LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc
1,39-56
MỤC LỤC
1. Mẹ lên trời
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên.
3. Mẹ lên trời
4. Cảm nghiệm ơn Chúa – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
5. Đức Maria: địa chỉ trên cao – ĐGM. Vũ
Duy Thống
6. Mẹ Lên Trời là hy vọng của chúng ta
7. Niềm an ủi
8. Theo Đức Mẹ lên trời – ĐGM. Bùi Tuần
9. Vinh quang
10. Lòng tự trọng
11. Ai hy sinh hơn ai?
LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
1. Mẹ lên trời
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ
Đức Mẹ hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên.
Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà
thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó
cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê
hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ
nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào
việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy,
vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các
tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở
ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ
đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã không muốn để
Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã
ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác
tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân
được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên
trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người
thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều
có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng
tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời
trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được
gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ
về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như
nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có
đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho
cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh
Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời
đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính
Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi
này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn
nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cũng
sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên.
Phúc âm thuật lại những ân huệ đặc biệt
Thiên Chúa ban cho Đức Maria, nhấn mạnh nhiều nhất về Đức Maria gương mẫu đức
tin. Phúc thay cho bà, vì bà đã tin ... Nghĩ về chúng ta, Thiên Chúa đã muốn
rằng Mẹ Thiên Chúa phải được thỉnh mời đáp bằng một tiếng vâng đối với điều
vượt quá trí khôn Mẹ. Đức Maria luôn luôn trả lời bằng một niềm tin toàn diện.
Hiệp thông với dân tộc, với thời đó, với Giáo hội tương lai, Đức Maria ca lên
kinh Magnificat. Giáo hội nhận ra mình trong bản kinh ấy. Chúng ta hãy hợp nhất
với niềm tin của Người. Đức Maria khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, kiên quyết
trong thử thách, đóng vai kẻ tôi tới bệnh cạnh loài người, sống bằng suy niệm
và luôn vui sống.
Để hợp với bầu khí Mông Triệu, chúng ta
suy niệm về một câu trích trong bản kinh Magnificat tuyệt vời này.
1) Thần trí tôi nhảy mừng.
Ca khúc Magnificat giờ đây vang trên
thiên quốc với tất cả âm điệu tiết tấu. Nhưng Đức Maria đã hát lên ca khúc ấy
lần đầu tiên trong một giai đoạn cuộc đời dưới trần thế của Người, ở khoảnh
khắc một mạc khải vừa được hé mở. Đức Maria thoáng nhìn thấy định mệnh nhân bản
của mình được thành toàn trong cơ thể và thần trí. Thật vậy, Thiên Chúa mặc lấy
xác phàm trong lòng Đức Maria, ngõ hầu nâng cao con người, ban cho con người
phẩm giá thần linh. Sự sống lại vinh hiển giống như hạt thóc vùi trong lòng đất
nay hoá thành bông lúa chín vinh quang dưới ánh mặt trời. Trong
kinh Magnificat, ngay ở lúc khởi sự mầu nhiệm Nhập thể, Đức Maria đã ca ngợi
trước về niềm vui Phục sinh sau này. Trong con người Đức Giêsu, Đức Maria
thoáng nhận thấy Thiên Chúa muốn có một lịch sử ấy, định mệnh ấy chỉ có thể là
tuyệt diệu. Hơn nữa, đích thân Thiên Chúa đến đổi mới lịch sử thân xác nhân
loại bằng cách hướng nó về Tình yêu của Thiên Chúa. Vẫn tiếng la lên vì sung
sướng chào mừng lúc khai mạc, sau này trở thành bản thánh ca phấn khởi trong
ngày hoàn tất. Cũng vậy, trong đời sống rất thực của chúng ta, trong thực tại
xác phàm, mặc dầu đau khổ, chúng ta hãy vui sướng nhận rõ điều gì chúng ta có
thể dâng lên Thiên Chúa để Người thánh hoá. Chớ quên rằng thân xác chúng
ta được mời gọi để trở nên một cơ thể được 'Kitô hoá'.
2) Trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc
tôi.
Đức Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng quyền
năng Thiên Chúa của Người, Chúa cứu chuộc toàn bộ con người chúng ta cả xác lẫn
hồn. Toàn thể thân xác sẽ được cứu chuộc chừng nào chúng ta tham dự trạng thái
hiển vinh của cơ thể Đức Kitô. Nhưng không được quên rằng Đức Kitô cứu chuộc
chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Kitô phục sinh hiện hữu, sống trong trạng thái
đặc biệt, Chúa ở trong mỗi chúng ta như linh hồn ở trong mỗi phần nhỏ cơ thể.
Những giới hạn của bất cứ vật thể hữu hình nào không còn nữa đỗi với cơ thể Đức
Kitô. Kitô hữu kết hợp với Đức Ki-tô thì mang trong mình lời kêu gọi sống lại
vinh hiển. Điều này đúng vô cùng đối với Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta hãy
cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được 'hợp tác' với sức mạnh cứu độ của Cơ thể quang
vinh Đức Giêsu hiện diện trong chúng ta. Chừng đó, chính chúng ta cũng sẽ ca
lên bản kinh Magnificat.
3. Mẹ lên trời
Từ tín điều Mẹ hồn xác lên trời, được
mừng kính hôm nay, chúng ta rút ra được những kết luận nào.
Kết luận thứ nhất, đó là Mẹ đã được đưa
về trời, nơi mà một ngày kia chúng ta cũng sẽ đến.
Thực vậy, sở dĩ Mẹ đã được đưa về trời
một cách kỳ diệu vì Mẹ không hề phạm tội, nên thân xác Mẹ không
bị huỷ hoại tiêu tan, cũng như thân xác Chúa Giêsu. Thân xác Mẹ trực
tiếp đi từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang mà không phải nếm mùi
mục nát. Sự hiện diện của Mẹ trên trời là lời hứa hẹn cho chúng ta, bởi vì một
ngày kia chúng ta cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tuy nhiên, vì mang thân phận tội lỗi,
nên chúng ta sẽ không chuyển trực tiếp từ tình trạng dương thế qua tình trạng
vinh quang, nhưng sẽ phải trải qua một thời kỳ huỷ hoại, một thời kỳ
mục nát. Chúng ta giống như cây phượng. Khi mùa hè trở về, nó trổ bông đỏ rực.
Nhưng khi mùa thu tới, nó bắt đầu rụng lá để rồi chỉ còn lại những cành cây trơ
trụi vào mùa đông.
Cuộc sống của chúng ta cũng giống như
vậy. Khi mùa thu cuộc đời trở lại, chúng ta mất đi toàn bộ vẻ đẹp thân xác, để
rồi sẽ bị rữa thối trong lòng đất lạnh, một khi chúng ta nằm xuống cùng với một
cái chết. Thế nhưng khi giờ phút sống lại đã điểm, thì một thân xác mới mẻ và
xinh đẹp sẽ nở tươi trên đống tro tàn bụi đất, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
khi gieo một hạt giống vào lòng đất, nó sẽ không mọc lên nếu không bị chết đi.
Và hạt giống chúng ta gieo, há chẳng phải là một cây đầy đủ mà sau này sẽ lớn
lên sao. Thân xác của chúng ta lúc bấy giờ sẽ như thế nào? Thánh Phaolô diễn
tả:
- Thân xác hay chết này sẽ mặc lấy sự
không hay chết và thân xác mục nát này sẽ không còn mục nát nữa.
Kết luận thứ hai việc Mẹ được đưa về
trời còn là nguồn trợ lực cho chúng ta khi chiến đấu để chiếm lấy niềm vinh
thắng mà Mẹ đang vui hưởng.
Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến
kêu cầu cùng Mẹ.
Douglas Hyde là một đảng viên Cộng sản,
chủ bút một tờ báo lớn ở Anh Quốc. Ông đã kể lại sự mình trở về với Giáo hội
như sau:
Ngày nọ, tình cờ ông bước vào một nhà
thờ Công giáo. Ngồi ở hàng ghế sau cùng, ông đưa mắt quan sát và nhận thấy có
một thiếu nữ bước vào, vẻ mặt đầy âu lo. Cô ta đến trước bàn thờ Đức
Mẹ, quỳ cầu nguyện một hồi lâu, sau đó đứng dậy ra khỏi nhà thờ. Lúc
cô ta đi ngang qua, ông nhận thấy vẻ mặt đầy lo âu khi trước đã tan biến,
nhường chỗ cho một vẻ mặt phấn khởi và hy vọng.
Thế là ông cũng mon men đến bên bàn thờ
Đức Mẹ và trình bày câu chuyện đời mình, nhưng ông không biết phải bắt đầu như
thế nào. Sau này khi nhớ lại, thì hình như ông ta đã nói với Mẹ:
- Lạy Mẹ dịu dàng và đáng yêu, xin hãy
tỏ ra nhân từ và khoan dung với con. Nhờ Mẹ giúp đỡ, cuối cùng ông đã được ơn
ăn năn trở lại.
Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, bởi vì
xưa nay chưa từng nghe có người nào kêu cầu Mẹ, mà Mẹ chẳng nhận lời.
4. Cảm nghiệm ơn Chúa – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ
trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn?
Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm
được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa
yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu
ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp
trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận
biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời
"xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở
rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời
Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay
Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại
tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác
động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã.
Vội vã đây không phải là sự vội vàng
hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự
nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ
mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ
một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở
nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một
thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa
ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các
Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu,
lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng
chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa
cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song
đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi
Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng
ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức
Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt
bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi
nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài
kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào
tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy
Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang,
nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc
phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn
được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng
chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh
thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về
Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền
đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm
cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba
tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý
nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập
tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn
lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan
ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ
ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của
Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần
soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có
phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính
mình trên trần gian?
5. Đức Maria: địa chỉ trên cao – ĐGM.
Vũ Duy Thống
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày,
tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ
trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị
hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký,
chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được
trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn
vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ
trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và
hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát "Như một vầng
trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung" ca ngợi Đức
Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên
cao, địa chỉ ấymang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định
cho lòng tin.
Đây không phải là điều huyền hoặc do
trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng
không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình
dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào
hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư
lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán
tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ;
nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức
Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được
nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria
chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên
không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh
nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân
cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài
người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ
mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên
Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì
cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu
hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một
ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong
mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân
của đời tín hữu.
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức
Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập
như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới
từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo
Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là
chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là "xe máy"
thì nó là "xe máy" dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là "xe
đạp". Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó
cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với
đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà
vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến
đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời
mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp
bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu
sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được
theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống
như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo
sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần
thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi
mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu
mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh
phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ
thiết thực cho mỗi cảnh đời.
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là
chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là
bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên
cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát
"Kinh Tin Kính" kết thúc bằng câu quyết tâm "Tin những gì Hội
Thánh dạy con". Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không
lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm
chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu
cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài
dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: "Cha nói thánh tướng nào
con cũng tin cả". Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về
trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế
sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi
cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa
thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh
thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có
thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những
khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay
quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp
mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức "lương
thực hằng ngày" "cầu vừa đủ xài" của Kinh Lạy Cha, mà còn mong
có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?
Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực
đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không,
được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn.
Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng
cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến
chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng
ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc
chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.
Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin
yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn
nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con
biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng
bay về trời.
6. Mẹ Lên Trời là hy vọng của chúng ta
Tại một số thành phố trong nước Ý có
một cách mừng Lễ Mẹ Lên Trời thật đơn sơ nhưng có ý nghĩa: Họ bắt đầu không
phải ở nhà thờ nhưng ở đường phố chính. Việc cử hành gồm hai cuộc rước.
Cuộc rước tượng Đức Mẹ bắt đầu từ ngoại
ô thành phố tiến vào trung tâm thành phố. Cuộc rước này tượng trưng cho cuộc
hành trình của Đức Mẹ từ cuộc sống trần gian tiến về trời.
Cuộc rước khác là cuộc rước tượng Chúa
Giêsu qua các đường phố lớn. Ý nghĩa cuộc rước này là Chúa Giêsu đi đón Đức Mẹ
khi Đức Mẹ tiến vào thiên đàng.
Giây phút nổi bật là khi hai cuộc rước
gặp nhau tại một cổng chào được trang hoàng lộng lẫy. Chúa Giêsu và Đức Mẹ cúi
chào nhau ba lần nói lên rằng Chúa Giêsu chào mừng Đức Mẹ tại cổng thiên đàng.
Sau nghi thức này, tất cả mọi người
kiệu Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào nhà thờ. Ý nghĩa việc rước này là Chúa Giêsu đưa
Mẹ Ngài lên toà vinh quang trên trời. Khi mọi người vào nhà thờ thì Thánh Lễ
được bắt đầu.
Theo phương diện thần học, Lễ Mẹ Lên
Trời nói với chúng ta rằng cả hồn và xác Mẹ Maria đang ở trên thiên quốc. Vì
Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, giống như thân xác Chúa Giêsu, thân xác Mẹ
không hư nát. Thể chất trần gian của Mẹ biến sang thể chất thiên đàng.
Theo phương diện thực hành, Lễ Mẹ Lên
Trời nhắc nhở rằng chúng ta một ngày nào đó cũng được ở trên thiên đàng cả hồn
và xác.
Có khi chúng ta quên rằng chúng ta cũng
có thân thể trên thiên đàng. Dĩ nhiên, nó không phải là cái xác hay chết này
như là thân thể thiêng liêng giống như thân thể Chúa Giêsu sau khi sống lại.
Nói về loại thân thể của chúng ta trên
thiên đàng, chúng ta tìm đọc Thư thứ I Thánh Phaolô gửi cho Corintô: "Kẻ
chết sống lại thể nào? Lấy thân xác nào mà đến?" Thánh Nhân so sánh thân
xác dưới đất này với hạt giống và thân thể trên thiên đàng với cây lớn lên từ
hạt giống đó: "Vật ngươi gieo nào phải là thân hình tương lai, nó chỉ là
cái hạt, như lúa mì hay thứ khác chẳng hạn... Thiên Chúa cho nó hình thể
nào tuỳ ý, mỗi hạt đều được hình thù riêng... Có hình thể thuộc về
trời, có hình thể thuộc về đất. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế: đã gieo sẽ
mục nát, sống lại rồi thành bất hủ. Gieo xuống là nhục, sống lại là vinh, gieo
vào đau yếu, sống lại mạnh khoẻ. Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân hình
thiêng liêng." (I Cor 15:36-44).
Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta một
điểm thực hành nữa là Đức Mẹ ở trên trời là để giúp chúng ta. Đức Mẹ không ngồi
nghỉ, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chờ đợi chúng ta lên trời. Thật ra, Đức Mẹ
luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta. Đức Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc
chiến đấu tiến về quê trời. Đức Mẹ trên trời có thế lực để giúp chúng ta.
Đó là tin mừng cho chúng ta khi mừng Lễ
Đức Mẹ. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta
cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được
hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời
cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Chúng ta cùng cầu nguyện, dùng lời kinh
của lễ hôm nay: "Lạy Chúa chí thánh, hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa,
được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là
niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa
không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì đã sinh hạ Con Cha yêu quí là
Đấng ban sự sống cho mọi loài." Xin cho chúng con được cùng Đức Mẹ, một
ngày nào đó trên thiên đàng, ca tụng Chúa muôn đời.
7. Niềm an ủi
Hôm nay, chúng ta mừng kính một tạo vật
đầu tiên đã được khải hoàn và bước vào quê hương nước trời. Tạo vật ấy chính là
Mẹ Maria.
Bàu khí phụng vụ mang một sắc thái vui
tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh, để
rồi nắm giữ vai trò quan trọng nhất, vai trò Nữ vương trời đất, cũng như chiếm
lấy một địa vị cao cả nhất, thật gần với Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi tạo
vật, địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Thực vậy, sau những ngày tháng khổ đau,
giờ đây Mẹ được vui hưởng niềm hạnh phúc bất diệt như lời thánh Phaolô đã diễn
tả:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và
trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những
người yêu mến Ngài.
Trong ngày mừng kính Mẹ hồn xác về
trời, chúng ta không phải chỉ ngợi khen và chúc tụng, mà còn phải tìm lấy cho
mình một niềm vui mừng và hy vọng.
Thực vậy, kể từ khi Mẹ bước vào quê
hương Nước Trời, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ rất nhiều, bởi vì
tình mẫu tử, một thứ tình cảm đẹp đẽ và tinh ròng nhất của trái tim con người,
đã được cụ thể hoá nơi Mẹ Maria trước ngai toà Thiên Chúa.
Nó không phải chỉ mang lấy vẻ dịu hiền
của tình thương, mà còn mang lấy vẻ uy nghi của quyền năng, nhờ đó Mẹ sẵn sàng
ra tay nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trên đường lữ thứ trần gian.
Đúng thế, trên đỉnh đồi Canvê, Đức
Maria đã trở nên Mẹ của nhân loại, cũng như trở nên Mẹ của mỗi người chúng ta,
qua lời trăn trối của của Chúa Giêsu:
- Này là Mẹ con... và này là con Mẹ.
Qua lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền
tin, Mẹ đã cưu mang chúng ta. Đồng thời, qua những đau khổ phải chịu, nhất là
khi đứng dưới chân cây thập giá, Mẹ đã sinh chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và
bây giờ ở trên trời, với tước hiệu là Mẹ chúng ta, Mẹ vẫn nhớ đến từng người và
Mẹ sẽ dùng tình thương của một người mẹ và uy quyền của một vị nữ vương để bầu
cử và giúp đỡ chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói được rằng:
- Mẹ nắm giữ số phận của mỗi người
chúng ta trong lòng bàn tay yêu thương và quyền năng của Mẹ.
Vì thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ
trong những phút giây hạnh phúc để cảm tạ, cũng như hãy chạy đến với Mẹ trong
những tháng ngày đau khổ để xin Mẹ chở che.
Trong cuộc sống dương thế, Mẹ đã trải
qua biết bao nhiêu cay đắng, nên Mẹ sẽ hiểu biết và chia sẻ với chúng ta hơn ai
hết, bởi vì "đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Có khổ đau, thì mới
dễ dàng cảm thông với người đau khổ. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ
trợ giúp và dẫn chúng ta đến cùng Chúa.
Douglas Hyde là một người cộng sản, chủ
trương tờ nhật báo "Công Nhân" tại Anh, đã trở lại Công giáo trong
một hoàn cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một nhà
thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt
chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện
trước tượng Đức Mẹ, nhưng khi cô ta ra về, thì dường như những nét khổ đau đã
được xoá tan, không còn để lại một dấu vết nào cả.
Tò mò, ông ta cũng bước vào và đến bên
tượng Đức Mẹ. Ông ta thắp lên một ngọn nến và quỳcầu nguyện. Thế nhưng,
đầu óc thì trống rỗng, ông ta không thể nhớ nổi một câu kinh mà hồi còn nhỏ ông
ta đã thuộc lòng. Cây nến cứ giảm dần, giảm dần. Sau cùng, ông ta nghe như có
một tiếng nói thì thầm bên tai, nhưng cũng không được rõ.
Sau khi ra khỏi nhà thờ, ông ta cố gắng
nhớ lại. Rồi ông ta đã mỉm cười, bởi vì trong lúc cầu nguyện, ông ta đã khẽ hát
một bản tình ca đang thịnh hành lúc bấy giờ:
- Nàng xinh đẹp quá, xin hãy nhớ đến
tôi...
Nhưng Mẹ Maria đã thấu suốt cõi lòng
ông ta và đã dẫn đưa ông ta về cùng Chúa.
Với tình thương của một người mẹ, Đức
Maria sẵn sàng nâng đỡ chúng ta và với uy quyền của một bậc nữ vương, Đức Maria
có thể làm được tất cả những gì chúng ta kêu cầu.
Chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe có người nào
chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Phải chăng đó là chính là niềm an ủi và
khích lệ chúng ta gặp được khi mừng kính Mẹ hồn xác lên trời ngày hôm nay?
8. Theo Đức Mẹ lên trời – ĐGM. Bùi Tuần
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên
Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện
vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên
trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta
không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ
rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).
Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi
thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý
Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về
trời: "Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem... cho đến tận
cùng trái đất" (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất
cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi
người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong
những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống
phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: "Làm
chứng cho Chúa" tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời
với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài
suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: "Các con hãy là chứng nhân của Thầy" (Cv
1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ
nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng:
"Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: "Có lời
Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi
chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân
của những điều này" (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho
Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng
điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng
Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc
sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và
đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng
bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác
biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề,
thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và
cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và
vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một
cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức
mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa
Giêsu đã hứa: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần" (Cv
1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế
này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức
mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ
chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với
những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện.
Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững
trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy
nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa,
nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.
Tôi coi những đổi mới như thế là sức
mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng
mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những
hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn
đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu
độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện
đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất.
Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để
cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể
tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những
đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin
điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền
giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức
Mẹ cho thánh Gioan: "Này là mẹ con" (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí
giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.
Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời
đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ
một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết
Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là
nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt,
Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho
Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để
làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể
phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng
về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa
Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu
kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải
cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Lc 10,21).
Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội
Thánh của Chúa.
***
Trên đây là một thoáng nhìn về con
đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với
nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm
chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống
Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên
con đường đó, để về trời.
9. Vinh quang
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành
sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử
hành sự kiện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu
độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người
Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa "Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin
nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức
giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống
một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi". Họ cứ cầu
nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người
già bắt đầu chết.
Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ
lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của
Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng "Cảnh hạn hán gây ra là do
tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất,
mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn
thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta
phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất.
Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu".
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông
điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình,
họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản
giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô
bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ
khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng
phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê
và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp
bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng
bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám
tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn
khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng
xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi
nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ
cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản
mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất.
Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận
lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện
đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu
cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu
được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài
trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ,
bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại
sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh
đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào
trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên
trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi
rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc
dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ
được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của
Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng
ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh
những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.
Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ
của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ
đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết
vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn
tới vinh quang.
10. Lòng tự trọng
Bà Elisabét nói với Đức Maria "Em
được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ". Quả thật đó là một lời khen
ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng
điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng
quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao
nhiêu cao cả".
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự
khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường
trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với
lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên
Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người
ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng
bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho
tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản
thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng "Tôi là người
tốt".
Về một mặt nào đó, đây là một phương
pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh
tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật,
nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự
trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng "Tôi có giá trị
lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người,
Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người".
Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi
sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời
kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria "Linh hồn tôi ngợi khen
Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả".
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng
sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối, khiến cho chúng ta bị sự dữ
chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng
ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy
nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi
nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho
chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào
bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình,
và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người
khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi
tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày
mình ra dưới ánh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác
phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong
vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang
của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức
Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của
Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối
với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình
trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã
không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh
quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ
chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có
nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính
xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp
đỡ chúng ta hơn nữa.
11. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng
thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ
ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- «Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt
vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho
chúng con sự khôn ngoan của Ngài».
- «Con đã nói phản lại sự thật rồi! -
Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục
để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu
này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế
gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy
theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
«Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô
thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về
tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm
linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh».
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện
nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứtkhoát mục đích cuộc
đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn
là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tuỳ thuộc
hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v... Một khi đã xác định
rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ
là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta
bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: «Những đau khổ
chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải
nơi chúng ta» (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy
sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu
lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm
phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là
hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ
«cao cả» đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo
niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng
kiềm toả của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã
thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ
không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến
Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha
nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải
vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc - cho dù là vĩnh cửu -
của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ
trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất.
Đúng như lời Đức Giêsu nói: "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt
16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này
một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn
lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh
cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi
hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn
lẫn xác cùng với Đức Giêsu là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất
tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của
chúng ta.
Sưu tầm
CHÚA NHẬT 20 TN B
BÀI ĐỌC 1: "Các ngươi hãy đến ăn bánh
của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi." (Cn 9: 1-6)
BÀI ĐỌC 2: "Anh Chị em hãy ăn ở khôn
ngoan theo thánh ý Chúa." (Ep 5: 15-20)
PHÚC ÂM: "Thịt Ta thật là của ăn và
máu Ta thật là của uống." (Ga 6: 51-58)
BÀI ĐỌC 1: "Các ngươi hãy đến ăn
bánh của ta, và uống rượu ta đã pha cho các ngươi." (Cn 9: 1-6)
Bài trích sách Phương Ngôn.
Sự khôn ngoan đã xây nhà mình và dựng
bảy cột trụ, đã giết các sinh vật, pha rượu, dọn bàn tiệc, và sai những nữ tì
lên các nơi cao trong thành mà công bố rằng: "Ai ngây thơ, hãy đến cùng
ta." Và bảo những kẻ mê muội rằng: "Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta,
và uống rượu ta đã pha cho các ngươi. Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi, thì sẽ
được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan."
Đó là Lời Chúa.
Đó là Lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 33: 2-3, 10-11,
12-13, 14-15
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.
1- Con chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng con hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn con hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2- Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
3- Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
4- Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an.
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao.
1- Con chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng con hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn con hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
2- Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
3- Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc.
4- Hãy giữ lưỡi đừng nói ra điều ác, và ngậm môi cho khỏi thốt ra lời gian ngoa. Hãy lo tránh ác và hành thiện, hãy tìm kiếm và theo đuổi bình an.
BÀI ĐỌC 2: "Anh Chị em hãy ăn ở
khôn ngoan theo thánh ý Chúa." (Ep 5: 15-20)
Bài trích thơ Thánh Phaolô Tông đồ gởi
tín hữu Êphêsô.
Anh chị em thân mến, anh chị em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: Biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh chị em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh chị em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là Lời Chúa
Anh chị em thân mến, anh chị em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: Biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh chị em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh chị em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Đó là Lời Chúa
ALLELUIA: Gioan 14:
23
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.
PHÚC ÂM: "Thịt Ta thật là của ăn
và máu Ta thật là của uống." (Ga 6: 51-58)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh
Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do Thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do Thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông nầy có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là cuả uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh nầy thì sẽ sống đời đời".
Đó là Lời Chúa.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do Thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do Thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông nầy có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là cuả uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha, là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh nầy thì sẽ sống đời đời".
Đó là Lời Chúa.
CN 20 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Cn. 9, 1-6; Ep. 5, 15-20; Ga. 6, 51-58
MỤC LỤC
1. Rước lễ
2. Mình Máu Thánh Chúa.
3. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
4. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
5. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
6. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
7. Đức Kitô hiện diện.
8. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
9. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
10. Tôi là Bánh.
11. Bí Tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần
Việt Hùng
12. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn
Hào
13. Bánh Thánh Thể
14. Thánh Thể- Hiến Tế.
15. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta – Noel
Quesson.
16. Bánh hóa nhiều.
17. Bánh Thánh Thể.
18. Bánh Hằng Sống.
19. Thánh Thể.
20. Bánh hằng sống.
21. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm linh
- JKN
22. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự
sống
24. Chú giải của Noel Quesson.
1. Rước lễ
Có một cô sinh viên, được đặc ân mỗi
tuần mang Mình Thánh Chúa đến cho một cụ già sống lẻ loi và cô quạnh. Cô sinh
viên đã kể lại như thế này: Sau khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, đọc lại
bài Phúc Âm ngày Chúa nhật cho cụ nghe, rồi bàn bạc trao đổi với cụ về một vài
điểm mà đoạn Phúc Âm ấy đã gợi lên. Tiếp đến là giây phút cụ trông đợi cả tuần
lễ. Tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha. Rồi tôi giờ Mình Thánh lên và nói với
cụ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời tới
dự tiệc Con Thiên Chúa. Và cụ đáp lại: Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào
nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. Đoạn tôi
trao Mình Thánh cho cụ. Sau một vài phút thinh lặng, tôi giúp cụ cầu nguyện:
Lạy Chúa, ước gì Mình Thánh Chúa mà cụ vừa lãnh nhận, mang lại cho cụ sức khoẻ
phần hồn cũng như phần xác. Xin Chúa giải thoát cụ khỏi mọi khổ đau và bệnh
tật, xin hãy dùng sức mạnh của Chúa mà nâng đỡ, chở che để cụ cũng sẽ được phục
sinh trong cuộc sống mới vào ngày sau hết. Sau đó, hai người ngồi nói chuyện
một lúc rồi tôi tạm biệt và hứa sẽ cầu nguyện cho nhau và hẹn gặp lại vào Chúa
nhật tuần tới.
Câu chuyện đơn sơ trên cho chúng ta
thấy loại đức tin mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có như lời Ngài đã nói qua đoạn
Phúc Âm sáng hôm nay: Ta là bánh Hằng Sống từ trời xuống. Thịt Ta thật là của
ăn, Máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì kẻ ấy sống trong
Ta và Ta sống trong kẻ ấy. Cụ già và cô sinh viên đều chứng tỏ đức tin của họ
vào lời nói ấy của Chúa, bằng cách trao ban cũng như nhận lãnh Mình Thánh Chúa
Giêsu, bằng cách cùng cầu nguyện chung với nhau.
Và như thế, việc rước lễ phải
là một cảm nghiệm của đức tin, được thực hiện kèm theo lời cầu nguyện. Lúc
rước lễ là như một viên kim cương. Còn thời gian trước và sau rước lễ là như
một sợi dây vàng. Tự bản tính, viên kim cương vốn đã xinh đẹp, nhưng nó sẽ trở
nên vô cùng đẹp đẽ hơn nếu được gắn vào giữa sợi dây vàng và trở thành trung
tâm điểm. Cũng thế, tự bản tính việc rước lễ là một cảm nghiệm tuyệt đẹp, nhưng
nó sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp nếu được kèm theo những tâm tình cầu nguyện. Vậy
chúng ta đã cầu nguyện thế nào trước và sau khi rước lễ? Tâm hồn chúng ta nghĩ
gì khi tiến lên bàn thánh Chúa. Chúng ta có tâm sự với Chúa như với người bạn
thân hay không? Chúng ta có biết cảm tạ Ngài, xin Ngài tha thứ và hướng dẫn
chúng ta trên vạn nẻo đường đời?
Điểm thứ hai câu chuyện trên cho thấy
đó là thứ tình thương Chúa muốn chúng ta phải có với tư cách là những Kitô
hữu. Thực vậy, tình thương giữa cụ già và cô sinh viên là loại tình thương mà
mỗi người chúng ta cần phải cố gắng vun trồng cho nhau. Và bí tích Thánh Thể
chính là một phương tiện giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với nhau hơn như
lời thánh Phaolô đã viết: Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng chia sẻ một tấm
bánh và làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô. Vậy việc rước lễ có làm
cho đời sống chúng ta dồi dào tình thương mến, nhất là đối với những người khổ
đau và bất hạnh hay không? Nói cách khác, việc rước lễ có lôi kéo chúng ta đến
gần Chúa và đến gần nhau hay không?
2. Mình Máu Thánh Chúa.
Nếu hôm nay có ai đến bảo chúng ta
rằng: Bạn hãy ăn thịt và uống máu tôi đi, bạn sẽ sống mãi không chết bao giờ,
thì chắc chúng ta sẽ cho là người ấy mắc bệnh tâm thần.
Người Do Thái ngày xưa, kể cả các môn
đệ, khi nghe Chúa Giêsu nói những lời lẽ tương tự cũng đã bảo nhau: Lời ấy
chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi.
Thực ra người Việt Nam chúng ta có
một cách nói khác: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Thực vậy, chén cơm là kết quả của công lao khó nhọc nơi người nông dân: từ lúc
gieo xạ, tới lúc chăm sóc, phân bón, làm cỏ, trừ sâu và gặt hái. Bao nhiêu công
đoạn là bấy nhiêu nhọc nhằn, có khi còn phải tủi nhục, đoạ đày dưới ánh mắt của
những chủ điền độc ác. Chính nhờ mồ hôi nước mắt, nhờ những cay đắng nhọc nhằn
ấy mà chúng ta được sống.
Mà không phải chỉ có mồ hôi nước mắt
của nhà nông mà thôi. Khi cha mẹ tôi đổ mồ hôi kiếm sống nuôi tôi thì chén cơm
trên bàn ăn mẹ xới cho tôi chính là một phần của máu thịt cha mẹ tôi sẻ bớt cho
tôi. Tôi sống nhờ thịt máu các ngài.
Chúa Giêsu khi cầm tấm bánh bẻ ra và
nói: Tất cả hãy cầm lấy mà ăn, thì Ngài đã nghĩ ngay đến cái chết của mình vì
nhân loại, nên đã nói tiếp: Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.
Nếu sau việc làm này, nghĩa là nếu sau
khi đã bẻ bánh và nói những lời ấy Chúa Giêsu không bị giết thì việc làm của
Ngài chỉ là một chuyện đùa và không ai nhắc lại làm gì. Nhưng thật sự Ngài đã
bị giết, bị mai táng và đã sống lại, bởi thế tấm bánh Ngài bẻ ra thực sự có ý
nghĩa. Đó là chính thân thể Ngài bị giết để có thể trở thành của ăn của uống
cho chúng ta.
Thật vậy, khi chúng ta ăn cái gì thì
cái đó biến thành máu thịt chúng ta. Chúng ta ăn thịt và uống máu Con Người thì
thịt máu ấy trở thành thịt máu chúng ta. Người nên một với ta, ta nên một với
Người hay nói cách khác, ta ở trong Người và Người ở trong ta. Và như thế, nếu
Người sống đời đời thì ta cũng phải được sống đời đời như Người và với Người.
Do đó, nhờ bí tích Thánh Thể chúng ta
nhận được từ nơi Người chính sự sống của Người để có thể nói như thánh Phaolô:
Tôi sống nhưng không phải tôi sống, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nếu
thực sự Đức Kitô sống trong tôi thì điều đó phải được tỏ hiện qua tâm tình, lời
nói và hành động của tôi. Bởi thế ai ăn thịt và uống máu Đức Kitô mà không sống
như Người đã sống, nghĩa là không yêu thương anh em như Người đã yêu thương thì
kẻ đó đã thực sự rước lễ chẳng nên vì thịt máu Đức Kitô không biến thành thịt
máu kẻ ấy. Người đã không ở trong họ và họ cũng chẳng ở trong Người và như vậy
họ chẳng bao giờ được sống đời đời.
Bí tích Thánh Thể không được lập ra chỉ
để nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, biến chúng ta thành những kẻ đạo đức, mà chủ
yếu đây là bí tích của yêu thương và hợp nhất. Bí tích mời gọi chúng ta biết
chia sẻ cuộc sống với người khác. Bởi đó, kẻ chỉ biết ngồi ở bàn tiệc Thánh Thể
mà không bao giờ biết ngồi vào bàn ăn với anh em, nhất là không biết dọn bàn ăn
cho anh em mình, thì đó là kẻ chưa hiểu được ý nghĩa của bí tích này và cũng
chẳng hưởng được hồng ân nơi bàn tiệc của Chúa.
3. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Khi thông ban Sự Sống của chính mình
cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân,
một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà
Không gì trên đời quý bằng sự sống. Dù
có bị thiên tai mất hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng chưa phải
chết thì vẫn còn may.
Được sống là một hồng phúc lớn nhất, là
một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Theo nhà văn Jack London thì "thà làm
một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Làm một con chuột sống còn
hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: "Mạng sống quý hơn đống
vàng".
Vì yêu thương con người trên hết mọi
sự, nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý hơn tất cả mọi quà tặng,
đó là sự sống; nhưng Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật mà còn thông ban
cả Sự Sống của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban sự sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự
Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha. Người thông ban Sự Sống của Người cho Chúa
Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con). Chúa Giêsu xác nhận sự sống của Người từ
Chúa Cha mà đến: "Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ
Chúa Cha" (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha,
Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống
cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được
sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho
vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân
được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân
thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được
Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích
Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân
loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với
Người, được ở lại trong Người: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại
trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy."
Những ai "ở lại trong Chúa Giêsu
và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy", thì tất nhiên Sự Sống của Chúa
Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu
thông ban, qua việc tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có
thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
"Đức Giêsu nói với người Do-thái
rằng: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống
muôn đời." (Ga 6, 51)
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì
được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết." (Ga
6, 54)
Thế là thông qua việc ăn Mình và Máu
Chúa Giêsu, con người được nên "cùng một thân mình, cùng một dòng
máu" với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được
thông ban cho họ.
Khi thông ban Sự Sống của chính mình
cho nhân loại, Thiên Chúa ban cho họ một hồng ân cao quý hơn hết mọi hồng ân,
một quà tặng tuyệt vời trên tất cả mọi món quà.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh
Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu
khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
"Thực thế, chúng ta thông phần
Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy" (trích
bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư,
tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho
biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính
Thiên Chúa:
"Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức
Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế,
chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp
toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính
Thiên Chúa." (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong
bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Chúa ban thật vô cùng lớn lao
và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan
lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ
tri ân.
4. Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng
ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Thiên Chúa vô cùng yêu thương chúng ta
nên Ngài muốn ban cho chúng ta món quà cao quý nhất.
Nhưng thưa ông bà anh chị em, nếu giờ
đây Chúa hiện ra và phán với mỗi người rằng: "Ta sẽ ban cho các con món
quà quý báu nhất", thì chúng ta sẽ xin Ngài điều gì? Xin vài tấn gạo? Có
nhiều điều khác giá trị hơn gạo. Xin tiền? Vài tỉ bạc cho mỗi gia đình? Còn
nhiều điều khác quý hơn tỉ bạc. Xin một tấn vàng ròng? Còn có điều quý hơn vàng
bạc, hơn bảo ngọc trân châu. Đó là sự sống! Ông bà chúng ta thường nói:
"Mạng sống quý hơn đống vàng". Được sống là một may mắn vô cùng, là
một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Nhà văn Jack London nói: "Thà làm một
con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết". Đúng vậy. Làm một con chuột
sống còn hơn một con voi chết! Dù mất hết tiền bạc của cải, nhưng còn được sống
thì cũng còn may.
Nhưng sự sống cũng có nhiều đẳng cấp
khác nhau.
Sự sống của cây cỏ vốn thấp kém, hầu
như vô tri vô giác. Cây cối không biết khóc, không biết cười, không biết đau
đớn cũng như mừng vui, lại phải chôn chân một chỗ cho đến lúc lụi tàn.
Sự sống của các loài côn trùng như
giun, như sâu bọ, như kiến... tuy cao hơn loài thảo mộc một chút nhưng còn ở
đẳng cấp thấp.
Sự sống của cá nước, chim trời, của
loài cầm thú cao hơn sự sống của cỏ cây, của côn trùng, nhưng vẫn chưa phải là
mức sống cao.
Sự sống của con người cao vượt hơn cả:
hơn sự sống của hoa lá cỏ cây, hơn sự sống của côn trùng, hơn sự sống của chim
trời cá nước, hơn sự sống của các loài muông thú, nhưng dù vậy vẫn còn thua sự
sống của các thiên thần và còn thua xa sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của
Thiên Chúa là sự sống cao quý vô song.
Sự sống con người cao quý thật, nhưng
tiếc thay, sự sống ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho tổn thương, làm cho khiếm
khuyết và giới hạn. Khiếm khuyết vì bệnh tật, vì già yếu, và giới hạn bởi cái
chết.
Thế nên Thiên Chúa nhân lành tiên liệu
ban thêm cho loài người sự sống khác, vô cùng phong phú, vô cùng cao quý, và
không bao giờ cùng tận, đó là sự sống của chính Ngài. Thiên Chúa lấy chính sự
sống của Mình làm quà tặng cho loài người khốn hèn tội lỗi! Có ai hiểu nổi
không?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
khẳng định với chúng ta điều đó.
Chúa Giêsu nói: "Tôi là bánh hằng
sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."
Phẩm chất của sự sống Chúa ban là vĩnh
cửu, không thể lụi tàn.
Và sự sống nầy chính là sự sống của
Chúa Cha: "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa
Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta
rằng Sự Sống mà Ngài đã nhận được từ nơi Chúa Cha, thì Ngài thông ban lại cho
chúng ta. Sự sống thần linh bắt nguồn từ Chúa Cha, thông truyền cho Chúa Con và
Thánh Thần, giờ đây lại được Chúa Giêsu khơi dòng để chảy tràn vào mỗi người
chúng ta, nếu chúng ta ăn Ngài, tức là đón nhận Ngài, rước lấy Ngài trong bí
tích thánh thể.
"Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy."
Thật tuyệt vời không thể tưởng tượng
được. Thiên Chúa thông ban sự sống cao quý của chính Ngài cho chúng ta qua Chúa
Giêsu.
Món quà vô cùng quý báu, vượt xa tất cả
mọi món quà đã được Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho chúng ta. Chúng ta hãy
mau mau nhận lãnh món quà quý báu nầy với tất cả tấm lòng cảm tạ tri ân, đồng
thời hãy cầu xin Chúa cho sự sống thần linh ấy thực sự trổ sinh hoa trái dồi
dào trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
5. Đức Kitô mẫu gương tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ngày 24/6/2009, tại phòng trọ ở thành phố
Tuy Hòa, 2 bình gas loại du lịch đã phát nổ khiến Tuyên và một bạn cùng phòng
bị bỏng. Với tình trạng bỏng nặng tới 65%, các bác sỹ đã dự đoán cô gái này khó
có thể qua khỏi, đặc biệt là ở thời điểm sau 10 ngày nằm viện, Tuyên được chẩn
đoán là bị nhiễm trùng máu khá nặng.
Thương con, người cha là Lê Thanh Tuấn
đã năn nỉ các bác sỹ lóc da đùi của mình để cấy ghép vào phần da bị mất do bỏng
của con, dù chuyện này rất có thể sẽ đem đến biến chứng nguy hiểm cho người bị
huyết áp cao như ông. Nếu những chuyên gia phẫu thuật của bệnh viện Chợ Rẫy
không từ chối, thì có lẽ ông Tuấn đã sẵn sàng để họ lấy cả phần da từ bụng,
ngực... trên người mình để đắp sang con.
Sự hy sinh của người cha đã được phần
nào đền đáp khi sức khỏe của 'bé Út' dần khá hơn. Cô nữ sinh đã tỉnh táo hơn và
có thể trò chuyện được đôi lời. Còn ông Tuấn, sau nhiều ngày rất khó khăn trong
từng bước đi vì toàn bộ lớp da hai bên đùi đã bị lấy hết, cũng đã dần ổn định
và có thể cử động được.
Đến phòng bệnh tại khoa Bỏng của Bệnh
viện Chợ Rẫy vào những ngày này, gần như ở thời điểm nào trong ngày, người ta
cũng sẽ nhìn thấy cảnh một cô gái băng bó trắng toàn thân nằm trên giường. Bên
cạnh cô là người cha bó quanh đùi bằng những sợi băng y tế bị nhuộm đỏ. Ông
luôn ngồi đó, động viên chăm sóc cho cô con gái vẫn mang trong mình mong muốn
được thi đại học, khối C.
Vâng, nếu chúng ta được tận mắt nhìn
thấy những hình ảnh đó, có lẽ chúng ta cũng để cho dòng nước mắt của tình người
dạt dào tuôn trào nơi chúng ta. Nước mắt cảm thông. Nước mắt của trái tim hoà
nhịp với trái tim yêu thương của người cha lóc thịt cho con. Khóc vì ngưỡng mộ
một con người giầu lòng quảng đại. Yêu tha nhân không chỉ yêu như chính mình mà
còn quên cả bản thân. Một tình yêu quá cao vời. Nước mắt đồng cảm với một con
tim không chỉ biết nói lời yêu thương mà còn thể hiện bằng tình yêu trao ban
chính thịt máu mình để cấy trồng lại sự sống cho con.
Đó cũng là tình yêu mà Đức Giêsu đã thể
hiện trong cuộc sống của Ngài. Chính Ngài đã hiến dâng mạng sống cho con người
được sống và sống dồi dào. Chính Ngài đã sống vì cuộc sống của nhân loại. Ngài
đến trần gian để cứu độ nhân loại. Ngài sống không phải vì mình mà cho thế gian
được ơn cứu độ. Ngài yêu thương thế gian đến nỗi còn muốn trao ban chính mình
làm của ăn của uống cho nhân loại. Chính Ngài đã xác quyết rằng "Thịt Ta
thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống". Ai ăn và uống Mình và Máu Ngài
không chỉ được sống hạnh phúc mà còn hơn thế nữa là được sống muôn đời. Ngài là
bánh trường sinh. Dân Do Thái đã từng được ăn Mana từ trời nhưng rồi cũng chết.
Còn ai ăn và uống Mình Máu thánh Ngài sẽ được sống muôn đời.
Tình yêu luôn phát sinh những điều kỳ
diệu. Có tình yêu sẽ có sáng tạo. Tình yêu đã làm phát sinh biết bao nghĩa cử
cao đẹp mà con người dành cho nhau. Từ lời nói đến hành động luôn biết làm đẹp
lòng nhau. Người ta chắt chiu từng lời nói, từng việc làm để cho người mình yêu
được vui lòng. Tình yêu là một quà tặng vô giá mà chúng ta dành cho nhau. Không
có tình yêu sẽ không có tặng ban. Món qùa được trao tặng không có tình yêu chỉ
là một thủ đoạn, lừa dối và nhẹ hơn chỉ là sự trao đổi qua lại theo lẽ công
bằng với nhau.
Thế giới hôm nay rất cần tình yêu để
con người được sống trong an vui và hạnh phúc. Sự sống còn của nhân loại hoàn
toàn tuỳ thuộc vào khả năng yêu thương của chính con người. Hàng ngày trên thế
giới có hàng triệu người đã chết bởi sự thiếu tình yêu của đồng loại. Bởi thù
hận người ta giết nhau bằng súng đạn, gươm giáo. Bởi thiếu trách nhiệm người ta
giết nhau bằng sự bỏ rơi và dửng dưng.
Thế giới không có tình yêu sẽ hoang tàn
đổ nát tựa như cơn lũ đã tàn phá môi trường chỉ để lại sự dơ bẩn và chết chóc.
Đó chính là thảm cảnh mà chúng ta đang phải đối diện. Bởi thiếu vắng tình yêu
đã đẩy sự dữ ngày một gia tăng. Sự dữ ẩn chứa khắp nơi. Sự dữ luôn đe doạ hủy
diệt địa cầu bất cứ giờ nào. Kẻ dữ luôn gia tăng sự ác. Kẻ lương thiện ngao
ngán sự đời. Kẻ khôn ngoan né tránh. Người dại dột thì lãnh đủ. Người ta nói
rằng: "Khôn cũng chết. Dại cũng chết. Biết thì sống". Biết để né
tránh. Biết để thủ thế. Biết để an phận thủ thường. Một lối sống "biết để
sống" đến nỗi bỏ quên đồng loại, chỉ lo toan cho mình nên không có sự sáng
tạo trong yêu thương. "Biết để sống" dẫn đến đa nghi nên thế giới
chẳng ai tin ai. Thế giới đã chết vì thiếu vắng tình yêu.
Mỗi lần chúng ta rước Chúa là được đón
nhận chính sự sống và tình yêu của Chúa. Ước gì tình yêu Chúa tuôn chảy trong
con tim của chúng ta để chúng ta dám hiến dâng chính mình vì sự sống của tha
nhân. Ước gì mỗi người biết hy sinh cho nhau, và biết kiến tạo hạnh phúc cho
nhau, chắc chắn cuộc sống này sẽ đẹp hơn. Ước gì mỗi người chúng ta biết noi
gương Chúa Giêsu trở thành quà tặng mang lại cho anh em niềm vui và hạnh phúc.
Xin cho chúng ta luôn cảm nghiệm rằng "chính lúc cho đi là khi được nhận
lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Amen.
6. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Đức Giêsu nói "thịt Ngài là thật
của ăn và máu Ngài thật là của uống", và hơn nữa, "ai ăn bánh này sẽ
sống muôn đời".
Kitô hữu tin rằng bánh rượu sau khi
linh mục đọc lời truyền phép trong thánh lễ, thực là mình và máu Đức Giêsu Kitô
Phục Sinh. Với giác quan, con người vẫn thấy đó là tấm bánh và rượu, nhưng với
con mắt đức tin, đó là mình máu Chúa Giêsu Kitô. Đây không là phép lạ, vì nếu
là một phép lạ, thì mọi người đã nhận biết đó là thịt máu Đức Giêsu, và con
người không thể chối cãi được; chẳng hạn một số người nhận được phép lạ chữa
lành bệnh tật ở Lourdes, người ta không thể phủ nhận điều này. Bánh rượu sau
truyền phép là một bí tích, nghĩa là, là một dấu chỉ hữu hình để Thiên Chúa ban
ơn sủng thiêng liêng cho con người.
Bí tích Thánh Thể không đơn thuần là
dấu chỉ hữu hình Thiên Chúa dùng để ban ơn thiêng liêng, nhưng còn là biểu
tượng tình yêu của Thiên Chúa. Biểu tượng là dấu chỉ liên hệ mật thiết với điều
dấu chỉ trỏ tới, và cũng là chính thực tại, chẳng hạn thân xác là biểu tượng
của con người toàn diện. Bánh rượu nuôi sống và làm hoan lạc con người, bí tích
Thánh Thể, mình và máu Đức Giêsu Kitô, cũng nuôi sống và làm hoan lạc con
người, thể chất và tinh thần.
Bí tích Thánh Thể cho thấy Lời Thiên
Chúa tiếp tục tự hủy cho con người được sống. Lời Thiên Chúa đã tự hủy, nhập
thể làm người, giờ đây Đức Giêsu Phục Sinh đã được tôn vinh, thế nhưng Ngài vẫn
tiếp tục tự hủy nơi bí tích Thánh Thể. Bánh rượu trở thành mình máu Đức Giêsu
Kitô: ôi vật chất sao được diễm phúc đặc biệt này. Lời Thiên Chúa tự hủy cho
con người thấy nét đẹp và cao quý của thân xác, điều mà nhiều người tưởng rằng
thân xác là cái gì kém giá trị. Bí tích Thánh Thể cho thấy vật chất cũng là cái
gì tuyệt vời, vì Lời Thiên Chúa nhập thể đã dùng để làm nên mình máu thánh
Ngài.
Bí tích Thánh Thể, mình máu thánh Đức
Giêsu Kitô, là bánh ban xuống bởi trời. Là lương thực ban cho con người sự sống
vĩnh cửu. Bí tích Thánh Thể là bánh hằng sống đối với những người tin Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa nhập thể. Với những người này, chính qua bí tích Thánh Thể mà
các tín hữu được quy tụ, để họ được nghe Lời Chúa và được rước mình và máu
Chúa. Bí tích Thánh Thể nuôi sống đời sống thiêng liêng của họ, củng cố đức tin
của họ vào Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, giúp họ sống bình an hạnh phúc trong
những ngày ở dương gian này.
Bí tích Thánh Thể là biểu tượng tình
yêu của Đức Giêsu cho con người, vì Thánh Thể là chính mình máu Ngài. Nơi bí
tích Thánh Thể, người ta đọc thấy tình yêu của Đức Giêsu đã hiến mạng sống cho
con người, cho những ai tin vào Ngài. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu
của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình (Ga.15, 13). Đức Giêsu đã hiến mạng
cho con người, và điều này được thấy một cách cụ thể qua qua bí tích Thánh Thể
khi Đức Giêsu nói: "các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình thầy, sẽ bị nộp
vì anh em.... Này là chén máu thầy, máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ
ra cho nhiều người được tha tội". Bí tích Thánh Thể là chính mình máu
thánh Người, được ban tặng cho con người, để trở thành bánh ban sự sống, để trở
thành giá cứu chuộc con người. Con người thật là tạo vật được Thiên Chúa quý
trọng biết bao, vì nó đã được Đức Giêsu hiến mình cứu chuộc.
Với bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đang
hiện diện với con người một cách bí tích nhưng thật cụ thể đối với những người
tin. Thiên Chúa ở với con người qua Ngôi Lời nhập thể là Đức Giêsu; giờ đây Đức
Giêsu Phục Sinh đã được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang ở với con
người tuy dù con người không thể thấy Ngài bằng mắt trần, và rồi Ngài đang hiện
diện với tín hữu cách đặc biệt nơi bí tích Thánh Thể. Thiên Chúa vẫn tiếp tục
hiện diện cụ thể với con người. Thiên Chúa luôn ở với con người, và Ngài còn
luôn ở lại với con người một cách cụ thể qua bí tích tình yêu này.
Khi một người nhận lãnh lương thực nuôi
thân xác, lương thực được biến hóa thành thịt máu người nhận; khi một Kitô hữu
đón nhận mình và máu Đức Giêsu Kitô vào lòng, Đức Giêsu Kitô làm cho người lãnh
nhận được trở nên một với Ngài, được thần hóa nhờ Ngài. Mình máu Đức Giêsu Kitô
thánh hóa Kitô hữu, làm Kitô hữu trở nên thánh một khi họ rước mình và máu
Ngài. "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong
tôi".
Bí tích Thánh Thể, thần lương quy tụ,
gầy dựng, và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ước gì mỗi Kitô hữu nhận biết giá trị vô
lường của bí tích Thánh Thể, để trân trọng và hân hoan đón nhận bí tích cao quý
này mỗi ngày, để bí tích Thánh Thể trở thành nguồn sống cho cá nhân và cộng
đoàn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bí tích Thánh Thể có giúp bạn sống
hạnh phúc không?
2. Theo kinh nghiệm sống, bí tích Thánh
Thể ảnh hưởng trên đời bạn thế nào?
7. Đức Kitô hiện diện.
Thân xác cần phải ăn uống thì mới sống
được. Một chút thực phẩm dự trữ cũng đủ để người bị lạc trong rừng sống thêm
đôi ba ngày. Một chút nước trong sa mạc cũng giúp kéo dài thêm sự sống.
Con người, như chúng ta đã biết, không
chỉ là thân xác mà còn là tinh thần. Và tinh thần cũng cần phải được nuôi dưỡng
để tồn tại và phát triển. Người ta đã nói đến những món ăn tinh thần như sách
báo, nghệ thuật... Chúa Giêsu còn muốn cung ứng cho chúng ta một món ăn tinh
thần cao quí và tuyệt hảo hơn nhiều, đó là chính bản thân Ngài, bởi vì Ngài
muốn trở nên lương thực nuôi sống nhân loại.
Thế nhưng, làm sao Ngài lại có thể cho
chúng ta ăn thịt Ngài và uống máu Ngài? Tôi xin thưa Ngài đã dùng quyền năng mà
biến đổi tấm bánh và chén rượu trở thành thịt và máu thánh Ngài, để khi ăn tấm
bánh và uống chén rượu, chúng ta được kết hiệp với chính con người của Ngài.
Như thế, khi rước lễ, chúng ta không lãnh nhận một Đức Kitô đã chết và nay chỉ
còn là một cái xác không hồn. Trái lại, chúng ta đón nhận một Đấng đã sống, đã
chết và đã sống lại, hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Thánh Gioan đã diễn
tả:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở
trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy.
Mà ở trong Chúa, chắc hẳn cuộc đời
chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái. Cũng vì xác tín như vậy, mà Giáo Hội luôn
tỏ lòng kính trọng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Sau khi
truyền phép, vị linh mục nâng cao mình và máu thánh Chúa, để chúng ta thờ lạy.
Ngoài ra, Giáo Hội còn tổ chức những
cuộc rước kiệu, chầu phép lành, các đại hội Thánh Thể trên toàn thế giới. Đức
Kitô đến với chúng ta qua bí tích Thánh Thể và Ngài cũng còn đến với chúng ta
dưới nhiều hình thức khác nữa.
Khi tham dự thánh lễ cùng với cộng
đoàn, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện của Ngài giữa lòng Giáo Hội:
- Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế.
Giáo Hội là thân mình mầu nhiệm của Đức
Kitô. Thân mình này được nuôi dưỡng bởi mình và máu thánh Ngài. Như thế, chúng
ta cần ý thức về sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Giáo Hội.
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn hiện diện khi
chúng ta lắng nghe lời Ngài. Chính ngài nói với chúng ta, khi chúng ta đọc Kinh
Thánh trong Giáo Hội. Nơi Thánh lễ, chúng ta thấy bàn tiệc mình máu thánh Chúa
và bàn tiệc lời Chúa. Đó không phải là haibàn tiệc tách biệt, vì trong Thánh
lễ, cả lời Chúa lẫn mình Chúa được dọn ra trên một bàn ăn, để giáo dân được
hướng dẫn và bổ sức.
Chúa Giêsu không phải chỉ ở ngoài chúng
ta, nhưng Ngài còn ở trong chúng ta. Ngài ở trong trái tim, Ngài ở trong cõi
lòng chúng ta. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta quên đi sự hiện của Ngài nơi chính
bản thân mình. Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng là một nhà tạm, một đền
thờ cho Chúa ngự trị. Không phải chỉ khi lên rước lễ, Ngài mới bắt đầu hiện
diện trong chúng ta và lúc đó chúng ta mới có thể gặp gỡ Ngài. Thật ra Chúa
luôn ở với chúng ta, và lúc nào ta cũng có thể trở về với lòng mình để gặp gỡ
Ngài.
Sau cùng, Chúa Giêsu còn hiện diện ở
bên ngoài nhà thờ, nhất là nơi những người bất hạnh, đau khổ, đói khát, ốm yếu,
trần trụi... Họ cũng là những bí tích của Đức Kitô. Ẩn dưới tấm bánh là mình
thánh Chúa. Còn ẩn dưới những kẻ sống bên lề xã hội là Đức Kitô thiếu thốn đang
xin trợ giúp. Cần phải có cặp mắt đức tin để khám phá ra sự hiện diện của Chúa
nơi những thực tại của đời thường. Ngài không quen đến với sự hào nhoáng và
vinh quan hiển hách. Ngài đến với chúng ta với thận phận của một con người yếu
đuối.
Hãy khiêm nhường để tìm thấy sự hiện
diện khiêm tốn của Chúa, nhờ đó biến đời mình trở thành một cuộc gặp gỡ liên
tục với Ngài.
8. Thịt Ta là của ăn – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Nói đến máu thịt là nói đến những gì
thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu
vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương
của mẹ. Yếu tố "gen" là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực
lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm
thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm
sinh lý nữa.
Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong
con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống
của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó.
Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.
Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng
ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người
không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh
Gioan Tông đồ định nghĩa: "Thiên Chúa là tình yêu". Khi ban cho ta
Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.
Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu
phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng
sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói:
"Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính
mạng vì bạn hữu của mình". Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người,
ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy
mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp
nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành
thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là
một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.
Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa
Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu
Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu
xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa
mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho
xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian
vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong
tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở
trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa,
yêu thương như Chúa.
Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người,
Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong
Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ
Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống
vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người
ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu
mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?
2) Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều
này có ý nghĩa gì?
3) Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở
trong Chúa bạn phải làm gì?
4) Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống
nhờ Chúa bạn phải làm gì?
9. Kẻ Ăn Tôi Sẽ Sống Nhờ Tôi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Lúc đó tôi biết thế nào tôi cũng
chết
nhưng tôi muốn con tôi được sống"
Đó là lời của bà Susanna sau khi được
cứu
trong trận động đất ở Ácmêni vào tháng
12-1987.
Trong số hàng ngàn người bị vùi lấp
dưới đống gạch,
có hai mẹ con bà Susanna may mắn còn
sống sót.
Cô con gái bốn tuổi đòi uống nước.
Tìm đâu ra nước khi hai mẹ con không có
lối ra?
Tình mẫu tử đã gợi lên cho bà một ý
nghĩ táo bạo,
đó là rạch ngón tay mình chảy máu để
cho con mút.
Đứa bé đã đỡ khát nhờ máu người mẹ.
Nó đã sống cho đến khi cả hai mẹ con
được cứu.
Câu truyện trên giúp ta hiều phần nào
bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu đã chết để chúng ta được
sống.
Ngài chấp nhận chịu đổ máu qua cái chết
thập giá,
và Ngài muốn máu Ngài trở nên thức uống
cho chúng ta.
Trong các nhà thờ, vào dịp lễ Giáng
sinh,
thường có những người ngoài Kitô giáo
đến dự lễ.
Cũng có ít người tò mò lên "ăn
bánh thánh".
Họ ngạc nhiên vì tấm bánh mỏng manh,
nhạt nhẽo.
Nhưng họ sẽ ngạc nhiên hơn nhiều nếu
chúng ta bảo họ:
"Ăn tấm bánh đó là ăn thịt Chúa,
uống chén rượu đó là uống máu
Chúa".
Thật là kinh khủng, làm sao có chuyện
như vậy?
Đây là mầu nhiệm đức tin, không dễ giải
thích cho người ngoài.
Tất cả bắt đầu từ ước muốn lạ lùng của
Đức Giêsu.
Ngài muốn nuôi nhân loại bằng chính con
người Ngài.
Ngài muốn trở thành đồ ăn thức uống cho
nhân loại:
"Các con hãy cầm lấy mà ăn, đây là
Mình Thầy.
Các con hãy cầm lấy mà uống, đây là Máu
Thầy."
Mình và Máu tượng trưng toàn thể con
người Đức Giêsu.
Nên khi rước lễ, ta không chỉ rước thịt
mình Ngài,
mà rước lấy cả con người Ngài dưới dạng
tấm bánh.
Rước lễ là gắn bó với một ngôi vị:
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi
thì ở lại trong tôi
và tôi ở lại trong người ấy (c.56).
Rước lễ không phải là đón nhận một xác
chết,
nhưng là gặp gỡ Đức Giêsu đã chết và
nay đã phục sinh.
"Như tôi sống nhờ Chúa Cha thế
nào,
kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như
vậy" (c.57).
Rước lễ là đón lấy sự sống từ Đấng đang
sống,
cũng là sự sống duy nhất bắt nguồn từ
Chúa Cha.
Hôm nay, Đức Giêsu phục sinh có một lối
hiện diện mới mẻ.
Ngài không hiện diện dưới dạng một con
người,
nhưng dưới dạng đồ ăn, đồ uống.
Như thế cả vật chất bất động cũng được
nâng lên,
cả lao công của con người cũng được
thánh hiến.
Vật chất trở thành biểu tượng cho sự
hiện diện thần linh.
Vật chất có chỗ trong thế giới của
Thiên Chúa.
Ước gì thế giới vật chất ở quanh ta
cũng nên thánh, nhờ được chia sẻ trong
yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bài Tin Mừng hôm nay có 10 từ
"sống". Bí tích Thánh Thể là bí tích ban sự sống. Bạn có thấy thánh
lễ đem lại sức sống cho bạn không? Nếu không, tại sao?
Bạn nghĩ gì về thái độ của bạn khi rước
lễ? Đó có phải là một cuộc gặp gỡ thân tình không? Bạn có chuẩn bị gì khi rước
lễ? Bạn có dành những giây phút lặng lẽ để tâm sự với Chúa sau rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp
nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của
trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, nơi quán bia đầu
ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
nơi tình yêu trong ngần của đôi bạn
trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu
đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa.
10. Tôi là Bánh.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Cả các Kitô hữu cũng ngỡ ngàng trước bí
tích Thánh Thể.
Ăn thịt và uống máu người mình yêu là
điều khủng khiếp chẳng ai dám nghĩ tới. Nhưng Đức Giêsu lại muốn nuôi cả nhân
loại bằng Thịt và Máu Ngài. Và thực sự Ngài đã nuôi ta bằng cái chết thập giá -
ở đó Ngài đã hy sinh Máu Thịt mình.
Đúng hơn, Ngài nuôi chúng ta bằng sự
sống của Ngài: sự sống được trao đi qua cái chết tự nguyện, và sự sống được lấy
lại qua phục sinh vinh quang.
Đức Giêsu ban cho ta Tấm Bánh (c.51).
Ngài còn tự nhận mình là Tấm Bánh (cc.48.51): Tấm Bánh có sự sống và Tấm Bánh
ban sự sống. Tôi là Tấm Bánh: đó là định nghĩa của Đức Giêsu về mình.
Định nghĩa này có làm ta ngạc nhiên
không? Bánh là cái gì ăn được và đem lại sự sống. Bánh không sống cho mình,
nhưng cho người khác.
Chấp nhận là bánh có nghĩa là chấp nhận
mất mình, mà chỉ khi mất mình như thế, bánh mới thật là bánh, mình mới thật là
mình. Thật ra bánh vẫn hiện diện và nên một với người ăn. Đức Giêsu là Tấm Bánh
đặc biệt. Khi tôi ăn, Ngài thành tôi và biến tôi thành Ngài. Một sự ở lại hai
chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm.
"Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi
thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (c.56).
Rước lễ là đón lấy dòng sự sống, chấp
nhận sống nhờ.
Đức Giêsu sống nhờ Cha và chúng ta sống
nhờ Đức Giêsu (c.57).
Như cành nho sống nhờ thân cây nho,
chúng ta cũng sống nhờ, nghĩa là sống trong và sống cho Chúa.
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã từng
có thái độ nhìn và thờ lạy Thánh Thể hơn là cầm lấy mà ăn. Động từ ăn được nhắc
đến 8 lần trong bài Tin Mừng này, như một lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu.
Ngày nay, người ta rước lễ nhiều hơn
trước. Tiếc thay lắm khi cuộc gặp gỡ này khá vội vã, thiếu chuẩn bị và cũng
thiếu đối thoại thân tình.
Tôi lên rước lễ chỉ vì mọi người trong
hàng ghế đã lên.
Phút thinh lặng sau rước lễ cũng bị cắt
ngắn. Tôi phải về ngay vì phải lấy xe, vì nhà thờ đóng cửa... Chính vì thế rước
lễ chẳng gây được âm vang nào nơi tôi. Nó trở thành một thói quen, một nghi
thức thuần tuý.
Tôi lên ăn một vật thánh, thay vì đón
một người.
Ít khi có vị khách quý nào bị thường
xuyên tiếp đón lạnh nhạt như thế! Rốt cuộc chẳng có cuộc gặp gỡ nào xảy ra, nên
tôi vẫn cứ là tôi như trước.
Hãy dự lễ như người đi dự tiệc Lời
Chúa, Mình Chúa.
Chỉ ai biết ăn, biết thưởng thức và
nghiền ngẫm, người ấy mới gặp được sự sống và gặp được Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Đức
Giêsu tự định nghĩa mình là Cửa (10,7), là Mục Tử (10,11), là Ánh Sáng (12,46),
là Con Đường (14,6), là Cây Nho (15,1), là Tấm Bánh (6,48). Những định nghĩa
rất gợi hình và đều hướng về con người. Bạn thích định nghĩa nào hơn cả? Tại
sao?
Bạn nghĩ gì về việc bạn rước Chúa? Có
cái gì không ổn, cần sửa đổi không? Có khi nào bạn thấy mình gặp được Chúa sau
khi rước lễ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đến với
chúng con dưới dạng tấm bánh bình thường. Tấm bánh chẳng nói gì, chỉ biết lặng
lẽ chờ đợi. Tấm bánh hiện diện là để phục vụ cho con người. Tấm bánh quá đỗi
mong manh, nhỏ bé, có thể bị ẩm mốc làm hư hoại, và tan rất mau sau khi được
nhận lãnh.
Lạy Chúa Giêsu, có cái gì tương tự giữa
phận làm người và phận làm bánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cách đến với
con người hôm nay: đơn sơ, khiêm hạ, không chút vinh quang hay quyền lực. Nhờ
ăn tấm bánh của Chúa, chúng con cũng trở nên tấm bánh ngon, được bẻ ra để đáp
ứng khẩu vị của nhiều người. Ước gì chúng con dám rước Chúa đi vào mọi vùng mờ
tối của lòng mình, để sự hiện diện của Chúa trong con được lớn lên. Và ước gì
chúng con trở thành những Nhà Tạm di động, đem Chúa đến cho đồng bào và quê
hương chúng con. Amen.
11. Bí Tích Thánh Thể – Lm. Giuse Trần
Việt Hùng
Sách Phương Ngôn, cũng gọi là sách Châm
Ngôn, bao gồm những lời huấn dụ khôn ngoan của vua Salômôn, con vua Đavít. Sách
Châm Ngôn giúp con người tìm biết lẽ khôn ngoan và hiểu được những lời cao siêu
của các bậc hiền nhân. Sách này giúp chúng ta tìm mở lòng mở trí và học hỏi
thêm kiến thức. Kính sợ Thiên Chúa là bước đầu của kiến thức. Lời mời gọi khôn
ngoan: Các ngươi hãy đến ăn bánh của ta và hãy uống rượu ta đã pha sẵn cho các
ngươi (Cn 9, 5). Bánh và rượu đây là thức ăn quý báu dành cho những kẻ đơn sơ
chân thành. Bánh sẽ mang lại sự no thỏa thân xác và rượu sẽ làm hoan hỉ lòng
người. Được cùng chia sẻ bữa tiệc là cùng được chung hưởng niềm hoan lạc cuộc
sống.
Của ăn trao ban qua bánh rượu và các
bữa tiệc trần thế được chuẩn bị để đón nhận bữa tiệc hằng sống. Thánh Gioan đã
diễn tả những lời mạc khải về thần lương của Chúa Giêsu rất rõ ràng minh bạch.
Lời mạc khải trọn vẹn về sứ mệnh của Con Thiên Chúa làm người: Tôi là bánh hằng
sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban
tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Chúa Giêsu
không úp mở hay nói bóng nói gió theo kiểu ẩn dụ hoặc dụ ngôn với các môn đệ và
dân chúng. Chúa xác tín lời hằng sống và mời gọi mọi người hãy tin và chấp
nhận, vì đây là điều kiện để được sống muôn đời: Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt
tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống (Ga 6, 54-55). Thịt và Máu của
Chúa Giêsu được biến đổi trong Bí Tích Thánh Thể.
Dọc theo lịch sử, Giáo Hội đã trải qua
rất nhiều nghịch cảnh để loan truyền niềm tin vào Chúa Kitô đã từ cõi chết sống
lại. Cốt lõi của niềm tin là sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong Bí tích
Thánh Thể qua hình bánh và rượu. Ngay từ lúc khai sinh, Giáo Hội đã cử hành các
nghi thức phụng vụ xoay quanh việc Bẻ Bánh. Thực hành theo lời truyền dạy của
Chúa Giêsu: "Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các
ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này,
mà tưởng nhớ đến Thầy."(Lc 22, 19). Giáo Hội ở khắp năm châu, bốn biển
trong mọi thời khắc, luôn luôn có các linh mục cử hành Bí Tích Thánh Thể để
tưởng nhớ đến Thầy Chí Thánh.
Có nhiều phép lạ chứng minh sự biến đổi
Thịt và Máu Chúa Giêsu trong Phép Thánh Thể.Vào năm 750, tại Lancianô, nước Ý,
trong đan viện thánh Legonziano, có một linh mục dòng Basiliô đức tin lung lay
nghi ngờ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể.Khi linh
mục này dâng lễ, sau lời Truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên
máu, đông đặc lại thành năm hột nhỏ theo hình dáng đặc biệt.Sự lưu trữ Thịt và
Máu trong mười hai thế kỷ qua là lưu trữ cách tự nhiên, không bằng chất hoá
học, giữ trong không khí thường và môi trường sinh vật mà vẫn giữ được nguyên
chất.
Tại Ý, năm 1263, thành Bolsène, trong
nhà thờ Sainte Catherine, một linh mục sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ
về bánh và rượu trở thành Máu và Thịt Chúa Giêsu. Tức thì Máu Thánh chảy đẫm
khăn thánh và khăn bàn thờ. Đức Giáo Hoàng nghe tin này, đã ra lệnh đem khăn
thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette. Sau này Giáo Hội đã xây nhà thờ khang
trang để kính khăn thánh này.
Ngày 8 tháng 9 năm 1264, Đức Giáo Hoàng
Urbano IV (1262-1268) đã ký sắc lệnh Transiturus, thành lập lễ kính Mình Thánh
Chúa Giêsu, cử hành vào sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trong thời gian đó,
thánh tiến sĩ Thomas Aquino đã sáng tác nhiều bài hát vào dịp mừng lễ này như
bài Lauda sion, Pange lingua, Adoro Te và các kinh đọc Sacris Solemniis và
Verbum Supernum. Vào dịp lễ này, các Giáo xứ tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa ra
đường phố công cộng để mọi người tôn thờ.
Thời vua Philippe le Bel đang cai trị
nước Pháp (1285-1314), năm 1290, có một bà công giáo sống đạo đức. Vì nghèo, bà
phải đem cầm chiếc áo cho một người Do Thái. Đến gần lễ Phục Sinh bà đến chuộc
lại chiếc áo để mặc đi dự lễ. Người chủ đồng ý trả lại chiếc áo và không lấy
tiền lời, với điều kiện buộc bà là rước lễ xong phải nhả Mình Thánh ra và đem
về cho anh ta. Bà nghe lời nhả Mình Thánh vào khăn đem về cho anh ta. Anh để
Mình Thánh trên bàn lấy dao nhọn đâm nhiều lát. Máu trong Mình Thánh chảy ra.
Anh đem Mình Thánh bỏ vào lửa đốt, song Mình Thánh bay lên khỏi lửa.
Năm 1608, trong nhà dòng Faverney tại
Besançon, vào ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có chầu Mình Thánh Chúa trọng
thể. Trên bàn thờ trưng hoa và thắp nhiều đèn nến. Người ta sơ ý để đèn cháy
khăn bàn thờ, nhà tạm và bàn thờ. Trong khi lửa lan nhanh và bốc cháy khắp cả,
Mình Thánh đựng trong hào quang cứ bay lên lơ lửng trên không gian trọn một
ngày một đêm. Qua ngày thứ ba, người ta lập một bàn thờ khác thay bàn thờ đã
cháy và trong khi cử hành thánh lễ, thì hào quang từ từ đặt xuống bàn thờ. Có
nhiều người chứng kiến đã cùng hát kinh chúc tụng và thờ lạy.
Có rất nhiều chứng tích phép lạ Thánh
Thể được lưu giữ và ghi lại trong kho tàng tài liệu của Giáo Hội để chứng minh
sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.Thực ra, giáo lý về Bí
Tích Thánh Thể vẫn luôn là đề tài suy tư và tranh luận giữa các nhà thần học
của các Kitô Giáo. Giữa các giáo phái Tin Lành và Công Giáo có những quan niệm
thần học khác nhau về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Niềm
tin trong đạo Công Giáo là tin thật Chúa Giêsu tiếp tục ngự thật trong Bí Tích
Thánh Thể cả trong nhà tạm, nghĩa là sau khi dâng thánh lễ. Các giáo phái khác
không chia sẻ cùng niềm tin này. Một số Kitô hữu (Christians) tin rằng sự thánh
hiến bánh và rượu có thể là biểu tượng (symbolic) hay việc tưởng niệm của Bữa
Tiệc ly. Niềm tin của Giáo Hội Công Giáo là trong thánh lễ, sau khi linh mục
chủ tế đọc lời truyền phép: Đây là mình Ta...Đây là Máu Ta... thì bánh và rượu
trở nên Mình và Máu của Chúa Kitô.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu
Êphêsô nhắn nhủ rằng: Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha (Eph 5, 20). Thừa hưởng gia
tài vô giá của Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài, chúng ta được tiếp tục thông
hiệp vào tiệc Thánh Thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu và với
tha nhân. Chúng ta được trở nên một trong Chúa nhờ một phép rửa, một niềm tin
và một niềm hy vọng. Vậy chúng ta hãy thực thi lời của thánh Phaolô: Anh em hãy
cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy
sống như người khôn ngoan (Eph 5, 15).
Trong mọi sự, chúng ta hãy cùng dâng
lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha. Chúa đã ban bánh bởi trời cho nhân loại và bánh đó
có đủ mọi mùi thơm ngon: Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên
các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời (Ga 6.
58). Lạy Chúa, Chúa là nguồn ban sự sống. Xin cho chúng con biết đặt trọn
niềm tin tưởng và phó thác vào Chúa. Chúa sẽ cho chúng con bánh ban sự sống đời
đời. Amen.
12. Tôi Là Bánh Hằng Sống – Lm. GB. Văn
Hào
Công đồng Vaticanô II trong sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục (Presbiterorum Ordinis) đã viết: " Mọi bí tích
của Giáo hội đều quy nguồn về Thánh Thể, vì Thánh Thể chứa mọi kho tàng thiêng
liêng của Giáo hội, là nhiệm thể Đức Kitô. Không có Thánh Thể, không có đời
sống cầu nguyện và cũng không có việc rao giảng Tin mừng" (số 8). Lời
khẳng quyết của Hội thánh nêu bật nền tảng thiết yếu của bí tích Thánh Thể
trong đời sống Đức tin của mọi Kitô hữu.
Suốt bốn tuần qua, chúng ta đã suy gẫm
bài diễn từ về "Bánh" trong chương 6 của tin mừng thánh Gioan. Chúa
nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta một lần nữa lắng đọng tâm hồn để tiến
sâu vào quỹ đạo tình yêu nơi bàn tiệc thánh. Đó là bàn tiệc yêu thương, bàn
tiệc đức tin và cũng là bàn tiệc diễn bày sự hiệp thông huynh đệ.
Bàn tiệc tình yêu.
Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã
hóa thành xác phàm" (Ga 1,14). Thân xác Đức Giêsu sau khi sống lại đã đi
vào trong vinh quang với Chúa Cha, nhưng thân xác thánh thiêng ấy vẫn còn hiện
diện cách nhiệm mầu nơi bí tích Thánh Thể. Đó là sự hiện diện của tình yêu.
"Thiên Chúa vui thích ở giữa dân Ngài". Ngài đã đến cắm lều giữa
chúng ta, dọn sẵn cho chúng ta bữa tiệc để tỏ hiện tình yêu nhưng không của Ngài.
Đây cũng chính là bữa tiệc mà sách Khôn ngoan nhắc tới trong bài đọc thứ nhất
của phụng vụ hôm nay. Thực đơn của bàn tiệc này chỉ có một món duy nhất, đó là
tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu, là lương thực được hiến trao, như chính Đức
Giêsu đã khẳng định trong bài Tin mừng: " Tôi là bánh hằng sống từ trời
xuống". Không có từ ngữ nào lột tả được cách trọn vẹn mầu nhiệm tình yêu
sâu xa này. Chính Đức Giêsu đã khải thị cho các học trò trong bữa tiệc ly trước
khi Ngài đi thụ nạn: " Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của
người hiến ban mạng sống mình cho bạn hữu".
Muốn ngồi vào bàn tiệc tình yêu này,
chúng ta phải loại bỏ khỏi mình những gì thuộc ác quỷ, đối kháng với tình yêu
mà Thiên Chúa diễn bày. Thánh Augustinô đã nói: "Bánh mì nuôi sống con
người, nhưng sẽ giết chết chim diều hâu". Bao tử con người thích hợp với
bánh mì nhưng khi diều hâu ăn vào, bánh mì sẽ trương nở, nó bị ngạt thở và sẽ
chết. Bàn tiệc tình yêu sẽ không có chỗ để những con người ác tâm với một trái
tim diều hâu ngồi vào. Diều hâu chuyên rúc rỉa xác chết, là một hình tượng ám
chỉ những hôi thối và bẩn thỉu của tội lỗi. Ngồi vào bàn tiệc thánh, chúng ta
cần phải tinh luyện tâm hồn, loại bỏ đi những gian dối lọc lừa, những hận thù
ghét ghen, những tham lam bất chính. Chúa nói "Tôi là Bánh trường
sinh", bánh đem lại sự sống cho những người ngay lành nhưng sẽ giết chết
những tâm hồn diều hâu đầy gian ác.
Bàn tiệc đức tin.
Mỗi khi chầu Thánh Thể, chúng ta mượn
lại những vần thơ thánh của thánh Tôma Aquinô để hát lên: " Đây nhiệm tích
vô cùng cao quý. Nếu giác quan không cảm nhận ra, chúng ta hãy lấy đức tin bù
lại". Đức tin là điều kiện tiên quyết để dẫn đưa chúng ta đến bàn tiệc.
Chúa Giêsu đã nói: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ sống muôn đời"
(Ga 6,54). Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu cũng đã khải thị: "Ai tin
vào con của Người, sẽ được trường sinh" (Ga 3,15-16). Đây là hai cách diễn
tả của một thực tại duy nhất: Ăn bánh trường sinh và tin vào Thiên Chúa. Bàn
tiệc Thánh Thể chính là bàn tiệc của đức tin. Rất nhiều lần chúng ta đến nhà
thờ tham dự thánh lễ nhưng thiếu hẳn cảm thức đức tin cần phải có. Nhiều người
coi việc dự lễ mỗi tuần một lần vào Chúa nhật như một bổn phận phải làm để
lương tâm được yên ổn, hay để người khác khỏi dị nghị. Thái độ đức tin là điều
kiện tất yếu cần phải thể hiện, vì nếu không phát xuất từ đức tin, việc đi lễ
cách máy móc sẽ trở nên vô nghĩa và phí phạm thì giờ cách vô ích.
Tin không phải là một động thái mang
tính suy lý, nhưng trước hết đây là tác động của ơn sủng. Vì thế trong mỗi
Thánh lễ, Giáo hội luôn nhắc nhở " Đây là mầu nhiệm đức tin". Qua
lăng kính đức tin chúng ta mới có thể khám phá nguồn sống vô tận từ Bánh Hằng
Sống. Chỉ với đức tin soi dẫn, chúng ta mới có thể tiến sâu vào quỹ đạo tình
yêu linh thánh được diễn bày nơi bàn tiệc Thánh Thể mà chúng ta được mời tới
tham dự.
Bàn tiệc hiệp thông.
Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh
Thể trong khung cảnh một bữa ăn. Bữa ăn là dịp để quy tụ, gắn kết mối hiệp
thông trong từng mỗi gia đình hay tại bất cứ một tổ chức, một đoàn thể nào.
Cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần hiệp
thông này. Tác gỉa sách Tông đồ Công vụ thuật lại rằng, các tín hữu "luôn
chuyên cần lắng nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Họ sống hiệp nhất với nhau,
và để mọi sự làm của chung. Tất cả đều đồng tâm nhất trí. Khi làm lễ bẻ bánh
tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ (Cv 3,42-46). Sự hiệp thông này
đòi hỏi phải xóa bỏ những hàng rào cách ngăn, dẹp tan mọi toan tính ích kỷ mang
tính vụ lợi, và sống gắn kết nên một với nhau như lời ước nguyện của Chúa Giêsu
"Ut unum sint" (Xin cho chúng nên một).
Một tu sĩ nọ khi tham dự một Thánh lễ
khá đặc biệt ở Bolivia
thuộc Châu Mỹ La tinh đã tả lại quang cảnh buổi lễ đó như sau. Phần đầu lễ, vị
linh mục mời gọi mọi người thống hối. Vài giây phút thinh lặng để cầu nguyện,
sau đó một hồi trống nổi lên. Bốn thanh niên nam nữ từ cuối nhà thờ tiến lên
trước cung thánh, trên tay mỗi người mang một sợi xích thật nặng. Họ cố giơ cao
tay lên cùng với lời cầu nguyện: Lạy Chúa, đây là những dây xích biểu tượng sức
mạnh tội lỗi đang đè nặng trên chúng con. Chúng con chưa hết lòng yêu mến Chúa
và mến thương nhau. Trong cuộc sống hằng ngày, đức ái của chúng con vẫn bị
khống chế bởi những sợi xích của tham lam và ích kỷ, những trói buộc của đam mê
và dục vọng thấp hèn. Xin Chúa phá đi những dây xích nặng nề này nơi tâm hồn
tan nát và bầm dập của chúng con. "Lạy Chúa xin thương xót chúng
con." Cả cộng đoàn lập lại: "Xin Chúa thương xót chúng con". Đến
phần dâng lễ vật, cũng hai cặp thanh niên nam nữ tiến lên dâng bánh và rượu.
Đặc biệt họ mang theo một tảng đá lớn cùng với lời cầu nguyện: "Lạy Chúa,
chúng con xin dâng lên Chúa cả tảng đá này, biểu trưng sự chai cứng trong tâm
hồn mỗi người. Xin Chúa hãy nhận bánh và rượu để biến nên mình và máu con Chúa.
Xin Chúa cũng dang rộng đôi tay đón nhận những con tim lạnh lùng và chai đá của
chúng con để biến đổi thành những trái tim thịt mềm. Xin Chúa giúp chúng con
biết sống với nhau tử tế hơn, khoan dung hơn và biết quảng đại tha thứ cho nhau
hơn".
Kết luận
Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn
Thuận đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian Ngài bị biệt giam trong
tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề "Năm chiếc bánh và hai
con cá" để chia sẻ cho giáo triều Rôma trong dịp tĩnh tâm mùa chay vào
những năm thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ Ngài trong
những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm
động và sâu lắng. Thánh lễ Ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không
kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù
Ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của Ngài đựng những giọt rượu nho
thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất
âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có
ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà
Chúa Giêsu đã cử hành năm xưa trên Thập giá. Đó là những Thánh lễ đẹp nhất
trong cuộc đời linh mục của Ngài. Vị Giám mục đáng kính đã dâng những Thánh lễ
như thế để kín múc cho mình sức mạnh tâm linh trong những tháng ngày đen tối
nhất nơi ngục tù. Còn những thánh lễ chúng ta tham dự mỗi ngày thì sao? Đặc
biệt đối với anh em linh mục là những "alter Christus", đã hàng trăm,
hàng ngàn lần cử hành thánh lễ "in personna Christi", chúng ta đã
dâng các thánh lễ ấy như thế nào? Chúng ta cũng hãy bắt chước tâm tình đơn sơ
của một nữ tu dòng Clara khi đến bàn tiệc thánh. Chị chia sẻ với các chị em
trong cộng đoàn " Các chị hãy xem một người ăn xin nghèo khổ đến gõ cửa
nhà một người giàu có, một bệnh nhân gần chết đến với một bác sĩ tài giỏi, một
người đang khát cháy đến bên dòng nước mát trong. Họ đến để làm gì, thì em cũng
đến với Chúa Giêsu Thánh Thể như thế".
Xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn chúng ta
một ánh lửa đức tin ngời sáng, mỗi khi chúng ta đến ngồi vào bàn tiệc thánh
này.
13. Bánh Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Châm Ngôn:
"Hãy đến mà ăn bánh của ta, và uống rượu do ta pha chế". Theo lời
sách Châm Ngôn, bánh và rượu đây là Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan được
"thiên cách hóa" như chính Thiên Chúa: "đừng ngây thơ dại ngờ
nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết".
Tin Mừng thánh Gioan chương 6 cho thấy
Chúa Giêsu Kitô chính là Đức Khôn Ngoan Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, "Ai
ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Trang Tin Mừng hôm nay là đỉnh cao của
mạc khải Đức Khôn Ngoan Nhập Thể trở thành Bánh Thánh Thể.
Chúa Giêsu khẳng định: "Bánh tôi
ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống". Người Do thái
phản ứng và tranh luận sôi nổi: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn
thịt ông ta được?".
Chúa Giêsu giải thích và khẳng định
thêm: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho
người ấy sống lại trong ngày sau hết".
Chúa Giêsu cho biết hiệu năng khi
"ăn thịt và uống máu" là được kết hiệp mật thiết với Chúa: "Ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy".
Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực của manna
cũ để so sánh với hiệu năng của Manna mới: "Tổ tiên các ngươi đã ăn mana
và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Những lời Chúa Giêsu giảng dạy mạc khải
rõ ràng về Bí Tích Thánh Thể.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa tiên báo
trong tiệc cưới Cana , được hứa ban cho dân ở
Caphanaum.
Bí Tích Thánh Thể được Chúa thiết lập
trong Tiệc Ly: "Đang khi ngồi ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc
tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ và phán:Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, này
là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.Cùng một thể thức ấy, Người cầm lấy chén, tạ
ơn, trao cho các môn đệ và nói:Tất cả hãy cầm lấy mà uống vì này là chén máu
Ta, máu giao ước sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Ta". (Mt 26,26-29).
Bí Tích Thánh Thể được Chúa cử hành đầu
tiên tại làng quê Emmau "Người cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra,
trao cho họ. Và họ đã nhận ra Người đã Phục sinh" (Lc 24,13-35).
Thánh Thể là sự sống của Giáo Hội, là
lương thực thiêng liêng cho đời sống và là bảo đảm cho hạnh phúc trường cửu của
người tín hữu chúng ta.
Thánh Thể là mối hiệp nhất giữa Thiên
Chúa với con người, và giữa con người với nhau.
Thánh Thể chính là Tặng Phẩm Thần Linh
mà Thiên Chúa trao cho nhân loại.
Lịch sử cứu độ là lịch sử hồng ân và là
lịch sử tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Cao điểm của lịch sử này là Thập Giá
Đức Kitô. Thập Giá là tột đỉnh hy sinh của Thiên Chúa. Thập Giá biểu lộ tình
yêu điên rồ của Thiên Chúa. Thập Giá cũng là tột đỉnh hy sinh của Đức Kitô,
Đấng đã hạ mình vâng phục Chúa Cha cho đến chết và chết trên Thập Giá. Thập giá
là cao điểm tình yêu tự hiến của Chúa Kitô.
Tình yêu sâu thẳm và khôn dò của Thiên
Chúa biểu lộ nơi Thập Giá Đức Kitô là tình yêu vượt thời gian. Tình yêu tự hiến
của Đức Kitô biểu lộ bằng cái chết cũng vượt thời gian. Chúa Kitô chỉ tự hiến
một lần, tự hiến trọn vẹn thay cho mọi lần. Chúa đã biểu lộ điều này trong bữa
Tiệc Ly. Từ đó, Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội, là trọng
tâm và là tột đỉnh của sinh hoạt Giáo Hội. Thánh Thể làm nên Giáo Hội. Không có
Thánh Thể thì không có Giáo Hội. Giáo hội là thân mình gồm nhiều người ăn cùng
một tấm bánh là thân mình Đức Kitô (1 Cor10,17). Như thế bàn tiệc Thánh Thể là
nguồn mạch của yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
Giáo hội luôn định tín rằng: dù chỉ một
miếng bánh nhỏ, khi đã được Truyền Phép, vẫn chứa đựng cả thân xác, linh hồn và
thần tính của Đức Kitô. Chúng ta có Đức Kitô nguyên vẹn và cụ thể. Chính Chúa
Thánh Thần Kitô hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
Khi linh mục, thừa tác viên của Giáo hội, thay mặt Chúa Kitô đọc Lời Truyền
Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không phải là một câu thần chú có một ma
lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền
trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến. Lời Truyền Phép chính là Lời
Chúa Kitô, Lời mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã
chọn một số người để họ lập lại y nguyên Lời Truyền Phép của Ngài. Chính Chúa
Thánh Thần lấp đầy "khoảng cách" giữa linh mục và Đức Kitô, khiến Lời
Truyền Phép trở nên "công hiệu", làm cho nội dung của Lời trở thành
hiện thực. Sau Truyền Phép bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu
không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi, sự thay đổi ấy
là thay đổi bản thể hay "biến thể". Đây là công việc của Chúa Thánh
Thần, chứ không phải là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý
thức điều đó, Giáo hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục Truyền Phép:
- "Chúng con nài xin Cha đổ ơn
Thánh Thần xuống mà thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu của Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể II).
- "Lạy Cha, chúng con tha thiết
nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến
Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, con Cha, Chúa chúng con"
(Kinh Nguyện Thánh Thể III).
- "Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh
Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng con" (Kinh Nguyện Thánh Thể IV).
Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện
diện thực sự giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là
Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, như hiện diện qua lời
Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện
diện giữa hai hoặc ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18, 20). Tất cả những cách
hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là: Đức Kitô không đồng hóa
với lời Kinh thánh, Lời Kinh thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô; Đức
Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức
Kitô, dù Ngài đã nói: "Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho
uống..." (Mt 25, 35- 36). Trái lại nơi Bí Tích Thánh Thể, sau Lời Truyền
Phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và
Máu Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu
hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thực và đặc biệt này của Đức
Kitô là kết quả của một sự thay đổi mà tác động thay đổi chính là công việc của
Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc Lời Truyền Phép. (x.simonhoadalat.com,
Tặng phẩm Thần Linh, ĐGM Bùi Văn Đọc).
Bí Tích Thánh Thể là sáng kiến của tình
yêu. Tình yêu luôn có những sáng kiến bất ngờ và kỳ diệu. "Thiên Chúa đã
yêu thế gian nỗi ban chính Con Một..." (Ga 3, 16) và Con Một là Chúa Giêsu
đã yêu cho đến cùng, đã lập Bí tích Thánh Thể để ở với con người luôn mãi.
Bông lúa và trái nho là những sản phẩm
thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và
rượu có thể tầm thường, nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho
cuộc sống con người hàng ngày. Chúa Giêsu đã muốn trở nên những gì cần thiết và
gần gũi đó. Người muốn bánh và rượu trở nên thịt máu của Người. Từ bông lúa bị
nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên Thập
Giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời
cho nhân loại. Vật chất đã trở thành biểu tượng cho sự hiện diện thần linh.
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa,
thánh Phaolô trong bài đọc 2 khuyên các tín hữu: "Trong mọi hoàn cảnh và
mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà cảm tạ Thiên Chúa là
Cha", đồng thời: "Hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời
gian hiện tại...hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa...hãy thấm nhuần Thần Khí". Ý
Thiên Chúa muốn chúng ta sống yêu thương như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương.
Mình và Máu Chúa Kitô là hồng ân vô
giá, chúng ta đón nhận để có sự sống thần linh của Chúa. Tham dự Thánh Lễ tích
cực, trọn vẹn là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa. Thỉnh thoảng trong
ngày, trong tuần, chúng ta nên quỳ gối trước Thánh Thể, chúng ta có thể học
được nhiều điều từ Bí Tích Tình Yêu.
14. Thánh Thể- Hiến Tế.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cha Piô, tu sĩ dòng Capucinô, ở Itala,
mới được phong thánh năm 2004, là vị linh mục đầu tiên đã được in 5 dấu thánh.
Ngài là linh mục và đặc ân của Ngài, do thánh chức, là ở toà giải tội và nhất
là trên bàn thờ dâng lễ. Cha dâng lễ lâu đến ba tiếng rưỡi đồng hồ. Ai dự lễ do
cha Piô làm đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Ngài sống mầu nhiệm Chúa
hiện diện trên bàn thờ trong Bí tích Thánh Thể. Sau khi dâng Mình Thánh Chúa,
thảm kịch tế lễ càng diễn tiến như dưới chân Thánh Giá xưa. Mồ hôi nhỏ giọt,
nước mắt dầm dề. Ngài đọc lời truyền phép như một người đang hấp hối, đau khổ
tột độ. Ngài cầm Mình Thánh giơ lên, những đường máu từ từ rơi theo dấu ngón
tay. Rồi ngài hớn hở như được thấy Chúa. Ai không tin sự hiện diện của Chúa
trong hình bánh hình rượu, hãy đến dự thánh lễ cha Piô sẽ biết, sẽ cảm nghiệm.
Để Thánh lễ đừng kéo dài quá lâu sau truyền phép, cha bề trên tu viện núp trong
cung thánh, phải ra lệnh bằng ý muốn cho ngài tiếp tục (Le vrai visage du Padre
Pio, Maria Winowska,Fayard).
Anh chị em thân mến,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn
đi xa hơn nữa trong mạc khải của Ngài về Bánh Hằng Sống. Không những Chúa Giêsu
đói buộc phải tin vào Ngài, nhưng Ngài còn đòi buộc phải ăn bánh là chính Mình
Ngài, phải uống chén rượu là chính Máu Ngài. Bánh và rượu chính là Thịt và Máu
của Ngài. Bánh và rượu này liên hệ đến cái chết của Ngài, cho đến độ không có
cái chết của Ngài trên Thập Giá, thì Bánh ngày không thể là Thịt của Ngài và
Rựơu này không thể là Máu của Ngài. Vì vậy, Bí tích Thánh Thể vừa là lễ tế hy
sinh của Chúa Giêsu trên Thập Giá, vừa là bữa tiệc Thịt và Máu của Ngài, dưới
hình thức bánh và rượu. Vì thế, Thánh Thể trước hết là một hy lễ. Chính là máu
của Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội. Chính là cuộc tưởng
niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá.
Đoạn Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng
ta Bữa Tiệc Thánh Thể Chúa Giêsu đã cử hành vào những giờ phút cuối cùng của
đời Ngài, trước lúc Ngài bị bắt và chết trên Thập Giá. "Trong bứa ăn tối,
Chúa Giêsu cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói:
Các con hay cầm lấy mà ăn, này là Mình Thầy. Rồi cầm lấy chén rượu, tạ ơn, Ngài
trao cho họ mà nói: Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là chén Máu Thầy,
máu Giao Ước mới sẽ đổ ra cho nhiều người được ơn tha tội" (Mt 26,26-28).
Thánh Phaolô còn nói rõ: "Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, là anh
em loan báo cái chết của Chúa Giêsu cho đến khi Ngài lại đến" (1Cr 11,26).
Chúng ta phải đọc những lời thiết lập
Bí tích Thánh Thể dưới ánh sáng của những lời khẳng định của Chúa Giêsu về Bánh
ban sự sống. Ngài đã tuyên bố một cách thẳng thừng Ngài là gì và người ta phải
quan hệ với Ngài như thế nào để có được sự sống của Thiên Chúa. "Tôi là
Bánh ban sự sống... Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì sống mãi trong Tôi, và
Tôi sống mãi trong người ấy". "Tôi sống như thế nào, thì kẻ ăn Tôi
cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy". Thịt và Máu Chúa Giêsu là của ăn,
của uống làm cho người ta "sống trong Chúa Giêsu" và làm cho Chúa
Giêsu "sống trong người ấy". Người dùng thức ăn, thức uống này thì
được "sống nhờ Chúa Giêsu", sẽ được "sống lại trong ngày sau
hết" và được "sống đời đời".
Thưa anh chị em,
Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, tình
yêu liên hệ với sự sống: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã banh Con Một,
để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga
3,16). Không có sự sống thì cũng không có tình yêu. Thiên Chúa đã cứu chúng ta
khỏi chết để chúng ta được sống để chúng ta được sống và được sống với Ngài.
Bánh Ngài ban tặng chúng ta là bánh ban sự sống đời đời, là dấu chỉ của tình
yêu, là dấu chỉ của chính Thân Thể Ngài hy sinh cho nhân loại. Tấm bánh bẻ ra
hay là Chúa Giêsu Kitô hy sinh chịu chết vì chúng ta, đó chính là bằng chúng
của tình yêu cao cả nhất: "Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu
hiến thân mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Vì vậy, Bí tích Thánh Thể được coi
là Bí tích của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và yêu là muốn kết hợp với
người yêu. Yêu là muốn điều tốt, muốn cho người yêu được sống dồi dào, và trong
tình yêu có sự đòi buộc phải hy sinh.
Bí tích Thánh Thể là bí tích tình yêu
của Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Từ khi nhập thể làm người cho đến lúc gục đầu
trên Thập Giá. Chúa Giêsu chỉ có một khắc khoải là minh chứng tình yêu cho nhân
loại. Ngài muốn loài người được sống và sống dồi dào. Đâu là Bí Tích Thánh Thể
của Chúa Giêsu, bí tích của một tình yêu tận hiến. Chúa ban sự sống của Ngài
cho chúng ta để chúng ta kết hợp với Ngài và được sống dồi dào nhờ cái chết cứu
độ của Ngài.
Thế nhưng, được kết hợp với Ngài để làm
gì? Được sống dồi dào để làm gì? Được sống kết hợp với Chúa để tiếp tục sống
tình yêu như Ngài. Được kết hợp với Chúa để tiếp tục hoạt động với Ngài để đem
ơn cứu độ đến cho mọi người. Được kết hợp với Chúa Cha ở mọi nơi. Được kết hợp
với Chúa để phục vụ cho anh em được sống dồi dào hơn qua cuộc tận hiến chính cuộc
đời của mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu tiếp tục hiến mình làm bánh,
là lương thực nuôi sống Giá Hội, nuôi sống chúng ta qua Bí tích Thánh Thể được
cử hành hằng ngày, hằng tuần... Và mỗi người chúng ta cũng như cộng đoàn được
mời gọi tiếp rước Mình và Máu của Chúa. Nhưng tiếp rước ở đây không phải chỉ là
ăn uống Mình và Máu của Chúa Giêsu mà thôi, mà còn phải là tiếp rước chính Chúa
Giêsu với cả cuộc đời và sứ mạng của Ngài, để hoạ lại ý nghĩa của cuộc đời và
sứ mạng đó trong chính cuộc sống của mình. Do đó, rước lễ đích thực không thể
tách rời khỏi việc tìm hiểu trong Lời của Chúa, trong cuộc đời của Ngài bài học
về cách xử sự, về sự lựa chọn, về sự hy sinh, về lòng yêu mến người khác cho
chính cuộc đời của mình. Đó là cách thức để người Kitô hữu sống bằng Thịt và
Máu của Chúa, sống nhờ Chúa và qua đó, được sống đời đời.
Bí Tích Thánh Thể của Chúa Giêsu phải
được nhân lên qua cuộc sống của các tín hữu. Bao lâu chúng ta còn sống hữu ích
cho anh em, còn tìm cách làm cho cuộc sống của những người chung quanh bớt
nghèo, bớt đói, bớt khổ... là chúng ta đang tế hiến mình với Chúa Kitô
Thánh Thể. Chúng ta trở thành bánh ngon để nuôi sống anh em. Lúc đó, chúng ta
mới dâng lên Thiên Chúa Bí tích tình yêu của chính bản thân mình mỗi lần họp
nhau cử hành Bí tích Thánh Thể của Chúa Kitô.
15. Ai ăn Ta, sẽ sống nhờ Ta – Noel
Quesson.
Đanien Côn-neo (Daniel Connell) là
người đã giải phóng dân tộc Ái nhĩ lan. Ông là một tín hữu can đảm và nhiệt
thành. Khi người ta cười nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin bí tích
Thánh Thể. Ông đã giải đáp: "Sao các ông lại hỏi tôi? Các ông phải hỏi
Chúa Giêsu. Phần tôi, tôi chỉ tin như Chúa Giêsu đã nói. Nếu điều đó không
đúng, thì Chúa mới là người đáng trách. Nhưng sự thật của Chúa thì muôn đời tồn
tại".
Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như
toàn bộ niềm tin của chúng ta, phải xây dựng và chỉ có thể xây dựng
trên Lời Chúa. Chúa là sự sống của ta và Chúa là căn bản lòng tin của ta.
Chúa là lương thực nuôi hồn ta, Chúa liên kết với ta, thông chia sự sống nhiệm
mầu của Người cho ta. Nếu chúng ta thấy xao xuyến, mệt mỏi bơ vơ, là tại chúng
ta đã xa cách Chúa, tại chúng ta đã cách ly Chúa. Khi đó chẳng những chúng ta
lạc lõng khốn cùng mà còn phải chết muôn đời nữa. Vì Chúa đã khẳng định:
"Nếu các ngươi không ăn thịt, không uống máu Con Người, thì trong các
ngươi không có sự sống" (Ga 6,53).
Khi nói về bánh hằng sống, Chúa Giêsu
nói xen lẫn hai sự kiện: Lời Chúa và bí tích Thánh Thể. Chúa nói cả hai
chuyện một lúc như vậy, cốt cho ta hiểu rằng cả hai chỉ là một. Tiếp nhận Chúa
là đón nghe và làm theo Lời Chúa. Sống Lời Chúa cũng chính là việc ăn Mình,
uống Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, là cụ thể hóa Lời Chúa bằng bí tích Mình
Máu Chúa, là hòa nhập sự sống ta với sự sống Chúa. Cũng như Thánh Lễ không phải
là hai phần tách biệt mà chỉ là một: đó là mầu nhiệm Chúa Kitô dạy dỗ ta bằng
Lời Chúa và Lời Chúa đi vào cuộc sống ta bằng chính Máu Thịt Chúa. Chúa trở nên
huyết nhục chúng ta, để biến đổi sự sống ta thành sự sống Chúa, và rồi từ đó,
Lời Chúa sẽ thành lời nói và hành động của ta. Ta sẽ là hiện thân Chúa Giêsu
giữa trần gian.
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu biết ba
tác dụng của bí tích Thánh Thể: Trước hết là sự sống lại và cuộc sống vĩnh
viễn: "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì được sống muôn đời, còn Ta, Ta sẽ
cho người ấy sống lại ngày tận thế" (Ga 6,54). Trong bữa tiệc ly,
Chúa đã nối kết tiệc Thánh Thể với tiệc Nước Trời: "Thầy sẽ không uống
rượu nho này nữa cho tới lúc Thầy lại uống với các con trong Nước của Cha
Thầy".
Thứ đến là tình liên đới giữa Đức
Kitô và các tín hữu: "Ai ăn Thịt và uống Máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở
trong người đó". Ở trong Chúa là hưởng hạnh phúc với Chúa. Hạnh phúc lớn
nhất là ở bên người mình yêu và được người đó yêu mình. Từ Cựu Ước đã có những
lời diễn tả thực tại này: "Các ngươi sẽ là dân Ta và Ta là Thiên Chúa các
ngươi" (Xh 6,7); "Người yêu của tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về
người" (Diễm ca 6,3); "Các con hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong các
con" (Ga 6,56; 15,4).
Sau cùng là sự tận hiến cho Cha:
"Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống nhờ Cha, cũng vậy, ai ăn
Thầy sẽ sống nhờ Thầy". Chúa Giêsu đã sống kết hiệp với Cha, Chúa cũng đòi
ta hiệp nhất với Ngài như thế.
Lạy Chúa, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể,
chúng con hy vọng chắc chắn sẽ được sống lại và được sống muôn đời với Chúa.
Xin giúp chúng con biểu lộ lòng tin này trong việc đón nhận Lời Chúa và Thánh
Thể, trong cuộc sống hiệp nhất với nhau và trong tình liên đới với mọi người.
16. Bánh hóa nhiều.
Tôi còn nhớ, hồi nhỏ mỗi khi ăn cơm mà
để những hạt cơm rơi vãi, thế nào cũng bị ba tôi giảng cho một bài luân lý giáo
khoa thư.
Một hạt cơm mà thôi cũng do bởi biết
bao công lao khó nhọc, như tục ngữ đã bảo:
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần.
Rất may là chúng ta chưa lâm vào cảnh
đói kém, nhiều khi chỉ vì một nắm cơm mà người ta sẵn sàng làm những công việc
đê tiện.
Trong những trại tù, thì giây phút quan
trọng và cam go nhất của một ngày là lúc phân phát thực phẩm. Nhiều người chỉ
sống cho giây phút này mà thôi. Sau khi đã lãnh phần ăn, họ đã nhìn vào chén
cơm hồi lâu, rồi cẩn thận nhai nuốt với tất cả sự trọng kính.
Thế nhưng, cơm bánh chỉ là một hình ảnh
tượng trưng, vì ngoài thân xác ra, con người còn có một linh hồn, linh hồn ấy
cũng cần phải được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn thiêng liêng. Giữa của ăn vật
chất và của ăn thiêng liêng có một mối liên hệ, tuy mầu nhiệm nhưng cũng lại
rất hiện thực.
Cũng trong những trại tù, các linh mục
âm thầm làm lễ giữa đêm khuya ngay trong chiếc mùng của mình. Rồi Mình Thánh
được gói trong những mảnh giấy nhỏ và chuyển đến cho các bạn tù, nhờ đó mà
những tù nhân Công giáo tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ.
Chúa Giêsu cũng đã biết rằng cái đói là
một nỗi bất hạnh và con người luôn cần tới cơm bánh, vì thế Ngài đã làm phép lạ
cho bánh hóa nhiều để nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng. Rồi từ đó
Ngài đã giới thiệu thứ của ăn nuôi sống linh hồn, đó là thịt máu Ngài.
- Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật
là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máy Ta thì sẽ được sống đời đới.
Mặc dù đám đông trước đó đã nhiệt tình
hoan hô Ngài và muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng với những lời lẽ như thế, họ
đã bỏ Ngài, để rồi chỉ còn mình Ngài với các môn đệ.
Sự kiện này vẫn thường xảy ra qua giòng
thời gian. Những kẻ không tin tưởng và cho rằng cái đói của linh hồn là một
chuyện hoang đường, và họ đã bỏ Chúa mà đi. Còn chúng ta thì sao?
Điều quan trọng đó là chúng ta phải
hiểu đúng ý định của Chúa và cố gắng thực hiện bằng cách siêng năng tham dự
thánh lễ và rước lễ. Việc rước lễ đã ấn định một lằn mức phân chia những người
tin và không tin.
Đúng thế, thánh lễ không phải chỉ là
một đề mục trong cuộc sống người Kytô hữu, nhưng đúng là một phép lạ. Trong
phần dâng lễ, linh mục đại diện cho tất cả chúng ta dâng tiến Chúa của lễ của
cộng đồng. Trong phần truyền phép, qua tay linh mục, Chúa Giêsu đã biến đổi
bánh rượu trở nên thịt máu Ngài, đó là giây phút trọng đại, qua đó Chúa tuôn đổ
muôn vàn hồng ân của Ngài. Việc rước lễ là một bàn tiệc, để chúng ta được nhận
lãnh của ăn nuôi sống linh hồn.
Nếu hiểu được như thế, thì mỗi ngày
chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của chúa, đó là
- Các con hãy nhận lấy mà ăn...Các con
hãy nhận lấy mà uống...
17. Bánh Thánh Thể.
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các
Kitô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ Têrêxa Calcutta, người ta đã
dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà
người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó
vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung
thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho
thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình
yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn
thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và
các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng
ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi
hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm
phục vụ cho sự sống thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà
mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa,
nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
Phép Thánh Thể có khả năng thỏa mãn nhu
cầu cấp thiết đó, vì phép Thánh thể là một bằng chứng thật hùng hồn nhắc nhở và
tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa đối với loài người
và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan tông đồ đã quả quyết:
"Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của mình
cho thế gian". Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho biết: "Ngài
là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không dành cho mình phận ngang hàng với Thiên
Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập
giá". Cái chết của Ngài là một thực hiện lời Ngài mạc khải trong bài Tin
Mừng hôm nay: Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống
muôn đời". Bánh đó chính là thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ được tăng
thêm ơn thánh hóa, được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và với các anh chị em
tín hữu khác, được tha các tội nhẹ và bảo vệ khỏi tội trọng, và bảo đảm được
một hiệu quả vô cùng cao quý là sự sống lại và sự sống đời đời. Nhưng với điều
kiện là chúng ta phải rước Mình Thánh Chúa với thái độ tin và yêu. Để biểu lộ
thái độ tin và yêu ấy đối với Đấng đã, đang và sẽ còn tiếp tục tự hiến thịt máu
mình để cho chúng ta ăn và uống mà được sống, chúng ta hãy để cho tình yêu của
Chúa biến đổi chúng ta thành những khí cụ ban phát tình yêu Thiên Chúa cho mọi
người như mẹ Têrêxa Calcutta và các nữ tu thuộc dòng do mẹ sáng lập đang thực
hiện khắp nơi trên thế giới.
Đó cũng là cách Chúa mời gọi chúng ta
cùng làm phép lạ với Chúa, đó là câu kết luận của câu truyện sau đây: Có
một gia đình giàu có, quý tộc người Anh, dẫn đứa con trai yêu quý về miền quê
chơi. Trong khi nô đùa, chẳng may em bị rơi xuống một hố nước sâu mà cha mẹ
không hay biết. Nhưng rất may tiếng kêu cứu của em đã được một chú bé, con của
người làm vườn nghèo khó nghe được và chạy đến cứu sống.
Cha của em tỏ lòng biết ơn chú bé đã
cứu sống con ông, nhưng thay vì lời cám ơn, ông muốn giúp đỡ chú bé ấy. Ông
hỏi: "Khi lớn lên con muốn làm gì?" – "Thưa ông, chắc là con sẽ
tiếp tục nghề làm vườn của cha con" – "Con không còn ước mơ nào lớn
hơn sao?" – "Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì được
nữa" – "Nhưng nếu con được ước mơ thì con ước mơ gì?" –
"Thưa ông, con muốn đi học, muốn là bác sĩ".
Sau này, em bé được cứu sống đã trở
thành một vĩ nhân của thế giới, đã giữ một vai trò quan trọng làm thay đổi cục
diện thế chiến thứ II và đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị của
ông, đó là thủ tướng Uyn-sân Chớc-chiu. Và nhờ lòng thương giúp đỡ của người
cha của Chớc-chiu mà chú bé nhà nghèo kia đã trở thành một bác sĩ lừng danh của
thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ đó là
Phơ-len-ning, người đã tìm ra thuốc trụ sinh Pê-nê-ci-lin.
Sau khi kể xong câu truyện trên, tác
giả đã kết luận: "Khi Chúa mời gọi chúng ta giúp đỡ nhau là Chúa mời gọi
chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa". Chúng ta hãy nhớ: Khi chúng ta giúp
đỡ nhau là chúng ta cùng làm phép lạ với Chúa. Trở lại bài Tin Mừng hôm nay,
điều chính yếu Chúa Giêsu muốn bảo cho người Do Thái xưa kia và chúng ta hôm
nay: Ngài là bánh hằng sống, vì Ngài là Thiên Chúa hằng sống, chính vì thế kẻ
ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Chúa, họ sẽ được sống đời đời. Cho
nên, người ta phải đón nhận Ngài không những bằng lòng tin mà còn phải ăn bánh
đó, tức là ăn thịt Ngài nữa.
Chúa Giêsu dạy chúng ta về Bánh Thánh
Thể, chúng ta có chấp nhận với lòng tin không? Nếu chúng ta không lãnh nhận của
ăn này thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là chúng ta không được "chất
bổ" của thứ bánh bởi trời này, mà ngược lại, còn bị xét xử, đoán
phạt, chết đời đời. Cũng như nếu chúng ta bệnh tật, thuốc men có đó mà chúng ta
nhất định từ chối không dùng thì chúng ta không khỏi bệnh là tại chính chúng ta
thôi. Cũng vậy, ai trong chúng ta cũng muốn ăn no, mặc ấm, mà còn muốn ăn ngon,
mặc đẹp nữa, muốn gia đình hạnh phúc, kể cả những người đầy đủ cũng thế, họ vẫn
mơ ước thêm nữa, vậy thì chúng ta muốn có sau 50, 60 hay 70 năm trần thế này
được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với bí tích Thánh Thể, hãy hết
lòng tin vào phép Thánh Thể. Bánh Thánh Thể là của ăn cho chúng ta no ấm đi hết
quãng đời này về trời.
Thánh Thể không phải chỉ là một lời hứa
trường sinh bất tử nhưng còn là một bảo chứng: hôm nay thân xác chúng ta đã
được dự tiệc Thánh thể, thì sau này thân xác chúng ta sẽ được dự tiệc thiên
quốc. Tiệc Thánh thể mới chỉ là khai vị chuẩn bị cho tiệc thiên quốc. Chúng ta
hãy siêng năng rước lễ để bảo đảm cho cho cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
18. Bánh Hằng Sống.
Nhà văn James Colaianni ghi lại một
chuyện như sau:
Một gia đình nghèo khó nọ ở một làng
thuộc nước Nam Tư đã định tâm di cư đến nước Hoa Kỳ. Gia đình này gồm ba mẹ,
một em bé trai, và bốn em gái nhỏ. Trước khi đi, những người thân thuộc đã cho
gia đình đó những món quà đơn sơ như bánh mì và một vài cục phó mát.
Ngày họ lên tàu, họ rất ngỡ ngàng với
những cảnh ở thế giới bên ngoài. Ngày đó là một ngày mùa đông giá lạnh, nên sau
khi lên tàu, họ liền chui xuống chỗ ngồi hạng ba ở gầm tàu. Họ đã ở đó và ăn
những ổ bánh mì mà những người thân đã tặng cho họ lúc họ rời Nam Tư. Họ cố
gắng ăn ít bao nhiêu có thể hầu có đủ lương thực cho chuyến đi đến Hoa Kỳ.
Ngày cuối cùng của cuộc hành trình, em
bé trai cảm thấy mệt mỏi nên em đã xin phép ông bố để đi lên trên boong tàu
nhìn ngắm cảnh vật.
Sau khi em bé đã đi cả một tiếng đồng
hồ mà không thấy trở về, ông bố cảm thấy lo và đi lên boong tàu để kiếm em. Ông
bố đã tìm thấy em bé đang ngồi trong một cái nhà cơm thật thịnh soạn và đang
ngồi tại một cái bàn với đầy đủ đồ ăn thịt rau và trái cây.
Khi nhìn thấy như vậy, tim ông bố như
bị ngừng đập. Trong tâm trí, ông đang nghĩ ra cái cảnh khi vừa đặt chân đến
nước Hoa Kỳ, ông sẽ phải vô trong tù bởi vì ông quá nghèo không đủ tiền để trả
cho những thức ăn mà người con trai của ông đang ăn.
Khi người con trai nhìn thấy bố mình
hoảng hồn như thế liền nói: "Bố ơi, đừng sợ, bữa ăn này không mất tiền.
Trong khi chúng ta ở dưới gầm tàu ăn uống thanh đạm thì mọi người trên tàu này
đều ăn uống thả dàn như thế này. Các món ăn này đã được tính cả vào trong vé
tàu của mình rồi."
Trong thế giới này có biết bao nhiêu
người nghèo khổ giống như gia đình nghèo khổ Nam Tư đó. Họ hành trình trong
cuộc sống mà hoàn toàn không để ý rằng có một Bữa Tiệc Thần Thiêng. Đó là bữa
tiệc Thánh Thể và nó đã được tính vào vé của cuộc sống.
Chúa Giêsu đã nói đến bữa tiệc thần
diệu này trong bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Ta là bánh hằng sống từ trời
xuống; ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta,
để cho thế gian được sống" (Gn 6:51).
Sự khác biệt giữa Bánh Hằng Sống và
bánh ăn thường thì vượt xa vời vợi. Khi chúng ta ăn bánh thường, bánh ấy sẽ trở
nên thân xác chúng ta. Nhưng khi chúng ta ăn Bánh Trường Sinh thì hiệu quả khác
biệt. Bánh ấy không trở nên thân xác chúng ta, nhưng chúng ta trở nên Bánh
Trường Sinh. Bánh ấy sẽ biến đổi chúng ta thành Thân Mình Chúa Kitô. Và đó
chính là lý do tại sao khi chúng ta ăn bánh ấy, chúng ta sẽ được sống đời đời.
Nếu chúng ta dành ra một đôi phút để nghĩ về mầu nhiệm kỳ diệu này, chúng ta sẽ
cảm thấy rất ngạc nhiên về món quà rất quí giá này.
Thật là một điều bất hạnh khi phải hành
trình trong cuộc sống mà không biết gì đến món quà rất quí giá này. Thật là một
điều bất hạnh cho những ai đang đi trên đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc
Thần Diệu đi chung với cái vé cuộc đời.
Tuy nhiên, còn đau thương hơn nữa là có
những người đi trên đường đời biết đến Bữa Tiệc Thần Diệu, nhưng coi thường bữa
tiệc này và không biết ơn Đấng ban cho chúng ta Bữa Tiệc Thánh ấy. Có khi chúng
ta lãnh nhận Mình Thánh theo một thói quen và chúng ta khinh thường Mình Thánh.
Chúng ta đã không còn biết tôn kính Mình Thánh và sự thiếu kính trọng đó đã
được bộc lộ qua các hành động của chúng ta.
Chúng ta hãy xét xem chúng ta có biết
cầu nguyện trước khi và sau khi rước Chúa không? Điều gì đã ở trong trí óc của
chúng ta trước và sau khi rước Chúa? Chúng ta có cầu nguyện với Ngài như là một
người bạn không? Chúng ta có cám ơn Ngài, xin Ngài tha thứ những lỗi lầm, và
nói với Ngài những khó khăn của chúng ta không?
Cái gia đình Nam Tư nghèo khổ trong câu
truyện trên thật là tội nghiệp, bởi vì đã đi hết chuyến vượt đại dương mà không
biết rằng cái vé tàu bao luôn cả phần ăn nữa. Và còn tội nghiệp hơn nữa cho một
số người trải qua đường đời mà không biết gì đến Bữa Tiệc Thánh đến với họ cùng
với cái vé cuộc đời.
19. Thánh Thể.
Kinh Thánh đã đưa ra nhiều hình ảnh ám
chỉ đến bữa tiệc Thánh Thể. Từ những lễ vật của Cựu ước đến Manna trong hoang
địa. Thế nhưng, phép lạ bánh hóa nhiều là một hình ảnh vừa gần gũi, lại vừa
trực tiếp nhất.
Bởi vì sau phép lạ ấy Chúa Giêsu đã xác
quyết:
- Ta là bánh hằng sống từ trời
xuống...Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống...
Tất cả những hình ảnh ấy đã được Chúa
Giêsu thực hiện một cách trọn vẹn trong bữa tiệc ly vào buổi chiều ngày Thứ Năm
Tuần Thánh, khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và nói:
- Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con.
Rồi Ngài cầm lấy chén rượu và nói:
- Này là chén máu Ta, máu giao ước mới,
giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.
Vậy thì Bí tích Thánh Thể có ý nghĩa gì
đối với chúng ta?
Trước hết, Bí tích Thánh Thể là hy
tế tưởng niệm và tạ ơn hoàn hảo nhất dâng lên Thiên Chúa để đền bù vì tội lỗi
chúng ta.
Thực vậy, qua cái chết và sống lại,
Chúa Giêsu đã trở nên lễ tế hoàn hảo nhất, bởi vì Ngài là Đấng thánh thiện
tuyệt vời, được sánh ví như một con chiên vượt qua thanh sạch, không tì vết, để
đền bù thay cho chúng ta.
Đúng thế, tội lỗi là một sự xúc phạm
đến Thiên Chúa, tự sức riêng chúng ta không thể nào đền bù cho cân xứng. Với
cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã đền bù thay cho chúng ta và hy tế này,
ngày hôm nay vẫn còn được tái diễn trong thánh lễ để kéo ơn sủng và tình thương
của Thiên Chúa xuống cho chúng ta.
Tiếp đến, Bí tích Thánh Thể chính
là lương thực nuôi sống tâm hồn chúng ta.
Thực vậy, phần xác chúng ta muốn được
sống thì cần phải ăn. Phần hồn chúng ta muốn được sống thì cũng cần phải ăn. Dĩ
nhiên, không phải là cơm gạo vật chất, nhưng là chính thịt máu Chúa Giêsu như
lời Ngài đã từng xác quyết:
- Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời
đời và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày tận thế.
Nhờ của ăn thần linh này, tâm hồn chúng
ta được bổ dưỡng để có đủ sức khỏe tiến bước trong cuộc lữ hành trần gian, và
sẽ đạt tới bờ bến Nước Trời.
Sau cùng, Bí tích Thánh Thể còn là
sợi dây liên kết, không phải chỉ liên kết chúng ta lại với Chúa, mà hơn thế nữa
còn liên kết chúng ta lại với nhau.
Thực vậy, nơi bàn tiệc Thánh Thể, chúng
ta đều bình đẳng với nhau, không phân biệt địa vị và tuổi tác. Đồng thời, nơi
bàn tiệc Thánh Thể chúng ta còn chia sẻ cùng nhau một thứ lương thực thiêng
liêng, đó là Mình và Máu Thánh Đức Kitô, như lời thánh Phaolô đã nói:
- Mặc dù chúng ta tuy nhiều, nhưng cùng
ăn một bánh, cùng uống một chén, cùng làm nên một thân thể mầu nhiệm của Đức
Kitô.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể đòi
buộc chúng ta phải biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau và chia sẻ cùng nhau gánh
nặng cuộc đời.
Cộng đoàn các tín hữu sơ khai đã để lại
cho chúng ta mẫu gương sáng chói về vấn đề này: Họ thường tụ tập nhau lại để
tham dự nghi lễ bẻ bánh, tức là Bí tích Thánh Thể. Rồi trong cuộc sống, họ gom
góp tài sản đặt dưới chân các tông đồ, để tùy các ngài phân phối theo nhu cầu.
Với một nếp sống như thế, dân ngoại đã phải trầm trồ khen ngợi:
- Kìa xem họ yêu thương nhau biết là
chừng nào.
Còn chúng ta thì sao? Cuộc đời của
chúng ta có phải là một thánh lễ nối dài hay không? Và trong cuộc sống chúng ta
có biết yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau như Bí tích Thánh Thể đòi buộc? Hay là, ở
nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng khi bước xuống lòng cuộc đời,
chúng ta vội lột xác thành một loài lang sói, luôn oán ghét, thù hận, gầm gừ và
cắn xé lẫn nhau.
20. Bánh hằng sống.
Đoạn Tin Mừng này có thể nói có bốn
phần: trước hết là phản ứng của người Do thái về lời tuyên bố của Chúa Giêsu,
khi Chúa nói thịt Ngài là của ăn ban cho họ được sống muôn đời. Phản ứng của họ
lần này có vẻ mạnh hơn trước. Họ xô xát và tranh luận với nhau. Họ đã hiểu lời
Chúa theo nghĩa đen: là một người như họ, làm sao có thể lấy thịt mình cho họ
ăn?
Phần thứ hai, trước phản ứng có vẻ dữ
dội của người Do thái, Chúa Giêsu vẫn không rút lời, không cải chính, nhưng còn
giải thích và khẳng định thêm: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống
muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết", nghĩa là
hiệu năng dinh dưỡng mà thịt máu Chúa đem lại cho kẻ lãnh nhận, là sự sống muôn
đời và sự phục sinh từ trong cõi chết.
Phần thứ ba, Chúa Giêsu cho biết của ăn
của uống này tác động như thế nào. Của ăn vật chất chúng ta ăn thì biến thành
thịt máu ta. Còn thịt máu Chúa mà chúng ta ăn, chúng ta uống, lại đưa chúng ta
vào một sự kết hiệp mật thiết với Ngài: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở
lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy".
Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại hiệu lực
của manna cũ để so sánh với hiệu lực của manna mới: manna cũ, những người ăn đã
chết. Manna mới, những người ăn sẽ sống đời đời. Kết thúc bài giảng của Chúa
Giêsu như vậy quả là tốt đẹp và gọn gàng. Chính người Do thái gợi ra câu chuyện
manna, thì Chúa Giêsu lại dùng ngay câu chuyện ấy để so sánh và mạc khải về
bánh bởi trời đích thực, bánh ban sự sống muôn đời.
Những lời Chúa Giêsu giảng dậy ở đây có
đúng là ý nghĩa về bí tích Thánh Thể mà giáo lý Công giáo thường hiểu không hay
đây cũng chỉ là kiểu nói tượng trưng? Chúng ta có thể trả lời ngay rằng: Những
lời Chúa Giêsu giảng dạy ở đây thực sự là nghĩa đen thông thường, nói về phép
Thánh Thể chứ không phải là nói tượng trưng. Cũng như trong bữa Tiệc Ly, Chúa
nói: "Nầy là Mình Thầy", "Này là chén Máu Thầy", "Cái
này là tượng trưng cho Máu Thầy". Nếu có gì lầm lẫn trong ý nghĩa đó, chắc
Chúa đã cải chính hay sửa chữa lại. Nhưng dù dân chúng phản đối dữ dội, Chúa
vẫn không thay đổi cách nói, Ngài không cải chính hay sửa lại điều gì, và suốt
20 thế kỷ qua vẫn giữ nguyên ý nghĩa đó.
Là con cái Chúa ở đầu thế kỷ 21 này,
chúng ta không có lý do gì để nói rằng: chúng ta không biết, không hiểu về thứ
bánh mà Chúa Giêsu đã mạc khải cách đây hai ngàn năm. Thứ bánh đó là bánh
Giêsu, bánh có tên là Giêsu, là bánh từ trời xuống, có khả năng đem lại cho con
người sự sống và sự sống đời đời. Nói tóm lại, điều chính yếu Chúa Giêsu muốn
dạy bảo người Do thái xưa kia và chúng ta hôm nay rằng: Ngài là bánh hằng sống.
Ai ăn bánh này sẽ được tham dự vào sự sống của Ngài và sẽ được sống đời đời.
Phép Thánh Thể là một bằng chứng thật
hùng hồn nhắc nhở và tái diễn mối tình muôn thuở, đó là mối tình của Thiên Chúa
đối với loài người và mối tình của Chúa Giêsu đối với chúng ta. Thánh Gioan
tông đồ đã quả quyết: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu
dấu của Ngài cho thế gian". Còn đối với Chúa Giêsu thì Kinh Thánh cho
biết: "Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không giành cho mình phận ngang
hàng với Thiên Chúa, mà Ngài đã hủy mình đi, Ngài đã vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá". Cái chết của Ngài là một thực hiện lời mạc khải trong
bài Tin Mừng hôm nay: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời". Bánh đó, vẫn theo lời Chúa Giêsu, chính là
thịt Ngài.
Quả thực, ai ăn thịt Chúa sẽ tìm được
sức mạnh thánh hóa và nhận được một hiệu quả vô cùng cao quí là sự sống lại và
sự sống đời đời. Nghĩa là đến với Chúa, tin vào Chúa, và ăn thịt Ngài là chúng
ta lãnh nhận được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vì mỗi lần lãnh nhận
Thánh Thể là chúng ta lãnh nhận chính mầm sự sống đời đời. Cũng vậy, tin vào sự
sống đời đời không phải là phủ nhận cuộc sống trần gian, nhưng chính là làm cho
cuộc sống trần gian có ý nghĩa, vì sự sống đời đời lớn lên trong cuộc sống trần
gian, và chính sự sống đời đời thôi thúc chúng ta làm cho cuộc sống trần gian
tốt đẹp hơn.
Ai trong chúng ta không những muốn ăn
no, mặc ấm mà còn muốn ăn ngon, mặc đẹp nữa, muốn hạnh phúc, kể cả những người
đầy đủ cũng thế, họ còn muốn và ước mơ thêm nữa. Vậy anh chị em có muốn sau 60,
70 hay 80 năm trần thế này được sống hạnh phúc mãi bên Chúa không? Hãy đến với
Bí tích Thánh Thể, hãy hết lòng tin vào phép Thánh Thể, và hãy siêng năng lãnh
nhận Thánh Thể, để Mình Máu Chúa tăng thêm niềm tin, lòng yêu mến, sự hy vọng
và giúp chúng ta sống hào hùng, sống tốt đẹp ở đời này và bảo đảm cho chúng ta
hạnh phúc đời sau.
21. Máu thịt Đức Giêsu là của ăn tâm
linh - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta đã mang danh là «ăn uống
Mình Máu Thánh Chúa» bao nhiêu lần, thậm chí hằng ngày suốt bao năm trường.
Nhưng đời sống tâm linh của ta có thật sự tiến triển không? Có những bước tiến
vĩ đại - như đúng lý phải có - so với những người không «ăn uống Mình Máu Thánh
Chúa» không?
2. Nếu không có những bước tiến to tát,
thì có phải do Lời của Đức Giêsu không đúng, hay do quan niệm về Thánh Thể và
cách thức «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» của chúng ta không đúng?
3. Phải quan niệm về bí tích Thánh Thể
thế nào? và phải «ăn uống Mình Máu Thánh Chúa» thế nào cho đúng?
Suy tư gợi ý:
1. «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi
thật là của uống»
Như lời xác nhận của Đức Giêsu trong
bài Tin Mừng hôm nay, thì bản thân Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng và bồi
bổ tâm linh con người. Vấn đề mà chúng ta cần phải đặt ra hôm nay không còn là
lý giải chân lý ấy nữa, mà là áp dụng chân lý ấy vào đời sống tâm linh thực tế
của chúng ta. Cả đời người Kitô hữu từ lúc rước lễ lần đầu đến lúc chết, việc
áp dụng chân lý này trong đời sống tâm linh luôn luôn được những người hướng
dẫn tâm linh nhắc nhở, khuyến khích thực hiện bằng việc rước lễ, tức rước Mình
Máu Thánh Đức Giêsu.
Tuy nhiên, lâu lâu chúng ta cũng cần
phải nhìn lại xem việc áp dụng chân lý quan trọng ấy có thật sự đem lại kết quả
thực tế trong đời sống chúng ta chưa, và kết quả thế nào, có thật sự thỏa mãn
chúng ta đúng như lời Đức Giêsu hứa chưa. Nếu quả thực sau nhiều năm rước Mình
và Máu Thánh Đức Giêsu vào lòng mà chúng ta cảm thấy có tiến bộ thật sự trong
đời sống tâm linh, thì đó là một điều hết sức đáng mừng. Nhưng nếu không được
như vậy thì chúng ta cần phải xét lại. Cũng tương tự như khi uống một loại
thuốc bổ được mọi người nói là thần dược một thời gian mà không thấy có kết quả
gì khác lạ hơn là khi không uống, ắt nhiên ta phải lấy làm lạ, và phải đặt lại
vấn đề. Có thể lời người ta ca tụng về loại thuốc ấy là sai sự thật, nhưng cũng
có thể là ta đã sử dụng không đúng cách loại thuốc ấy.
Là người Kitô hữu hay tu sĩ lâu năm,
nếu ta đã rước lễ hàng ngày hay hàng tuần suốt mấy chục năm trường rồi, mà ta
vẫn không thấy mình tiến bộ về mặt tâm linh hơn những người ngoại, hay hơn
những người khô khan ít lãnh nhận bí tích, thì ta cần đặt vấn đề lại. Trong
thời đại khoa học thực nghiệm này, sự tiến bộ tâm linh nếu có ắt phải được được
chứng tỏ bằng những sự kiện rõ rệt như: khả năng yêu thương ngày càng rộng rãi
và bao trùm hơn, tính vị tha ngày càng nhiều hơn, có khả năng hy sinh cho tha
nhân nhiều hơn, nội lực tinh thần mạnh mẽ hơn, sự khôn ngoan kiểu Thiên Chúa
(chứ không phải kiểu trần gian) tăng triển hơn, bình an và hạnh phúc trong tâm
hồn nhiều hơn và biểu hiện rõ rệt hơn, v.v... Nếu không có được những dữ kiện
cụ thể như thế, chúng ta nên thành thật nhìn nhận rằng mình đã không tiến bộ
tâm linh gì cả hay bao nhiêu. Lúc đó, chúng ta cần đặt lại vấn đề quan niệm về
bí tích Thánh Thể và cách rước Chúa của chúng ta.
2. Cần quan niệm cho đúng về bí tích
Thánh Thể
a) Bí tích Thánh Thể không phải là bùa
chú hay phù phép
Nhiều Kitô hữu quan niệm Mình Máu Thánh
Chúa tương tự như một thứ bùa chú hay phù phép, cứ việc nuốt vào bụng là tự
động sinh hiệu quả mong muốn. Quan niệm như thế thì thật là sai lầm. Họ quan
niệm Thánh Thể không khác gì những yêu tinh trong truyện Tôn Ngộ Không quan
niệm về thịt Đường Tăng, cho rằng hễ ăn được thịt của ông thì sẽ tự nhiên sống
lâu trường thọ. Nếu có khác thì chỉ khác ở chỗ thay vì trường thọ về mặt thể
chất thì được trường thọ hay phát triển về mặt tâm linh, mà không cần phải có
một ý thức hay nỗ lực nào.
b) Thức ăn tâm linh thì phải ăn bằng
tâm linh
Thực ra, Mình Máu Thánh Chúa hay thịt
và máu Đức Giêsu là của ăn tâm linh bổ dưỡng tâm hồn. Thức ăn tâm linh thì chủ
yếu phải ăn bằng tâm linh chứ không phải bằng thể xác. Điều quan trọng để được
bổ dưỡng tâm linh là phải gặp gỡ được Đức Giêsu và nhận được sức mạnh từ nơi
Ngài. Việc gặp gỡ Ngài ở đây cũng cần được hiểu là gặp gỡ bằng tâm linh chứ
không phải bằng thể chất.
c) Gặp gỡ Thiên Chúa phải gặp gỡ bằng
tâm linh
Nếu chỉ gặp gỡ bằng thể chất mà thôi
thì hoàn toàn chẳng ích lợi gì. Các kinh sư Do-thái xưa cũng gặp gỡ và nói
chuyện với Đức Giêsu nhiều lần, nhưng họ có được biến đổi gì đâu, trái lại họ
chỉ trở nên tồi tệ, cứng lòng và độc ác hơn. Một chàng trai ăn chơi hưởng lạc
trong ổ gái điếm, tuy chung đụng xác thịt với các cô gái, nhưng như thế đâu
phải là gặp gỡ họ đúng nghĩa. Trong một đống gạch, hai viên gạch xếp cạnh nhau
hay chồng lên nhau, tuy có trực tiếp tiếp xúc với nhau thật lâu, nhưng như thế
đâu thể gọi là gặp gỡ.
Sự gặp gỡ đòi hỏi một thái độ nội tâm
hơn là tiếp xúc bằng thể chất. Văn chương Việt Nam có câu: «Hữu duyên thiên lý
năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (có duyên với nhau thì dù xa
cách ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau, còn không có duyên với nhau thì dù có đối
diện với nhau cũng chẳng thể gặp nhau). Vì thế, có biết bao Kitô hữu nuốt Thánh
Thể vào bụng hằng ngày mà chưa bao giờ thật sự gặp được Đức Giêsu. Vì thế, họ
có rước lễ hằng ngày suốt cả cuộc đời thì đời sống tâm linh của họ chẳng hề
thay đổi, bởi họ chẳng hề được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể. Nếu thật sự gặp gỡ
Đức Giêsu, tâm hồn ta chắc chắn phải được biến đổi. Thời Ngài còn tại thế, có
những người chỉ cần thật sự gặp gỡ Ngài một lần là được biến đổi hoàn toàn như
Da-kêu (Lc 19,1-10), người trộm lành (Lc 23,39-43)...
d) Muốn thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, phải
có tình yêu
Theo câu nói văn chương trên thì điều
quan trọng để thật sự gặp nhau là phải có «duyên» với nhau. Muốn gặp Chúa, kết
hiệp hay nên một với Ngài thì phải có «duyên» với Ngài, nghĩa là phải có một sự
đồng cảm hay một sự giống nhau nào đấy với Ngài. Ta thấy dầu và nước không thể
hòa tan với nhau được, vì hóa tính của hai chất không giống nhau. Hai chất phải
có những hóa tính căn bản giống nhau mới hòa tan với nhau được. Cũng vậy,
«Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8.16), nên muốn gặp Ngài hay kết hiệp với Ngài
thì chính mình cũng phải có ít nhiều tình yêu, có lòng vị tha, có thiện chí
muốn gặp gỡ Ngài bằng bất cứ giá nào. Một người có tính ích kỷ, lãnh đạm với
mọi người, hay có tính ganh tị, ghen ghét thì khó mà gặp được Chúa, dẫu họ có
rước lễ cả chục lần một ngày. Thánh Gioan xác định: « Ai không yêu thương, thì
không biết (=kinh nghiệm về) Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1Ga 4,8);
« Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta » (4,12); «
Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng
động lòng thương, thì làm sao Thiên Chúa ở trong người ấy được? » (3,17).
Phương cách «ăn» Mình và Máu Thánh Đức
Giêsu
Ăn theo nghĩa vật chất đòi hỏi một số
tác động như đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, và sau đó là cả một tiến trình
làm việc âm thầm của dạ dày, gan, mật, ruột... để biến thức ăn thành chất bổ
dưỡng. Tất cả đều là tác động thể chất. Còn «ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu
hoàn toàn là những tác động tâm linh. Hình bánh, rượu và tác động nuốt vào bụng
đều là những dấu chỉ mang tính bí tích nói lên một thực tại tâm linh có thực ở
đằng sau. Nếu chỉ ăn hay uống Ngài theo kiểu vật chất thì chẳng khác gì ăn một
mẩu bánh hay uống một ly rượu, chẳng ích lợi gì cho tâm linh ta cả. Do đó, cần
phải biết «ăn» hay «uống» Ngài theo kiểu tâm linh. Tôi đã trình bày vấn đề này
trong hai bài chia sẻ trước (Chúa Nhật 18 và 19 Thường Niên). Cách «ăn» hay
«uống» ấy hệ tại việc ý thức thường xuyên Đức Giêsu là Thiên Chúa với bản chất
thần linh, là nguồn sống, nguồn tình yêu, nguồn sức mạnh, nguồn trí tuệ, nguồn
của tất cả mọi sự thiện hảo trên trời dưới đất. Bản chất thần linh và tất cả
những nguồn này đang hiện diện ngay trong bản thân ta, sẵn sàng lan tràn sang
bản chất của ta, biến đổi bản chất ta nên giống Ngài, làm ta nên mạnh mẽ, tràn
đầy sức sống, tình yêu, trí tuệ, can đảm, v.v... Ý thức thường xuyên như thế ta
sẽ dần dần thấy tâm linh ta được biến đổi thật sự một cách có thể kiểm chứng
được. Và sự biến đổi đó sẽ là một thực chứng, một kinh nghiệm tâm linh làm nền
tảng cho đời sống thần linh của ta. Đời sống tâm linh phải được xây dựng trên
những thực chứng về Thiên Chúa, về sức mạnh của Ngài. Nếu không, nó chỉ là một
mớ lý thuyết không có khả năng đem lại lợi ích tâm linh thực tế.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã «ăn uống Mình Máu Thánh
Đức Giêsu» suốt bao nhiêu năm trường, nhưng dường như con chẳng tiến bộ tâm
linh bao nhiêu. Xin cho con biết đặt lại vấn đề một cách nghiêm chỉnh: máu thịt
Đức Giêsu là lương thực tâm linh, tại sao con ăn uống máu thịt ấy hằng ngày,
hằng tuần, mà tâm linh con vẫn yếu hèn? Xin dạy con cách thức «ăn uống Mình Máu
Thánh» cho đúng với ý mà Đức Giêsu mong muốn.
22. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
"Đây là bánh bởi trời xuống, không
phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống
đời đời".
Chữ "manna" chắc hẳn không
còn lạ lẫm gì với bạn và tôi. Chúng ta nghe rất nhiều khi đọc Thánh Kinh Cựu
ước, nhất là sách Xuất hành. Sách Tân ước cũng đã có nhiều lần nhắc lại. Đặc
biệt trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc lại từ "manna" như
một so sánh kém hơn để nói về bí tích Thánh Thể, của ăn cao quý. Vậy manna có
nghĩa là gì?
Câu chuyện về manna thật lạ lùng. Nó
như một phương tiện cứu đói mà Thiên Chúa quan phòng, qua đó đã tỏ bày lòng yêu
thương đối với dân của Người. Ngày ấy, dân đi trong sa mạc đến bốn mươi năm. Sa
mạc chứ đâu phải đồng bằng. Đồng bằng còn có người khổ, người đói nói gì đến sa
mạc đầy khắc nghiệt, đầy nguy nan. Vì thế cuộc sống sa mạc dẫu có đói rét,
thiếu thốn đến mức cùng cực, không thể vượt qua đi nữa, vẫn là điều không lạ.
Thiên Chúa nhìn thấy nỗi lầm than ấy của dân chúng. Manna là quà tặng mà Người
ban cho họ để không chỉ làm lương thực mà còn giáo huấn họ về lòng yêu thương
vô cùng của Người. Người cho họ biết rằng, giữa nỗi cơ cực trăm chiều, Người
vẫn ở bên họ, Người rất gần với họ.
Manna giống như một thứ nhựa cây, cứng
lại khi gặp không khí. Muốn ăn, người ta phải giã nát ra rồi nướng thành bánh.
Manna có đủ mọi mùi thơm ngon, điều đó biểu trưng cho lòng nhân hậu của Chúa.
Chúa Kitô ví Thịt Máu Người là BÁNH.
Nói cho trọn nghĩa, Bánh ở đây nghĩa là lương thực. Lương thực - Bánh - này
"bởi trời xuống". Vì thế Bánh này là Bánh mà không một thứ lương thực
nào ví bằng. Dẫu là manna, dẫu là lương thực đã từng biểu trưng cho lòng thương
xót của Thiên Chúa với dân Người, vẫn không thể và không bao giờ có thể mảy may
sánh được. Bởi thế Chúa Giêsu khẳng định: "Đây là bánh bởi trời xuống,
không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ
sống đời đời".
Nếu ngày xưa, manna như một thứ nhựa
cây, ngày nay bánh Thánh Thể chính là Mình Máu Đấng là Thiên Chúa làm người.
Nếu ngày xưa ăn manna chỉ là ăn bánh, ngày nay lãnh nhận bí tích Thánh Thể là
ăn chính Chúa Kitô. Ngày xưa manna là quà tặng do lòng thương xót của Chúa dành
cho dân, thì hôm nay lòng thương xót của Thiên Chúa đã trao tặng con người
chính Người Con Một dấu ái. Ngày xưa manna chỉ là của ăn mang lai sự no nê cho
thân xác, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô trở thành Thần Lương không chỉ nuôi sống
linh hồn mà còn củng cố khả năng hướng thiện của người rước lấy. Ngày xưa manna
chỉ là phương tiện cứu đói tạm thời, ngày nay Mình Máu Chúa Kitô không chỉ là
lương thực giúp người tín hữu có đủ sức mạnh, đủ nghị lực tiếp bước hành trình
về quê trời, mà còn đưa họ vào vĩnh cửu và sống vĩnh cửu. Ngày xưa manna cho
thấy Chúa không bỏ dân của Người, ngày nay Chúa hiện diện giữa Hội Thánh và
hiện diện giữa thế giới này bằng chính Con của Người trong bí tích Thánh Thể.
Còn hơn cả mọi hiện diện bình thường, nơi bí tích ThánhThể, người cô đơn tìm
được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn
tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực
tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời, vào con người tìm được chỗ nương
thân; người hấp hối tìm được sự nâng đỡ vững vàng để bước ra khỏi cuộc đời;
người bị bỏ rơi tìm được nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm...
Và còn một ý nghĩa quan trọng, rất quan trọng: Nếu ngày xưa manna là của ăn
nuôi thân xác, ngày nay còn hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho
ta ơn thần hoá...
"Đây là bánh bởi trời xuống, không
phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống
đời đời". Bằng những lời chân thành như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách
long trọng Bánh hằng sống, Bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn
sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy với lòng trong sạch, đơn sơ,
ngay lành. Bánh ấy, quyền năng ấy chỉ có thể được trao ban bởi một mình Thiên
Chúa mà thôi. Vì thế, Thiên Chúa đã làm người, để bằng tất cả mọi sáng kiến của
Người, ta được sung mãn đến mức làm một với Thiên Chúa. Bởi vậy, khi dạy hãy ăn
Thịt và uống Máu Người, Chúa Giêsu muốn ta đời đời ở trong Thiên Chúa và Thiên
Chúa trong ta. Người muốn ta dùng chính nhân tính của Người mà nuôi dưỡng tâm
trí và linh hồn ta. Người muốn ta hãy bồi bổ đời sống của mình bằng sự sống của
Người cho đến khi trong ta thấm đẫm, tràn ngập và đầy dẫy sự sống của Thiên
Chúa.
Vì Thánh Thể là một sự bồi bổ thần linh
tuyệt hảo như thế, nên ăn Chúa Kitô là sống bằng chất bổ dưỡng có tên là CHÚA
KITÔ. Vì thế việc rước lễ thường xuyên, cũng có nghĩa là ngay từ bây giờ bạn và
tôi đã bước vào đời vĩnh cửu và chắc chắn sẽ được sống đời vĩnh cửu ấy.
23. Sự sống phát xuất từ việc trao ban
sự sống
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan
Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV
("Sách các Dấu lạ", ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ "Bánh trường
sinh" (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ "Bánh
trường sinh" bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi
vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của người Do Thái:
a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ một câu hỏi của người Do Thái
lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải
này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình
trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn
bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn
phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc.
35 và 48): "Tôi là bánh hằng sống" (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a
nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm
Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt
tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ
"thân thể" (sôma) mà lại dùng từ "thịt" (sarx), nhất là khi
mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích
Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa
tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và
từ này, cho dù chỉ "thân thể", vẫn được ưu tiên dịch ra
bằng sarx, "thịt", trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga
cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar.
Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là "thịt" là còn có nghĩa là
"toàn thân thể"; "toàn thể con người" [theo nghĩa là có
quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ
Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này,
người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi
người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn,
ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga
6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô...). Như
thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có một từ nhất định để gọi bí tích Thánh
Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram
một ý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để
gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại,
"thịt" vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể,
và "hai nghĩa trong một" này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết
trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của
"thịt mà Con Người sẽ ban" không phải là bí tích Thánh Thể, mà là
"chính bản thân" Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức
Giêsu nói về "thịt của Người để cho thế gian được sống", Người muốn
nói đến "bản thân Người" (chịu sát tế) để cho thế gian được
sống".
- làm sao ông này có thể cho chúng ta
ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp "ông này" (houtos) hàm ý khinh bỉ
(x. c. 42). Trong Kinh Thánh, "ăn thịt ai" là một công thức bóng bảy
để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như
một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn... uống (53): Hai động từ Hy Lạp
này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt... máu (53): Thành ngữ Híp-ri
"thịt và máu" có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải
Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình
không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn
Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ
"ăn" ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không
phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể:
"nhai bằng răng". Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích
Thánh Thể.
- ở lại (56): Động từ menein
(remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: "Cây
nho thật"; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga:
27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường
tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu
Ước, "trường tồn" là một đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ
thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm
bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công thức là "ở
trong" (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và
các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11),
thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con
(17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được
sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận
từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý đối
lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được
Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người.
Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong
sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho
chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế
gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48,
nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển
khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói "Tôi là bánh hằng sống từ
trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời" (c. 51a), Đức Giêsu tóm
ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên
quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn
với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu "Và bánh tôi
sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống" (c. 51b)
chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức
Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây
giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt
Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã
đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi
người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì
lời khẳng định của Đức Giêsu: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt
ông ta được?". Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng
cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu
cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa
ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của
Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự
theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: "ăn thịt người" đã là
một chuyện phi lý, lại còn "ăn thịt" một kẻ tầm thường (houtos) như
ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô
học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực,
thậm chí sống sượng ("ăn", trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí
tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con
Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc
đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ
ngữ "máu". Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người,
Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập
giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên
thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống,
như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức
Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và
máu Người như là của uống. Thịt và máu này là một bằng chứng tối hậu về tình
yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng
này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn
mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiêp
thông với Người: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và
tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (c. 54). Một lần nữa, Đức
Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với
Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa:
"[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)" và "người ấy ... ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy" (c. 56). "Ở lại trong
nhau" có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ
nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x.
15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra
mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là "bánh ban sự
sống" (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư
cách là "bánh ban sự sống" (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha
"hằng sống", là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn
kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự
sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự
sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống.
Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là
bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga
3,17), Người là Đấng "Cứu độ trần gian" (4,42). Người đã hy sinh
chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ
cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn
thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến
cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn
tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được
dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức
Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính
Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một
đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô,
trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức
Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta
tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là "bánh ban sự
sống" (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức
Giêsu, "bánh ban sự sống" (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa
Cha: "Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người
Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết"
(6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì
có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự
sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần
nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là
chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức
Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin
rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người,
Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi
đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng
chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân
loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng
ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức
Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình
trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức
Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được
đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang
trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức
Kitô, chúng ta trở thành "Đức Kitô toàn thể". Do đó, chúng ta cũng
phải trở thành "lương thực" nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi
chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ
phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em
mình. "Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận
trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất
huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm
về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc Thánh Thể đến
một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người" (Thông
điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
24. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Thiên Chúa là duy nhất và Lời Chúa là
duy nhất, nghĩa là được gom lại trong một sự phát âm duy nhất: Chúa nghĩ mọi sự
trong chỉ một "Lời" lời của Người hoàn toàn duy nhất. Nhưng độc nhất
và duy nhất đó, lời đơn giản đó lại được truyền đi thành vô số những chân lý
khác nhau, qua những lời nói khác nhau của con người. Cũng như ánh sáng trắng
trong tính duy nhất của nó, gồm chứa mọi màu sắc của cầu vồng, rất khác nhau,
khi chúng xuyên qua lăng kính của chúng ta. Vậy chúng ta không nên ngạc nhiên
khi thấy người ta đưa ra nhiều giải thích về mầu nhiệm bánh sự sống. Mỗi cách
giai thích là một sự tiếp cận, một phiến diện của chân lý độc nhất. Chương 6
Tin Mừng Thểo thánh Gioan có thể được hiệu bằng 4 cách:
1. Một vài tác giả thời xưa đã nghĩ đến
ý nghĩa thuần túy thiêng liêng "Bánh sự sống " đó là con người và sứ
điệp của Đức Giêsu, mà ta "đồng hóa" nhờ đức tin.
2. Một số lớn những nhà chú giải Thánh
Kinh thời nay, trái lại cho rằng cách nói này hoàn toàn thuộc về Bí tích Thánh
Thể: "Bánh sự sống", chính Thánh Thể mà chúng ta ăn thực sự trong một
thứ bữa ăn hiện thực, trong đó chính thân Thể của chúng ta cũng đóng vai trò
của nó.
3. Nhiều nhà phê bình đưa ra một ý kiến
trung dung: Phần đầu diễn từ cho đến câu 50 nhắm vào đức tin... làm cho chúng
ta được nuôi dưỡng bằng Đức Giêsu nhờ thông hiệp với tư tưởng và lời của Người.
Phần 2 của diễn từ, bắt đầu từ câu 51 tức là bài đọc Chúa nhật này, nhằm Bí
tích Thánh Thể, làm cho chúng ta kết hiệp với Mình Máu Chúa cách Bí tích, trong
một "dấu chỉ hữu hiệu".
4. Cuối cùng, đối với một số tác giả
hiện đại, diễn từ của Chúa Giêsu nhắm cả vào Đức tin và Bí tích Thánh Thể. Thật
vậy, có một sự kết hợp mạnh mẽ giữa hai đề tài này: Đức tin hoàn toàn nơi Chúa
Kitô đòi hỏi phải tìm Người hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, vì Bí tích Thánh
Thể là "mầu nhiệm đức tin" tuyệt vời.
Suy niệm về Lời và Con Người của Đức
Giêsu (phần đầu của Thánh lễ: Phụng vụ Lời Chúa) và rồi thông hiệp với Mình Máu
Thánh Người (phần 2 của Thánh lễ: Phụng vụ Thánh Thể), là 2 phần nối tiếp nhau.
Làm sao ta có thể nói, người ta thực sự tin vào Đức Giêsu, con Thiên Chúa đã
nhập thể không mà ta lại không làm theo lời Người và đón nhận "Mình
Thánh" Người? Đức Giêsu thường nói về đức tin trước khi nói cách rõ ràng
về Bí tích Thánh Thể, vì sự hiện diện nhiệm mầu" của Người chỉ thực sự
nuôi dưỡng những kẻ tin. Ta cũng thấy được sự quan trọng phải đến dự lễ đúng
giờ: Nhờ đức tin, chúng ta phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa là chính Đức
Giêsu, để có thể được nuôi dưỡng bằng chính Người trong mình Chúa đã được phó
nộp vì chúng ta. Không có 2 phần trong Thánh lễ, phần đầu có thể tùy ý không
bắt buộc. Ngay từ đầu, chúng ta đã thông hiệp với Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên
Chúa.
Đức Giêsu nói: "Tôi là Bánh hằng
sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban
tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống".
Đây là câu 51 lần đầu tiên một từ mới
xuất hiện và sẽ được lặp lại 11 lần trong phần cuối diễn từ của Đức Giêsu:
"thịt và máu" "ăn và uống". Chứng từ này rất hiện thực
chúng ta không làm sao chỉ có thể hiểu một cách tượng trưng được.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi
với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta
được?".
Họ đã hiểu theo một cách thực tế nhất,
và họ đã bất bình. Nếu họ nghĩ đến việc đón nhận Thánh Thể cách thiêng liêng,
thì họ đã không bất bình.
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, Tôi
bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông sẽ
không có sự sống nơi mình".
Thay vì làm dịu bớt sự căng thẳng, Đức
Giêsu lại càng nhấn mạnh đến tính thực tế của đời Người, và từ bây giờ trở đi,
Người còn thêm 2 từ "thịt" và "máu"... Và vấn đề không chỉ
nguyên là "ăn" mà còn là "uống" nữa. Việc rước Chúa dưới
"hai hình" nằm trong truyền thống xa xưa bắt nguồn từ Đức Giêsu, đến
nỗi người ta tự hỏi làm sao có thể bỏ truyền thống này, và cần. phải bao lâu
nữa người Kitô hữu mới muốn lăp lại truyền thống này.
Sự liên kết hai chữ "thịt" và
"máu" có thể được hiểu bằng nhiều cách.
Theo tâm thức của người Sê-mít, kiểu
nói này ám chỉ toàn diện con người, tất cả những gì làm nên thực tại cụ thể con
người, với những khả năng và giới hạn của nó. Cũng theo tâm thức của người
phương Đông, "máu" thật là linh thiêng, bởi vì nó là biểu tượng phi
thường của "sự sống", đến độ có thể dùng chữ này thay thế chữ kia
("nếu các ông không uống sự sống của Người, các ông sẽ không có sự sống
của Người trong mình").
Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, đó
là sự phân cách giữa 2 yếu tố này: Mình Tôi và Máu Tôi, gợi lên cho biết Đức
Giêsu sẽ chết cách nào, bằng cách "tách rời máu Người ra khỏi thân mình
Người". Đức Giêsu vừa nói: "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi
đây, để cho thế gian được sống": Ở đây rõ ràng Chúa muốn ám chỉ đến lễ hy
sinh Thập giá Chúng ta thâm tín với Đức Giêsu, Người cần phải hy sinh để cứu
chuộc thế gian. Người biết Người phải "hiến dâng" mạng sống của Người
để cho thế gian được sống.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được
sống muôn đời và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.
Đừng quên rằng Thánh Gioan viết những
câu này trong Tin Mừng của ông vào khoảng năm 90 hay 100. Nghĩa là từ 60 năm
qua, ông đã cử hành Bí tích Thánh Thể với những cộng đoàn Kitô hữu. Làm sao mà
độc giả của ông lại không áp dụng ngay những lời này vào Bí tích Thánh Thể mà
họ đã "ăn và uống" thực sự, trong một bữa ăn huynh đệ thân mật. Vả
lại, nếu Đức Giêsu không nói như thế thì làm sao các tông đồ trong bữa tiệc ly
đã có thể hiểu được việc Đức Giêsu làm? Sự thiết lập Bí tích Thánh Thể, chiều
11 tối Thứ Năm Thánh sẽ không thể hiểu được đối với Nhóm Mười Hai, nếu Đức
Giêsu đã không chuẩn bị cho các ông, bằng cách này hay cách khác... Và ở đây,
trình thuật của Gioan rất quan trọng: Chắc chắn ông đã hiểu rõ những gì Đức
Giêsu nói hôm đó khoảng một năm trước cuộc thương khó của Người, và Gioan đã
đưa vào trình thuật của ông tất cả những hiểu biết về sự Phục sinh mà ông đã
ghi nhận được qua những biến cố sau cùng này.
Vì Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi
thật là của uống.
Thánh Gioan không thuật lại việc thiết
lập Bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu, chiều tối Thứ Năm.
Nhưng chúng ta thấy có sự song song rất ăn khớp với Tin Mừng nhất là Mátthêu,
Máccô và Luca: Thực sự đó chỉ là một Tin Mừng với những từ ngữ khác nhau. Chúng
ta đừng quên một tính từ mà Thánh Gioan thường hay dùng, đó là chữ "đích
thực". Chữ này phải làm chúng ta chú ý, nó có nghĩa "coi thường".
Đó là "của ăn đích thực" một của ăn không giống như những thức ăn
khác. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con những chỉ dẫn chính xác, rất
quan trọng, giúp chúng con vượt lên trên những quan điểm nhân loại, quá chật
hẹp thuần túy.
Sau đó, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta 3
hiệu quả của Bí tích Thánh Thể.
1) Sự sống đời đời và sự sống lại
Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì
được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại.
Bích tích Thánh Thể làm cho chúng ta
kết hiệp với Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Và
Thân Thể hằng sống này (sống một cách khác, sống sự sống đích thực) trở nên
"mầm mống" sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Theo Tin Mừng nhất lãm,
vào buổi tối tiệc ly Đức Giêsu sẽ nói về "bữa tiệc trên trời", nơi đó
Người sẽ quy tụ các bạn hữu của Người. "Thầy sẽ không uống rượu nho nữa
cho đến ngày Thầy sẽ uống với các con Rượu Mới trong vương quốc của Cha
Thầy". Bữa tiệc Thánh Thể là một sự tham dự trước bữa tiệc Nước Trời, nơi
đó chúng ta sẽ ngồi đồng bàn với Chúa Cha, với Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần,
theo hình tượng rất đẹp của Chúa Ba Ngôi. Vâng, chúng ta đang đi tới cuộc gặp
gỡ hạnh phúc đó. Tạ ơn Chúa.
2) Sự kết hợp hỗ tương giữa Chúa Kitô
và người Kitô hữu.
Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì luôn
kết hợp với Tôi, và Tôi luôn kết hợp với người ấy.
Đây cũng là một từ quen thuộc đối với
Thánh Gioan "ở cùng". Ơn gọi của mỗi người là "ở cùng Chúa, ở
trong Chúa". Đó là đề tài căn bản của Giao Ước, đã được diễn tả trong
Thánh kinh suốt dòng lịch sử, qua những kiểu nói ngày càng rõ ràng, riêng tư và
thân mật:
"Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta
sẽ là Thiên Chúa của các ngươi" (Xh 6,7).- "Người yêu tôi thuộc về
tôi và tôi thuộc về người ấy (Dc 6,3).- "Các con hãy ở trong Thầy, cũng
như Thầy ở trong các con" (Ga 6,56 - 15,4).
3) Sự tận hiến cho Chúa Cha.
Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai
Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được
sống như vậy.
Giới từ được dịch ở đây là "nhờ
Chúa Cha" có những nghĩa phong phú hơn trong tiếng Hy Lạp. Giới từ đó là
chỉ "địa", có nghĩa là "qua", "vì",
"nhờ". Chúng ta thấy phớt qua một trong những nghĩa cử sâu xa của Đức
Giêsu, mà Thánh Gioan đã khéo đoán biết được: Đức Giêsu sống qua Chúa Cha, nhờ
Chúa Cha và cho Chúa Cha, và Người mời gọi chúng ta sống như thế!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét