề miễn cho chúng ta khỏi chiến đấu.
Mùa Chay là thời kỳ tập luyện tích cực để chiến đấu với Satan.
Những cám dỗ mà Satan đã
đem ra dụ dỗ Đức Giêsu vẫn là những cám dỗ muôn đời của con người.
Cơm ăn, áo mặc, danh
vọng, tiền của, quyền uy, thế lực. Có những người, để làm giàu cho bản thân
mình đã tán tận lương tâm, chà đạp mọi quy luật của đạo đức... Có những người,
vì danh vọng, vì quyền lực, đã sẵn sàng sinh sát anh em đồng bào mình... Những
cám dỗ ấy liên tục xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không cảnh
giác, không được trang bị bằng ánh sáng và sức mạnh Lời Chúa, chúng ta sẽ ngã
gục lúc này không hay!
Càng có điều kiện để làm
giàu, có điều kiện để thụ hưởng danh vọng và nắm giữ quyền lực, càng dễ bị
Satan cám dỗ. Có của mà vẫn sống lương thiện, hưởng thụ danh vọng mà vẫn khiêm
tốn, hiền hoà, nắm giữ uy quyền mà vẫn là người phục vụ chân thực... đó là một
thử thách lớn, là một cuộc đấu tranh gay gắt. Những cơn cám dỗ đến với Chúa
Giêsu, các Lời Chúa đáp lại, và sự vượt thắng cám dỗ của Chúa vẫn là cái gì gần
gũi với chúng ta ngày hôm nay, trong cả cuộc sống, nếu không muốn nói là từng
giây phút, khi mà các nhu cầu tối thiểu còn là vấn đề quan trọng và cấp bách,
khi mà lòng tham quyền bính và bả vinh hoa vẫn làm cho nhiều người mong bước
vào.
Muốn chống trả và chiến
thắng Satan, cần phải có tinh thần từ bỏ và tấm lòng siêu thoát. Chúa Giêsu đã
chiến thắng Thần Chết và tội lỗi. Chúng ta cũng có thể chiến thắng mọi cám dỗ
và thử thách, nếu chúng ta biết dựa vào Thiên Chúa, biết dùng vũ khí vạn năng
mà Chúa Giêsu đã trao cho chúng ta. Lời Chúa mà thánh Luca ghi lại vẫn là lời
nhắc nhở các tín hữu, đừng để sa vào các cơn cám dỗ, mà ngày nay không khác với
ngày xưa, nếu không muốn nói là còn lộ liễu hơn. Hãy lấy chính Lời Chúa làm sức
nâng đỡ, lời chỉ đạo, và hãy lấy tâm gương Chúa làm tiêu chuẩn cho cuộc sống để
đương đầu với những cơn thử thách bất cứ từ đâu tới.
15. Chống lại
cám dỗ - McCarthy
Suy Niệm 1. CHƯỚC CÁM DỖ
CỦA ĐỨC GIÊSU
Một số người cho rằng
thật khó mà tin rằng Đức Giêsu có thể bị cám dỗ. Mặc dù có bản chất thần thánh,
nhưng Người cũng có một bản chất của con người. Ngoài ra, tự thân chước cám dỗ
không phải là một tội lỗi. Có phải ma quỷ đã thực sự hiện ra với Người không?
Chúng ta không biết. Điều chính yếu là những chước cám dỗ của Người đều có
thật, giống như chúng ta vậy, mặc dù quỷ sứ không hiện ra với chúng ta trong
hình dạng của một con người. Nhưng những chước cám dỗ của Người chứa đựng cái
gì?
Chước cám dỗ đầu tiên là
biến hòn đá thành bánh. Ngoài ý nghĩa rõ rệt, chữ "bánh" có thể mang
ý nghĩa là những thứ vật chất nói chung. Ma quỷ đang nói với Đức Giêsu là hãy
sử dụng những quyền năng đặc biệt của Người, để mang lại cho con người tất cả
những thứ vật chất mà có thể họ mong muốn. Nhưng Đức Giêsu biết rằng tự thân
những thứ vật chất đó sẽ không bao giờ thoả mãn được con người. Công việc chính
của Người là nuôi dưỡng tâm trí và tấm lòng con người bằng lời của Thiên Chúa.
Đây là chước cám dỗ mang
lại cho con người những điều họ mong muốn, hơn là những nhu cầu của họ. Chước
cám dỗ chính là thoả mãn đám đông, bằng cách cho họ những gì sẽ thoả mãn các
mong muốn nhất thời của họ, khi họ không biết điều gì mình thực sự cần đến.
Chúng ta có những nhu
cầu và những khát vọng lớn lao hơn. Tâm hồn con người thực sự khát khao cái gì?
Chắc hẳn rằng đó không phải là cơm bánh. Cơm bánh là cái mà cơ thể thèm khát.
Sau phép lạ ban bánh và cá, ngày hôm sau, dân chúng trở về với mong muốn sao
cho có thêm bánh nữa. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối ban thêm bánh cho họ. Người
nói "Các ngươi đừng lạm việc vì của ăn không thể tồn tại được, nhưng hãy
làm việc để tìm kiếm lương thực kéo dài cho đến cuộc sống đời đời".
Đối với một vị thầy về
mặt thiêng liêng, thì tinh thần chiếm vị trí ưu tiên vượt lên trên lương thực
của cơ thể. Khi đặt ưu tiên cho những nhu cầu thân xác, điều đó có nghĩa là
giảm giá trị con người, là đối xử với họ không hơn gì một con vật. Chúng ta
cũng bị cám dỗ chỉ sống cho những thứ vật chất mà thôi. Không phải là chúng ta
khước từ đời sống thiêng liêng, nhưng chúng ta bỏ qua đời sống đó.
Chước cám dỗ thứ hai là
tạo dựng một vương quốc chính trị, là việc dẫn đến quyền lực hơn là tình yêu.
Quyền lực tạo ra một sự thay thế dễ dàng cho công việc khó khăn mà có thể tình
yêu đòi buộc. Người ta dễ dàng muốn làm chủ người khác, hơn là yêu thương họ,
dễ dàng thống trị người khác, hơn là trở thành người phục vụ họ. Đức Giêsu
không đến để cai trị, nhưng để phục vụ. Người không hề nại vào quyền lực thần
thánh của Người, nhưng đã tự huỷ mình ra không, và trở thành người tôi tớ đầy
yêu thương đối với tất cả mọi người. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ thay thế tình
yêu bằng quyền lực.
Chước cám dỗ thứ ba cốt
ở việc làm được một điều gì đó kỳ lạ (tự gieo mình xuống khỏi Đền Thờ) nhằm
khơi gợi lòng tin –giống như một ảo thuật gia có thể khơi gợi được lòng tin,
qua nghệ thuật làm một số chuyện mang tính cách quảng cáo phô trương. Ý tưởng
này nghe thật hấp dẫn. Một kiểu quảng cáo như vậy sẽ làm cho mọi người đồn thổi
về Người tại Giêrusalem. Nhưng lối gây giật gân lại đưa đến vinh quang cho bản
thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa. Đức Giêsu khước từ việc gieo mình
này. Người không muốn tìm kiếm những kẻ ái mộ mình. Người mong muốn có những kẻ
đi theo Người, nghĩa là những kẻ muốn bắt chước lối sống của Người.
Trong suốt sứ vụ của
Người, Đức Giêsu đã khước từ việc ban cho dân chúng những kiểu dấu lạ, ngay cả
khi người ta ép buộc Người phải làm như vậy. Những loại dấu lạ này không có ích
lợi gì cả, không đòi hỏi điều gì tốt đẹp nhất nơi chúng ta, mà chỉ hạ thập giá
trị của lòng tin. Lòng tin không phải là ma thuật. Sự thánh thiện không hệ tại
ở việc cố gắng ép buộc Thiên Chúa phải làm theo ý muốn của chúng ta, nhưng là
nỗ lực bắt buộc chính bản thân mình phải làm theo thánh ý Thiên Chúa.
Các chước cám dỗ là đòn
tấn công trên tất cả những yếu tố cơ bản đối với sứ vụ của Đức Giêsu. Vâng,
Người đến để thiết lập một vương quốc, nhưng không phải là loại vương quốc mà
Satan đề nghị. Và Người đã khước từ chước cám dỗ đạt được vương quốc bằng
phương tiện trần thế.
Cả ba chước cám dỗ cuối
cùng đều quy hướng về cùng một điều: đặt những thứ vật chất và vinh quang bản
thân lên trước hết, kế đó, mới đến các điều thiêng liêng và Thiên Chúa. Nói
chung, đây là những chước cám dỗ chủ yếu trong Giáo Hội của Người, và nơi mỗi
người chúng ta là các thành viên trong Giáo Hội. Chúng ta phải luôn hướng mắt
về Đấng đã khước từ biến những hòn đá thành bánh, tự gieo mình xuống khỏi nóc
Đền Thờ, và cai trị bằng quyền lực.
Kinh nghiệm này đã giúp
cho Đức Giêsu tự thấu hiểu sứ vụ của Người là gì, và làm thế nào để hoàn tất sứ
vụ đó. Và một khi đã biết được sứ vụ của mình là gì, thì Người quyết định hoàn
toàn tận hiến cho sứ vụ đó.
Chước cám dỗ không phải
là những thứ chỉ xảy ra một lần mà thôi, không bao giờ chúng kết thúc, mà có
thể trở lại một lần khi có cơ hội. Trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, chước cám
dỗ vẫn tiếp tục xảy ra, bởi vì ma quỷ vẫn cứ tìm mọi cách để xói mòn sứ vụ của
Người, mặc dù là vô hiệu. Ngay cả khi Người đã bị treo trên thánh giá, chúng ta
vẫn nghe thấy tiếng vang vọng của chước cám dỗ thứ hai "Nếu ông ta là Đấng
Mêsia, thì ông ta hãy xuống khỏi thánh giá, rồi chúng ta sẽ tin ông ấy".
Tất cả những ai đang đấu
tranh để sống một cuộc sống tốt đẹp, đều có thể ghi lòng tạc dạ điều này: Việc
chống trả lại chước cám dỗ không hề dễ dàng đối với Đức Giêsu, cũng không dễ
dàng đối với chúng ta. Nhưng nơi Đức Giêsu, chúng ta có được một người anh,
Đấng biết được rằng chúng ta đang phải chiến đấu với cái gì. Người tha thứ cho
chúng ta, và nâng chúng ta lên, khi chúng ta vấp ngã. Người ban cho chúng ta
khả năng tuân theo lời của Thiên Chúa, tin tưởng nơi Người và chỉ thờ phượng
một mình Người mà thôi.
Suy Niệm 2. KHÔNG CHỈ
BẰNG CƠM BÁNH
Con người không chỉ sống
bằng cơm bánh. Cơm bánh chỉ là một trong những thức ăn chủ yếu của cuộc sống
–cuộc sống thân thể. Để nuôi dưỡng một con người, không giống như vỗ béo một
con vật. Cơ thể của chúng ta cần có lương thực. Những linh hồn của chúng ta
cũng vậy. Linh hồn của chúng ta đang khao khát lương thực nuôi dưỡng. Câu
chuyện về Elvis Presley minh hoạ hùng hồn cho chân lý này.
Elvis trở nên rất giàu
có. Ông ta sở hữu 8 xe hơn, 6 xe máy, 2 máy bay, 16 T.V., một toà lâu đài rộng
lớn, và nhiều tài khoản ngân hàng. Vượt lên trên tất cả những thứ đó, anh ta
còn là thần tượng của nhiều người hâm mộ. Tuy nhiên, anh không hề có hạnh phúc.
Giữa tất cả sự giàu có và thành công của mình, anh ta đã phải trải qua tình trạng
bất ổn về tinh thần, và thường than phiền về nỗi cô đơn, buồn chán.
Anh giãi bày tâm sự với
một phóng viên "Tiền bạc gây ra nhiều chuyện nhức đầu".
Mẹ của anh rất lo lắng
cho anh. Không bao giờ bà muốn anh bị những chuyện đó. Bà chỉ đơn giản mong
muốn anh trở về nhà, mua một cửa hàng bán vật dụng trong nhà, cưới vợ và có
con.
Càng ngày, anh càng trở
nên sợ hãi và trầm cảm. Năm lên 22 tuổi, anh nhận thấy là không còn thế giới
nào để chinh phục nữa. Tình trạng bất ổn này có thể là một cơ hội. Đây là một
lời nhắc nhở rõ ràng rằng "con người không chỉ sống nguyên bằng
bánh", nghĩa là chỉ sống bằng những thứ vật chất mà thôi.
Thông điệp này vang lên
lớn tiếng và rõ rệt trong bài Tin Mừng hôm nay. Đây là một thông điệp quan
trọng, và có lẽ thích hợp với ngày nay hơn bao giờ hết. Mặc dù chúng ta có thể
nhận thấy được lẽ phải của bức thông điệp này, nhưng trên thực tế, thật không
dễ dàng thực hiện. Chúng ta không chỉ sống bằng cơm bánh –ít nhất là không, nếu
chúng ta mong muốn được sống dồi dào, và hoàn toàn được nuôi dưỡng với tư cách
là con người và con cái của Thiên Chúa. Vậy chúng ta còn cần đến điều gì khác
nữa. Chúng ta cần đến Lời Chúa.
Bạn hãy thử tưởng tượng
cảnh cha mẹ nuôi dưỡng con cái của họ, mà không bao giờ nói một lời nào với con
trẻ, không hề hướng dẫn, khích lệ, xác nhận, an ủi. Không bao giờ họ nói một
lời để truyền đạt sự bình an và đón nhận, hoặc tình yêu thương và niềm vui. Cơ
thể của con trẻ có thể được nuôi dưỡng, nhưng tâm trí và linh hồn của chúng bị
trống rỗng. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta cần được nghe Lời của
Người.
Nếu chỉ có cơm bánh,
không phải lúc nào cũng sẽ đảm bảo được sự sống còn, ngay cả về mặt thể lý. Thi
sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong nhà tù cộng sản ở Ngài (với
tư cách là tù nhân chính trị). bà nói "Nhiều người phụ nữ có nhiều thức ăn
hơn tôi, tuy nhiên, họ vẫn bị chết". Điều gì đã giữ cho bà còn sống được.
Chắc hẳn là nhờ đức tin Kitô giáo của bà.
Không phải chỉ có cơ thể
con người mới đói khát. Tâm hồn và tinh thần con người cũng biết đói khát nữa.
Chúng ta sẽ không được nuôi dưỡng đầy đủ, cho đến khi chúng ta thừa nhận sự đói
khát của tâm hồn và tinh thần.
Đức Giêsu thách đố chúng
ta hướng tới những nỗi khát khao sâu xa hơn và những nhu cầu lớn lao hơn của
chúng ta. Tâm hồn thực sự khát khao điều gì? Thưa rằng tâm hồn khát khao lương
thực không thể hư nát –Lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh nuôi dưỡng chúng ta. Lời
Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng tấm bánh của cuộc sống có ý nghĩa, tấm bánh của
niềm hy vọng, và vượt lên trên tất cả, đó là tấm bánh của tình yêu.
CÂU CHUYỆN KHÁC.
Đức Giêsu đã trải qua 40
ngày trong sa mạc, trong sự suy niệm và cầu nguyện. Sa mạc có thể là một nơi
khắc nghiệt, nhưng đó lại là một chỗ lý tưởng để suy niệm và cầu nguyện.
Kinh nghiệm sa mạc đến
vào giây phút quan trọng trong cuộc đời của Đức Giêsu, thời gian của sự thức
tỉnh lớn lao. Không thể nào gọi là cường điệu, khi nói về tầm quan trọng của sa
mạc đối với Đức Giêsu. Thật vậy, càng ngày, Người càng yêu thích sự cô tịch, và
có thói quen tìm đến với sa mạc, vào những lúc khó khăn trong cuộc đời của
Người. Khi dân chúng và các sự kiện tìm cách vây bọc lấy Người, thì Người sẽ
lẻn vào nơi hoang vắng, để tự phục hồi và lại hiến thân cho Chúa Cha. Hiện tại,
Người đang đào sâu cảm nhiệm sa mạc đầu tiên này.
Chúng ta cũng cần có một
nơi yên tĩnh để suy niệm và cầu nguyện. Thông thường, chúng ta hay sống một
cách điên rồ và thiếu mất đời sống thiêng liêng, cứ để mặc cho những ước muốn
ngu xuẩn đưa dẫn, và những thói quen ích kỷ đầu độc. Chúng ta bị những tiếng ồn
ào và những sinh hoạt liên tục vây hãm. Chúng ta đặt sai những thứ tự ưu tiên.
Chúng ta không thể hoặc không muốn sự cô tịch, không muốn được yên tĩnh, không
muốn cảnh tĩnh mịch. Và chúng ta lại thắc mắc tại sao mình không có hạnh phúc
tại sao mình cảm thấy không dễ dàng gì trong việc tiếp cận với người khác, và
tại sao mình không thể nào cầu nguyện được.
Chúng ta cần đến sự cố
tích. Khi ở một mình, chúng ta bắt đầu đứng trên đôi chân của mình, trước mặt
Thiên Chúa và thế giới, và hoàn toàn chấp nhận chịu trách nhiệm đối với cuộc
sống của bản thân. Các ẩn sĩ đi vào sa mạc, không phải để tự để tự đánh mất,
nhưng là để tìm được chính mình. Trong sự cổ tích, chúng ta gặp gỡ những trò
quỷ quái của chúng ta, những đam mê, thú tính, cơn tức giận, nhu cầu được nhìn
nhận và được tán thành của chúng ta.
Và chúng ta không đi vào
nơi hoang vắng để tránh khỏi người khác, mà để tìm thấy họ trong Thiên Chúa.
"Chỉ khi ở nơi cô tịch và thinh lặng, tôi mới có thể tìm thấy sự tử tế mà
nhờ đó, tôi có được khả năng để yêu mến các anh chị em tôi" (Thomas
Merton).
16. Chiến đấu
với cám dỗ
(Trích trong 'Tin Mừng
Chúa Nhật')
Chúng ta đã từng thấy có
một số cột mốc lớn trong cuộc đời Chúa Giêsu, và đây là cột mốc lớn hơn hết.
Trong Đền Thờ, khi được mười hai tuổi, Ngài đã nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha
Người theo một ý nghĩa đặc biệt. Khi Gioan xuất hiện, Ngài cảm kích giờ của
Ngài đã điểm, trong lễ rửa Thiên Chúa đã tỏ ra việc chuẩn y. Bây giờ Chúa Giêsu
sắp bắt đầu chiến dịch của Ngài. Muốn bắt đầu một chiến dịch, người ta phải
chọn nhưng phương sách sẽ dùng. Câu chuyện cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu
đã dứt khoát chọn lựa phương cách Ngài sẽ sử dụng để đem con người trở về cùng
Thiên Chúa. Nó cho ta thấy Chúa Giêsu từ bỏ con đường vinh quang quyền thế,
chấp nhận con đường thập giá khổ đau. Trước khi đi vào chi tiết câu chuyện, có
hai điểm cần lưu ý:
1. Đây là một câu chuyện
thánh, vì nó không thể phát xuất từ bất cứ một nguồn nào khác ngoài chính Chúa
Giêsu. Vào một lúc nào đó, có lẽ chính Chúa Giêsu đã thuật lại cho các môn đệ
về kinh nghiệm sâu thẳm đó của linh hồn Ngài.
2. Cũng vào dịp này hẳn
Ngài đã ý thức được những quyền năng đặc biệt của Ngài. Những cám dỗ đó chỉ có
thể xảy đến cho một người có đủ quyền năng làm những sự lạ lùng. Chúng ta không
bị cám dỗ khiến đá thành bánh hoặc nhảy từ nóc Đền Thờ, vì lẽ rất đơn giản là
chúng ta không thể nào thực hiện được những việc như vậy. Các cám dỗ đó chỉ có
thể xảy đến cho ai có sẵn quyền năng độc nhất và phải quyết định cách thức sử
dụng quyền năng đó.
Trước hết chúng ta thử
hình dung khung cảnh đó, khung cảnh của sa mạc hoang vu. Phần đất có người ở
của xứ Giuđê là vùng cao nguyên trung tâm cái xương sống cho miền Nam đất
Paléttin. Từ đó ra Biển Chết có một vùng sa mạc ghê rợn, chiều dài 56 cây số và
rộng 24 cây số, có tên là sa mạc Jehsimmon, nghĩa là "sự tàn phá".
Các núi đồi như những đống cát bụi, những đá vôi trông như phồng lên và tróc
ra, những tảng đá lớn trơ trọi gồ ghề, mặt đất kêu rền dưới vó ngựa. Nắng ở đó
nóng như một lò lửa mênh mông, và có một sườn núi dốc dựng đứng cao khoảng 400
mét, đổ xuống tận Biển Chết. Chính tại đó, nơi hoang tàn ghê gớm đó, Chúa Giêsu
chịu cám dỗ.
Không nên nghĩ rằng ba
đợt cám dỗ đó đã diễn ra theo trình tự và lớp lang như một tấn tuồng. Chúng ta
phải nhớ rằng Chúa Giêsu tự ý lui vào nơi vắng vẻ đó và suốt bốn mươi ngày Ngài
vật lộn với vấn đề làm thế nào để chinh phục nhân loại về với Thiên Chúa. Đó là
một trận chiến lâu dài và là một cuộc chiến không ngưng nghỉ cho tới cây thập
giá, và câu chuyện này chấm dứt với lời tuyên bố của ma quỷ "tạm" lìa
bỏ Ngài.
1. Cám dỗ thứ nhất khiến
đá thành bánh.
Vùng này không phải là
một sa mạc cát, khắp đó đây rải rác những hòn đá vôi rất giống những ổ bánh mì
nhỏ. Ma quỷ nói với Chúa Giêsu rằng: "Nếu ông muốn dân chúng theo ông thì
ông hãy dùng quyền năng lạ lùng để ban cho họ những nhu cầu vật chất đi".
Ma quỷ xui Chúa Giêsu nên đút lót dân chúng để họ theo Ngài, Ngài trả lời bằng
một câu trích ở Đệ nhị luật 8,3, Ngài nói: "Người ta không bao giờ tìm
được sự sống trong của cải vật chất". Nhiệm vụ của Kitô giáo không phải là
tạo ra những tình trạng mới, mặc dầu uy tín và tiếng nói của Hội Thánh phải hỗ
trợ cho mọi cố gắng cải thiện đời sống con người. Nhiệm vụ của Hội Thánh là
kiến tạo con người mới. Và khi đã có con người mới hẳn sẽ phát sinh các tình
trạng mới.
2. Trong chước cám dỗ
thứ nhì, Chúa Giêsu thấy mình đứng trên một đỉnh núi cao, từ đó mắt Ngài có thể
thấy được tất cả các nước văn minh.
Ma quỷ nói: "Hãy
thờ lạy ta thì tất cả sẽ là của ngươi". Đó là một chước cám dỗ để thoả
hiệp, để hoà đồng. Ma quỷ nói: "Ta đã nắm được dân chúng trong tay ta rồi,
ngươi chớ nên đặt tiêu chuẩn của ngươi quá cao. Hãy ký kết một thoả hiệp với
ta, chỉ cần hoà đồng thích nghi một chút với điều ác thôi thì loài người sẽ
theo ngươi" Chúa Giêsu trả lời: "Thiên Chúa là Thiên Chúa, phải là
phải, trái là trái. Trong cuộc tranh chiến với tội ác không thể có thoả
hiệp". Một lần nữa Chúa Giêsu lại trích dẫn Đệ nhị luật 6,13.10,20. Một sự
cám dỗ thường dễ vướng phải là việc tìm cách chinh phục lòng người bằng cách
thoả hiệp với các tiêu chuẩn của đời này. Có người phát biểu rất đúng rằng
khuynh hướng của thế gian là nhìn mọi sự trong màu sắc mơ hồ không rõ rệt,
nhưng Kitô hữu phải nhìn mọi sự cách trắng ra trắng, đen ra đen. Carlyle nói:
"Kitô hữu phải nóng cháy trong niềm tin vào sự vô cùng xinh đẹp của sự
thánh khiết và vô cùng xấu xa của tội lội".
3. Trong cơn cám dỗ thứ
ba, Chúa Giêsu thấy mình đứng ở nóc Đền Thờ là chỗ cổng Salômôn và cổng vua
giáp nhau.
Chỗ này cao 1.500 mét,
dốc thẳng xuống thung lũng Kêdron bên dưới. Đây là chước cám dỗ muốn khích động
dân chúng. Chúa Giêsu phán: "Không, ngươi không được quyền thử nghiệm
quyền năng Thiên Chúa" (Đnl 6,16) Chúa Giêsu hiểu rằng nếu Ngài làm theo
ma quỷ thì dân chúng sẽ phải sửng sốt thán phục Ngài, và chắc chắn ảnh hưởng đó
không lâu bền được. Con đường phục vụ và chịu khó dẫn đến thập giá là con đường
rất khó đi, nhưng sau thập giá sẽ có vinh quang của mão triều thiên.
"Chúa trở nên giống
như ta, là anh em Ngài, về mọi phương diện, để làm Thầy Thượng Tế nhân từ,
trung thực trước mặt Thiên Chúa, chuộc tội cho mọi người. Vì Chúa từng chịu khổ
khi đương đầu với các cơn cám dỗ, nên Ngài có thể giải cứu những người đang bị
màng lưới cám dỗ vây bọc" (Dt 3,17-18). Suy nghĩ về điểm này, thánh Gioan
Viannay phấn khởi kêu lên: "Chúng ta hạnh phúc thay! May mắn thay cho
chúng ta có Thiên Chúa làm gương mẫu! Chúng ta nghèo khổ ư? Chúng ta có một
Thiên Chúa sinh ra trong chuồng bò, nằm trong máng cỏ. Chúng ta bị khinh chê ư?
Chúng ta có một Thiên Chúa đi trước chúng ta về điểm đó, Ngài đã từng bị đội
mão gai, quấn áo đỏ để coi như một tên điên khùng. Chúng ta bị đối xử tồi tệ và
đánh đập tàn nhẫn ư? Chúng ta có một Thiên Chúa, đứng trước ta, mình đầy vết thương,
chết giữa những khổ hình mà ta không thể tưởng tượng ra. Chúng ta chịu bách hại
sao? Này, sao mà dám phàn nàn khi ta có một Chúa chịu chết vì tay các lý hình.
Cuối cùng, chúng ta đau khổ vì bị cám dỗ sao? Chúng ta có một Chúa Cứu Thế đáng
yêu cũng bị ma quỷ cám dỗ, hai lần bị các thần dữ mang đi này, và trong tất cả
các khổ đau, quyến rũ và cám dỗ mà chúng ta gặp phải, chúng ta luôn có Chúa đi
trước chúng ta, bảo đảm cho chúng ta toàn thắng miễn là chúng ta muốn
thật" (Curé d'Ars).
Như thế Chúa dạy không
ai tránh khỏi cám dỗ, Chúa chỉ cách thắng vượt, khuyến khích ta tin cậy vào
lòng thương xót, vì chính Ngài cũng bị cám dỗ như ta.
17. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
CHÚA GIÊSU CHỊU CÁM DỖ
Trong khi đem bản gia
phả vào đây, Luca có nguy cơ phá vỡ mối liên kết nền tảng mà truyền thống đã
thiết lập giữa phép rửa và cơn cám dỗ. Như thế ông nhắc lại cảnh này khi nói
tới việc Chúa Giêsu đến từ bờ sông Giođan và ông bày tỏ mối dây liên kết giữa
bản gia phả và sự hiển linh sau khi chịu phép rửa, chính trong tư cách là Con
Thiên Chúa và đầy tràn Thần Khí thánh mà Chúa Giêsu sắp chịu thử thách. Người
được dẫn vào sa mạc, địa điểm mơ hồ này nơi mà, theo Kinh Thánh, con người có
thể có kinh nghiệm về sức mạnh của tà thần hay đi vào mối hiệp thông với Thiên
Chúa hằng sống.
Luca mượn từ tài liệu
"Nguồn các lời" một sắc thái Kitô giáo về Chúa Kitô được cấu trúc
bằng ba lời trích dẫn mà ông chọn lựa cẩn thận từ sách Đệ nhị luật, để minh hoạ
một kinh nghiệm căn bản của Chúa Giêsu. Trường hợp duy nhất trong văn chương Tin
Mừng: ở đây Chúa Giêsu chỉ tuyên bố những trích dẫn từ Cựu Ước! Con Thiên Chúa
phải trải qua ba thử thách mà dân Isaia đã chịu trong cuộc xuất hành và họ đã
sa ngã; khi lợi dụng những bài học của Đệ nhị luật nhắc nhở ta canh chừng khỏi
tái phạm những lầm lỗi tương tự. Chúa Giêsu chiến thắng địch thủ. Có vẻ như
truyền thống trình bày ba giai đoạn theo trật tự như thấy trong Matthêu: bánh
(chỉ tìm của cải vật chất), chóp đỉnh Đền Thờ (thử thách Chúa để đòi hỏi những
dấu chỉ Mêsia gây sửng sốt), vương quốc trần gian (thoả hiệp với cái ác để bảo
đảm quyền lực Mêsia). Luca sẽ đảo lộn cám dỗ thứ hai và thứ ba, để cám dỗ sau
cùng –cám dỗ quan trọng nhất- là thử Thiên Chúa được diễn ra tại Giêrusalem.
Đối thủ của Thiên Chúa
–được gọi là ma quỷ bốn lần trong bản văn này- đã ghi nhận được lời tuyên bố từ
trời. Biết rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, nó thử ngăn trở vai trò của Người
trong lịch sử cứu độ, khi bằng cách này hay cách khác mời mọc Ngài thực hiện
một Công vụ Mêsia lừng lẫy. Độc giả đừng lầm lẫn về sứ mạng đích thực của Con
Thiên Chúa, Chúa Giêsu hoàn tất lời Thiên Chúa: Ngài từ chỗ làm phép lạ để có
lợi cho cá nhân Ngài (x. Đnl 6,13 được trích ở câu 8), cũng như dùng quyền năng
Con Thiên Chúa của mình để tự bảo vệ... và quyến rũ người Do Thái bằng những
phép lạ có tính cách lừa bịp (x. Đnl 6,16 được trích dẫn ở câu 12). Thấy tên
quỷ trích Thánh Vịnh 91,11-12, độc giả cũng có thể nghĩ đến các đối thủ Do Thái
chống lại niềm tin Kitô giáo, khi họ dựa vào một số bản văn Kinh Thánh nói về
Đấng Mêsia hoàng vương để từ chối Đấng bị đóng đinh đã sống lại.
Như vậy cả ba lần, sự
trung thành của Chúa Giêsu đối với Thiên Chúa và đối với chương trình cứu độ đã
bị thử thách. Thử thách chót chính là ... thử Chúa bắt Chúa phải ra tay. Đó là
lỗi của Israel trong sa mạc, khi họ đòi một phép lạ bằng những lời này;
"Chúa có ở với chúng ta hay không?" (Xh 17,7). Còn Chúa Giêsu, Ngài
từ chối bắt Thiên Chúa phải can thiệp; Ngài không đòi phép lạ để cứu mạng mình.
Ngài cũng sẽ không xin điều đó khi Ngài ở trên thập giá (23,35).
Bởi vì Luca đã thấy rõ
cuộc khổ nạn. Trái với kết cuộc có hậu của Mt 4.11, khi Satan bỏ đi, Chúa Giêsu
được các sứ thần phục vụ (x. Mc 1,13), tác giả Luca lại hướng chú ý về ma quỷ.
Khi chống lại một cách vô ích quan niệm của Chúa Giêsu về sứ mệnh Mêsia của
Ngài, quỷ đã thua một trận đánh, nhưng không phải là toàn bộ cuộc chiến và nói
rời xa Ngài cho đến giờ H –giờ khổ nạn, mà dưới mắt của Luca nó là nhân vật
chính và giấu mặt (22,3.31.53). Đối với Luca, những cơn cám dỗ đó là thử thách
đầu tiên của một cuộc chiến sẽ kết thúc trên thập giá... và ở ngoài ngôi mộ
Phục Sinh!
Sự chống đối giữa ma quỷ
và Con Thiên Chúa là một thực tại: nó sẽ đưa Ngài đến cái chết. Khi thuật lại
giáo huấn này về Đức Giêsu, Luca biết rằng ông diễn tả bằng hình ảnh. Chẳng
hạn, phải chăng ông đã không loại bỏ ngọn núi rất cao từ đó người ta có thấy
tất cả các nước trong thiên hạ –một cách diễn tả quen thuộc của Do Thái giáo,
nhưng có thể người h luật pháp lại không hiểu nổi? Ông viết "trong giây
lát" (c.5): bản âm không gian được thay thế bằng một ghi chú về thời gian!
Người ta sẽ hỏi đâu là
nền tảng lịch sử của cảnh khai mạc này mà Luca đã có được? Bên cạnh một biến cố
đúng thời gian, ta phải kể đến việc Chúa Giêsu sống ẩn dật trong một nơi không
rõ ràng gọi là sa mạc, sau khi chịu phép rửa, với một thực tại kép: các cơn cám
dỗ dĩ nhiên rồi, đặc biệt là cơn cám dỗ về một sự vụ Mêsia trần tục, những cám
dỗ ấy là một chiều kích thường xuyên trong sứ vụ của Đức Giêsu; nhưng cũng cả
việc Chúa Giêsu từ chối thuận theo cám dỗ nữa. Có những dấu vết chính xác về
các cám dỗ ấy trong một tác phẩm của Luca (Lc 10,25; 11,6tt; 22,42...), và đã
trở thành hiển nhiên: Chúa Giêsu là một Mêsia bị lột trần và đau khổ. Các môn
đệ là chứng nhân và sứ mạng mà Ngài đã lãnh nhận. Các độc giả của Luca phải
hiểu rằng không dễ dàng để hiểu Ngài.
Một lần nữa, thử thách
theo đuổi suốt cuộc đời Chúa Giêsu không phải là tội. Như tất cả mọi người, Con
Thiên Chúa đã kinh nghiệm câu châm ngôn này của Kinh Thánh: "Con ơi! Nếu
con muốn phụng sự Chúa, con hãy chuẩn bị tâm hồn để chịu thử thách" (Ch
2,1).
18. Chú giải của
Noel Quesson
Sau khi chịu phép rửa,
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần. Từ sông Giođan trở về và được Thánh Thần dẫn đi
trong hoang địa.
Đức Giêsu vừa thay đổi
cuộc sống. Đối với Người đó là một khúc quanh quyết định. Cách đây chỉ có vài
ngày, Người vẫn còn là anh thợ mộc thôn làng, ở Nadarét. Người vừa nhận phép
rửa ở sông Giođan "nhận chức" tác vụ làm ngôn sứ. Người được tràn đầy
Thánh Thần? Trước khi bắt đầu tác vụ, Người cảm thấy cần phải một mình lui vào
hoang địa. Người muốn cầu nguyện, suy nghĩ chọn những phương thế sẽ sử dụng để
hoàn thành công trình của mình.
Không có một công trình
lớn lao nào của con người, hay cuộc sống thiêng liêng thực sự nào, mà không cần
thời gian suy nghĩ, cô tịch và im lặng nội tâm. Trong Mùa Chay đang bắt đầu,
tôi có dành mỗi ngày vài phút, hay mỗi tuần vài khắc đồng hồ cho việc này? Để
cầu nguyện suy nghĩ, và thấy rõ hơn không?
Tôi dùng tưởng tượng,
ngắm nhìn Đức Giêsu đang rời làng mạc đông dân cư, đi sâu vào những vùng đất
sỏi đá không người, không cây cỏ, không nước. Người bước đi bước tới. Lạy Chúa,
còn con có dám đi theo Chúa không, để có một thời gian trong "hoang
địa"?
Tại đây Chúa bị cám dỗ
trong 40 ngày.
Theo Luca, cơn "cám
dỗ" mà Đức Giêsu đương đầu, kéo dài trong suốt thời gian 40 ngày. Người ở
nơi hoang địa. Thời gian cầu nguyện, cũng là thời gian "thử thách".
Chữ này nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của cơn cám dỗ. Tự thử thách chính
mình đó là xem mình có thể làm được những gì và "đưa ra bằng chứng về
chính mình". Trắc nghiệm một cỗ máy, đó là thử xem giá trị thực sự của nó.
Sự "thử thách", theo nghĩa này, là một điều rất tốt. Một mối tình
được thử thách, đó là mối tình luôn bền vững và hiện giờ ta vẫn có thể chắc
chắn về sự bền vững đó. Khi bảo chúng ta xin Thiên Chúa "đừng để chúng con
xa trước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" Đức Giêsu không muốn
nói là chúng ta sẽ không bị cám dỗ, nhưng ta phải chiến thắng cám dỗ, không bị
nó đè bẹp, bị bại trận, thì sự dữ ngự trị. Nhờ khắc khổ, Đức Giêsu đã có kinh
nghiệm về lợi ích của thử thách. Vì thử thách có thể làm tình yêu lớn lên:
Những cám dỗ Người chịu, sẽ làm nổi bật giá trị lòng "trung tín" của
Người đối với Chúa Cha.
Trong những ngày ấy,
Người không ăn gì và khi hết thời gian đó thì Người thấy đói.
Tôi ngưng một lát để
chiêm ngắm cảnh này: Đức Giêsu đang đau khổ vì đói! Bao tử co thắt - chóng mặt,
nhức đầu.
Đa số các tôn giáo lớn,
đều có việc thực hành "chay tịnh" tự nguyện như thế! Nền văn minh
hiện đại của chúng ta, có lẽ là nền văn minh duy nhất trong lịch sử, khước từ
kinh nghiệm tôn giáo phổ quát này. Ta thường nói, cần phải hưởng thụ. Tại sao
phải nín nhịn? Khi một người ít buông thả trong phạm vi tình dục hay ăn uống,
họ có nguy cơ mất đi một điều cốt yếu: "Sự tự chủ". Lúc đó, con người
trở thành một sinh vật rất mềm yếu, không ý chí, nô lệ cho những bản năng sơ
đẳng nhất. Ở đây, Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hình ảnh một con người mạnh, có
thể quên mình, "ăn chay" tự nguyện. Tôi có biết từ bỏ, hy sinh trong
Mùa Chay này không?
1. Cơn cám dỗ thứ nhất.
Bấy giờ quỷ nói với
Người: "Nếu ông là con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hoá bánh
đi".
Cơn cám dỗ vì cái đói,
đã là sự thử thách của Israel trong hoang địa. Nhưng cơn cám dỗ để thoả mãn cái
đói của chúng ta, là sự thử thách của mọi người. Chúng ta biết rõ những khao
khát thể xác của mình. Thiên Chúa đã đặt chúng trong ta, nhưng chúng ta có thể
dễ "lệch lạc", trở thành độc tài yêu sách. Xã hội tiêu thụ quanh ta
lại càng tăng thêm quyền lực cho chúng: "Hãy mua món ragu, mì sợi Ý. Thế
giới phương Tây, nói chung, quá dư thừa thực phẩm. Những y sĩ thường cảnh giác
điều đó.
Đức Giêsu đáp lại:
"Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơn bánh".
"Con người".
Lạy Chúa Giêsu, con thích nghe lời này từ miệng Chúa. Con người, đó là nỗi đam
mê của Chúa. Chúa đã đến trong nhân loại để phát huy giá trị của con người
trong mọi chiều kích. Chúa lặp lại cho chúng con hôm nay: Hỡi con người, đừng
sống chỉ nhờ cơm bánh! Đừng hạ thấp mình xuống mức độ sơ đẳng nhất. Người không
có nhu cầu nào khác hơn là ăn, uống hút xách... sao?
Trong Mùa Chay này,
chúng ta có biết phát triển những giá trị tâm linh của mình không? Chúng ta có
biết cầu nguyện đón thận những thiếu sót khắc khổ, giúp mình thêm sinh khí
không?
2. Cám dỗ thứ hai.
Quỷ đem Đức Giêsu lên
cao và trong giây lát chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ. Rồi nó nói
với Người: "Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc
của các nước này, vì quyền hành ấy đã được giao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ
ý. Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông".
Rõ ràng, trình thuật này
không phải là một "phóng sự" của một nhà báo mô tả hay quay phim một
biến cố. Đây là một trang thần học tóm kết và tổng hợp cách tượng trưng
"tất cả những hình thức cám dỗ" (Lu ca sẽ nói rõ điều đó khi kết thúc
trình thuật của ông) mà Đức Giêsu đã gặp "thực sự" suốt cuộc đời của
Ngài. Chẳng hạn, rõ ràng là cơn cám dỗ thứ hai này, cám dỗ để được "quyền
hành thế gian", đã không ngớt tấn công Đức Giêsu. Hằng ngày, Ngài đã phải
đẩy lui cơn cám dỗ "cứu thế nhất thời" mà người đương thời đã muốn
lôi kéo Người bước vào: Một Đấng cứu thế có tính chính trị, một ông "vua
của thế gian" này theo kiểu vua Đavít cầm đầu, cùng với Nhóm quá khích để
chống lại quyền hành và vinh quang, chống lại quân Rôma xâm lược (Ga 6,15).
Ngay từ ngày đầu tiên này, tại hoang địa, cho tới hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu
đã khước từ vương quyền để làm người "nghèo hèn" "người tôi
tớ" (Ga 13,1-20). Đức Giêsu đã có thể trở nên giàu có và quyền thế nhưng
Người đã chấp nhận "yếu đuối" (1 Cr 1,27), khi chọn thập giá là
"điều ô nhục đối với người Do Thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại".
Cơn cám dỗ về "quyền hành" cũng là cơn cám dỗ của chúng ta: Muốn
thống trị áp đặt, và lợi dụng.
Đức Giêsu đáp lại:
"Đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi,
và phải thờ phượng một mình Người mà thôi". (Đnl 6,13)
Chống lại những cuộc tấn
công của xatan, Đức Giêsu trả lời 3 lần bằng Kinh Thánh (Đnl 8,3-6,13-6,16), vì
đó cũng chính là những cơn cám dỗ mà dân Chúa đã gặp nơi hoang địa trong
"40 năm", và giờ đây Đức Giêsu cũng đang sống lại trong bản thân
Người: Đó là cơn cám dỗ về mana (Xh 16), cám dỗ thờ ngẫu thần và con bò vàng
(Xh 32-42), cám dỗ làm những dấu lạ (Xh 17). Cơn cám dỗ của Israel cũng là cơn
cám dỗ của Đức Giêsu, của toàn thể nhân loại, của chúng ta. Nghi ngờ Thiên
Chúa, vì người không tỏ hiện, để tin những gì khác".
Câu trả lời của Đức
Giêsu là "không có gì hơn Thiên Chúa". Lạy Chúa Giêsu, theo chân
Chúa, con không muốn thờ lạy và tin tưởng ở tiền bạc, lạc thú, quyền hành,
"những ý thức hệ chính trị", những tiến bộ hay thời trang. Con chỉ
phục bái "trước mặt Chúa". Cái tạm thời không phải là xấu. Nhưng biến
nó trở nên "tuyệt đối", là một ảo tưởng bi thảm. Đức Giêsu là Đấng
giải thoát chúng ta khỏi những "thần giả hiệu" đang gạt gẫm chúng ta.
3. Cơn cám dỗ thứ ba.
Quỷ đem Đức Giêsu đến
Giêrusalem và đặt Người lên nóc đền thờ rồi nói với Người: "Nếu ông là con
Thiên Chúa thì đứng dậy, mà gieo mình xuống đi! Vì có lời phép rằng: Thiên Chúa
sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá". (Tv 91,11-12)
Đó là cơn cám dỗ lớn và
liên tục mà người ta đã đặt ra trước Đức Giêsu suốt đời sống công khai của
Người: hãy làm phép lạ đi - Hãy cho chúng tôi một dấu chỉ trên trời. Hãy chứng
minh rằng ông là Thiên Chúa. Hãy biểu lộ quyền hành của ông bằng phép lạ, chứng
minh rằng ông là Đấng Cứu 'Thế chúng tôi đang mong đợi. Hãy bước xuống khỏi
thập giá đi? (Lc 11,29-11,16-21,7; Ga 91,28-6,30-12,37; Mt 27,42-43). Còn chúng
ta, chúng ta cũng luôn đòi hỏi những điều đó với Chúa sao?
Luca đã đặt cơn cám dỗ
này, cám dỗ nơi đền thờ Giêrusalem xuống hàng thứ ba (còn đối với Matthêu, đó
là cám dỗ thứ hai 4,5). Làm như thế, Luca mới nhấn mạnh đến sự tiệm tiến. Thực
vậy, chính tại Giêrusalem, Đức Giêsu đã trải qua cơn thử thách lớn nhất của
Người. Đó là cơn cám dỗ bi thiết, muốn cho Người khỏi phải chết: "Nếu có
thể được, xin tha cho con khỏi uống chén này" (Lc 22,42). Đức Giêsu đã
không được thiên thần "bảo vệ". Đó là cơn cám dỗ bi thảm nhất: trong
đau khổ; mất niềm tin nơi Chúa Cha. Đức Giêsu đã không được bảo vệ, chân của
Người đã vấp phải đá đường. Người đã không bao giờ dùng quyền năng thần linh
của mình để tránh sức mạnh ghê gớm của "thân phận con người phải
chết". Người đã khước từ những phương tiện "ngoạn mục" để thi
hành xứ vụ của mình, mà chỉ chọn những "phương tiện hạn hẹp". Chính
nhờ thái độ Dâng lời tuyệt đối Chúa Cha, đến nỗi có cảm tưởng bị "Chúa Cha
bỏ rơi" (Mt 27,48), mà người chứng tỏ mình là Con Một của Cha. Người sẽ
được ' "'cứu khỏi chết" nhờ sự phục sinh của mình, nhưng chỉ sau khi đã
sống trọn tình thương "cho đến tận cùng". Do đó, chúng ta chớ ngạc
nhiên khi đến lượt mình cũng cảm thấy cơn cám dỗ bi thảm này: Đó là cơn cám dỗ
nặng nhất, khi nghĩ rằng "Chúa bỏ rơi ta", cám dỗ của khuynh hướng vô
thần "nếu có một Thiên Chúa tốt lành, thì tôi đâu có gặp thử thách như
vậy! "
Chúa Giêsu đáp lại: Đã
có lời rằng: ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Chúng ta cũng thường
"thử thách Thiên Chúa". Đôi khi chúng ta buộc Chúa phải theo ý muốn
của ta: "Nếu Chúa hiện hữu, nếu con thật là con của Chúa, Chúa phải cho
con lành bệnh, hay thoát khỏi một cơn thử thách nào đó hay thành công ở một kỳ
thi nào đó. Nếu Chúa không làm như thế, thì Chúa đâu có còn quan tâm tới con
nữa, và Chúa đâu còn hiện hữu gì với con". Chúng ta biết rằng, vấn đề sự
dữ trong thế gian là nguyên nhân của phần lớn những cuộc khủng hoảng tâm linh
và dẫn đến nhiều trường hợp bỏ Đức tin.
Nhưng chúng ta cũng tin
rằng, Đức Giêsu đang "ở cùng chúng ta". Đức Giêsu là người đầu tiền
đã thắng cơn cám dỗ này, và dù có bị "đóng đinh trên cây gỗ", vẫn một
lòng trung thành với Chúa Cha.
Sau khi đã xoay hết cách
để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
Như vậy những cơn cám dỗ
này, chỉ là khởi đầu. Đức Giêsu sẽ còn bị cám dỗ nữa. Và có thể nói, xatan đã
hẹn tại Giêrusalem. Nơi đó sẽ diễn ra trận đụng độ thực sự khi Đức Giêsu bước
vào cuộc thương khó (Lc 22,3).
19. Trong sa mạc
- R. Gutzwiller
Do Thần trí Thiên Chúa
thúc đẩy, Chúa Giêsu đi vào sa mạc. Sự sung mãn tinh thần cùng với việc đối
thoại thân mật với Chúa Cha chiếm hữu Ngài mãnh liệt đến độ Ngài không còn
tưởng nghĩ đến những nhu cầu vật chất nữa, dường như Ngài xuất thần, sống trong
một thế giới khác.
Rồi bốn mươi ngày trong
trạng thái xuất thần ấy qua đi, nhường chỗ cho những nhu cầu của con người,
khiến Ngài cảm thấy cơn đói mãnh liệt. Tiếp theo ánh sáng từ trên cao là những
u ám dưới đất; sau sự tràn đầy Thiên Chúa đến cơn cám dỗ của Satan vây bọc.
Càng là bậc thần bí
chiêm niệm, càng là Đấng thánh thiện, thì lại càng hay bị Satan bủa vây, công
hãm; những vị sống ở mức độ thánh thiện cao thì đồng thời cũng có nguy cơ liều
mình sa xuống vực thẳm. Chúa Giêsu đã được nâng cao hơn ai hết: cho nên không
ai bị Satan cám dỗ bằng Ngài.
Đây Ngài sắp bị kẻ địch
mở ba mũi dùi tấn công:
Cám dỗ thứ nhất muốn nói
đến cách sử dụng sai lầm quyền năng Thiên Chúa để phục vụ cho một lợi ích thế
trần. Chúa Giêsu cũng có thể làm giảm cơn đói đang hoành hành nơi bản thân
Ngài, điều đó có thể lắm chứ! Thế nhưng Ngài đã trả lời: 'Người ta sống, không
phải chỉ bằng cơm bánh'.
Tinh thần hay cơm bánh,
linh hồn hay thân thể, đâu là điều quan trọng đối với Ngài? Từng thứ một luân
phiên xuất hiện trước mặt Ngài... Phần đa số nhân loại đều ao ước cả hai, nhưng
lại đặt trật tự sai lạc: tiên vàn là những gì liên quan đến thân xác, no nê,
tiện nghi đầy đủ, rồi sau đó, hay may mắn lắm là song song với nó, mới đến
những yếu tố tinh thần và thiêng liêng.
Hơn nữa, nhiều người còn
bị cái chủ hướng chỉ coi trọng vật chất. Những người này hoàn toàn chối bỏ tinh
thần và linh hồn. Duy chỉ còn tiện nghi vật chất là cứu cánh cho đời họ: 'Cơm
bánh và vui chơi'. Ngày nay xu hướng đó có một tầm ảnh hưởng đặc biệt, vì coi
kinh tế như là động lực mang tính cách quyết định, những cái còn lại chỉ là phụ
trội mà thôi.
Ngược lại, Chúa Giêsu
xác quyết chỉ tinh thần mới có giá trị tuyệt đối. Bởi vì Thiên Chúa quan trọng
hơn thế gian nhiều. Do đó, tiên vàn phải lo tìm kiếm nước của Người và mọi sự
khác sẽ đến sau. Trời quan trọng hơn đất, nên kẻ nào chỉ loay hoay với những sự
dưới đất là những người vụng về, không biết đâu là chính yếu và đâu là tuỳ phụ.
Sự vĩnh cửu đáng giá hơn thời gian, nên kẻ nào liều mạng sống mình để chiếm
được những cái chóng qua đời này, thì kể là đã đặt tất cả mọi sự trên một địa
bàn sai lạc.
Lời Chúa Giêsu trưng dẫn
lấy từ đoạn ở sách Đệ nhị luật, trong đó nói về thứ bánh Thiên Chúa ban cho dân
khi còn ở trong sa mạc, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh là Lời Sáng tạo và Thần
trí Thiên Chúa trọng hơn bội phần, đáng giá hơn thứ bánh do phép lạ Thiên Chúa
làm và càng hơn thứ bánh ta dùng thường ngày gấp ngàn vạn lần.
Chúa Giêsu không chỉ
khinh rẻ thân xác và những nhu cầu thể xác. Chúng ta sẽ thấy Ngài chữa lành
bệnh tật, làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, phục sinh kẻ chết. Xem đó thì biết
Ngài không phải là anh trí thức một chiều, chỉ chu chu chăm chắm vào những điều
thiêng liêng sáng láng, Ngài cũng chẳng phải là kẻ ngông cuồng không nhận biết
Thiên Chúa. Nhưng Ngài muốn là tinh thần và Lời của Thiên Chúa phải được đặt
vào đúng chỗ của nó, bởi vì thân thể chỉ có được ý nghĩa đúng đắn và những nhu
cầu vật chất cũng chỉ thoả mãn một cách chính đáng khi tất cả đều diễn tiến
theo một trật tự hợp với Thánh ý Thiên Chúa, hợp với luật của Người.
Chúa Giêsu cũng sẽ sử
dụng quyền năng lạ lùng của Ngài theo lời, theo ý của Thiên Chúa chứ không theo
sở thích của lòng mình, lại càng không theo ý muốn của mình, hay sự thúc đẩy
của thân xác. Sứ vụ của Ngài là loan báo Nước Thiên Chúa. Xu hướng coi trọng
vật chất vẫn còn xung khắc với Kitô giáo.
Cám dỗ thứ hai liên quan
đến sự ham hố quyền hành. Satan chỉ cho Chúa thấy 'hết các nước thiên hạ' và
nói thêm: 'Tôi hiến cho Ngài uy quyền đó hết thảy và vinh quang của các nước
ấy, vì nó đã được phú thác cho tôi, và tôi muốn hiến cho ai tuỳ ý tôi'. Lời gì
mà lạ lùng thế! Tuy nhiên chính Chúa Giêsu đã gọi Satan là 'Thủ lĩnh thế gian
này'. Quyền lực tự nó đâu phải là cái gì xấu xa, nhưng có một chú quỉ quyền thế
chỉ lo quyến rũ những kẻ ham danh và mê thống trị. Kẻ đó không còn lo tìm Đấng
toàn năng, cũng chẳng tìm Thánh ý Thiên Chúa Tối Cao, Đấng mọi quyền hành đều
phải phụng sự Ngài.
Trái lại, họ coi quyền
hành của họ là sự thiện tuyệt đối và sử dụng tuỳ theo sở thích của họ. Kiêu
ngạo, dương dương tự đắc quá lố như vậy tất sẽ đi đến chỗ lầm đường lạc lối.
Sách Khải huyền gọi quyền thế là 'con mãnh thú vực sâu...'. Nói đúng ra, đối
với những người có địa vị, cám dỗ này còn nguy hiểm hơn cám dỗ coi vật chất là
số một, dù cám dỗ này cũng đã thật thô bỉ. Cám dỗ về ham quyền được nguỵ trang
bằng những dáng vẻ đạo đức bề ngoài, vì nó khuyến khích việc mở rộng nước Chúa
nhờ những phương tiện bên ngoài của chính trị, võ khí, tổ chức này tổ chức nọ,
tiền bạc... Thậm chí có những việc khởi đầu hoàn toàn với ý hướng ngay thẳng,
thế rồi dần dà cũng đi đến chỗ coi trọng quyền thế; tham quyền thì cố vị, và
rốt cuộc sa vào mưu mô của ma quỷ.
'Vậy nếu ông bái xuống
lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ là của ông'. Khi bái lạy quyền thế thì người ta cũng
thờ lạy Satan. Khi ham quyền và những lợi lộc do đó mà ra, thì người ta đã đang
tâm hiến mình làm nô lệ cho quyền thế.
Đó là lý do tại sao Chúa
Giêsu đã trả lời: 'Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và chỉ thờ
phượng một mình Người' Đấng Tối Cao là Đấng độc nhất mà mọi sự phải quy phục.
Đấng toàn năng là Vị Duy Nhất sở hữu và ban phát quyền năng chính đáng. Mọi thứ
quyền hành không phụng sự Thiên Chúa là một sự lạm dụng và phục vụ cho Satan,
cho dầu nó có vẻ huy hoàng rực rỡ mấy chăng nữa. Ham quyền quá đáng trao nộp
chúng ta vào tay ma quỷ. Nhưng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập Nước Thiên Chúa
thì đồng thời Ngài cũng phá tan vương quốc của kẻ thù.
Trong cái chết của Chúa
Giêsu, quyền lực âm phủ mở tiệc ăn mừng; nhưng trên thực tế, nó đã bị bẻ gãy và
tỏ ra mình yếu kém ngay tại đó. Trót cuộc sống Chúa Giêsu là một sự phục vụ
Thiên Chúa, chứ không phải phụng sự Satan. 'Ngươi phải thờ phượng một mình
Thiên Chúa'. Kẻ nào thờ lạy bất cứ cái gì khác phải kể là đã phản bội Thiên
Chúa.
Cám dỗ thứ ba nói đến
việc lạm dụng phép lạ với mục đích thoả mãn tính hiếu kỳ.
Satan đưa Chúa Giêsu,
trong Thần trí, lên chóp đỉnh đền thờ. 'Nếu Ngài là Con Thiên Chúa, thì hãy
gieo mình xuống'. Chú quỷ còn trưng dẫn Kinh Thánh nữa: 'Vì Người đã truyền cho
các thiên thần gìn giữ ông; và các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp chân
vào đá'.
Chúa Giêsu đã khởi đầu
cuộc sống công khai của mình trong đơn sơ và ẩn mặt, vì Ngài đã xen lẫn vào đám
dân chúng, và những người tội lỗi bên bờ sông Giođan. Giờ đây, cám dỗ có ý muốn
làm cho mọi chuyện xảy ra ngược lại: Ngài sẽ làm một phép lạ từ trời trước mặt
quần chúng, tỏ ra mình đặc biệt phi thường. Dân chúng đang khát khao được nhìn,
được thấy. Họ muốn thấy Ngài xuất hiện trên chín tầng mây chứ không phải như
một người trong họ, như bao nhiêu người khác.
Trong lãnh vực tôn giáo,
phép lạ vẫn luôn mang theo một sự lôi kéo mới mẻ. Người ta từ chối không muốn
phụng sự Thiên Chúa trong những khó khăn của cuộc sống thường nhật và không
muốn theo Thánh ý Người trong cuộc sống bình thường. Họ muốn có những chuyện lạ
lùng bên ngoài, bên trong cũng được. Nhất là cảm nghiệm trong việc cầu nguyện
thần bí.
Những chuyện Đức Mẹ hiện
ra. Vị này vị nọ được in năm dấu Thánh, có sức lôi kéo họ đi hành hương bất
chấp xa xôi vất vả và họ coi là có giá trị hơn là chấp nhận Lời Chúa và Thánh ý
Người bằng niềm tin cùng với tấm lòng đơn sơ chân thành. Thánh ý mà Chúa tỏ bày
qua những hy sinh trong chức nghiệp bổn phận trong gia đình, những thánh giá
hằng ngày mà ít ai để ý, cũng chẳng ai tỏ vẻ khâm phục.
Chúa Giêsu không coi rẻ
phép lạ đâu. Chính Ngài sẽ thực hiện những phép lạ, nhưng không phải để thoả
mãn những thèm khát của đại chúng hoặc để cho tôn giáo có tính chất ngoại lệ
đặc biệt, một chỉ để vâng phục Thánh ý Thiên Chúa, Cha của Ngài trên trời, và
do đó chứng mình rằng mình nhận lãnh sứ vụ từ nơi Chúa Cha. Tất cả những gì
ngoài mục đích đó đều được coi là thử thách Cha Ngài, là có ý bắt Thiên Chúa
làm những phép lạ không cần thiết, cũng không theo lệnh, chẳng theo ý của
Người.
Vì đó, Chúa Giêsu trả
lời: 'Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi'.
Đó là cám dỗ chống lại
Thiên Chúa cao trọng, chống lại Thần trí, ý muốn và quyền năng của Người. Chúa
Giêsu lướt thắng Satan nhờ Thiên Chúa và phá tan mưu chước bằng cách chạy đến
Thiên Chúa. Cũng thế, con người không thể đứng vững trước những cơn thử thách
nhờ vào sức riêng của mình được. Đứng giữa Thiên Chúa và ma quỷ, con người chỉ
có thể vượt thắng được ma quỷ nhờ sự trợ lực của Thiên Chúa. Không thể có
chuyện trung lập hay lẩn tránh. Người ta chỉ có thể xa lánh Satan khi quay
hướng về Thiên Chúa, làm như vậy thì người ta cũng xa tránh được mưu chước cám
dỗ của Satan.
Bây giờ đây, thời gian
chuẩn bị cho cuộc đời công khai của Chúa Giêsu đã chấm dứt. Được Thiên Chúa uỷ
phái, nhưng Ngài lại ở giữa loài người. Sinh bởi Thiên Chúa, tuy nhiên cũng là
con loài người, Ngài được đầy tràn Thần khí Thiên Chúa và sẽ chiến đấu với Thần
trí Satan. Thánh ý Thiên Chúa cũng là lề luật của Ngài, nước Thiên Chúa là bổn
phận của Ngài, tất cả những gì thuộc về ma quỷ là thù địch của Ngài. Ngài sẽ
xây dựng nước Thiên Chúa và sẽ huỷ diệt vương quốc của Satan.
Sau phần mở đầu uy hùng
và bi tráng này, thái độ mâu thuẫn giữa sức lực trên cao và quyền năng dưới thế
sắp bắt đầu công cuộc hành động của Ngài trên dân chúng.
20. Phương cách
ma quỉ dùng để cám dỗ ta - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi câu cá, để câu
được nhiều cá, ta phải dùng những thứ mồi thật ngon, những thứ mà cá ưa thích
nhất. Để cám dỗ ta một cách hữu hiệu, ma quỉ dùng những loại mồi nào? Có phải
là chính những nhu cầu cấp thiết nhất của ta, những điều ta ham muốn nhất
không?
2. Khi bị cám dỗ ta
thường phải lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, hay giữa điều thật tốt và điều
ít tốt hơn?
3. Bạn có nghĩ rằng bị
cám dỗ là một dịp tốt để ta chứng tỏ và củng cố tình yêu của ta đối với Thiên
Chúa và tha nhân không?
Suy tư gợi ý:
1. Ma quỉ dùng chính
những nhu cầu cấp thiết nhất của ta để cám dỗ ta
Đức Giêsu là con người,
nên có những nhu cầu tự nhiên về tâm linh, tâm lý và thể lý y như mọi người.
Thoả mãn những nhu cầu tự nhiên, tự bản chất, là điều chính đáng, vì chính
Thiên Chúa đã dựng nên con người có những nhu cầu tự nhiên đó. Chẳng hạn, về
thể chất, ăn khi đói, uống khi khát là điều chính đáng. Về tâm lý, mong được
mọi người yêu thương, kính phục cũng là điều chính đáng. Nhưng có những trường
hợp thoả mãn những nhu cầu tự nhiên ấy lại trở thành tội lỗi, sai trái, hay ít
nhất là làm ta bớt hoàn hảo, kém giá trị. Đó là khi để thoả mãn những nhu cầu
tự nhiên ấy, người ta phải lỗi một bổn phận quan trọng hơn, hoặc phải làm một
điều trái đạo, đi ngược với lương tâm hay những nguyên tắc đạo đức...
Ma quỷ thường dùng những
nhu cầu chính đáng nhất của con người để cám dỗ họ, đưa họ vào con đường tội
lỗi. Thật vậy, biết bao người đã vì miếng ăn, vì những nhu cầu rất chính đáng
về vật chất hay tinh thần, mà phải bán rẻ lương tâm, chấp nhận làm những điều
sai trái hay tội lỗi.
Khi Đức Giêsu đã nhịn
đói nhiều ngày, giả như Ngài có làm phép lạ để biến đá thành bánh mà ăn thì tự
bản thân việc ấy chẳng có gì là xấu hay sai trái, mà còn là một việc chính đáng
nữa. Vì con người có bổn phận phải lo cho sức khoẻ hay bảo vệ mạng sống mình.
Nhưng nếu Ngài đã quyết định ăn lại vào một thời điểm nào đó, nhưng chỉ vì đói
mà Ngài lại chiều theo cơn cám dỗ để ăn sớm hơn, thì Ngài đã lỗi với chính
quyết định của mình. Nếu làm thế, Ngài tỏ ra thiếu tự chủ và chưa phải là người
hoàn hảo. Nhưng trong thực tế, Ngài đã không chiều theo cơn cám dỗ.
2. Giữa hai điều tốt, ma
quỉ cám dỗ ta chọn điều ít tốt hơn
Nếu phải lựa chọn giữa
một điều tốt và một điều xấu, thì sự lựa chọn tương đối dễ dàng, vì sự việc quá
rõ ràng. Khi ta mới bắt đầu bước vào đời sống tu thân, ta thường phải lựa chọn
kiểu này. Nhưng khi đã tiến triển trên con đường tu thân, nhiều khi ma quỷ cám
dỗ ta một cách rất tế nhị. Nó khiến ta phải chọn lựa một trong hai điều tốt, và
ta phải cân nhắc để làm điều tốt hơn, có giá trị lớn hơn. Chính cách lựa chọn
này chứng tỏ ta yêu mến Thiên Chúa, quí trọng sự thiện tới mức nào. Nếu ta
chiều theo cơn cám dỗ chọn cái ít giá trị hơn, cái ít tốt hơn, điều đó chứng tỏ
ta thiếu quảng đại và còn nhiều ích kỷ.
Chẳng hạn, có những
trường hợp ta phải chọn lựa giữa sự an toàn của bản thân ta với sự an toàn của
cả gia đình. Giữa sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội ta với sự tồn tại và
phát triển của cả đất nước. Giữa hạnh phúc của gia đình ta với hạnh phúc của cả
xã hội. Giữa chất lượng với số lượng. Giữa sự sự tốt đẹp có thực bên trong và
hình thức giả dối bên ngoài. Giữa ý muốn tốt lành của ta với ý muốn của Thiên
Chúa. Giữa việc của Thiên Chúa với chính Thiên Chúa... Tất cả những đối tượng
phải lựa chọn đều là điều tốt, nhưng nhiều khi ta không thể chọn cả hai, mà chỉ
có thể chọn một trong hai. Chỉ khi ấy, cách lựa chọn của ta mới chứng minh được
ta quí trọng cái nào hơn, và ta sẵn sàng hy sinh cái nào cho cái nào. Trước sự
lựa chọn này, ta thường bị cám dỗ đặt nặng cái riêng hơn cái chung, bản thân ta
hơn cả gia đình, gia đình ta hơn cả xã hội, Giáo Hội ta hơn cả thế giới, cái
bên ngoài hơn cái bên trong, số lượng hơn chất lượng, ý riêng ta hơn ý Thiên
Chúa...
Rất nhiều khi sự lựa
chọn sai lầm của ta trở thành một tội ác. Chẳng hạn có nhiều người đã trở thành
phản quốc chỉ vì thương gia đình mình hơn thương cả quốc gia, nên đã hy sinh
quyền lợi của cả quốc gia cho quyền lợi của gia đình mình. Có những chức sắc
tôn giáo đặt nặng sự phát triển của các giáo hữu trong địa hạt mình hơn cả sự
tồn tại và phát triển của cả đất nước. Có những vị lãnh đạo quốc gia coi sự
phát triển của đất nước mình trọng hơn sự an nguy của cả thế giới...
3. Ma quỷ cám dỗ ta chấp
nhận điều xấu để thực hiện điều tốt
Cám dỗ thứ hai của Đức
Giêsu là cám dỗ về quyền lực và vinh hoa phú quý. Quyền lực tự bản thân nó là
một điều tốt, thậm chí rất cần thiết để phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu và
qui mô. Tuy nhiên, quyền lực vẫn là con dao hai lưỡi, nó cũng có thể khiến ta
hại tha nhân một cách hữu hiệu và trầm trọng hơn. Vinh hoa phú quý tự bản thân
cũng là những điều tốt, đáng ao ước, vì nó làm cho đời sống con người hạnh phúc
hơn, sống xứng với phẩm giá con người hơn. Thánh Kinh vẫn coi sự giàu sang phú
quý là những ơn lành Chúa ban để ân thưởng những người tốt lành (x. Đnl 8,18;
1V 3,13; 2Sb 1,12). Nhưng vinh hoa phú quí có thể làm ta mờ mắt, khiến ta chấp
nhận tội ác để đạt nó cho bằng được.
Nếu người ta đạt được
quyền lực hay vinh hoa phú quý một cách chính đáng do tài năng và đức độ của
mình, thì quyền lực hay vinh hoa phú quý ấy quả là điều tốt lành rất đáng mong
ước. Nhưng chính vì nhiều người mong ước nó, nên ma quỷ đã dùng nó làm bẫy để
giết linh hồn những ai quá ham nó.
Khi ma quỷ cám dỗ Đức
Giêsu lần thứ hai, nó hứa sẽ ban cho Ngài quyền lực và vinh hoa phú quý, với
điều kiện là phải bái lạy, tùng phục nó. Ma quỷ vẫn dùng chiến thuật này đối
với những kẻ giầu tham vọng, muốn nắm giữ quyền lực và ham sống giàu sang phú
quý, ở ngoài đời cũng như trong Giáo Hội. Nhiều người sẵn sàng bán lương tâm
của mình để có địa vị cao sang ngoài xã hội hay trong Giáo Hội. Trong những chế
độ độc tài, nhiều chức sắc tôn giáo đã đồng ý thực hiện một yêu cầu nào đó của
nhà cầm quyền, bất chấp điều đó đi ngược lại lương tâm mình, để được họ ban cho
những điều kiện thăng tiến bản thân, hầu dễ dàng ngoi lên những địa vị cao
trong tôn giáo mình. Có khi điều kiện ấy chỉ là chấp nhận im lặng, làm ngơ, bỏ qua,
không lên tiếng, không phản ứng gì để kẻ có quyền có thể tự do thao túng, làm
hại công ích hay đi ngược lại quyền lợi người dân. Như vậy, rất nhiều khi ma
quỷ dùng những khát vọng chính đáng của con người để cám dỗ con người.
4. Ma quỷ cám dỗ ta tập
trung vào «cái tôi» của mình
Lần cám dỗ thứ nhất và
thứ ba, ma quỷ nói với Đức Giêsu: «Nếu ông là Con Thiên Chúa... thì...». Ma quỉ
muốn lợi dụng nhu cầu thể hiện hay xác định bản thân mình (affirmation de soi),
nhu cầu biểu lộ «cái tôi» của mình để cám dỗ con người. Đây là nhu cầu rất tự
nhiên, tốt đẹp và cần thiết để con người vui sống và có hứng thú thăng tiến bản
thân, đồng thời làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa. Nhưng khi vượt quá giới hạn
hợp lý, con người trở thành khoe khoang, kiêu căng, tự mãn, đáng ghét, do muốn
đưa «cái tôi» của mình lên và hạ thấp «cái tôi» của người khác xuống. Con người
đã từng gây bao tội ác, bao phức tạp, bao đau khổ cho mình và cho người chính
vì sa chước cám dỗ về nhu cầu xác định «cái tôi» này. Như vậy, ma quỷ dùng
chính nhu cầu tâm lý quan trọng nhất của con người để cám dỗ con người chỉ tập
trung vào chính mình hầu xa rời Thiên Chúa và tha nhân.
Để câu một con cá, để
nhử một con thú vào bẫy, ta phải chọn mồi đúng với nhu cầu và sở thích của con
vật mà ta muốn bẫy. Cũng vậy, để làm ta sa bẫy, ma quỉ cũng dùng chính những gì
ta cần, ta ham muốn, thường là những gì rất tốt đẹp, rất có giá trị. Vì thế,
chúng ta cần phải cảnh giác với chính những nhu cầu, sở thích của mình, nhất là
những tham vọng hay những gì mà ta mong muốn hay ưa thích nhất. Khi ta đặt nặng
những nhu cầu, sở thích hay tham vọng của ta hơn thánh ý của Thiên Chúa, hơn
những chuẩn mực đạo đức, là ma quỉ sẽ dùng chính những thứ đó để dẫn ta xa rời
Thiên Chúa, và dần dà đưa ta vào con đường tội lỗi. Vậy, hãy tỉnh thức và đề
phòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, khi ma quỷ cám
dỗ, nó cũng dùng chính lời Kinh Thánh để làm con lầm tưởng điều nó muốn con làm
là điều tốt, là hợp với thánh ý của Cha. Nó luôn luôn dùng điều tốt để nhử con,
và dùng những cách nguỵ biện để giải thích lời của Cha, hầu đưa con vào bẫy của
nó. Xin giúp con khôn ngoan, tỉnh thức và thêm sức mạnh cho con khi bị cám dỗ.
Nhưng cũng cho con nhìn thấy khía cạnh tích cực của cám dỗ. Chính Cha cho phép
ma quỉ cám dỗ con trong mức độ con có thể chiến thắng, để con có dịp chứng tỏ
và củng cố tình yêu của con đối với Cha và đối với tha nhân
21. Satan
Qua báo chí cũng như qua
những câu chuyện thường ngày, chúng ta thấy xã hội loài người đầy dẫy những tội
ác và bất công, nào là tham nhũng hối lộ, nào là cướp của giết người, nào là
cao bồi du đãng, nào là rượu chè cờ bạc, nào là xì ke ma tuý, nào là ly dị phá
thai...
Nếu hỏi tại sao lại có
tình trạng bi đát ấy, người ta sẽ không ngần ngại đưa ra những lý do về xã hội,
về kinh tế, về giáo dục...Tuy nhiên, có người lại bảo đó là kết quả những việc
làm của ma quỷ.
Nghe qua câu trả lời này
chúng ta mỉm cười, vì ma quỉ hiện giờ là một cái gì xa lạ đối với não trạng và
sự suy tư của con người thời nay. Vậy thì ma quỉ là như thế nào?
Nói tới ma quỉ hay Satan
chúng ta liên tưởng tới những hình vẽ, những bức tượng thời Trung cổ, vừa có
sừng lại vừa có đuôi, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, luôn ám hại chúng ta. Nó có
thể dùng một chiếc đũa thần làm cho chúng ta trở nên xinh đẹp, hay biến chúng
ta trở thành một nhà triệu phú, miễn là chúng ta bán linh hồn cho nó, miễn là
chúng ta thờ lạy nó.
Đối với chúng ta ngày
nay, những hình ảnh đó không còn thích hợp nữa. Ma quỉ dần dần mất đi vai trò
và sự quan trọng trong cuộc sống. Phải chăng đó cũng là điều nó mong muốn?
Chính trong sự lãng quên này mà nó ra tay hành động, làm đảo lộn trật tự và bậc
thang giá trị.
Người xưa người ta
thường khuyên nhủ:
- Ai không để tâm tới
Thiên Chúa, thì ít nữa đừng làm lợi cho ma quỉ.
Thế nhưng, con người
thời nay đã thay đổi câu nói trên:
- Ai không để tâm tới ma
quỉ thì ít nữa đừng làm lợi cho Thiên Chúa.
Trong Phúc âm thì khác,
Chúa Giêsu đã đặt nặng vấn đề ma quỉ, Ngài gọi nó là chủ của trần gian. Hơn thế
nữa, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, mặc dù không thể sa ngã, nhưng Ngài đã để cho
ma quỉ cám dỗ, nhờ đó Ngài chia sẻ thân phận yếu đưới với con người, và vạch
trần chiến thuật tinh vi của ma quỷ.
Cám dỗ thứ nhất, đó là
nhu cầu vật chất. Ma quỉ lợi dụng cái đói tự nhiên để cám dỗ Chúa, bởi vì bụng
đói thì đầu gối phải bò, có thực mới vực được đạo...Nó cũng hứa "cơm áo
gạo tiền" cùng với những tiện nghi vật chất cho chúng ta, để rồi chúng ta
quên mất lý tưởng theo đuổi và chối bỏ đức tin của mình.
Cám dỗ thứ hai, đó là
lòng thèm muốn vinh quang. Nhiều người dễ dàng rơi vào chiếc bẫy của nó. Vì một
chút địa vị, vì một chút quyền bính mà người ta sẽ dễ dàng bán Chúa như Giuđa
và chối Chúa như Phêrô,
Cám dỗ thứ ba, đó là
tham vọng thống trị. Đối với nhiều người thời nay thì tiền bạc và chức quyền
vẫn là những cám dỗ thường xuyên, họ có thể đánh đổi tất cả miễn sao được thoả
mãn những ước vọng kể trên.
Còn một điều nữa chúng
ta cũng cần phải lưu ý: Ma quỉ thời nay không còn mặc lấy một bộ dạng xấu xa
như người ta vốn thường tưởng tượng vào thời Trung cổ. Nhưng có thể là một nhân
vật tầm vóc, với một bộ áo quần sang trọng nhưng lại chủ trương một lập trường,
một quan điểm thật nguy hại, gây chia rẽ và đổ vỡ.
Có thể là những tác phẩm
đồ sộ được in ấn một cách mỹ thuật và đẹp mắt nhưng lại chất chứa những điều
khả dĩ làm lung lạc đức tin và hoen ố tâm hồn.
Bổn phận của chúng ta là
phải vạch trần bộ mặt của ma quỷ. Bởi vì ma quỉ đang ở giữa chúng ta, ẩn núp
dưới những chiêu bài chính trị, dưới những tờ bích chương, dưới những hình ảnh
quảng cáo, dưới những chương trình truyền thanh truyền hình gây độc hại cho tâm
hồn.
Vì thế, hãy tin tưởng
vào Chúa và hãy tỉnh thức để xa tránh những mưu chước của ma quỷ, nhờ đó mà
chúng ta mới có thể bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn.
22. Nhận biết
Lần kia, một vị thầy ước
muốn được thoáng nhìn thấy tâm hồn của con người và trắc nghiệm những nhận định
của họ về chính bản thân mình. Ông mời ba người đi qua đường vào nhà ông. Quay
sang người đầu tiên, ông nói "Giả thử anh nhìn thấy một cái túi đựng đầy
những đồng tiền vàng, thì anh sẽ làm gì với cái túi đó?"
Người đàn ông trả lời:
"Tôi sẽ trả cái túi đó ngay cho người chủ của nó, tất nhiên là tôi phải
biết được ai là chủ nhân".
Vị thầy kêu lên:
"Thật là điên rồ?". Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ
hai.
Người đó đáp "Tôi
sẽ không trả lại cái túi đó cho người chủ của nó, mà bỏ ngay vào túi của tôi.
Tôi không quá ngu xuẩn đến nỗi để mặc cho thứ của cải từ trời rơi xuống đó
trượt khỏi tay tôi như vậy đâu ".
Vị thầy kêu lên:
"Đồ vô loại!". Thế rồi ông đặt cùng một câu hỏi cho người thứ ba.
Người đó đáp "Thưa
thầy, làm sao tôi có thể biết được là tôi sẽ làm gì trong trường hợp này? Liệu
tôi có khuất phục được khuynh hướng xấu xa chăng? Hoặc sự dữ sẽ nhanh chóng chế
ngự tôi, và khiến tôi cứ lấy đi thứ tài sản thuộc về người khác? Tôi không biết
nữa. Nhưng nếu có ơn Chúa ban sức mạnh cho tôi chống lại khuynh hướng xấu, thì
tôi sẽ trả số tiền đó lại cho người chủ của nó". Vị thầy kêu lên:
"Những lời nói của anh thật là hay. Quả thật anh là một con người khôn
ngoan".
Vị thầy cho rằng người
đàn ông đầu tiên là điên rồ. Tại sao? Bởi vì anh ta hoàn toàn thiếu sự nhận
biết bản thân mình. Anh ta dám cho rằng mình có đủ sức mạnh, để kháng cự lại
chước cám dỗ giữ lại món tiền. Không ai biết chắc chắn rằng mình không thể sa
ngã được. Người ta không sa ngã bởi vì yếu đuối, nhưng lại sa ngã là do họ nghĩ
rằng mình mạnh mẽ.
Vị thầy gọi người đàn
ông thứ hai là hạng vô loại, bởi vì anh ta có ý định giữ lại tài sản không phải
thuộc về mình, mà lương tâm không hề day dứt chút nào. Đối với một con người
như vậy, chước cám dỗ là một cơ hội để làm cho mình giàu có lên, bằng tài sản
của người khác.
Vị thầy khen ngợi người
đàn ông thứ ba là một con người vừa tốt bụng, vừa khôn ngoan. Đó là vì anh nhận
biết rằng mình yếu đuối giống như tất cả mọi người khác. Anh hy vọng rằng khi
đương đầu với chước cám dỗ giữ lại số tiền, thì anh sẽ có sức mạnh để làm được
điều đúng đắn. Nhưng anh biết rằng để làm được như vậy, anh cần phải có ơn Chúa
giúp, và anh chuẩn bị để tìm kiếm sự giúp đỡ đó.
Tất cả chúng ta đều yếu
đuối và dễ sa ngã. Đây có thể là một sự thật gây bối rối, nhưng trong khi liều
lĩnh, chúng ta lại không biết đến điều này. Vấn đề lớn trong thời đại của chúng
ta là chúng ta đã thất bại trong việc nhận biết chính mình, trong việc nhận ra
sự dữ và đối phó với sự dữ ở ngay trong con người mình. Tuy nhiên, khi nhận
biết và chấp nhận sự thật thấp hèn này, thì chúng ta có được một niềm an ủi và
sự tự do.
Chúng ta phải đấu tranh
chống lại sự dữ nơi những người khác và nơi xã hội. Nhưng cuộc đấu tranh gay go
nhất là chống lại sự dữ phát xuất từ ngay bên trong con người của chúng ta. Bản
chất của chúng ta là có những xung đột nội tâm cứ thúc giục chúng ta, làm cho
chúng ta luôn luôn có thể thực hiện được điều tốt lành, nhưng điều đó không bao
giờ là dễ dàng cả. Chiến thắng gay go nhất chính là chiến thắng chính bản thân
mình.
Chước cám dỗ của Đức
Giêsu không phải là đóng kịch, mà là sự thật. Những cám dỗ của Đức Giêsu là
những chước cám dỗ của các Kitô hữu thuộc tất cả mọi thời đại: sống chỉ vì vật
chất; tìm kiếm vinh quang cho bản thân mình, hơn là vinh quang cho Thiên Chúa;
và từ bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa, để tôn thờ quyền lực và sự nổi tiếng theo
thế gian.
Chiến thắng của Đức
Giêsu vượt lên trên Satan không phải là chiến thắng một lần cho tất cả. Người
đã chiến thắng một cuộc chiến đấu, chứ không phải là một cuộc chiến tranh. Còn
có những lần tấn công khác mà chúng ta cần phải cự tuyệt. Một số người cho rằng
mình sẽ đạt được một cấp độ, khi họ vượt ra ngoài chước cám dỗ. Đức Giêsu không
bao giờ đạt được một cấp độ, các thánh cũng vậy. Thiên Chúa ở với chúng ta
trong những cuộc đấu tranh của chúng ta, giúp đỡ chúng ta chế ngự nó.
Thánh Augustinô nói:
"Chính thông qua chước cám dỗ, mà chúng ta nhận biết được bản thân mình.
Chúng ta không thể chiến thắng đạt được triều thiên của mình, trừ phi chúng ta
vượt qua được chước cám dỗ đó, và chúng ta không thể vượt qua được, trừ phi
chúng ta đi vào cuộc chiến đấu, và không có cuộc chiến đấu, trừ phi chúng ta có
một kẻ thù và những chước cám dỗ mà kẻ thù đó mang lại.
23. Chú giải của
Fiches Dominicales
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN BÀNG
HÀNH ĐỘNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Liên hệ chặt chẽ với
phép rửa của Đức Giêsu
Sau trình thuật về phép
rửa, lúc tiếng nói từ trời tuyên bố: "Con là Con Cha. Hôm nay Cha đã sinh
ra Con", Luca đưa vào bản gia phả của Người, nhắc lại tổ tiên nhân loại
của Đức Giêsu cho tới "Adam, con Thiên Chúa". Cũng trong mối liên lạc
chặt chẽ với quang cảnh phép rửa là với bản gia phả mà thánh sử định vị cho
giai đoạn cám dỗ: Đức Giêsu "đầy Thánh Thần" rời bỏ "bờ sông,
Giođan"; người "được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa" - Đây
là nơi mơ hồ, nơi mà theo Kinh Thánh, con người bị thần dữ thử thách hoặc đi
vào kết hiệp với Thiên Chúa hằng sống "trong 40 ngày"
Người sẽ bị "ma quỉ
thử thách" với tư cách là Con Thiên Chúa. Ma quỉ hỏi với Người: "Nếu
ông là Con Thiên Chúa hãy truyền cho hòn đá này trở nên bánh. Nếu ông là con
Thiên chúa, hãy nhảy xuống đất".
2. Thử thách đầu tiên
trong cuộc chiến toàn thắng.
Cũng như bản văn của
Mátthêu - tuy thứ tự có khác – bản văn của Luca kết cấu chung quanh 3 cuộc cám
dỗ. Ba cuộc cám dỗ, chính Tin Mừng xác định rõ ràng ở phần kết, đã "múc
cạn" mọi hình thức cám dỗ": những cơn cám dỗ mà Đức Giêsu sẽ phải
đương đầu suốt dọc tác vụ của Người cho đến khi chết, những cơn cám dỗ mà các
môn đệ và mọi thành phần trong cộng đoàn của các ngài sẽ gặp. Ba cơn cám dỗ,
cũng như ba lời trích dẫn đã ghi chú cặn kẽ, đã được khéo léo lựa chọn từ sách
Thứ Luật (trích trong bài đọc 1 và thánh Phaolô trích dẫn trong bài đọc 2),
chính là những cơn cám dỗ mà dân Israel đã phải đương đầu, trong suốt 40 năm sa
mạc. Có điều họ đã sa ngã. Nay đến phiên Đức Giêsu phải đương đầu với những cơn
cám dỗ ấy, suốt 40 ngày trong sa mạc: Ba lần, địch thù thử thách lòng trung tín
của người Con đối với Thiên Chúa và với chương trình cứu độ của Người; trong cả
3 lần, Đức Giêsu đã chiến thắng.
Hugues Cousin nhận xét:
"Đây là trường hợp độc nhất trong văn chương Tin Mừng. Đức Giêsu chỉ nói
những lời tích từ Cựu ước, Con Thiên Chúa phải trải qua 3 cuộc thử thách mà xưa
kia dân Israel trong chuyến Xuất Hành đã đương đầu và đã sa ngã đã sa ngã; rút
được kinh nghiệm từ những bài học trong sạch thứ Luật, cảnh giác để khỏi tái
diễn những lỗi lầm tương tự. Đức Giêsu đã chiến thắng đối thủ" ("Tin
Mừng theo thánh Luca", Centurion, trg 62).
+ Cơn cám dỗ đầu tiên,
giống như Mátthêu, là cơn cám dỗ về Sở Hữu, cơn cám dỗ chỉ tìm lợi lộc vật
chất, cơn cám dỗ của một chủ nghĩa Mêsia thiển cận: "Nếu ông là Con Thiên
Chúa, hãy biến hòn đá này thành bánh đi".
Lần đầu tiên trích dẫn
sách Thứ Luật 8,3 - đoạn nói về manna - Đức Giêsu trả lời ngay tức khắc:
"Người ta sống không nguyên bởi bánh". Người từ chối làm phép lạ vì
lợi lộc riêng tư. Là "Con" thật sự, Người nhận tất cả từ Thiên Chúa,
Cha của Người và chỉ từ Chúa Cha mà thôi; nên Người phó thác tất cả cho Thiên
Chúa, Cha của Người và chỉ phó thác cho Chúa Cha mà thôi. Roland chú giải:
"Con là kẻ nhận được sự hiện hữu, sự sống không từ chính mình, nhưng từ
một kẻ khác, từ Cha của mình. Con là kẻ hiểu biết trong niềm vui và niềm biết
ơn rằng mình sống nhờ Cha. Người không phải là kẻ ra lệnh để có bánh; chính
Chúa, Thiên Chúa của Người sẽ ban lương thực cùng với Lề Luật. Con không ra
lệnh, Người khẩn cầu: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày" (Tin Mừng theo thánh Luca. Phân tích tu từ", Cerf, quyển 3, trg
50).
+ Cơn cám dỗ thứ hai,
khác với trình thuật của Mátthêu, là cơn cám dỗ về QUYỀN LỰC; cơn cám dỗ về một
chủ nghĩa Mêsia theo tham vọng loài người, dù phải trả giá bằng sự thoả hiệp.
"Nếu ông thờ lạy tôi, quỉ đoán chắc, ông sẽ có tất cả" ("Mọi
quyền lực và vinh quang của các vương quốc ấy").
Lần thứ hai trích dẫn
sách Thứ luật 6, 1 3 - đoạn nói về con bò vàng - Đức Giêsu trả lời ngay:
"Đã chép rằng: Người chỉ được thờ lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi mà
thôi". Người từ chối không tôn kính thủ lãnh trần gian để hành xử vương
quyền phổ quát. Là Con thật sự, Người sẽ nắm giữ vương quyền từ Thiên Chúa, Cha
của Người, và chỉ từ Cha người mà thôi, theo con đường Cha đã chọn: con đường
khiêm nhường, nghèo hèn, thánh giá. R. Meynet chú giải: "Đức Giêsu sẽ nhận
được các vương quốc trần gian, Người sẽ là Đức Kitô, Vua, vì Người đã từ chối
vương quyền xấu xa của ma quỉ, vì Người đã tự nguyện trở nên tôi tớ của Thiên
Chúa và của nhân loại" (Sđd).
+ Cơn cám dỗ thứ ba Luca
đã cho diễn ra ở Giêrusalem, báo trước thử thách quyết liệt sau này, đó là cơn
cám dỗ MA THUẬT, cơn cám dỗ thử thách Thiên Chúa, đi tìm những dấu chỉ kinh
thiên động địa của Đấng Mêsia. Ma quỉ dùng Tv 90, cố cám dỗ một lần cuối:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống; Có lời chép rằng: người
đã ra lính cho các thiên thần gìn giữ ông".
Lần cuối cùng trích dẫn
sách Thứ Luật 6,16 - đoạn nói về Massa, nơi dân Do Thái đã buộc Chúa phải cho
họ nước uống - Đức Giêsu đáp tức khắc: "Đã chép rằng: "Ngươi đừng thử
thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Người từ chối sử dụng quyền làm Con
Thiên Chúa để bảo vệ mình; và mê hoặc người Do Thái bằng những điều kỳ diệu.
Người từ chối buộc Thiên Chúa phải can thiệp. Người không đòi phép lạ để cứu
mạng sống mình; người chẳng đòi hỏi cả khi Người bị treo trên thánh giá. R.
Meynet nói tiếp: "Người tin chắc rằng: Thiên Chúa sẽ cứu Người, Người
không có quyền kiểm chứng xem Chúa Cha có trung tín không; Thiên Chúa chẳng cần
phải chứng tỏ cho mọi người thấy Thiên Chúa có cứu Người" (sđd).
3. Sẽ hoàn tất trên
thánh giá
Nếu, như nói ở trên,
Luca hoán đổi vị trí 2 cơn cám dỗ sau, đó là vì muốn thiết lập một thứ tự tiệm
tiến cho tới cơn cám dỗ thứ ba: Tại Giêrusalem, nơi có cuộc đụng đầu quyết liệt
và nơi hoàn thành quyển sách đầu tiên của ngài. Đây là khúc nhạc mở đầu loan
báo cuộc thử thách lớn lao trong khổ nạn.
Hôm nay, đối thủ đành chịu
khuất phục, nó rút lui "chờ giờ phút đã định". Lúc ấy, nó sẽ xuất
hiện, ra những đòn cuối cùng tấn công Đấng Chịu Đóng đinh qua miệng các sĩ
quan, quân lính và cả người trộm dữ nữa.
"Nếu ông là Đức
Kitô, hãy cứu mình và cứu chúng tôi với!, một kẻ cùng chịu đóng đinh với Người
lên tiếng, thách thức.
Trong lúc thất bại ê chề
trước mặt mọi người, Đức Giêsu: vẫn vững vàng trong thử thách; vẫn gần bó với
thánh giá giữa các người bạn cùng đau khổ. Người phó thác trọn vẹn cho Chúa Cha
cội nguồn sứ mạng của Người. Và người trộm lành đã sinh ra trong ánh sáng nên
đã không nguyền rủa.
Quân lính chế nhạo:
"Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi".
Trong lúc công cuộc của
Người tưởng như vĩnh viễn lụi tàn, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, vẫn
lặng lẽ. Đấng Mêsia - Vua chịu đóng đinh và bất lực cầu khẩn một mình với Chúa
Cha "Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha" (Tv 30.6). Thái độ
của Người trước cái chết đã khiến viên sĩ quan Rôma phải thốt lên những lời đầy
hứa hẹn: "Quả thật ông này là người công chính".
Thủ lãnh trong dân châm
chọc: "ông ta đã cứu được người khác: hãy tự cứu mình đi, nếu ông ta là
Đấng Mêsia của Thiên Chúa, "Đấng được tuyển chọn".
Trong khi tất cả mọi
người quấy rối, Đức Giêsu vẫn kiên vững trong thử thách, tha thứ cho các đao
phủ. Và sự đau khổ cũng như cái chết của Người, được đảm nhận trong tình yêu,
đã sinh hoa kết quả: Có người đã tách ra khỏi các thành viên của hội đồng, đó
là Giuse người Arimathia.
Có người sẽ hỏi, đâu là
gốc rễ lịch sử của đoạn văn mà Mátthêu và Luca thuật lại. H. Cousin trả lời:
"Bên cạnh một biến cố xác thực, cuộc tĩnh tâm của Đức Giêsu trong hoang
địa sau khi chịu phép rửa, ta phải xét đến 2 thực tại: những cơn cám dỗ chắc
chắn phải có, đặc biệt là cơn cám dỗ về chủ nghĩa Mêsia trần tục, vì chúng vẫn tồn
tại trong suốt sứ vụ của Đức Giêsu; và Người vẫn kiên trì chống trả không bao
giờ chịu lùi bước nhượng bộ. Những dấu vết hiển nhiên tồn tại trong suốt Tin
Mừng Luca (10, 25; 11, 6 và kế tiếp; 22, 42...) càng cho ta thấy rõ rằng: Đức
Giêsu là một Đấng Mêsia nghèo nàn và đau khổ. Các môn đệ làm chứng Người luôn
trung tín với Thiên Chúa, với sứ mệnh mà Người đã lãnh nhận. Luca đã làm cho
độc giả hiểu ràng Đức Giêsu đã phải chọn lựa một hình thức thi hành sứ mệnh,
một cách thế hiện hữu và không phải dễ dàng để đi đến cùng chọn lựa ấy"
(Sđd, trg 63-64).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Cơn cám dỗ của Đức
Giêsu trong hoang địa: một pha gây cấn
(H. Denis trong
"100 từ ngữ diễn tả đức tin", DDA, trg 111- 112).
Mùa Chay khai mạc - vào
Chúa nhật đầu tiên - đưa ta đến trước một cảnh lạ lùng, thậm chí đáng lo ngại:
cơn cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa.
Ta muốn nói như Phêrô
khi nghe loan báo cuộc khổ nạn: "Không! Thầy không phải chịu như thế. Đôi
khi ta cố xoay xở, nhưng đó không phải là linh đạo tối ưu khi giải thích sự
vật" như sau: Thực ra, Đức Giêsu không thực sự bị cám dỗ, Người đã chấp
nhận bị cám dỗ "vì ta", để dạy ta biết phải chống lại các cơn cám dỗ
như thế nào. Nhưng giá phải trả cho lối giải thích này rất nặng. Làm như Đức
Giêsu "giả vờ" không bằng. Rồi sẽ suy ra người giả vở làm người, giả
vờ học hành, giả vờ đói giả vờ đau khổ, giả và chết.
Nếu ta muốn chấp nhận
Đức Kitô có nhân tính thực sự, ta phải tìm hiểu xem bằng cách nào Đức Giêsu đã
thực sự bị cám dỗ ra khỏi con đường thẳng tắp của sứ mệnh của Người, và Người
đã chống trả thế nào.
Cơn cám dỗ về bánh để
nuôi dân no đủ vốn là cơn cám dỗ của mọi lãnh tụ, có tôn giáo hay không. Đức
Giêsu đã chống cự. Nếu có lần Người chấp nhận hoá bánh ra nhiều, đó cũng chỉ
nhằm giúp người ta có đủ sức nghe lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa và để họ
tìm được một thứ lương thực khác: "Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các
con". Cơn cám dỗ về phép lạ, về những điều kỳ diệu cũng đã bị đẩy lui.
Phải chăng đó đã là dấu chỉ của một Đức Giêsu chỉ chữa bệnh vì Nước Trời?
"Phúc cho ai không thấy mà tin".
Cơn cám dỗ về quyền lực
trên trần gian cũng tinh vi không kém. nhưng Đức Giêsu biết rằng Satan ẩn nấp
trong mọi thứ vinh quang không qui về Chúa Cha. Vinh quang của Đức Kitô là vinh
quang của sự hiến mình. Điều ấy sẽ được thực hiện trên thánh giá, trong khó
nghèo tột độ, khi mọi sự hoàn tất.
2. Những cạm bẫy tương
tự trải dài suốt lộ trình của ta
(F. Deleclos, trong 'hãy
cầm lấy Lời Chúa mà ăn' Centurion-Duculot, trg 193-194).
Thật tốt nếu ta vui vẻ
để "Chúa Thánh Thần dẫn vào hoang địa". Đó là cơ hội sống động cho ta
khám phá hoặc tái khám phá ra những cạm bẫy thường xuyên giăng dưới bước chân
người Do Thái, những cạm bẫy mà Đức Kitô đã gặp, cũng là những cạm bẫy trải dài
suốt hành trình và suốt lịch sử đời ta. Ta hãy học cách vạch trần những cơn cám
dỗ để khỏi bị lệch hướng xa đường giao ước, xa đường sứ mạng của ta.
Những cạm bẫy của Thần
Dữ toả ra hào quang duyên dáng và lôi cuốn, mời mọc tinh vi và đáng sợ, cộng
với trí thông minh và sự kiên nhẫn của "Địch thủ của triều đại Thiên
Chúa".
Đó là cơn cám dỗ dùng
Lời Chúa phục vụ mọi ham thích của ta về sở hữu, về hiểu biết, về quyền lực, là
những nguồn không bao giờ cạn "của mọi loài hình cám dỗ" luôn quấy
phá các tín hữu và các Giáo Hội.
Đó là những ham hố quá
đáng đi tìm điều lạ lùng, săn đuổi các cuộc hiện ra, các phép lạ, làm lệch
hướng những đòi hỏi khẩn cấp của Tin Mừng.
Đó là cầu nguyện sốt
sắng bên ngoài để phiền nhiễu Thiên Chúa, mong rút tỉa được đặc ân tránh khỏi
thử thách, khổ đau.
Cạm bẫy còn là những an
thân giả tạo, những bảo đảm hão huyền mà ta mải mê tìm kiếm trong một mớ chồng
chất những lễ nghi trống rỗng vô nghĩa vô hồn.
Cơn cám dỗ tinh vi cuốn
ta vào đủ mọi thứ hy sinh đến từ tinh thần thống trị, lòng ham thích sức mạnh
và say mê quyền lực Thiên đường các ngẫu tượng.
Làm cách nào trả lời 3
cuộc cám dỗ tiêu biểu nếu không phải là 3 câu trả lời bằng ăn chay, cầu nguyện
và chia sẻ. Gặp gỡ Chúa để Lời chân lý và sự sống đổ đầy vào trái tim ta và vọt
ra từ môi miệng ta. Khước từ những phồn vinh muốn chôn vùi ta và khám phá thấy
trong sự tiết độ những giá trị vững bền. Tình liên đới làm phát sinh và nuôi
dưỡng lòng quảng đại huynh đệ đối với biết bao kẻ đói khát sự công chính và
bình an, những người bị loại trừ khỏi tình yêu và lòng kính trọng, những người
bị áp bức ở mọi nơi, đám đông mênh mông những người bị đóng đinh nơi đó Đấng
giải phóng, Đấng Phục sinh hằng sống đang náu ẩn trong vô danh.
SỰ LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU - SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA CHAY C
THỨ NĂM, 14 THÁNG 02 2013 21:08 BBT WTGP HN ~ SỐ LƯỢT XEM: 1
Ba Tin Mừng đều trình
bày cơn cám dỗ như là trình bày phép rửa. Sự liên hệ là thời gian vì cả hai sự
kiện gắn liền nhau "Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào samạc' (Mt)
"và lập tức Thần Khí đẩy Ngài vào samạc' (Mc) "Chúa Giêsu đầy Thánh
Thần, từ giã vùng sông Giođan" (Lc), Nhưng cùng một chủ đề: tuyên xưng
Chúa Giêsu như là con Thiên Chúa đã nhận lấy thử thách. Cám dỗ ở chỗ bắt Chúa
Giêsu chọn lựa giữa những gì có thể.
BA NHÃN QUAN VỀ
CHÍNH MỘT SỰ KIỆN
Biết rằng Thánh Thần dẫn
Chúa Giêsu vào samạc và ở đó 40 ngày chịu satan cám dỗ. Mc trình bày rất cô
đọng, còn Mt và Lc đã sử dụng một truyền thống thuật dạy giáo lý sư phạm hơn;
lặp lại, phương cách Thánh Kinh, đưa ra cảnh đối nghịch giữa tên cám dỗ và Chúa
Giêsu; điều đó thể hiện một giai đoạn nhất định, sẵn sàng ghi lại trong một
trình thuật và một cốt truyện về căn tính của Chúa Giêsu và nguồn gốc của Ngài
trong lịch sử Israel.
TRÌNH THUẬT
TRONG NGỮ CẢNH CỦA LUCA
Trình thuật này tự nó
hầu như đã đầy đủ: có ý nghĩa. Có một sự khởi đầu ('Chúa Giêsu được dẫn vào
trong samạc và bị ma quỷ cám dỗ"). Cuộc gặp gỡ mở ra làm cho các nhân vật
xuất hiện, tương ứng, vào cuối trình thuật, chia rẽ ("ma quỷ lìa bỏ Chúa
Giêsu mà chờ dịp"). Nhưng trình thuật của chúng ta là thành phần của một
lịch sử lâu dài: ghi chép trong một bản văn rộng lớn hơn. Phép rửa (3,21-22),
tiếp theo là gia phả (3,23-35) dẫn vào hai khuân mặt tính của Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa và con người. Hai mặt tính này chắc chắn dẫn đến sự cám dỗ. Tiếng từ
trời tuyên phán là Con Thiên Chúa, được ghi lại trong tiến trình lịch sử nhân
loại bởi gia phả, Chúa Giêsu được dẫn vào samạc.
Đọc lại trình chúng ta
thấy rõ. Ma quỷ lìa bỏ Chúa Giêsu để chờ dịp. Điều này muốn nói rằng, cuộc chạm
trán giữa Chúa Giêsu và tên cám dỗ được nhắc đi nhắc lại. Nhưng chắc chắn kết
thúc. Chiến thắng của Chúa Giêsu được thánh hiển bởi sự nhận biết ("danh
tiếng Người đồn ra khắp vùng"), sẽ được hoàn tất khi thời gian tới; có
nghĩa là khổ nạn bất chợt.
MỘT VỞ KỊCH BA
HỒI
Trình thuật diễn ra theo
một trình tự rõ ràng. Trước hết, các diễn viên kịch được đưa vào. Bên này là
Chúa Giêsu, bên kia là ma quỷ. Hai nhân vật không cần được giới thiệu. Chúa
Giêsu được độc giả biết đến khi tin vào Ngài gửi đến trong Tin Mừng. Ma quỷ là
thành phần của thế giới quen thuộc của người Dothái ở thế kỷ đầu. Rất thú vị,
mô tả tên nó có nghĩa là một chương trình. "Satan" tiếng Dothái
("quỷ" tiếng Hylạp) chỉ tên đối phương. Đó là một nhân vật mà bản
tính là đối đầu. Nó đối đầu với ai? Với Thiên Chúa trước tiên và trước hết mọi
sự Chúa Giêsu đến để được Thiên Chúa tiên phán là Con.
HỒI THỨ NHẤT (V.
1-4)
Hồi thứ nhất có khung
cảnh là samạc. Sự định vị này không rõ nét. Đối với con người trong Thánh Kinh,
samạc tự nhiên gợi lên thời Xuất hành và đối diện thường xuyên, đau khổ giữa
Thiên Chúa và dân Ngài. 40 ngày nhắc lại 40 năm trong samạc và 40 ngày Môsê ở
trên núi. Chúa Giêsu ăn chay 40 ngày. Ở trong tình trạng cần thiết và mỏng
giòn. Ma quỷ đặt ra cho Chúa Giêsu khi đưa ra sự thiếu điều cần thiết này:
"Hãy truyền cho hòn đá này biến thành bánh". Như là một gợi ý quy kết
một cái nhìn chính xác của Con Thiên Chúa. Thực vậy, đối với ma quỷ, tương đương
với là Con Thiên Chúa.
Đứng vào cương vị quyền
lực: "hãy truyền cho hòn đá này...". Tránh trật tự bình thường của
bản tính muốn rằng những hòn đá chỉ là những hòn đá và bánh chỉ là bánh. Sự từ
chối của Chúa Giêsu mạc khải cách là con của Ngài. Ngài đối đầu hai lần với ma
quỷ.
- Ra lệnh: ngươi phải
vâng lời: "có lời chép". Nó ẩn chứa sau một lối văn từ Sách Thánh để
làm sáng tỏ thái độ.
- Được mời gọi trở lại
cách đặc biệt, đồng nhất với con người "người ta sống không nguyên bởi
bánh". Đó là cả một chương trình. Đối với Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
như lời Kinh Thánh, trở nên người vâng lời của Lời. Đó cũng chấp nhận làm cho
cái đói dừng lại để chứng nhận một cái đói khác, để làm cho samạc chỉ còn là
nơi mong muốn.
HỒI THỨ 2. (V
5-8).
Sự chuyển biến đột ngột
ở đây. Từ cao xuống(trả lại) sự thống trị. Cái nhìn (ma quỉ) nó chỉ cho Đức
Giêsu tất cả các nước là một cách chiếm hữu lập tức (trong chốc lát), và trong
tổng thể( tôi sẽ cho ông tất cả quyền lực này). Là con theo ma quỉ đó là thử
thách, một sự thống trị tuyệt đối trên các nước thế gian. Để thấy rõ mối liên
quan cần phải đọc lại 2 sự cám dỗ.
Nếu ông là con Thiên
Chúa (5,3)
Nếu ông thờ lạy tôi
(5,7).
Ở đây, ma quỉ tự vạch
trần. Con Thiên Chúa mà nó thách thức được mời gọi tôn thờ nó, có nghĩa là bắt
phải theo một thần biến hoá và thờ tân lượng có bộ mặt các nước thế gian.
Đối diện với lời đề nghị
này, Chúa Giêsu xắp đặt lại cái nào vào vị trí cái ấy. Đối với Satan, sự biến
hoá của Thiên Chúa, nó nhắc lại rằng chỉ có một Chúa. Hơn nữa, trong khi nép
mình một lần nữa vào sau Lời, Ngài đặt chính ma quỉ và vị trí của nó:
"ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa ". Nó dẫn Ngài lên cao để thử thách
nước Người vềụ thực tại quyền lực Chúa Giêsu đặt ra sự khoảng cách căn bản giữa
quyền lực thế gian và nước Thiên Chúa .
HỒI THỨ 3 (V 9-12).
Cuối cùng ma quỉ mang
Chúa Giêsu lên nóc Đền thờ Giêrusalem. Sau cuộc cám dỗ lần thứ nhất và kinh tế,
tiếp theo lần thứ hai về chính trị, và đây cám dỗ về tôn giáo. Như trước, Chúa
Giêsu bị đặt dưới thực tại để chế ngự tốt nhất. Ở đây, cám dỗ gieo mình từ đền
thờ xuống để chiếm được ngay lập tức và với sự giúp đỡ tuyệt vời, sự nhận biết
của dân Dothái.
Ở đây ma quỉ còn biện
minh rõ ràng về danh tính của nó, nó là kẻ chống đối Thiên Chúa. Nếu chúng ta
đọc bản văn này, chúng ta có thể thấy lời đề nghị này rất (thô thiển). Trong
thực tế, cám dỗ luôn là tế nhị vì rằng cám dỗ biết thể hiện sự thật bên ngoài.
Ma quỷ đặt Chúa Giêsu vào một vị trí ngược lại với Ngài: mục tiêu tối hậu của
nó là chỉ cho thấy rõ Đền thờ Giêrusalem để biết rõ hơn.
Khi đó, phải đặt sự cám
dỗ vào đâu và tại sao Chúa Giêsu lại đẩy lùi cơn cám dỗ? Nếu Chúa Giêsu chịu
thua tên cám dỗ, thì Ngài trở về với những niềm mong đợi của dân chúng, đi tìm
một Messia huy hoàng và hiệu lực. Chúa Giêsu đã từ chối ít nhất hai kiểu trên.
Trước hết chính vì Ngài mà Ngài phải chờ đợi thời gian thuận tiện, tiếp theo là
con đường mà Ngài chọn bao hàm sự chôn vùi trong con người, sự kiên trì và sau
cùng có nguy cơ thất bại. Thái độ của Chúa Giêsu thật rõ ràng: được mời gọi xác
định căn tính tiên tri của mình. Ngài khẳng định cách từ chối của mình thật
tuyệt vời lạ thường.
Phần kết :
Cuộc gặp gỡ của Chúa
Giêsu và tên cám dỗ kết thúc bằng sự chiến thắng của Chúa Giêsu: "ma quỷ
lìa bỏ Ngài mà chờ dịp". Để chúng ta hiểu rõ rằng cuộc đối đầu này báo
trước dịp cám dỗ khác. Lc đưa cho chúng ta ít nhất là hai dấu hiệu. Trước hết
Lc đảo ngược trật tự của những cơn cám dỗ khi đặt thử thách ở nóc Đền thơ vào
cuối. Đó là một cách nhấn mạnh rằng giai đoạn cuối cùng của cuộc đối đầu sẽ
diễn ra trong thành thánh. Tiếp theo khi thời khổ nạn đến, Lc viết: "Satan
nhập vào Giuđa Iscariot" (Lc 22,3): đó là dấu hiệu "chờ dịp"
hoàn thành.
SỬ TÍNH CỦA CUỘC
CÁM DỖ
Hình như hiển nhiên rằng
trình thuật này không phải được hiểu theo nghĩa đen. Bản văn Tin Mừng là một bố
cục được soạn thảo rất công phu, trong bố cục đó từ Giáo Hội sơ khai rồi đến
các sách Tin Mừng đã tổng hợp cái mà họ biết về căn tính của Chúa Giêsu, trải
qua những cơn cám dỗ mà Ngài đã đẩy lui. Nhưng điều đó không muốn nói rằng đó
là một cuộc sáng tạo từ hư không. Người ta có thể hình dung hai giả thuyết để
phân tích tính lịch sử của cuộc cám dỗ. Cuộc cám dỗ thứ nhất cho rằng các tác
giả Tin Mừng đã làm một cuộc sáng tạo văn học và thần học từ những cuộc cám dỗ
rất thực tế mà Chúa Giêsu đã gặp phải trong đời sống công khai. Những người
Dothái dùng ngôn ngữ của sự cám dỗ khi họ mời Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá:
"Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá và tự cứu mình
đi" (Mt 27,40). Thánh Phêrô bị quở trách cũng chính những thuật ngữ mà tên
cám dỗ: "Satan, hãy lui ra, ngươi làm cho Thầy vấp phạm" (Mt 16,23).
Sau cùng, toàn bộ Tin Mừng, Chúa Giêsu tố cáo sự tìm kiếm tham lam về dấu chỉụ
kỳ dị ở một số người Dothái.
Nhưng lời giải thích này
có thể rất phù hợp với một giả thuyết khác ở khởi đầu đời sống công khai của
Chúa Giêsu, một thời gian ẩn dật hay lựa chọn sẽ được đặt ra cho Chúa Giêsu.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa đánh dấu một bước ngoặt trong đời mình, Chúa
Giêsu phải lựa chọn. Những con đường dễ dãi mở ra trước Ngài: nó dẫn Ngài đến
một niềm mong đợi Đấng Thiên Sai huy hoàng, thu hút đám đông bằng những phép lạ
và dấu chỉ. Kết thúc một thử thách làm cho trong sạch. Chúa Giêsu ấn định một
con đường khó khăn, hưu quạnh bởi vì ngược dòng với những khao khát của quần
chúng. Chúa Giêsu đã biết, từ đầu cho tới khi kết thúc có sự vứt bỏ và sự chết.
MỞ RA CHIỀU KÍCH
KITÔ HỌC
Điểm mạnh của các trình
thuật Tin Mừng là các trình thuật có sức mạnh chuyển tiếp các tường thuật về
những sự thật sâu xa của Chúa Giêsu. Toàn bộ các nghĩa mở rộng xoay quanh trình
thuật cám dỗ trở về thời xuất hành. Thời ấy dân Israel, con Thiên Chúa, thất
bại, Chúa Giêsu thành công. Ở đây Ngài xuất hiện như :
- Con người ("người
ta sống không nguyên bởi bánh") Ngài từ chối là Con Thiên Chúa trong khi
ẩn đi tính nhân loại, trong khi trốn chạy những gò bó tự nhiên, không chấp nhận
sự lâu la chậm trễ, trong một hạn từ thời gian cấu tạo bên trong đó tỏ rõ tự
nhiên gian truân của con người nhân loại.
- Người tin gặp gỡ Thiên
Chúa của họ được mạc khải trong Sách Thánh Thiên Chúa mở ra cho họ con đường.
- Người con trời gọi đến
Thiên Chúa của mình để thoả mãn những nhu cầu của con người (của cả,i kinh tế,
quyèân lực chính trị).
- Người con gặp Cha mình
trong khi nghe Lời ở đó con người tìm thấy lương thực nuôi mình. Là con, đối
với Chúa Giêsu đó là hoàn toàn đi vào trong những chỉ thị của giao ước mạo hiểm
của sự nhập thể đến tận cùng.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét