CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Am. 7, 12-15; Ep. 1, 3-14;
Mc. 6, 7-13
MỤC LỤC
1. Phục vụ người nghèo
2. Tông đồ
3. Tông đồ
4. Hành trang người môn đệ - ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần Việt
Hùng
6. Sống thanh thoát – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
7. Sứ mạng loan báo Tin Mừng
8. Không bánh mì, cũng chẳng tiền
túi
9. Những lời căn dặn cho việc thi hành
sứ vụ
10. Thiên Chúa nói qua trung gian
11. Lời dặn dò cần thiết – Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
12. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
13. Loan báo Tin Mừng
14. Chúa sai các tông đồ đi từng hai -
Noel Quesson
15. Ngài gọi và sai đi
16. Lên đường thi hành sứ vụ với Chúa
Giêsu
17. Chân dung của Sứ giả Tin Mừng
18. Rao giảng
19. Chúa Kitô
20. Rao giảng
21. Hoạt động tông đồ
22. Hãy đi rao giảng
23. Người sai họ đi
24. Trách nhiệm
25. Đức Kitô cần chúng ta
26. Người bắt đầu sai đi
27. Đức Giêsu sai nhóm mười hai
đi
28. Chú giải của Noel Quesson
1. Phục vụ người nghèo
Như chúng ta đã biết: thánh Phanxicô
Assisi, sinh trong một gia đình giàu có. Thuở niên thiếu, người là một cậu bé
lêu lỏng hoang phí. Thế rồi vào năm 1202, thành phố Assisi
và Perugia bỗng
trở nên thù địch nhau. Phanxicô gia nhập quân đội Assisi và lên đường chiến đấu. Chàng bị bắt
làm tù binh. Sau đó bị xiềng và giam trong hầm ngục dơ bẩn suốt một năm. Khi
được trả tự do, phải mất một thời gian dài, sức khoẻ chàng mới được khôi phục.
Chính biến cố này đã thay đổi cuộc đời chàng. Chàng dẹp bỏ những bộ quần áo đắt
tiền và khoác lên người bộ quần áo công nhân nghèo khổ. Chàng từ giã gia đình
để sống đời ẩn sĩ khổ hạnh. Chàng đặc biệt lưu tâm tới những kẻ bị xã hội ruồng
bỏ. Sở dĩ tình thương ấy lớn mạnh trong tâm hồn chàng là do mối xúc cảm sâu xa
trước hai lời giáo huấn trong Kinh Thánh.
Lời giáo huấn thứ nhất nằm trong sách
Sáng Thế Ký, đó là mọi người đều được dựng nên theo hình ảnh Chúa. Giáo huấn
thứ hai nằm trong sách Phúc Âm, đó là sự gì chúng ta làm cho một kẻ bé nhỏ nhất
là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy. Chàng đã xác tín và thực thi đúng với
những lời giáo huấn kể trên. Lần kia, đang lúc đi đường, Phanxicô gặp một người
cùi. Mặc dù rất ghê tởm, nhưng Phanxicô xấn tiến lại ôm hôn con người bất hạnh
đó.
Hơn thế nữa, chính đoạn Tin Mừng hôm
nay, ngài được nghe đọc trong một thánh lễ đã thay đổi toàn bộ nếp sống của
ngài. Ngài từ giã nếp sống ẩn sĩ, dùng đức khó nghèo làm hành trang lên đường
để rao giảng Tin Mừng. Nếp sống này chẳng bao lâu đã lôi cuốn được nhiều thanh
niên. Và những tu sĩ đầu tiên của dòng Phanxicô này ra đi khắp nơi, chăm sóc
các bệnh nhân và giúp đỡ những người nghèo. Họ lấy trời làm nhà và ăn uống bất
cứ thứ gì người ta bố thí cho. Đức khó nghèo biến họ trở nên một với những kẻ
nghèo khó. Và đó cũng chính là nếp sống mà Chúa Giêsu đã chọn.
Thánh Phanxiô kêu gọi mọi người giúp đỡ
kẻ nghèo tuỳ theo hoàn cảnh của mình, và nhường cho kẻ khác trách nhiệm động
viên quần chúng và chính quyền tấn công vào cội rễ phát sinh ra sự nghèo khổ.
Điều đó dẫn chúng ta đến một kết luận thật quan trọng. Đó là ngày nay hơn bao
giờ hết, xã hội đang cần những loại chứng từ phục vụ người nghèo như Chúa
Giêsu, như thánh Phanxicô, như Mẹ Têrêsa...
Phải, thế giới đang rất cần những người
biết giúp đỡ kẻ nghèo tuỳ theo hoành cảnh riêng của mình. Lời giáo huấn của
Chúa trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay thật rõ ràng. Tất cả chúng ta đều được
mời gọi rao giảng Phúc Âm. Và chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm bằng cách biểu
lộ tình yêu và sự quan tâm đối với kẻ khác, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ
đau.
Và để kết luận, chúng ta hãy nhớ lại
kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi: Vì chính khi hiến thân là khi được
nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là
khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
2. Tông đồ.
Có một câu chuyện tưởng tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian,
Chúa Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên
thần lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ
được tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và
Ta đã trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái
đất. Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả
mãn nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình
nào khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào
khác, Ta tin tưởng ở họ.
Đúng thế, Chúa Giêsu hoàn toàn tin
tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện, khi Ngài về trời, Ngài
đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả năng để chu toàn sứ mạng đi
rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay cả sau khi Chúa đã sống lại,
đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa
Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe theo lời Chúa truyền, các
ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có than hồng, với cá đang
nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi các con. Tuy nhiên các
ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách Tông Đồ Công Vụ còn
cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông sau khi Chúa đã về
trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa Giêsu đã trao phó
trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện. Đó là chương trình
biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta
còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Thực vậy, các ông đã can đảm ra khỏi
những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và trốn tránh, để lên
đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp mọi cấm đoán, mọi
đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao niềm tin. Tất cả
các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để minh chứng lời
mình rao giảng.
Nước Trời từ một hạt cải nhỏ bé, đã trở
thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế kỷ trôi qua, có biết
bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp ứng lời mời gọi của
Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt chúng ta. Đúng thế,
có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra một câu hỏi để chúng
ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này: Còn con, con có muốn
trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như bằng chính việc làm và
cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người chung quanh hay không?
Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế nào và chúng ta sẽ làm
gì để đáp trả tiếng Chúa.
3. Tông đồ.
Một trong những ưu tư lớn trong cuộc
đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác với mình trong công
cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa chín thì nhiều, mà
thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các môn đệ. Ngài đã để
cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các ông, bằng cách để
cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc Ngài làm. Và cắt
nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài đã sai các ông đi để
thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài đã căn dặn: Đừng
mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền bạc và đừng mặc
hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn cảnh bấp bênh nhất,
để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó thác vào tình
thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề nhất của người tông đồ
hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài năng riêng của mình mà
quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không có Chúa, chúng ta không
thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết: Phaolô trồng, Apollo tưới,
nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta cũng vậy, một khi đã
lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta cũng được Chúa kêu mời
cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để rồi chúng ta cũng sẽ là
những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể hiện ơn gọi và sứ mạng của
mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương mẫu của chúng ta.
Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc
thật, Chúa Giêsu đã truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải
chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các
con mà ngợi khen Cha các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam cũng bảo: Lời nói như gió lung
lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống gương mẫu của chúng ta mới là một
bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới việc tông đồ, nhiều
người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng đó là bổn phận của
giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người giáo dân sống giữa
lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái Giáo Hội, chúng ta
đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng mở, tùy theo hoàn
cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một mẩu
chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa con đến gõ cửa
xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi chia làm hai
phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần cho gia đình
Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ nhất cũng có thể thực
thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể làm việc tông đồ, làm
sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
4. Hành trang người môn đệ - ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Ai đi xa cũng phải chuẩn bị hành trang.
Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi càng quan trọng thì hành
trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu sai các môn đệ đi một
chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin Mừng đến khắp các làng
mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này, Đức Giêsu đã giúp các môn
đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại hành trang cồng kềnh không
cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ những hành
trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn
bó mật thiết với Đức Giêsu. Các môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời
gian sống bên cạnh Người. Thời gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ
hiểu biết, cảm thông và nhất là yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính
là hành trang quan trọng nhất. Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng
đã sai mình. Sự gắn bó mật thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là
chìa khoá thành công của sứ vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn
bó mật thiết với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn
toàn kết hiệp với Đức Chúa Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn
cầu nguyện, luôn từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của
Người đã thành công tốt đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn
đơn sơ phó thác. Khi chỉ thị cho các môn đệ: "không được mang gì khi đi
đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng;
được đi dép, nhưng không được mặc hai áo", Đức Giêsu muốn các ông sống
trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện
nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn,
tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ
tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa
hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa. Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý
thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của mình, ý thức đó sẽ giúp người môn
đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát
bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa. Những thành công do tài sức con
người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó
thác là một hành trang rất cần thiết cho người môn đệ. Không mang theo gì của
loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, đó chính là
mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình
liên đới. Đức Giêsu không sai các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người
một. Người biết khả năng con người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn
thành sứ mạng. Lời chứng của một cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự
đồng tâm nhất trí của một tập thể lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức
Giêsu không sai các môn đệ đi làm việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các
ngài đến với con người. Các ngài phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp
đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải liên đới với con người. Tình liên đới không
những cần thiết để giúp các ngài làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua
tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim
biết cảm thương. Đức Giêsu sai các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật,
hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở
đời. Những người nghèo hèn yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với
những người anh em bé nhỏ, người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các
ngài phải mang trái tim của Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám
đông bơ vơ tất tưởi, túng thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi
tìm một con chiên lạc. Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở
về. Phải sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta đều là môn đệ của
Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa sai chúng ta đi rao
giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa Nam rất tích
cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn, không biết làm
sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho ta biết, muốn
việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó thác mọi sự cho
Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm thương anh chị
em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Một tình
yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong tình yêu mến.
Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường hướng của
Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Chúa sai bạn đi làm tông đồ cho
Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2- Mỗi khi đi làm việc tông đồ, bạn
thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành trang của bạn quan tâm có
giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ không?
3- Theo bạn, đâu là phương thế hữu hiệu
nhất làm cho những người chung quanh nhận biết Chúa?
4- Đâu là những hành trang cần thiết
của người môn đệ của Chúa?
5. Bài Sai – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Amos xuất hiện khoảng năm 760
trước Công Nguyên dưới thời của Vua Phương Nam Uzziah (783-742) và Vua Phương
Bắc Jeroboam II (786-746).
Tiên tri Amos làm việc nơi đồng áng và
chăn nuôi súc vật. Ông được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng sám hối
tại trung tâm miền Bắc Bethel và Samaria .
Quan niệm thần học tập trung việc cảnh cáo dân Do-thái rằng Thiên Chúa sẽ trừng
phạt và phá hủy dân Israel
bởi vì tội lỗi của họ. Amos kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối và cải đổi đời
sống theo giới răn của Chúa.
Phúc âm Chúa Nhật hôm nay tường thuật
việc Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi. Chúa ban cho các
ông quyền trên các thần ô uế. Với lời nhắn nhủ sống đơn sơ chân thành và đi làm
nhân chứng với hai bàn tay trắng. Các ông đã ra đi vào các làng mạc chuẩn bị
các tâm hồn đón nhận ơn Chúa. Các ông hoàn toàn cậy dựa vào sự quan phòng của
Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã chọn những con người tầm thường, họ
không có nhiều tài năng chuyên môn, không có của cải và không có chỗ đứng trong
xã hội. Chúa chọn những người bình thường để làm những việc phi thường cho Nước
Chúa.
Thật lạ lùng, Chúa Giêsu sai các tông
đồ ra đi loan truyền sứ mệnh quan trọng nhưng không ban cho các phương tiện,
tiền bạc hay của cải. Ngày nay trong công tác mục vụ, chúng ta thường chuẩn bị
rất kỹ càng, nào là tiền mặt, thẻ tín dụng, thức ăn thức uống, bản đồ, áo trong
áo ngoài, máy móc đủ loại và các dụng cụ cá nhân. Nếu khi phải ở qua đêm, chúng
ta còn cần nhiều thứ lỉnh kỉnh nữa. Chúng ta lo lắng cho những nhu cầu vật chất
như chỗ ăn chỗ ở, cái ăn cái mặc và những tiện nghi tối thiểu. Đôi khi chúng ta
lại quá lo lắng cậy dựa vào những nhu cầu vật chất của đời thường. Theo thông
lệ một số các đấng bậc khi thăm viếng mục vụ, các giáo đoàn phải chuẩn bị đón
tiếp long trọng và đôi khi còn phải chi tiêu hao tốn, thiếu đi tinh thần nghèo
khó và sự phó thác.
Mỗi năm kết khóa, mùa Hè là mùa ra
trường. Các ứng sinh lãnh nhận những mảnh bằng tốt nghiệp đã bắt đầu bước vào
đời. Những vốn liếng thu lượm qua việc trau dồi học hỏi trên ghế nhà trường nay
đem ra áp dụng theo những sở trường và khả năng. Trong sứ mệnh dâng hiến, mỗi
năm Giáo Hội đón nhận nhiều tu sĩ nam nữ khấn dòng, khấn tạm hoặc vĩnh khấn,
các chủng sinh lãnh nhận chức đọc sách, giúp lễ, phó tế và các tân chức linh
mục. Mỗi tu sĩ hay tân chức sẽ lãnh nhận những bài sai từ bề trên để ra đi làm
nhân chứng cho Chúa Kitô. Các sứ giả phúc âm không được tự chọn cho mình nơi
chỗ, nhưng được sai đến bất cứ nơi nào để phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Tháng Sáu vừa qua, tôi rất hân hạnh
được tham dự thánh lễ truyền chức linh mục tại Đài Đức Mẹ, Tân Hiệp, Địa phận
Long Xuyên. Lễ phong chức cho 18 tân linh mục rất là hoành tráng. Với trên hai
trăm linh mục trong Giáo phận có mặt và có thêm nhiều vị từ khắp nơi đổ về. Với
sự hiện diện trên mười ngàn Giáo dân vui mừng hân hoan tụ về tham dự nghi lễ
phong chức linh mục. Ngay sau thánh lễ truyền chức, một vị linh mục đại diện đã
công bố Bài Sai của Đức Giám Mục Địa Phận cho từng tân linh mục. Một sự chọn
lựa cắt đặt các tân chức vào các sứ vụ tùy theo khả năng thích hợp của mỗi tân
linh mục.
Chúng ta biết rằng lãnh nhận thiên chức
linh mục không phải riêng cho mình, nhưng cho Giáo Hội và chung cho mọi người.
Các tân chức nhận những Bài Sai khác nhau như về trụ sở Tòa Giám Mục, các Giáo
Xứ và có những Bài Sai về nơi truyền giáo vùng sâu vùng xa. Niềm vui trào dâng
khi nhận lãnh thiên chức cao cả. Khi nghe rao báo Bài Sai, các tân chức cũng có
những cảm tình vui buồn lẫn lộn. Có những bà mẹ nhảy cẫng vui mừng vì con mình
được về giáo xứ giầu có ổn định. Có những gia đình vỗ tay hãnh diện vì tân linh
mục nhà mình được về xứ lớn ở trung tâm thành phố. Có những vẻ mặt không được
vui lắm khi nghe Bài Sai sẽ đi phục vụ ở những nơi khai hoang truyền giáo. Thật
vậy, được sai đi nơi đâu, cũng là để phục vụ tha nhân. Chúa Kitô vẫn luôn là
trung tâm điểm của đời sống mục vụ và phục vụ.
Câu truyện vào thời chiến, có một sự
kiện xảy ra nơi một làng nhỏ ở nước Đại Hàn. Trước nhà thờ có một tượng Chúa
Giêsu bị trúng mảnh bom làm vỡ bể. Một nhóm binh sĩ Hoa Kỳ đã giúp linh mục lau
dọn và thu thập các mảnh vỡ vụn để gắn đặt lại tượng Chúa. Họ tìm thấy mọi phần
của tượng Chúa, trừ một cánh tay bị vỡ tan. Các binh sĩ đề nghị với linh mục là
đưa tượng Chúa về Hoa Kỳ để tu sửa và làm cánh tay mới. Linh mục bổn sở từ
chối. Ngài nói: Tôi có một ý tưởng. Cứ để tượng như thế, thiếu một cánh tay.
Chúng ta hãy viết trên bệ cho các khách hành hương chú ý: Hỡi bạn, cho tôi mượn
cánh tay của bạn.
Trong cách này, mỗi tu sĩ nam nữ, các
thiện nguyện viên hay các linh mục ra đi giúp mọi người nhận ra những nhu cầu
trong sứ mệnh phục vụ của mình. Chúng ta sẽ là những cánh tay nối dài của Chúa
Giêsu để xây dựng lại những đổ nát và hư mất. Cùng một suy tưởng, Chúa cần
những đôi chân của chúng ta để đi tìm kiếm những ai đã lạc bước. Chúa muốn
những đôi tai của chúng ta để nghe những tâm sự cô đơn buồn chán của tha nhân.
Chúa dùng miệng lưỡi của chúng ta để nói những lời thân thương, khuyến khích,
ủi an và nâng đỡ những kẻ đau buồn, khổ sở và thất vọng.
Trong thơ gởi cho tín hữu Ephêsô, thánh
Phaolô đã viết rằng: Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ
trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình
thương của Người (Eph 1, 4). Sau khi hồi đầu, Phaolô đặt trọn niềm tin nơi Đức
Kitô. Chúa đã chọn và gọi Phaolô một cách đặc biệt. Biến đổi ông từ một người
bách hại các Kitô hữu trở nên nhân chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Phaolô đã được sai đi rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Tông đồ Phaolô đã không
ngại gian khó rong ruổi khắp các thành thị và làng mạc để loan báo về công cuộc
cứu độ của Chúa Kitô.
Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta cầu
nguyện cho ơn gọi dâng hiến. Có rất nhiều tâm hồn đã và đang quảng đại đáp lại
tiếng Chúa trong ơn gọi tu trì. Mỗi tín hữu đều có bổn phận góp sức mình, của
cải và khả năng để xây dựng và loan truyền tin mừng cứu độ. Chúng ta không thể
đổ dồn trách nhiệm cho môt thành phần riêng biệt nào. Mỗi người chúng ta đều có
bổn phận và trách nhiệm sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Sự cộng tác của
chúng ta bằng lời cầu nguyện, nâng đỡ tinh thần và khuyến khích hơn là sự chỉ
trích, gây chia rẽ, đàm tiếu hoặc phá đổ. Lạy Chúa, cánh đồng truyền giáo còn
bao la bát ngát, xin Chúa sai thêm những thợ gặt lành nghề. Chúng con cảm tạ
Danh Chúa đến muôn ngàn đời. Amen.
6. Sống thanh thoát – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
Muốn đất nước phát triển: "Hãy
loại trừ tham nhũng", đó là vấn đề được bàn luận sôi nổi nhất nơi các kỳ
họp quốc hội Việt Nam .
Tham nhũng là gì? Tham nhũng không đơn
thuần là lấy của công thành của riêng. Tham nhũng không dừng lại ở việc lợi
dụng chức quyền để vun quén cho bản thân mà còn cho cả dòng họ. Đúng như cha
ông ta đã nói: "Một người làm quan cả họ được nhờ". Điều tệ hại của
tham nhũng đó là lòng tham đã ăn sâu vào xương tủy những người làm quan. Lòng
tham khiến họ không còn chí công vô tư khi thi hành chức vụ. Lòng tham khiến họ
không thể sống thanh liêm chính trực. Lòng tham dẫn họ đi sâu vào tội ác và dối
trá. Nếu xã hội không còn những người thanh liêm thì làm sao tránh khỏi ăn bẩn,
ăn chận của người thấp cổ bé miệng và đói nghèo. Nếu xã hội không còn những con
người chí công vô tư thì làm sao có công lý và tình thương trong xã hội hôm
nay. Tất cả chỉ là dối trả và phỉnh lừa lẫn nhau.
Lời Chúa hôm nay gợi lên một hình ảnh
thật đẹp về những sứ giả tin mừng. Họ là những người được tuyển chọn để cứu
nhân độ thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế
gian có quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám
dỗ. Họ cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được
mang bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc
sống nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ mệnh của họ là đẩy
lùi sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ
không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá
quan tâm đến mình sẽ bỏ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ
dẫn đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ
chệch đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ
còn lại sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ
bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu.
Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy
chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác,
anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị
cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới
giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải
lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm
thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu
để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm
cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, anh
lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ
cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một
trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một
thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một
ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại
muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở
thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng
ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một "cái áo
rách".
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là
thật. Ma quỷ thường cám dỗ từng bước. Ma quỷ thường gợi lên những điều hay,
điều tốt để dẵn dắt con người đi theo chương trình của nó. Adam – Evà đã nhìn
thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh
lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận
tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo, khiến tâm hồn anh không còn
thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của mình. Cái thất bại của anh thật
tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một "chiếc áo rách".
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có
thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền mà "nhân chi sơ tính bổn
thiện" đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là
nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng
tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời.
Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm
hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá
trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng
ta có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo,
gian trá của thế gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con
người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích
mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ
lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy
lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự
Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào
vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo
lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần nghèo
khó, vì nước trời là của họ". Amen.
7. Sứ mạng loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành
Long)
Sau khoá huấn luyện "trung
cấp" 2 năm về "kỹ năng" loan báo Tin Mừng, hôm nay Chúa Giêsu
đặc phái các môn sinh của mình lên đường thực tập sứ vụ trước khi cấp
"chứng chỉ tốt nghiệp ra trường" cho các ông. Ngay trước lúc lên
đường, Chúa Giêsu đã không quên ân cần dặn dò các môn sinh cách thức để việc
loan báo Tin Mừng mang lại hiệu quả như ý. Tựu trung lời dặn dò đó chứa đựng 3
bí quyết, như là "kim chỉ nam" cho các nhà truyền giáo mọi thời mọi
nơi.
1. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải
được thực hiện trong chiều kích cộng đoàn
Cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng
trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Bởi chưng, Chúa Giêsu không sai các môn đệ
đi từng người một, lẻ loi, đơn độc, để rồi các ông cứ mãi hát khúc hát "Cô
đơn một cõi đi về". Ngài sai họ đi là sai từng hai người một, cùng với các
Tông đồ khác tạo thành nhóm, thành cộng đoàn. Qua đó, các ông được huấn luyện tinh
thần làm việc chung, làm việc với người khác. Tinh thần làm việc chung, việc
nhóm mới có khả năng tạo nên sức mạnh kỳ diệu (các giải thưởng Nobel trong
những năm gần đây chứng minh điều này. Hầu hết đó là những công trình của một
tập thể, một nhóm). Hơn nữa, trên phương diện chứng tá, chứng của hai người trở
lên bao giờ cũng có giá trị hơn. Giá trị còn là vì cộng đoàn tính nói lên tinh
thần liên đới và hiệp nhất của người Tông đồ. Cộng đoàn tính còn là lời chứng
sống động về tình huynh đệ yêu thương mà họ rao giảng. Bởi thế, ta không ngạc
nhiên khi thấy các vị thừa sai thường được phái đi từ 2 hoặc 3 người đến một
giáo điểm hay một vùng miền nào đó để làm việc Tông đồ truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu khi được Chúa Cha sai
đến trần gian, Ngài không đi một mình, nhưng có Chúa Thánh thần cùng đồng hành
và cùng hoạt động với Ngài.
2. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng cần được
thực hiện với tinh thần siêu thoát
Siêu thoát khỏi những dính bén với của
cải vật chất, tiền bạc để sẵn sàng lên đường, sẵn sàng đi đến bất cứ nơi đâu
một cách nhanh nhẹn và vui tươi. Siêu thoát với mọi thực tại đời này để toàn
tâm, toàn ý cho sứ mạng được giao phó. Thái độ siêu thoát cũng là dấu chứng nói
cho người khác biết lòng tin tưởng phó thác của người môn đệ vào sự quan phòng
của Chúa. Chúa Quan Phòng phải là người bạn đường của người loan báo Tin Mừng.
Nếu gạt Chúa Quan Phòng sang một bên, người tông đồ chỉ còn loay hoay vun vén,
"đào hang", "xây tổ" cho riêng mình.
Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ
của Ngài về tinh thần siêu thoát và tín thác. Khi đến trong trần gian, Ngài
không mang theo gì ngoại trừ tình yêu của Chúa Cha. Khi sống trong trần gian,
cũng như khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài hoàn toàn sống phó thác vào sự quan
phòng của Chúa Cha. Chính Ngài đã bộc bạch: "Chim có tổ, cáo có hang; còn
Con Người không có chổ tựa đầu" (Lc 9,58).
3. Loan báo Tin Mừng - sứ mạng phải
được thực hiện với năng quyền của chính Chúa
Lệnh truyền và sứ điệp loan báo Tin
Mừng không đến từ con người, nhưng đến từ Thiên Chúa. Do đó, để có thể chu toàn
sứ mạng, cần đón nhận năng quyền Thiên Chúa ban. Đó là năng quyền rao giảng:
công bố Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô. Đó là năng quyền chữa lành và thánh hoá
nhằm cải thiện đời sống và phong hoá trần gian. Đó còn là năng quyền trừ quỷ
hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ ngày hôm
nay cũng cho thấy Thiên Chúa luôn dẫn dắt chúng ta đi: "Ơn ta đã đủ cho
ngươi". Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Ý quốc,
khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng Trưởng của Thánh Bộ Rao giảng
Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội Giáo hoàng Truyền giáo, ngài cho
hay: "Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm trực tiếp với 1.100 giáo
phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên
hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây dựng một đời sống theo
đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều".
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ như
vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: "Khi anh làm việc cho Thiên Chúa,
Người luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của
Người". Nếu ý thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo
khi thấy trách nhiệm năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm được
việc này việc nọ.
Qua Bí tích Rửa Tội, đặc biệt là Bí
tích Thêm Sức, người Kitô hữu, cũng là người được sai đi. Được sai đi cùng với
người khác, được sai đi với tính thần siêu thoát và được sai đi với ơn sức của
Chúa. Đối tượng mà chúng ta cần nói cho biết về Chúa, không ở đâu xa mà ngay
trong gia đình, gia tộc và xứ đạo của mình. Họ là những người thân thích với
ta, là bà con lối xóm của ta. Họ là những người đồng hương với ta. Họ là những
người cùng nghề cùng sở làm với ta...
Thế nhưng câu hỏi đặt ra là khi thực
hiện ơn gọi loan báo Tin Mừng, tôi đã nêu cao tinh thần chung, tinh thần cộng
tác với anh chị mình chưa hay vẫn còn cá nhân chủ nghĩa? Tôi đã đề cao tinh
thần siêu thoát chưa, hay còn quá dính bén với những thực tại đời này, và quá
chú trọng đến việc "xây tổ", "đào hang" cho mình? Và nhất là
tôi đã hết lòng giương cao sức mạnh của Chúa chưa, hay chỉ toàn cậy dựa vào tài
cán và sức riêng mình?
8. Không bánh mì, cũng chẳng tiền túi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Thế)
* Vài hàng sơ lược
- Sau khi bị người đồng hương
Na-za-réth của mình chối từ (Mc 6, 1-6a), thay vì bực mình giận dữ, Giêsu vẫn
thản nhiên và Ngài tiếp tục lên đường đến các làng chung quanh để giảng dạy.
Sau đó, Ngài sai các môn đệ ra đi thi hành sứ mạng giảng dạy như Ngài.
- Đoạn này có thể chia như sau: (1)
6b-7: Chuyển tiếp (câu 6b) và dẫn vào câu chuyện. (2) 8-9: Chỉ thị các môn đệ
phải trang bị những gì khi ra đi. (3) 10-11: Chỉ thị các môn đệ về phản ứng
trước sự đón tiếp của người khác. (4) 12-13: việc rao giảng và chữa bệnh của
các môn đệ.
- Trong cái nhìn nhất lãm, thì Luca nêu
đoạn 9, 1-6, tương hợp với đoạn phúc âm của Mác-cô ở đây. Còn trong Mát-thêu
thì cũng nêu lên trong Mt 10, 1-15. Theo Helmut Klein thì Luca đã lấy lại đoạn
phúc âm này của Mác-cô. Tuy nhiên, có một vài sự khác biệt: Luca không đề cập
đến việc đi giày trong chỉ thị sai đi của Giêsu. Ngoài ra, Luca nêu bật ý nghĩa
và nội dung của việc Giêsu sai đi, trong khi Mác-cô thì lại không. Ý nghĩa nằm
trong câu: "Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa" (Lc 9,2).
So sánh với Mát-thêu thì có khá nhiều sự khác biệt. Mát-thêu nêu tên 12 tông đồ
(câu 2-4). Đích đến cũng được Mát-thêu nêu rõ: "Tốt hơn là hãy đến với các
con chiên lạc nhà Ít-ra-en" (câu 6). Ý nghĩa việc sai đi của Mát-thêu thì
gần giống như Luca.
* Suy niệm
"Rồi Người đi các làng chung quanh
mà giảng dạy."
Các làng chung quanh ở đây là các làng
nằm chung quanh Na-za-réth. Trong mạch văn của Mác-cô, thì việc giảng dạy của
Giêsu ở đây có ý nghĩa hướng dẫn các môn đệ vào trong sứ mạng rao giảng sắp
tới.
"Người gọi Nhóm Mười Hai lại và
bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ."
Nhóm Mười Hai mà Giêsu thành lập (ss.
Mc 3,14) giờ đây được Giêsu gọi lại và bắt đầu sai họ đi. Sứ mạng thực sự bắt
đầu. Sau những ngày được kêu gọi để ở lại với Giêsu (Mc 3, 14), để đi sâu vào
tương quan với Giêsu, để học biết tinh thần của Ngài, thì giờ đây có lẽ các môn
đệ đã phần nào "chín chắn", nên Giêsu sai các ông lên đường. Ngài sai
các ông đi từng hai người một. Tại sao lại từng hai người một? Theo các nhà chú
giải thì trước hết liên quan đến việc làm chứng của người Do-thái. Chỉ có một
người làm chứng sẽ không có tác dụng gì cả, hay nói mạnh hơn là không phải là
người làm chứng. Nếu chỉ có một người làm chứng thì không thế dẫn tới quyết
định trong tòa án, mà cần phải có hai người hay ba người làm chứng: "Một
nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một
lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân
chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét."
(Đnl 19,15)
Ngoài ra, trong Thánh Kinh còn có một
số đoạn nhắc đến cặp "hai người", như trong cuộc tranh luận với người
Pha-ri-sêu về bản thân của Người, Giêsu đã nói: "Trong Lề Luật của các
ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. Tôi làm chứng cho
chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi." (Ga
8,17-18), hay ở Mt 18,19: "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai
người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên
trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy
ở đấy, giữa họ."
Như vậy, việc làm chứng của "hai
người" còn có ý nghĩa là làm cho sự thật được sáng tỏ, sự thật về chính
Đức Kitô, con Thiên Chúa, đến trần gian để rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa
cho mọi người. Sự thật về tin mừng này sẽ được tỏ lộ một cách thật rõ ràng và
chất lượng hơn, khi có hai người cùng đi chung để rao giảng và loan báo.
Có lẽ đây là điều quan trọng trong sứ
mạng rao giảng, nên ngay từ đầu chúng ta đã thấy các cặp đi rao giảng chung,
như trong Tông Đồ Công Vụ đề cập đến: Phao-lô và Ba-na-bê, Phêrô và Gioan.
Và Giêsu đã ban cho họ quyền trừ quỷ.
Điều này được Mác-cô nêu bật trong Phúc Âm của mình (ss. Mc 1, 21-28), qua đó
quyền năng của Giêsu được "tô đậm", quyền năng giải phóng con người
khỏi thần dữ. Vâng, Mác-cô chủ ý nêu bật điều này, vì độc giả của ông là những
người kitô giáo trở lại ở Roma. Họ cần nhận ra sự gần gũi của Thiên Chúa, ngay
cả khi thần dữ đang chế ngự. Sự gần gũi và quyền năng Thiên Chúa chính là bảo
đảm cho sự tự do của những người con cái Thiên Chúa.
Trở về với đoạn Phúc Âm, các môn đệ ra
đi với quyền năng của Giêsu để trừ quỷ.
Thực, trong trận chiến đấu với thần dữ,
thì nếu không mang vũ khí của Thiên Chúa ban cho, thì không thể nào chiến thắng
được: "Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn
năng của Người. Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể
đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải
với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống
trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó,
anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có
thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối." (Ep 6,
10-13) Đây chính là vũ khí thiêng liêng các môn đệ cần đến.
Với sự sai đi và với quyền năng trừ quỷ
của Giêsu ban cho, các môn đệ và giáo hội nhận được một sứ mạng mới, sứ mạng
loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa, và sứ mạng trừ khử thần dữ trong thế giới.
"Người chỉ thị cho các ông không
được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị,
tiền đồng để giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo."
Lời nhắn nhủ của Giêsu ở trên được coi
như là chỉ thị, tiếng Hy-lạp là paragge,llw (paraggellò). Theo từ điển chú giải
Tân Ước của Horst Balz và Gerhard Schneider xuất bản (Exegetisches Woerterbuch
zum Neuen Testament), thì động từ này xuất hiện 31 lần trong Tân Ước. Trong các
sách Phúc Âm, chỉ có Giêsu là người ra lệnh cho thần ô uế (Lc 8,29), và chỉ thị
cho nhóm 12 (Mc 6,8).... Ở đây, trong đoạn phúc âm của Mác-cô, theo R. Pesch,
với chỉ thị này Giêsu muốn đặt nền tảng cho nguyên tắc sai đi của Ngài. Nguyên
tắc đó là gì vậy?
"Không được mang gì đi
đường", nghĩa là phải từ bỏ của cải và không còn có nhu cầu gì cả. Đó là
nguyên tắc rất triệt để. Như vậy, trong bối cảnh xã hội thời đó, thì người môn
đệ của Giêsu còn phải triệt để hơn cả những nhà triết gia Kyniker, những nhà
thuyết giảng khắc khổ đi khắp mọi nơi. Và khi các triết gia Kyniker đi, thì họ
không có nhu cầu gì cả, nhưng họ có đem theo gậy, túi xin tiền và chiếc áo
mantel giành cho nhà triết gia. Còn các môn đệ của Giêsu thì có gậy đấy, nhưng
không có túi xin tiền hay ba lô hay túi ngủ gì cả, và cũng chẳng có tiền buộc
bụng, đến cả của ăn đàng cũng không có nữa. Dù vậy, có áo, nhưng chỉ là một
thôi chứ không phải là hai hay là ba.
Nhưng tại sao lại phải từ bỏ những vật
dụng đó?
Không mang lương thực đi đường, không
bánh trái gì cả. Điều này còn vượt trội hơn các triết gia khắc khổ Kyniker thời
đó, vì khi họ ra đi thì họ đem theo bánh, trái vải và bình nước. Như vậy, người
loan báo tin mừng của Đức Kitô sẽ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, và cũng tự
do và khiêm nhường đón nhận tất cả những gì anh chị em ban cho mình. Ai cho ăn
gì thì ăn nấy. Ai cho ly nước thì uống nước, ai mời tách trà thì sẵn sàng ngồi
lại nhâm nhi. Thật đơn sơ và giản dị.
Giản dị hơn nữa, khi chẳng đem theo bao
bị, chẳng có ba lô trên vai. Rũ bỏ tất cả. Tự do hoàn toàn. Không vương vấn
điều gì, không giữ lại sự gì cả. Như vậy, thì không chỉ chân rảnh, mà tay cũng
rảnh, người cũng nhẹ và đầu óc cũng trở nên trống rỗng hoàn toàn, để tất cả cho
Tin Mừng mà thôi.
Tất cả vì Tin Mừng nên tiền bạc cũng
chẳng màng tới. Và nhờ vậy mà tránh được biết bao nhiêu phiền toái tiền bạc có
thể gây ra. Không tham lam, không thu gom, không cất giữ, đỡ phải mệt mỏi ôm
đống tiền trong lòng, đỡ phải phí phạm chẳng đáng gì. Hơn nữa, trong xã hội
Đông Phương thời đó, thì khi không mang tiền bạc trên mình, sẽ tránh được sự
trấn lột của kẻ cướp qua đường.
Thật là tuyệt, nếu tự do hoàn toàn với
tiền bạc, tự do với thế lực của đồng tiền mà người đời thường nói: "Có
tiền mua tiên cũng được."
Vật được mang theo là gậy và dép, còn
áo thì chỉ một cái thôi nhé!
Tại sao vậy? Cây gậy ở đây là vật dụng
cần thiết cho người lữ hành, cho người giảng thuyết phải đi khắp mọi chốn để
loan báo tin vui. Với cây gậy trên tay chứ không vũ khí nào khác, người giảng
thuyết xuất hiện rất đơn sơ và giản dị trước mọi người. Không ai phải sợ sệt
người giảng thuyết cả, và người rao giảng Tin Mừng cũng không cần phải hãi sợ
ai hết: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ
không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói
với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ
tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng. "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác
mà không giết được linh hồn" (Mt 10, 26-28a) Và người rao giảng sẽ
"không phải chết, nhưng sẽ sống, để loan báo những công việc CHÚA
làm." (Tv 118,17)
Dép được nhắc ở đây chính là Sandalion,
tiếng Hy-lạp là sanda,lion, có thể mường tượng như giày Sandal có quai như hiện
giờ, là một vật dụng cần thiết cho người rảo bước khắp mọi nơi loan báo Tin
Mừng. Sandal được sử dụng rất thường trong xã hội Do-thái thời đó, và rất cần thiết
cho những chặng đường dài, từ miền đất này qua miền đất khác. Cũng nên nhớ
rằng, ở Ít-ra-en có những miền đất sa mạc rất khô cằn và nóng, vì thế Sandal
thực là cần thiết. Còn khi đi chân không, thì đó là dấu hiệu của sự tang tóc và
chay tịnh. Vâng, người rao giảng tin vui đâu có ăn chay, đâu có mang tang tóc,
vì thế cần phải đi Sandal vào, và như vậy thì mới khỏe khoắn nhanh nhẹn rảo
bước, sẵn sàng lên đường đi bất cứ nơi đâu, đến với bất cứ ai đang cần đến Tin
Mừng.
Ngoài Sandal và gậy ra, người loan bao
tin vui được phép mang theo áo, nhưng chỉ một mà thôi. "Áo" ở đây
dịch từ ngữ Hy-lạp citw,n (chitòn). Theo từ điển chú giải Tân Ước của Horst
Balz và Gerhard Schneider, thì áo này là một loại áo dài bằng vải thô hay len,
dài có thể tới đầu gối che thân mình trên và thân mình dưới, có cả hai loại tay
ngắn và tay dài.
Ngoài ra, theo Adolf Pohl, trong xã hội
Đông Phương thời đó, quần áo là dấu hiệu nói về sự giàu sang phú quý. Người
giàu sang là người có nhiều quần áo, trong khi người nghèo khổ chỉ có mỗi một
chiếc áo che thân. Để khoe khoang và muốn mọi người tiếp đón mình đàng hoàng,
người giàu có thường thay đổi áo và mang trên mình nhiều áo khác nhau. Nhưng
cũng vì sự khoe khoang này, mà họ trở thành nạn nhân của kẻ cướp đường.
Người loan báo tin mừng của Giêsu không
cần phải khoe khoang, không cần phải sửa soạn nhiều, không cần phải mang áo có
hiệu vào mình. Vâng, khi mọi người chẳng sợ hãi gì trước người loan báo tin
mừng, thì cũng thế, không ai phải ganh tị với người loan báo tin mừng về áo
quần cả.
Như vậy, tinh thần của người loan báo
tin mừng là trở nên tự do hoàn toàn với mọi thứ. Mọi thứ đều trở thành thứ yếu.
Chỉ có Tin Mừng, Nước Thiên Chúa và ơn cứu rỗi cho mọi người là tất cả. Không
có gì hơn cả. Cả quần áo, cả tiền bạc, cả lương thực, cả balô. Vâng, nói theo
tinh thần của thánh I-nhã, thì người môn đệ của Chúa cần phải trở nên bình tâm
và tự do hoàn toàn, để luôn sống theo thánh ý Chúa, và luôn ao ước được trở nên
nghèo khó như Đức Kitô, Vị Giảng Thuyết đơn sơ nghèo hèn, nhưng đem lại biết bao
nhiêu ơn lành cho mọi người.
"Người bảo các ông: "Bất cứ ở
đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi."
Sau các chỉ thị về việc từ bỏ tất cả
những gì không cần thiết để lên đường, Giêsu căn dặc các môn đệ thêm hai nguyên
tắc, khi đi đến với những người mà họ rao giảng. Điều thứ nhất liên quan đến
lòng hiếu khách và đón tiếp. Trong tục lệ Do-thái, sự hiếu khách đóng một vai
trò quan trọng. Sự hiếu khách hứa hẹn sự chúc phúc, và còn là sự tha thứ cho
người lầm lỡ. Ngay cả đối với kẻ thù, thì cũng khó lòng mà từ chối không đón
tiếp. Về phía khách, ở đây là những người rao giảng tin vui, thì không được
phép thay đổi chỗ ở tùy ý. Trong ý nghĩa mà Mác-cô diễn tả ở đây, có thể việc
rao giảng và xây dựng một cộng đoàn đòi hỏi nhiều thời gian, nên không không
được thay đổi chỗ ở liên hồi. Trong khi Tin Mừng chưa "đâm rễ" vào
lòng người, vào cộng đoàn, thì cần phải ở lại.
"Còn nơi nào người ta không đón
tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối
họ."
Nguyên tắc thứ hai ở đây liên quan đến
sự từ chối, không đón tiếp, không lắng nghe của chủ nhà. Khi chối từ người rao
giảng và sứ điệp anh ta đưa lại, là chối từ chính Đấng sai anh ta. Sự chối từ
đem lại hậu quả. Như trong phản ứng của Giêsu với những người Na-za-réth, Giêsu
nói với các môn đệ mình hãy đi ra khỏi đó, và giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Thái độ giũ bụi này trong xã hội Do-thái thời đó, được người Do-thái làm, mỗi
lần họ từ đất dân ngoại trở về lại biên giới của đất thánh. Theo truyền thống
của các Rabbi, thì bụi đó có thể sẽ làm ô uế. Vì vậy, họ muốn tẩy rửa và giũ
lại tất cả những gì dơ bẩn.
Theo các nhà chú giải, thì trong đoạn
phúc âm này, thái độ giũ bụi chân là biểu tượng của chứng từ mà người rao giảng
tin mừng để lại, và hy vọng có ngày người chối từ Tin Mừng sẽ suy nghĩ lại, tự
chất vấn lại thái độ của mình đối với Tin Mừng và đối với Đấng là chủ của Tin
Mừng.
"Các ông đi rao giảng, kêu gọi
người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người
đau ốm và chữa họ khỏi bệnh."
Nhóm Mười Hai ra đi theo lời sai đi của
Giêsu, và họ đã làm được nhiều điều tốt lành. Cụ thể họ đã ra đi rao giảng, kêu
gọi người ta ăn năn sám hối. Không chỉ thế, với quyền trừ quỷ mà Giêu đã trao,
họ đã trừ được nhiều quỷ. Mác-cô lại làm nổi bật điều này, để qua đó nói lên
quyền năng của Thiên Chúa trên thần dữ. Quyền năng giải thoát con người khỏi
bóng đêm. Thêm vào đó họ đã xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi
bệnh.
Như vậy, khi ra đi theo lời kêu gọi của
Đức Kitô, và sống đúng theo chỉ thị và tinh thần của Ngài, các môn đệ đã cùng
với Đức Kitô đem lại Tin Mừng cho rất nhiều người, và qua đó họ nhận được sự tự
do làm con cái Thiên Chúa, sự tự do với bình an và niềm vui sống mà mọi người
có thể tìm thấy trong Nước Trời.
9. Những lời căn dặn cho việc thi hành
sứ vụ.
(Suy niệm của Camille Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi
giảng một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn
nói về gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là
Tin Mừng bảo rằng "Lần đầu tiên" Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai
người một, đi rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên
đường. Tôi không biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không,
nhưng tôi biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ
là làm hỏng kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại
của gia đình Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
"Đừng mang theo hành lý cồng
kềnh".
Lời căn dặn đầu tiên của Chúa Giêsu
thật rõ ràng: "Đừng mang theo hành lý cồng kềnh". Vì ông Tremblay
không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ cho mỗi
người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ, v.v...
Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ món
gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn
chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm trại, sẽ khôn ngoan
hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô ích. Họ đã hiểu ý
nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay họ thấy được yếu
điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu cầu không cần
thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho cuộc sống của
mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không lấp đầy được cả
một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện nghi. Thế là, bị
kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh thơi để có được
những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
"Đừng đi lăng xăng khắp
nơi!".
Lời căn dặn thứ hai là đừng đi lăng
xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không thành công. Tuy
nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có dịp gặp gỡ
nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử tế và dễ
làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước trước, mỗi
ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối tuần, bà
đã "quen biết" nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa
Giêsu đã nói: "Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến
lúc ra đi!". Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó
trước khi ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó
mà không hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có
một cách để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng
bỏ đi ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo:
Với thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu
không tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này
đến nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì cả.
Bọn trẻ nhà Tremblay trở về rất thất
vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng lứa tuổi với chúng; dụng cụ
thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm hai ngày, hai ngày đẹp trời
nhất, v.v... Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng bây giờ chúng chán cắm trại
lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích thú gì cả. Từ lúc về nhà
chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn dặn cuối cùng là:
"Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ đi và để lại
tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ chỉ ngăn cản
các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi".
Tóm lại sứ vụ của các môn đệ, cuộc đời
của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại chẳng cần những lời
căn dặn này sao: "Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng lại để thiết
lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để bắt đầu lại
cách tốt hơn".
10. Thiên Chúa nói qua trung gian
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Thiên Chúa luôn làm việc. Ngài trực
tiếp tác động nơi tâm hồn mỗi người, và Ngài cũng sai một số người đặc biệt để
nói với con người của mọi thời đại. Mỗi một người rao giảng đều phải là người
đã biết lắng nghe và vâng nghe Lời Chúa trong đời sống.
I. Amos đã được sai để nói nhân danh
Thiên Chúa cho dân Ngài
Con người là tạo vật được yêu thương.
Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người, Ngài mong ước con người sống hạnh phúc
đời này lẫn đời sau. Khi cần can thiệp để hướng dẫn dân một cách đặc biệt,
Thiên Chúa dùng các tôi tớ Ngài, cụ thể là các tiên tri. Sách tiên tri Amos cho
thấy tiên tri Amos không phải là tiên tri "chuyên nghiệp", nghĩa là,
Ngài không thuộc nhóm tiên tri, hoặc con cháu tiên tri. Ngài là một người chăn
cừu, người đi hái trái sung, nhưng đã được Thiên Chúa gọi đi nói tiên tri, đi
làm ngôn sứ.
Tiên tri Amos đã được Chúa sai tới nói
với dân ở phía bắc, tại đền thờ ở Bethel, nên đã bị tư tế Amaziah đuổi:
"hãy cút đi, hỡi nhà thị kiến, hãy trở lại đất Juđa mà nói tiên tri, mà
kiếm cơm ở đó". Amos không là người kiếm cơm bằng nghề tiên tri, thầy
chiêm, bói toán. Amos được Thiên Chúa gọi để làm ngôn sứ, nói với dân nhân danh
Thiên Chúa. Amos đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, ông đã tới miền bắc để
nói tiên tri, để loan báo những gì sắp xảy ra cho dân, để cho dân biết rằng
Thiên Chúa vẫn yêu thương dân; những tai họa sắp xảy tới là do nhà vua và dân
chúng phía bắc đã không tuân giữ giao ước của Thiên Chúa. Nếu vua chúa và dân
không nghe, không đổi đời, thì sẽ có tai họa xảy tới, sẽ bị mất nước. Khi rao
giảng như vậy, dĩ nhiên vua chúa và đa số dân chúng thuộc vương quốc phía bắc không
đồng ý. Người ta muốn nghe điều tốt lành, chứ không ai muốn nghe nói tai họa sẽ
xảy ra. Tư tế Amaziah của đền thờ tại Bethel
đã trục xuất tiên tri Amos và không cho ông rao giảng nữa.
Tiên tri, là người của Thiên Chúa. Amos
đã vâng nghe Chúa, đáp trả lời mời gọi của Ngài. Ông đã bỏ nghề, đã đi tới vùng
đất xa lạ và thậm chí nói cả điều mà chính ông cũng biết sẽ không được người ta
chấp nhận. Những nhà tiên tri "chuyên nghiệp", kiếm cơm bằng nghề bói
toán (thầy chiêm, tiên tri) sẽ không dám nói mất lòng dân chúng vì như vậy đâu
có kiếm cơm được. Nhiều tiên tri "thật" trong lịch sử đã phải khốn
khổ vì đã nói lên sự thật, đã làm điều mà nhiều người cho là ngu dại. Một tiên
tri đúng nghĩa, là người của Thiên Chúa, vâng theo Chúa bất chấp những gì xảy
tới cho mình.
II. Đừng mang theo gì cả trừ cây gậy
Sau khi nhận phép rửa tại sông Yordan
với Yoan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày trong hoang
địa, đã rong ruổi rao giảng khắp đất nước Do Thái. Khi đi rao giảng, Đức Giêsu
không có gì ngoài chính con người của Ngài. Ngài không sợ đói, không sợ vất vả,
không sợ phải màn trời chiếu đất (Mt.21, 18; Lc.21, 37). Đức Giêsu chấp nhận
tất cả, Ngài chỉ có sứ mạng phải nói với dân chúng, và chính Ngài đang là Lời
cho dân chúng qua cách sống và cách ứng xử của Ngài.
Đức Giêsu cũng sai các tông đồ đi rao
giảng. Có lẽ Ngài đang huấn luyện các tông đồ cho sứ vụ tương lai. Ngài ban cho
các ông quyền trên thần ô uế, sai các ông đi từng đôi một, dạy các tông đồ đừng
mang gì cả ngoại trừ cây gậy. Hành trang của một người tông đồ rất đơn giản:
không trang bị lương thực, không bao bị rương hòm, không hai áo! Chả có gì phải
bận tâm ngoại trừ chính sứ điệp phải rao giảng.
Người tông đồ của Chúa không chọn ở chỗ
này chỗ kia vì được tiện nghi hay kính trọng, nhưng cố gắng diễn tả tính thành
tín của Thiên Chúa bằng việc ở tại nhà nào thì ở lại đó cho tới khi ra đi. Nếu
người ta không nghe, thì hãy ra đi và không mang theo gì cả, kể cả bụi chân,
cũng không ra đi với lòng hận thù hay nguyền rủa. Người của Thiên Chúa mang
bình an tới, nhưng nếu người ta không đón nhận, nghĩa là họ không đủ điều kiện
để sống bình an, thì người tông đồ của Chúa cũng chấp nhận họ như Thiên Chúa đã
chấp nhận họ.
III. Người được sai cũng là quà tặng
của Thiên Chúa cho con người
Thiên Chúa tạo dựng con người qua Lời
của Ngài. Thiên Chúa ban cho con người tự do. Qua lương tâm, Thiên Chúa mời gọi
con người sống vươn lên từng ngày, từng giây phút sống trọn vẹn trong yêu
thương, để thành con cái yêu quý của Thiên Chúa. Để thực hiện chương trình yêu
thương con người, Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến ở giữa con người, thành một
người rất cụ thể là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã sống trọn vẹn thân phận con
người, Ngài cũng phải chọn lựa từng ngày, từng hành vi để thuộc về Thiên Chúa
hoàn toàn. Đức Giêsu không là một người giầu có về vật chất tiền bạc, Ngài
không là một người có địa vị chức quyền, Ngài trắng tay như bao người nghèo
khác. Ngài chỉ có Thiên Chúa là Cha, và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa mỗi ngày.
Thiên Chúa muốn ban tất cả cho con
người, không chỉ là sự hiện hữu của mỗi người; nhưng Ngài còn muốn ban cho con
người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là mẫu gương, để mỗi con người
nhìn vào và dõi theo, để sống yêu thương và hạnh phúc từng ngày. Đức Giêsu là
quà tặng vô cùng quý mà Thiên Chúa đã trao ban cho con người. Qua Đức Giêsu,
con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao, Thiên Chúa sẵn sàng
cho con người tất cả trong Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là tất cả, diễn tả tất cả
những gì Thiên Chúa muốn cho con người.
Đức Giêsu Kitô là điều gì vô cùng mới,
theo thánh Phaolô, được dấu kín từ muốn thuở nay được tỏ lộ. Đức Giêsu Kitô là
mặc khải tuyệt vời của Thiên Chúa. Với Đức Giêsu Kitô, người ta hiểu hơn Thiên
Chúa là ai, là Đấng yêu thương con người đến độ nào, là Đấng có nhiều sáng kiến
tuyệt vời như thế nào để yêu thương con người. Đức Giêsu đúng là Lời của Thiên
Chúa, là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, là bảo chứng tình yêu của Thiên
Chúa đối với con người. Đức Giêsu là bình an của con người, hiểu theo nghĩa,
qua Đức Giêsu con người biết Thiên Chúa yêu thương mình vô cùng, đến độ mình có
thể phó thác tất cả cho Thiên Chúa và sống bình an.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nghĩ rằng bạn là người được
Thiên Chúa sai để làm điều gì chăng? Nếu có xin chia sẻ.
2. Theo bạn, Đức Giêsu được sai tới để
làm gì? Ngài có làm trọn sứ mạng của Ngài không?
11. Lời dặn dò cần thiết – Lm Giuse
Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho
các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện, bằng cách cho các môn đệ
được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai
các môn đệ ra đi thực tập truyền giáo. Hai động từ "gọi, sai đi" diễn
tả rõ rệt ơn gọi của các Tông đồ. Trước khi các học trò lên đường, Chúa Giêsu
căn dặn nhiều điều như là hành trang cần thiết cho sứ vụ tông đồ. M. Quesnel ví
những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà truyền giáo
hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil, trang 103).
1. Hành trang người tông đồ
a. Hành trang đi đường: cây gậy, đôi
dép, không mang hai áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con
người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn
sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
Các môn đệ được tham dự vào ba chức
năng tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Giêsu. Cây gậy của vương đế, đôi dép
của tiên tri, và tấm áo của tư tế.
- Cây gậy
Cây gậy trong tay biểu trưng cho sức
mạnh của Thiên Chúa thông ban cho người thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ra đi
với niềm tin vào năng quyền của Thiên Chúa trao ban: công bố Tin mừng cứu độ
của Đức Kitô, chữa lành và thánh hoá nhằm cải thiện đời sống, xua trừ ma quỷ
hầu chế ngự và đẩy lui các thế lực sự dữ.
- Đôi dép
Đôi dép là hình ảnh luôn lên đường.
Truyền giáo là ra đi. Đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân. Sứ vụ sai
đi khởi phát từ Chúa Cha "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em".
- Tấm áo
Người ra đi mang áo là mặc lấy tâm tình
Chúa Giêsu. Nhờ đó, các môn đệ làm cho cuộc đời mình trở nên của lễ hiến dâng
hợp với hiến lễ Chúa Kitô.
Chúa Giêsu trao cho các ông những quyền
năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang
quan trọng hàng đầu. Mọi hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang
mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.Với những hành trang như thế, Chúa
Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ không do tài lực
của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa.
b. Phương tiện sinh sống: không được
mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi
trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không "mọc rễ" bất cứ đâu để
nhẹ nhàng ra đi nơi đâu Chúa muốn.
c. Tương lai bấp bênh. Chúa Giêsu cũng
không giấu diếm họ điều gì. Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai,
lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần
phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không
gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.
Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ như lời
Thánh phaolô nòi: Tôi trồng, Apollô tưới, Chúa cho mọc lên.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định
cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ...và
không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu,
lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu. Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng
ra đi. Lên đường bao giờ cũng đẹp. Hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm
kiếm.
2. Phương thức hoạt động:"từng hai
người một"
Khi sai đi "từng hai người một
", Chúa Giêsu mong các ông hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn
hỏi nhau khi gặp khó khăn "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người
này đỡ người kia dậy" (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau
biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (x.
Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Trong Công vụ Tông đồ, các nhà truyền
giáo thường lên đường với nhau "từng hai người một": Phêrô đi với
Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô với Banabê (Cv 1 3,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22)...
Hoạt động tông đồ luôn là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về
tình yêu. Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo
Hội. Cuộc sống yêu thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa
Giêsu, vừa là lời rao giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng.
3. Tinh thần tông đồ là ra đi
Trao "Sứ vụ" cho các môn đệ,
Chúa Giêsu không bảo các ông "phải giảng điều gì". Ngài chỉ căn dặn
các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Chúa Giêsu, ra đi làm
chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để thi hành
sứ vụ, Chúa Giêsu không ngừng đi rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi
nẻo đường đất nước để truyền giáo. Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt
4,23). Đôi khi ở ngoài trời, ở ngoài đường. Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1),
bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi "mệt mỏi vì đường
sá", một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín
nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì
"Ngài mới lên một chiếc thuyền, thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa
bờ một tí. Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân
chúng" (Lc 5,3). Chúa Giêsu thực hiện một cuộc hành trình liên miên. Theo
ngôn ngữ của Phúc âm Marcô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,
rồi đến Galilê, dọc theo bờ biển Galilê, và Ngài đi rao giảng trong các hội
đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum...
Ngài ngang qua đồng lúa ... Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời
rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Chúa bao giờ cũng khởi hứng từ một
hoàn cảnh cuộc sống. Các hình ảnh cuộc sống đời thường gần gũi tràn ngập trong
lời rao giảng. Cánh huệ mọc ngoài đồng. Đàn chim sẻ đang bay. Một đám ruộng lúa
chín vàng mở rộng đến chân trời. Một mẻ cá lớn bên biển hồ. Những hạt giống
người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá. Một đàn
cừu người chăn lùa về buổi chiều tối. Từng tảng đá, từng hạt sạn người ta nhặt
từ một đống muối để vất đi. Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ
sau một mẻ cá...
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi,
vừa gọi, vừa nhận... Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20). Chúa Giêsu không dừng
lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho mình. Sau một
ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn: "Sáng đến, Ngài ra đi vào
nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài,họ cố giữ Ngài lại, không
để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin mừng Nước Thiên
Chúa cho các thành khác nữa" (Lc 4,42-43).
Như thế, suốt đời Chúa Giêsu đã không
hề có trụ sở, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới
Ngài đang sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện
giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng. Bị điệu đến Hanna rồi Caipha. Từ toà đạo qua
toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa
trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không
biết bao nhiêu dặm đường trên con đường "công lý" của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng,
bị đóng đinh trên thập giá. Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). "Lính
canh phòng cẩn mật, niêm phong tảng đá lại" (Mt 27,62-66).Thế nhưng, Chúa
Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba Ngài sống lại, vượt cái
chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi phục sinh, Ngài cũng đi nhiều
nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin
mừng.
Hoàn thành sứ mạng, "Ngài lên trời
ngự bên hữu Chúa Cha" (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội
"Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". (Mt 28,20).
Chúa Giêsu gọi các môn đệ và
"thiết lập Nhóm Mười Hai" để họ ở với Ngài và để Ngài sai đi. Giáo
hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân. Ra đi là dấn thân đi
đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để loan báo tin vui
và mang đến cho họ ơn cứu độ.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi
không ngơi nghĩ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới
cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành
trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim.
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông
cách núi.
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e
sông.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời
cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi
nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào
những phương tiện trần thế. Xin Chúa giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.
Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
12. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Nếu các ngôn sứ là những người nói thay
cho Thiên Chúa trong thời Cựu Ước, thì các Tông đồ là những ngôn sứ của Chúa
Kitô và được Người sai đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Phụng vụ Lời Chúa
Chúa Nhật trước đã nói với ta về những đặc nét của ngôn sứ trong Cựu Ước, đồng
thời cũng giới thiệu cho ta vị Ngôn Sứ Con Thiên Chúa là Đức Kitô. Bài Tin Mừng
hôm nay là những lời Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ trước khi sai họ lên đường
thực tập việc rao giảng.
1. Ông A-mốt, một nông dân được kêu gọi
làm ngôn sứ (bài đọc Cựu Ước – A-mốt 7,12-15)
Câu truyện ngôn sứ A-mốt bị tư tế
A-mát-gia sỉ nhục và xua đuổi, cho ta hiểu đâu là điều giúp ta nhận ra một ngôn
sứ đích thực. Vốn là một nông dân chỉ biết miệt mài với công việc chăn nuôi và
trồng cây, ông A-mốt không hề nghĩ một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ gọi ông làm
công việc của một vị ngôn sứ. Đáp lời gọi của Chúa, ông rao giảng ở miền bắc
vương quốc Ít-ra-en, dưới thời Gia-róp-am II (783-743 trước công nguyên). Với
tính tình chất phác của người nông dân, lời giảng của ông giản dị, dễ hiểu,
nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và thẳng thắn. Chính những lời ông cảnh cáo tội ác
của mọi giới trong Ít-ra-en đã khiến cho các nhà lãnh đạo khó chịu và không
muốn thấy ông hiện diện tại miền đất của họ nữa. Do đó, A-mát-gia, tư tế đền
thờ Bết-Ên, đã quyết tâm xua đuổi ông. Vị tư tế mỉa mai gọi ông A-mốt là
"thầy chiêm", danh từ ám chỉ người phục vụ các thần ngoại chứ không
phải Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, ông ta còn coi sứ vụ ngôn sứ của A-mốt là một
"nghề" để kiếm ăn! Sau cùng ông ta đem cả cái nhãn hiệu "Bết-Ên,
thánh điện của quân vương và đền thờ của vương triều" để dọa nạt A-mốt.
Trả lời cho vị tư tế, ông A-mốt đơn
giản cho biết: ông không phải là ngôn sứ, hay nói đúng hơn, ông không muốn được
người ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên
Chúa truyền dạy ông phải làm, là "đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân
Chúa".
Thực thế, ngôn sứ là người đáp lại lời
gọi của Chúa để thi hành một tác vụ, chứ đâu phải một nghề nghiệp hay một địa
vị xã hội để vênh vang lên mặt. Ơn gọi khác với nghề nghiệp. Linh mục, tu sĩ,
ngay cả những người chọn sống bậc gia đình hay độc thân đều là những người sống
ơn gọi. Còn bác sĩ, luật sư, kỹ sư... là những người chọn một nghề nghiệp. Ơn
gọi là để phục vụ, còn nghề nghiệp thì mục đích chính là để kiếm tiền và nếu
hành nghề với lý tưởng phục vụ nữa thì càng hay biết mấy. Nếu vậy thì ngoài các
linh mục tu sĩ là những người chọn việc phục vụ, ta là những anh chị em giáo
dân cũng vẫn có thể phục vụ mặc dù ta cần phải có nghề nghiệp để sinh sống. Khi
ta thi hành nghề nghiệp của ta cho có lương tâm, sử dụng nghề nghiệp để không
những kiếm sống, mà còn giúp đỡ mọi người trong khả năng nghề nghiệp của ta tức
là ta đang làm công việc phục vụ rồi đó. Ta rao giảng bằng chính công việc của
ta, bằng cách giao tiếp với những người liên hệ trong đức ái Kitô, trong đức
công bằng và bình an như Giáo Hội dạy. Ta sử dụng những tài năng trong lãnh vực
nghề nghiệp để xây dựng cộng đồng, lo lắng cho công ích, chú tâm tới những
người cần giúp đỡ về mọi phương diện... Đó là ta đang cùng một lúc vừa thi hành
nghề nghiệp, vừa làm việc tông đồ, một phương thức thực tiễn nhất để chu toàn
tác vụ ngôn sứ của ta.
2. Tinh thần tông đồ (bài Tin Mừng –
Mác-cô 6:7-13)
Trước khi sai các Tông đồ ra đi rao
giảng, Chúa Giêsu đã phải huấn luyện và đào tạo các ông. Mặc dù các ông có cơ
hội "học việc" với Chúa khi các ông theo Người đi khắp nơi, các ông
vẫn cần một thời gian "thử việc" sau khi nghe những lời căn dặn quan trọng
của Chúa. Những lời căn dặn của Chúa hôm nay không phải là một bản đề cương chi
tiết với những nguyên tắc luật lệ rõ ràng, nhưng là những lời đơn sơ nhắm nói
lên tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là điều các ông cần phải có. Nên nhớ đây
không phải là một "nghề nghiệp" cần phải có bản "mô tả công
việc" như ta thấy nơi các sở làm, nhưng là một "ơn gọi phục vụ"
Chúa mời gọi để các Tông đồ đáp lời và ra đi phục vụ.
Trước hết Chúa sai họ đi từng hai người
một, để họ không lẻ loi, nhưng nâng đỡ và giúp nhau, nhất là khi gặp những gian
nan thử thách. Tiếp đến, Chúa "ban quyền" cho các ông, không phải để
dùng quyền đó mà hống hách nạt nộ hay áp bức người khác, nhưng là để sử dụng mà
giải thoát người khác khỏi quyền lực của ác thần, bệnh tật thể xác cũng như tinh
thần.
Những lời căn dặn của Chúa Giêsu nhắm
đến tinh thần tông đồ và cách giao tiếp cũng như ứng phó với hoàn cảnh rao
giảng. Nói đến tinh thần tông đồ hoặc hồn tông đồ là nói đến tinh thần tự do,
không vướng mắc vào tiền bạc, của cải, đời sống vật chất hoặc danh vọng ở đời.
Người tông đồ "không được mang gì đi đường" và chỉ độc nhất có
"cây gậy và đôi dép" làm hành trang! Không mang theo gì cả, ngoài lý
tưởng phục vụ, bởi vì lỉnh kỉnh với những hành trang nặng nề sẽ làm tổn thương
đến lý tưởng phục vụ. Chỉ có cây gậy là lòng tín thác cậy dựa vào tình yêu cũng
như quyền năng của Chúa. Chỉ có đôi dép là sức mạnh của Chúa giúp họ bền bỉ và
can đảm rảo khắp nẻo đường Chúa muốn họ đi.
Về cách giao tiếp và ứng phó với hoàn
cảnh, người tông đồ phải luôn thẳng thắn, đó là điều cần thiết nhất. "Khi
anh em đã vào nhà nào" là cách nói ám chỉ người tông đồ đã được người ta
tiếp nhận và lắng nghe. Nếu thế thì người tông đồ cứ tác vụ mình mà thi hành,
"ở lại đó" mà rao giảng, mà phục vụ, mà làm khí cụ bình an của Chúa,
chứ đừng làm gì đi ngược với tinh thần tự do đích thực, đừng vướng mắc bất cứ
gì dù là vật chất hay tình cảm. Người tông đồ thẳng thắn khi được tiếp nhận,
nhưng cũng thẳng thắn khi bị xua đuổi. Dù không được đón tiếp niềm nở hay thậm
chí bị xua đuổi, người tông đồ không cay đắng nguyền rủa những người xử tệ với
họ, nhưng chỉ thẳng thắn "cảnh cáo" những kẻ ấy đã không tiếp nhận
Tin Mừng để hy vọng ngày nào đó họ sẽ thay lòng đổi dạ.
Lời dặn dò của Chúa Giêsu chẳng cần văn
hoa hoặc đao to búa lớn, nhưng là những điều đơn sơ nhất, cần thiết nhất và
thực tế nhất. Tinh thần tự do và tinh thần thẳng thắn đã đủ là hành trang của
bất cứ ai muốn đáp lời Chúa ra đi rao giảng hoặc làm chứng cho những giá trị
Tin Mừng. Có lẽ ta tự hỏi: vậy người giáo dân chúng tôi làm thế nào để áp dụng
tinh thần tự do và thẳng thắn ấy? Thì cũng vậy thôi, nghĩa là cứ sống như một
người Công giáo không để cho tiền bạc, danh vọng và quyền lực làm chủ mình.
Nghĩa là cứ thẳng thắn và thành thực trong những giao tiếp, đối xử với những
người chung quanh, lúc nào cũng cố gắng thực thi lời dạy "hãy yêu thương
nhau như Thầy yêu thương chúng con" của Chúa. Như thế là ta đang làm ngôn
sứ của Chúa Kitô, làm chứng nhân cho Tin Mừng của Người rồi. Thánh sử Mác-cô kể
rằng các Tông đồ đã thực sự lên đường và cũng đã gặt hái được những thành quả
tốt đẹp. Chắc chắn việc lên đường ấy và gặt hái được những hoa trái tông đồ ấy
không phải là điều không thể đối với ta, những Kitô hữu hôm nay.
3. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn
ta làm nghĩa tử (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 1:3-14)
Được Thiên Chúa chọn và gọi làm ngôn sứ
là một ân sủng lớn lao. Tuy nhiên được Người chọn làm nghĩa tử còn là một ân
sủng lớn lao hơn nữa. Chính vì thế thánh Phao-lô Tông đồ đã cảm nghiệm ân sủng
cao sâu đó, nên mở đầu thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài đã dành một đoạn hết sức
tuyệt vời để dâng lời chúc tụng Thiên Chúa. Thánh Phao-lô chúc tụng Chúa, vì
trong Đức Kitô, Chúa đã thực hiện cho nhân loại một điều vô cùng lớn lao mà
ngài gọi là "kế hoạch yêu thương". Kế hoạch này được thực hiện đều là
nhờ Chúa Kitô. Vậy trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa làm gì cho ta?
Thánh Phao-lô kể ra những việc sau đây: a) Thiên Chúa đã chọn ta và muốn ta nên
tinh tuyền thánh thiện (Ep 1:4); b) Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Kitô (1:5); c) Thiên Chúa cứu độ ta nhờ máu Thánh Tử đổ ra (1:7); d)
Thiên Chúa đã chọn các Tông đồ làm gương mẫu đặt hy vọng vào Đức Kitô (1:11);
e) Thiên Chúa đã cho ta được diễm phúc đón nghe Tin Mừng (1:13); và f) Thiên
Chúa ban Thánh Thần làm bảo chứng phần gia nghiệp của ta (1:13). Tất cả những
điều này đều là những điều Thiên Chúa đã "tiền định", tức là đã có kế
hoạch từ trước muôn đời. Nói như vậy tức là mọi thứ phúc họa ta gặp ở đời này
chỉ là những may rủi hay trùng hợp, chứ không thể là "Chúa định"!
Chúa chỉ tiền định có một điều và Chúa chỉ tiền định điều tốt thôi, đó là sắp
đặt "kế hoạch yêu thương" để mong ta đáp lại, cộng tác và sau hết
được cùng Người hưởng phúc trường sinh. Mà chính khi tiền định để cứu độ ta,
Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do cộng tác của ta, chứ không tiền định một
cách độc đoán đến độ "bắt" ta "phải" lên thiên đàng đâu!
Có khi nào trong đời Kitô hữu, ta biết
dừng lại một chút để suy nghĩ về kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa và dâng lời
chúc tụng Người như thánh Phao-lô đã làm không? Hay là cái điệp khúc "ta
là con cái Chúa và được Người cứu độ" đã trở thành quá quen thuộc đến độ
ta không còn để ý tới ý nghĩa sâu xa của nó nữa, nhất là ta quên rằng đó là một
kế hoạch của tình yêu? "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em" (Ga 20:21; xem 17:18). Chúa Cha đã sai Đức Kitô đi thực hiện kế hoạch
yêu thương. Giờ đây đến lượt Đức Kitô sai ta đi làm ngôn sứ và chứng nhân cho
kế hoạch yêu thương ấy bằng chính đời sống yêu thương của ta.
4) Sống Lời Chúa
Chúa Giêsu kêu gọi các thánh Tông đồ,
đào tạo họ trong tinh thần truyền giáo và sai họ đi rao giảng Tin Mừng. Tất cả
đều nhắm mục đích thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã
chu toàn sứ mệnh và Người còn kêu gọi ta tiếp tục sứ mệnh của Người nếu ta sống
tất cả những ân sủng đã lãnh nhận được từ kế hoạch yêu thương ấy. Ý thức sứ
mệnh tông đồ và truyền giáo ta được chia sẻ với Chúa Kitô, ta cố gắng sống cuộc
đời Kitô hữu gương mẫu, để không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng bằng việc
làm và qua những giao tiếp đầy tình thương bác ái với anh chị em.
Suy nghĩ: Tông đồ nghĩa là người được
sai đi. Vậy tôi được Chúa sai đi tới đâu và làm gì với tính cách là tông đồ của
Người? Những lời Chúa căn dặn các Tông đồ có ý nghĩa gì đối với tôi?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, nhờ Con Chúa hạ
mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên; xin rộng ban cho các tín hữu
Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội
lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 14 mùa Thường niên).
13. Loan báo Tin Mừng.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên
tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức
Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám
Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng
Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha
Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp,
từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa
Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung
Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc
Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào
Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với
sự can thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải
qua nhiều gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài
nói: "Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc". Vừa được trả tự do,
ngài tìm mọi cách đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại
đây theo như ngài mơ ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ:
"Tôi tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu
tới Bắc Việt và tới Trung Quốc!".
Thưa anh chị em, cuộc đời truyền giáo
của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết bao nhà truyền giáo
khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử đạo của mười hai
Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này ở lại bên Ngài
và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở nên những
người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay từ khi
còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh mông, có
biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần những
cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã trao
tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ.
Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa Giêsu.
Chia tay Thầy Giêsu, Nhóm Mười Hai lên
đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu trả lời: "Không
được mang gì khi đi đường". Không bánh trái, không bao bì, không tiền bạc,
không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ nhàng. Càng nhẹ
nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy nhiên sự nhẹ
nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường với hai bàn
tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ phải hoàn
toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha nhân. Ra đi
tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc đường, nhưng cũng
là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính Chúa lo mọi sự cho
tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi không dựa vào những
phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông biết
thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì hãy ở lại, không
tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống nghèo, đón nhận
những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được đón tiếp thì cũng
không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông đồ chẳng hề muốn
lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân mến, hôm nay, Chúa
Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới không phải là
chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc. Thế giới là
gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là nơi giải trí,
nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video, quảng cáo. Thế
giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở trong thế giới
và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách là người Kitô
hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang sống để nó biến
thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời gọi con người
hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những gì phá huỷ phẩm
giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị loại trừ. Kitô hữu
là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán cải, phải tỉnh thức
trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay cũng là một thế giới
bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác và bệnh tật của tinh
thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì mất lòng tin, lo âu,
tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của mình. Tiến bộ khoa học
kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người không giải quyết được.
Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng bó vết thương của thế
giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ nếu hôm nay Chúa Phục
Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi ngài sai chúng ta ra
đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những ý chính vẫn không
thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh Linh hơn là vào khả
năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng ta tín thác và Cha
trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao giảng Tin Mừng nếu
không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa Giêsu tập họp chúng
ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai chúng ta ra đi loan
truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi. Tin Mừng này chỉ có
thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người chúng ta và của Giáo
Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và chịu đóng đinh thập
giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi người.
14. Chúa sai các tông đồ đi từng hai -
Noel Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông
rất cảm phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy "bài giảng trên
núi" của Chúa làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn
về Giáo Hội, ông đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người
chực việc tiến lại bảo ông: "Nếu những người Công Giáo sống đúng theo Tin
Mừng Đức Kitô thì dân tộc của tôi bớt khổ". Ông Gandhi mới có ý nghĩ đó.
Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được chính Chúa Giêsu đích thân
điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các cộng đoàn nhỏ, có nhiều
người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin Mừng ở Đức Kitô. Nhưng
biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người, Chúa phải chịu chi phối
do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội trường tồn trong lịch
sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần thế. Ngay từ khi bắt
đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để các ông tiếp tục sứ
mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh tiếp tục công việc Chúa
làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ chúng ta tham dự, đều
kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra đi bình
an.
Theo lệnh Chúa, các Tông đồ ra đi, làm
những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành, rao giảng Tin
Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các ông làm được
nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi từng hai người, như
vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là những chứng nhân, và
chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn, bao giờ cũng có lợi
hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở nhau, nâng đỡ nhau
sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình thương của Chúa
ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết trở nên mẫu mực
về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu mỗi người chỉ
sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng này nơi cộng
đoàn tín hữu đầu tiên: "Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!". Và đó
cũng là định hướng của chính Đức Kitô: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết
các con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau". Cuộc sống yêu
thương trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao
giảng sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dùng
cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong cộng đoàn và trong
môi trường sống của chúng con.
15. Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu là người làm nên Nhóm Mười
Hai.
Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc
3,14), họ đã được Ngài sai đi rao giảng.
Người được sai đi phải là người có đời
sống gần gũi thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ lên đường. Ngài trao
cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng, quyền chữa bệnh, quyền
trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi hành trang khác chỉ là phụ
thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các ông không được mang
theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi đường nên có thể bị
đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên không thể mua sắm.
Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên Chúa và của con
người.
Ra đi mà không có một chút bảo đảm. Các
môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng mạc và thành phố. Họ
không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời của Thầy: "Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa" (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc tính thiết yếu của
người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo về Nước Thiên Chúa
đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều chẳng ai ưa. Người
tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi những đòi buộc của Tin
Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân, cũng không mỵ dân để
vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp đón một cách nồng hậu
hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những người phục vụ cho Tin
Mừng.
Chúng ta cần cảm nghiệm niềm vui của
các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao giảng. Những người ít
học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho con người niềm vui, sự
giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn sai ta đến trong
thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau. Chúng ta có thể mang
theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ rơi cậy dựa vào Chúa.
Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng chán chường, bệnh hoài
nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Lên đường là ra đi, nhưng cũng là ở lại
môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho Chúa tại nơi bạn học hành,
làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
Thế giới hôm nay là thế giới bị nô lệ
dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những hình thức nào? (nô lệ cho vật chất,
tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con lên đường; nhẹ nhàng
và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương
tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì
Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một
người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui
bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt
lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà
vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin
tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
16. Lên đường thi hành sứ vụ với Chúa
Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên đường theo lệnh
Chúa Giêsu mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không tiền bạc, không
mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật dụng tối cần là cây
gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là những người ít học, khả
năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã đạt được những thành
quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh nhân, kêu gọi người
ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài đạt được những thành
quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên Chúa.
Khi sai các môn đệ lên đường không chút
hành trang, Chúa Giêsu muốn tỏ cho thấy sự thành công trong hoạt động tông đồ
không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng Thiên Chúa. Chính Chúa
Giêsu hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu
Từ ngày lãnh bí tích rửa tội, chúng ta
được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành liền cây, như bàn tay nối liền
cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng ngôn sứ, tư tế và vương đế
của Chúa Giêsu.
Từ đó, Chúa Giêsu muốn rao giảng qua
chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giêsu muốn chăm sóc bệnh nhân và người
đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giêsu muốn tỏ lòng thương xót
nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta phải cùng hoạt động
với Chúa Giêsu và để Người sử dụng chúng ta như chi thể của Người mà tiếp nối
sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể viện cớ mình nghèo
nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười hai môn đệ đầu
tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều kiện hơn chúng
ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giêsu dù không mang lương thực,
không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt được thành
quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như thế nếu
chúng ta hiến mình cho Chúa Giêsu sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay đông đảo gấp hàng
triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan báo Tin Mừng lúc nầy
càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn liên lỉ kêu
mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta
không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không cùng các chi thể khác
tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể tê bại hoặc là một chi
thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn tay).
Một chi thể tê bại (hoặc thừa) chẳng
những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên chướng ngại cho hoạt
động của toàn thân.
Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn
làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn sàng hiến thân làm khí
cụ cho Chúa Kitô.
Khi chúng ta hiến đời mình để Chúa
Giêsu sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ diệu sẽ được Người
thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
17. Chân dung của Sứ giả Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là một cuộc đời dấn
thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn luôn thanh thoát
khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau qua. Đó chính là mẫu
người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần họ để điểm tô cho xã
hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy lòng quảng đại của họ.
Đó cũng chính là chân dung của các sứ
giả Tin mừng. Họ đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ
nhàng nhưng đầy tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ
thế. Họ dấn thân vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có
quá nhiều mưu mô và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ
cần phải ra đi với đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang
bao bị, không mang bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống
nổi trôi "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ mệnh của họ là đẩy lùi
sự dữ và thi thố tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ
không để lòng mình bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá
quan tâm đến mình sẽ quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn
đến lo hưởng thụ và tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch
đường lạc lối. Lý tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại
sự lợi dụng địa vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ
bỏ mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu.
Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy
chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào khác,
anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng bị
cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới
giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải
lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm
thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu
để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm
cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối
mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng
sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang
sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm
đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay
nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại
muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành
một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban
đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách.
Chuyện có vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma
qủy thường gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương
trình của nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận
phải vâng lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm.
Người tu sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát
gạo, khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi
của mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo
rách.
Thực vậy, vì tiền bạc, mà người ta có
thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện của con người ban
đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm tin. Đó là nguy cơ mà
bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho tất cả chúng ta. Đồng
tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu cánh cho cuộc đời.
Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao hai lưỡi có thể làm
hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để nhận định đúng giá
trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của cải vật chất, chúng
ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi thoả hiệp với lừa
đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà đánh mất tính người.
Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ sói để hại người, hại
đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ cho trần gian.
Con người luôn hướng về sự thiện. Con
người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha nhân. Đó chính là mục đích
mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ
lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy
lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự
Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào
vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống theo
lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì "Phúc cho ai có tinh thần nghèo
khó, vì nước trời là của họ". Amen.
18. Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh đòi chúng ta phải
ra đi.
Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề
nghiệp, từ bỏ quê hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa
là hy sinh.
Ra đi như các tu sĩ, từ bỏ gia đình, từ
bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh.
Hễ đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp
trong đạo, thì phải bằng cách này hay cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những cái bên ngoài mà thôi
thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực chính là từ bỏ bản thân,
từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào giá trị vô song của nước
trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả để xây dựng. Chấp nhận ra
đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những gì chúng ta phải rao
truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy còn
quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng hơn gì ngày xưa,
vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa Giêsu, người ta mong đợi
Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh đuổi binh đội Rôma, biến
nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh quang. Ngày nay người ta
cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong đợi ở Thiên Chúa mà lại
mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật. Họ tin tưởng ở quyền lực
và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải là tất cả,
vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa hơn, để rồi nghiêng mình suy
tôn Thiên Chúa...
Nhưng xét cho cùng, vẫn còn biết bao
nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài xã hội, hoặc âm
thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì Chúa Giêsu đã rao
giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của người Do Thái, một
vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người đón nhận.
Chúng ta cũng phải rao giảng như thế,
mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo ngược dòng nước
đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ, chúng ta hãy nhắc lại
lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm
hồn những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có bổn phận rao giảng
lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời cầu
nguyện.
Đây là cách rao giảng tốt nhất mà mọi
người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời trong bốn bức tường
tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, phải chăng là
nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng gương sáng,
bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đã áp dụng phương
cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực hiện sự khó nghèo giữa một
thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người con của Chúa. Họ sống khó
nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui của thiên đàng, và đó là
một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu người giảng không sống lời
mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu thì bài giảng hoàn tất.
Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người khác, chúng ta có thể rao
giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng tốt, nhưng phải nói
những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời được Chúa soi sáng,
vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết, muốn nghe biết thì
phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống càng thánh thiện
thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách làm tròn
bổn phận.
Thực vậy, địa vị nào cũng có thể là một
bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời kinh, nếu chúng ta
biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên chứng tá cho Chúa
ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
19. Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng hoạt động của Người
bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. "Nhóm Mười Hai" là
một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu đã tuyển chọn
để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc giục người ta
hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến qua con người
của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của Tin Mừng, chúng ta
thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên khởi. Hoạt động
truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ mà Chúa Giêsu đã
ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời nói và các hoạt
động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình của Thiên Chúa
nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn luôn nhắc nhở các tín
hữu như sau: "Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí tích. Khi vị linh
mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng ta. Khi Đức Giám mục
ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho chúng ta. Khi linh
mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho chúng ta. Các thừa tác
viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô. Công việc của các ngài
là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô".
Những thành viên của phong trào
Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi một thành viên
của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa Kitô, tiếp tục
công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó mô tả nhiệm vụ
của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng đúng hơn cho các
thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc "rao giảng lòng thống
hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều
người".
Trở thành một thừa tác viên của Chúa
Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không ai được tự cho mình
có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn bị chu đáo cho ơn gọi
đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta phải sống gắn bó chặt
chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người. Bất cứ một do dự, một
nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một sự phản bội. Nếu có một
sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của chính mình, bởi vì Chúa
Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa cho các bậc làm cha
mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận hiến cho việc phụng sự
Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh thiện như lòng Chúa mong
ước.
20. Rao giảng.
Tất cả những người đi tu, nhất là để
làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa kêu gọi âm thầm
trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua những biến cố do
Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì hay tới bàn thờ.
Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề trên hay Đức Giám
mục.
Chúa Giêsu cũng đã hành động như thế
trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài. Chúa kêu gọi họ
ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã kêu gọi từng
người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới, kẻ gặp ở
giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế... Rồi Ngài qui tụ họ lại cho ở luôn
bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các công việc
Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài. Giờ đây,
muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một lần nữa
như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng: việc
trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng kiến
của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các tông đồ đi truyền
giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều này được coi là khuôn
mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo. Chúng ta thấy Chúa không
bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải ăn mặc thế nào, mang
những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ tiếp xúc, đồng thời
dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa không dạy các ông phải
rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại hải hay bằng những lý
luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục mọi người, nhưng Chúa
bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời sống của họ. Còn
những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn vẹn có hai hay ba điều:
chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và thúc giục người ta ăn
năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói ít và làm nhiều, dĩ
nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những giáo huấn mà họ đã
được nghe.
Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng kêu
gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi vì mỗi người chúng ta
khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều được kêu gọi và sai đi
rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng việc làm, tức là bằng
đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất cả chúng ta đều phải
là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được chuẩn chước, cho dù là
một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời nói của các chiến sĩ
Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục... cũng rất cần thiết, nhưng với
điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính các ngài, nếu không
lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn ràng. Ngược lại, việc
rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục người ta chấp nhận chân
lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể bổ túc một cách hữu
hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: "Lời nói lung lay, gương
bày lôi kéo", lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng đời sống sẽ
lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi người Công giáo là
một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời sống tốt lành, thiếu
đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu làm chứng nhân và không
thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách rao giảng, cách làm
chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống tốt đẹp của chúng
ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy để ý đối xử với họ
thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử chỉ nhỏ nhặt hay
những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ không tên tuổi,
những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy cũng rất có ảnh
hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập có câu: "Nếu anh
không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong nhà anh". Nếu
đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông đồ, thì tất cả chúng ta
đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng là một nhiệm vụ chính
Chúa Giêsu đã truyền dạy: "Các con là cái đèn sáng, sự sáng của các con
phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của các con mà ngợi
khen Cha trên trời". Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh hưởng tốt và
gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ... Vậy nếu một lời nói, một cử
chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một hành động,
một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động của chúng
ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể nhất là những việc
làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên
đứa con cưng của bà như sau: "Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa
nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy
sống thế nào để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại
mỉm cười". Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất là gieo
vào tâm hồn những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ
phải khóc vì thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người,
muốn như vậy cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức nhiệm
vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng và thể hiện tình yêu
thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở rộng.
21. Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu
đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì
ít...Ta mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng số một trong cuộc
đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển chọn các ông, cắt
nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban quyền hành và sai các
ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã hăng say đáp trả lời mời
gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Với Bí tích Rửa tội, Chúa cũng đã kêu
gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức, Chúa cũng đã sai
chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng, chúng ta đã làm được
những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được trị đến?
Nhiều người trong chúng ta đã phủi tay
trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông đồ truyền giáo chỉ là
một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ, đang phải vật lộn giữa
dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới.
Vậy họ đã đưa ra những lý do nào để
biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ
cho rằng hoạt động tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ.
Nghĩ như vậy là lầm, bởi vì một khi đã
là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm về sự sống
còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức Thánh Cha Piô XII đã
kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại
thế giới.
Hơn thế nữa, Kinh thánh đã bảo chúng
ta:
- Đức tin không có việc làm thì chỉ là
một đức tin đã chết.
Bằng hoạt động, bằng việc làm, chúng ta
sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi
không có thời giờ và tiền bạc.
Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến
Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng ta với một đảng viên,
một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần lễ mà thôi, một đảng
viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp, để thảo luận, để đi
đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta thì sao?
Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi,
mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình không
có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa quê mùa, lại vừa dốt
nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm chúng ta thấy các tông
đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất
phác, học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới là điều cần thiết,
như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp
với một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc tông đồ đâu có phải
chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu nguyện, còn bằng đời
sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình nữa.
Trong bàn tay của Chúa, một dụng cụ tầm
thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta thường kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì
đảo lộn, con người như đã đánh mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những gì để cải tạo
xã hội, hay là chúng ta cho rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi
một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng phê bình chỉ trích,
nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc truyền giáo, đem ánh
sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh...
Thiết tưởng, chúng ta nên ghi nhớ và
thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn
ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
22. Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai các môn đệ đi thực tập
rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ nói
đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và phải xử trí thế nào
trước những thái độ khác nhau của thính giả.
Bình thường, trước khi đi đâu, nhất là
khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng phải chuẩn bị, sửa soạn,
sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du lịch Đà Lạt hay Nha Trang,
dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi, người ấy sẽ chuẩn bị quần áo
và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con gái đi ở riêng, trước khi
tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ áo xống, vật dụng và căn
dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa vụ quân sự, bà cũng lo
lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề
gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một bác nông dân đi làm thì phải
có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực, sách vở...
Vậy mà chúng ta thấy, trước khi sai các
môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang gì cả, không mang bị,
không mang tiền, không mang hai áo... Tại sao vậy? Bởi vì Chúa muốn họ ra đi
truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài vòng cương tỏa của
vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới biết bám víu vào
Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa muốn dạy các môn đệ
Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà con và chính bản
thân, từ bỏ những gì cần thiết... để họ thảnh thơi ra đi, không bon chen, không
dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi đâu cũng là quê
hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành khách được trang bị
đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn các môn đệ Ngài phải
biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ gặp bất trắc để họ
biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các môn đệ từ bỏ, tín
thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng: công việc rao giảng
của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không. Vậy họ phải xử trí
thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng, thì ở lại đó cho đến
lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành và biết ơn lòng hiếu
khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có lời khuyên như thế là
vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà phải nhờ vả rất nhiều
vào các tín hữu để truyền giáo dần dần.
Dĩ nhiên và đương nhiên họ sẽ không
được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp đó, Chúa cho phép ra
đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết lỗi lầm bất kính cảu
họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ vùng dân ngoại vào vùng
đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với dân ngoại. Vậy người môn
đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và cho những người ấy biết
rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao
giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng hãy làm tông đồ cho
Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất, được Giáo Hội đề
cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành của chúng ta.
Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn mang một sứ điệp,
là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là tác giả viết thư,
còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần gian này. Đọc bức
thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn viết. Cho nên, đời
sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị thuyết phục hơn tất cả
những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu chúng ta không sống như
thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu
lên trên một tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những
ngày Chúa nhật hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn
nhịp trong bầu không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng
đáng quí. Thế nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm
đạo tôi, đó là thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau,
mấy đứa nhỏ chơi với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí
tử. Chẳng hạn: buôn bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay
thiếu đủ sao đó, rồi cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu
xóm. Những chuyện như vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn
những người có đạo. Thế mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc
kinh, vẫn cứ cãi lộn, chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước
mong xóm đạo tôi ngày càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu
nguyện, nhưng cũng biết sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là điều ước mong của
chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia đình, ở khu phố, ở
mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng góp phần mình vào
công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
23. Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các tông đồ ra đi. Kitô
giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho mình. Nó luôn bao hàm sự
vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này, không còn là Kitô giáo nữa.
Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các tông đồ ở với Đức
Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người đã chọn họ cho
một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến lúc họ phải
góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ có thể nâng
đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ quyền nói và
hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ là sứ mạng tạm
thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do thái. Sứ vụ sau
cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương lai.
Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ
tâm linh – rao giảng sự sám hối và nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng
sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy
Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc tinh thần và vật chất của con người. Nói cách
khác, nó quan tâm đến con người toàn diện.
Họ không mang theo những vật chất để
cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có được những thứ ấy.
Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất luôn luôn là điều
nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những lý do sai lầm. Sứ
điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải được chấp nhận chủ
yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị cá nhân, họ chỉ được
mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương thực và chỗ ở, họ
phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được sai đến. Thật
vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nhưng bằng
cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì đó. Sẽ có một sự
chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi họ được sai đến.
Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của họ, và cũng để
khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải làm chứng về đức
nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải chứng tỏ sự liên đới
với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu tranh của họ và chia sẻ
sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng sứ điệp. Nhưng họ không
thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng không nên làm như thế. Họ
phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ phải chờ đợi có người sẽ
khước từ nó.
Nếu sự rao giảng của họ bị chối bỏ, họ
chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi dính ở chân. Đây là một
hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái trong thời đó. Dân
chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là các tông đồ sẽ đoạn
giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại giáo. Tuy nhiên, cũng
có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm cho họ nghĩ lại về
những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả của việc khước từ.
Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này rất thích hợp với
chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những người chấp nhận nó.
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai hôm nay. Dù những
điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ nguyên. Những điều
kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và những người
được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở tâm hồn để đón nhận
lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều gặp một thách đố
lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là các môn đệ thụ
động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người ban phát. Không
phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt đã được kêu gọi bỏ
công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1). Mười hai tông đồ
cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao giảng Tin Mừng
ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách làm môn đệ của
Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
24. Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa, niềm tin vào Thiên
Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của chúng ta. Nếu không có
Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự hỗn mang và đêm dài vô
tận.
Nếu một người nào đến tìm chúng ta và
cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với những lời đạo đức:
"Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa và Người sẽ
giúp đỡ bạn". Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động như thể
không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể giúp đỡ,
người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự quan phòng của Thiên
Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được viện dẫn như một cái cớ
để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ đợi Thiên Chúa làm hết.
Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên Chúa hành động qua chúng
ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi
đến một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng
lộng. Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy
cậu bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa:
"Lạy Chúa, tại sao Chúa không làm
điều gì đó cho cậu bé này?"
Và Thiên Chúa đáp lại: "Ta đã làm
một điều gì đó cho nó rồi".
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên,
vì thế ông nói "Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm
đều có vẻ như không làm".
"Ta cũng đồng ý với con điều
đó" Chúa đáp.
" Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm
điều đó?" Người đàn ông hỏi.
"Ta đã làm ra con" Chúa đáp.
Không có gì sai khi yêu cầu Thiên Chúa
chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau. Nhưng chúng ta phải nhớ
một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho chúng ta.
Chúng ta là những công cụ của Thiên
Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta phải xác tín
rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người khác sẽ không hoàn
thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy điều này rất rõ trong
bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia sẻ công việc mở rộng
nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta có thể tự hỏi: chúng
ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho chính mình. Nhưng ví dụ
sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở
Dallas, Texas. Họ rất nghèo và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia
bằng nhôm để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi
trong những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất
đau buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ
sơ sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không
tìm ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa
bé.
Cặp vợ chồng biết ngay việc họ phải
làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử tế. Nhưng việc này
phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm vật duy nhất có giá
trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai táng.
Nhờ có sự cố gắng của họ, đứa trẻ đã
đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có phủ hoa. Nước mắt của
cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu trước nấm mồ của bạn
Người, Ladarô.
Để trở nên suối nguồn ánh sáng trong
thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm. Người ta chỉ cần có
một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
25. Đức Kitô cần chúng ta.
Cuộc chiến tranh trên bán đảo Triều
tiên trước đây là một cuộc chiến tranh tàn khốc. Một ngôi làng nhỏ rơi vào dưới
làn đạn của trọng pháo. Trong làng, có một ngôi nhà thờ Công giáo. Bên ngoài
nhà thờ có một bệ cao, bên trên có đặt một bức tượng Đức Kitô. Tuy nhiên, khi
cuộc chiến qua rồi bức tượng đã biến mất. Bức tượng đã bị hất ra khỏi bệ vỡ ra
từng mảnh trên mặt đất.
Một nhóm lính Mỹ đã giúp vị linh mục
thu thập những mảnh vụn. Một cách cẩn thận, họ đã ráp lại pho tượng. Họ tìm
thấy tất cả các mảnh vỡ, trừ đôi bàn tay. Họ đề nghị khi trở về Mỹ họ sẽ đặt
làm đôi bàn tay ấy. Nhưng vị linh mục đã từ chối.
"Tôi có một ý tưởng hay hơn",
ông nói. "Chúng ta hãy để pho tượng không có bàn tay. Và chúng ta sẽ ghi
vào chân đế lời này. "Bạn ơi, hãy cho tôi mượn đôi bàn tay của bạn".
Bằng cách đó, những khách vãng lai sẽ nhìn thấy giờ đây Đức Kitô không có tay
nhưng chính tay chúng ta sẽ nâng đỡ người vấp ngã; không có bàn chân chính chân
chúng ta sẽ đi tìm người lạc mất, không có tai nhưng chính tai chúng ta sẽ lắng
nghe người cô độc, không có lưỡi nhưng chính lưỡi chúng ta sẽ nói những lời an
ủi người cô đơn.
Sự cố nhỏ ấy làm sáng tỏ sứ điệp Tin
Mừng hôm nay, Đức Giêsu kéo các tông đồ vào công việc của Người. Người chia sẻ
sứ vụ thánh thiêng của Người cho họ. Người đã cho họ quyền bính và sức mạnh của
Người. Đương nhiên, họ cũng phạm những lỗi lầm, điều này không làm người ta
ngạc nhiên khi hiểu rằng họ là những con người bình thường.
A mốt là một mục đồng bình thường (Bài
đọc 1). Tuy nhiên Thiên Chúa đã sai ông đi rao giảng sứ điệp hối cải cho dân.
Hầu hết các tông đồ là những ngư phủ. Tuy nhiên Đức Giêsu đã không ngần ngại
chia sẻ công việc Người cho họ. Càng ngạc nhiên hơn khi một ngày kia Người sẽ
giao phó toàn bộ công việc cho họ.
Nhiều người đang nắm quyền hành thường
sợ kéo người khác vào công việc, đặc biệt những người được gọi là tầm thường.
Vì thế, người khác bị loại ra với cảm giác rằng họ không đóng góp được điều gì.
Để cho người khác tham gia là điều tốt. Nó làm cho người ta có trách nhiệm. Nó
cho người ta một cơ hội sử dụng tài năng của mình. Nó xây dựng một cộng đoàn
tinh thần.
Nhưng một đôi khi người ta không muốn
tham gia. Giao việc ấy lại cho các chuyên viên hẳn là dễ dàng hơn. Ngày nay,
người ta thường giao việc cho các chuyên môn. Vì thế, việc chữa bệnh được giao cho
các bác sĩ và y tá. Việc dạy học giao cho các thầy cô giáo. Còn việc lo cho
người nghèo giao cho chính phủ hoặc Hiệp Hội Bác ái Vinh Sơn Phao Lô.
Dĩ nhiên các chuyên gia rất cần trong
các việc chuyên môn. Nhưng người không chuyên môn cũng có nhiều việc đóng góp
và thường có nhiều nhiệt tình hơn. Người bệnh có thầy thuốc nhưng cũng cần có
tình bè bạn. Người già cần có người chia sẻ thời gian với họ. Người trẻ cần có
người tỏ ra quan tâm đến họ. Đây là công việc mà chúng ta có thể làm được. Nó
không đòi hỏi tài chuyên môn nào mà chỉ cần có một tấm lòng tận tụy.
Kinh Thánh bắt đầu với câu chuyện Thiên
Chúa làm con người trở thành những người cộng tác trong công trình sáng thế. Và
Đức Kitô đã cho các môn đệ tham gia công trình cứu chuộc của Người. Một trách nhiệm
cao cả đã được đặt lên vai chúng ta. Một vinh dự cao quí cũng đã được trao cho
chúng ta. Chúng ta có trách nhiệm về thế giới này của Thiên Chúa và về mỗi
người khác. Chúng ta là những người quản lý tạo vật và là người đồng cộng tác
với Đức Kitô.
26. Người bắt đầu sai đi
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Sau khi bị dân chúng ở Nazaréth chối
từ, Chúa Giêsu đi rao giảng ở vùng phụ cận. Đoạn 6:6b-13 nằm trong bối cảnh
những sinh hoạt cuối cùng của Chúa Giêsu ở Galilêa (6:6b-8:26), mà việc trước
hết là gởi các môn đệ đi (6:6b-13), và họ sẽ trở lại tường thuật cho Người
những việc họ đã làm (6:30). Cấu trúc của đoạn: 1- Chúa sai các môn đệ đi trong
khi gọi họ đến với Người và ban cho họ quyền năng (6:7); 2- Chỉ thị cho họ những
gì họ phải mang theo mình (6:8-9); 3- Cách thức họ phải cư xử (6:10-11) và lời
của thánh sử về việc họ đã thi hành bổn phận của họ như thế nào (6:12-13).
Đây là lần đầu tiên các môn đệ được sai
đi. Khi thiết lập nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu đã nhắm đến hai điều chính: là
"ở với Người" và "để sai đi" (3:14). Người đã nói với những
người đầu tiên được kêu gọi là họ sẽ trở nên những người đánh cá con người (x.
1:17). Sứ mạng của nhóm Mười Hai chứng tỏ một cách mới mẻ quyền năng của Chúa Giêsu.
Người kêu họ đến với Người, sai họ đi, ban cho họ quyền năng và chỉ định cho họ
cách hành xử. Họ đi rao giảng và làm chứng không phải cho tin mừng của họ, mà
của tin mừng đã lãnh nhận từ Người (x. Mt 18:16). Việc xua trừ ma quỉ trước đây
là của Người, bây giờ việc nầy được trao phó cho họ để thi hành (x.
1:23-27.34.39; 3:11-12.22; 5:1-20; 3:15).
Chỉ thị trước tiên là các môn đệ không
được có gì cả, ngoại trừ chỉ một cây gậy, đôi dép và một cái áo là những thứ
cần thiết của người đi trên đường (c. 9). Họ không mang theo lương thực cần
thiết cho bản thân, mà là sứ điệp và quyền hành nhân danh Người để nuôi sống
cách thiêng liêng người khác. Phù hợp với điều nầy Phêrô đã nói với người què:
"Vàng và bạc tôi không có. Nhưng tôi cho anh điều tôi có là nhân danh Chúa
Giêsu Kitô Nazaréth, anh hãy bước đi" (Cvtđ 3:6). Tiếp đến là cách hành xử
nếu như người ta từ chối đón nhận sứ điệp họ mang đến. Với cử chỉ giũ bụi khỏi
dép các môn đệ cho họ thấy là giữa họ và những người không đón nhận họ không có
một điểm chung và quan hệ nào cả (x. Cvtđ 13:51; 18:6).
Sứ mạng của các môn đệ xem ra nằm ngoài
thời gian và không gian. Cũng không có một chỉ dẫn đặc thù nào về nơi chốn và
thời gian mà họ được sai đến. Tuy nhiên quan hệ giữa họ với Chúa Giêsu được xác
định rõ ràng: Người sai họ đi và họ sẽ trở về tường thuật với Người những điều
họ đã làm. Như thế, sứ mạng của họ lệ thuộc hoàn toàn vào Người. Marcô không
cho biết nội dung của sứ điệp, mà hành động đi rao giảng của họ. Mục đích của
việc nầy làm làm cho người ta hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Sứ điệp nầy
tương tự với sứ điệp Gioan Tẩy Giả đã rao giảng (1:4); kèm theo đó, họ xua trừ
ma quỉ và chữa bệnh họ. Phần Chúa Giêsu, Người kêu gọi không chỉ sám hối mà cả
tin vào Tin Mừng nữa (1:14-15).
Từ khi được kêu gọi làm ngư phủ của con
người (1:7) đến khi được thiết lập thành nhóm Mười Hai (3:14-15), đây là lần
đầu tiên họ được sai đi để học kinh nghiệm bản thân về sứ mạng của họ. Họ lệ
thuộc vào Chúa Giêsu, Đấng kêu gọi họ, không chỉ như là môn đệ, mà là tông đồ,
người được sai đi.
27. Đức Giêsu sai nhóm mười hai đi
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai
với hai mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin
Mừng và trừ quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với
Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả hoạt động giảng dạy và tất cả các
hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức
Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi với Người trong khi Người chu toàn
sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy
các làng trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông
nối tiếp công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười
Hai (6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao phó sứ mạng
(c. 7),
b- Giáo huấn của Đức Giêsu về hành
trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức Giêsu về cách xử
sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng
(6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một
cuộc hành trình để nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả
Mc diễn tả bằng cách dùng thuật ngữ "Nhóm Mười Hai" ở 7 điểm quan
trọng. Thuật ngữ này trở đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm
được thành lập cho đến khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở
mỗi chặng quan trọng. Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về
Nước Thiên Chúa cho đến thử thách cuối cùng:
1) Lần đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu
"thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người
sai đi rao giảng" (3,14). Và xa hơn: "Người thành lập Nhóm Mười
Hai" (3,16).
2) Ở ch. 4: "Khi còn một mình
Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi Người về các dụ
ngôn" (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức Giêsu: điều này
chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: "Đức Giêsu gọi Nhóm
Mười Hai" (6,7). Trong TM Mc, từ ngữ "tông đồ" chỉ được dùng ở
6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn
đệ vài điều: "Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm đầu,
thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người" (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người
sẽ chết và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ
theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với
các ông về những điều sắp xảy đến cho mình" (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào
Giêrusalem: "Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành..., và
tiến về Bêtania cùng với Nhóm Mười Hai" (11,11). Câu 11 là như lời dẫn
nhập vào hoạt động của Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương
trình hành động), và Nhóm Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là
khởi đầu cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như
là Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc
tên cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như
là những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy
rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu
bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên
qua một quan hệ riêng tư với Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được
đào tạo từ chính quan hệ này, và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi
dần vào quan hệ riêng tư và trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng
của Nhóm Mười Hai như là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và
chữa bệnh (chủ yếu là trừ quỉ).
- không được mang gì đi đường (8): Tình
trạng thiếu trang bị vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự
tin tưởng ký thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3
cấm các môn đệ cầm gậy đi đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh
hướng chế giảm hoặc đây là cách đọc sai từ A-ram l' ("không") thành
'l' ("ngoại trừ"). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá
nguy hiểm, nên còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra là túi xách để
đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt 10,10 và Lc 9,3
cấm các môn đệ đi giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma,
vật bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không trên các nẻo
đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là áo trong,
mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào
không đón tiếp mình, người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu
tượng thôi, chứ không trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con
người tại nơi ấy phải suy nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ
bụi chân khi trở lại xứ Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành
thiếu lòng hiếu khách thì không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người
ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại
câu tóm về lời rao giảng của Đức Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ
mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười
Hai (7-11)
Đức Giêsu đã "gọi lại với
mình" Nhóm Mười Hai: điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa
của Người. Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người.
Các hình thái cơ bản trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua
trừ ma quỉ (3,14t; 6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t;
1,21-27; 1,39). Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó
cho những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với
Người. Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên
Chúa đã gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao và vững
chắc sứ điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền
làm chủ của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra
được, nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải
loan báo không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự
bằng hành động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ
khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được rõ ràng
là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả, ngoại trừ
sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của các ông,
Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý thức về sứ
mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở có được,
chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái hơn. Các
ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải cho họ
hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định hệ trọng trong
quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy ra một việc
tách biệt quyết liệt, "giữa chúng ta, không còn liên hệ gì nữa!". Từ
chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng
(12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười
Hai (6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức
Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một
chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của các
ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều cốt
yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và
mỗi Kitô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo
Hội (và mỗi Kitô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu
chuẩn xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi
thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô hữu hôm nay
cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin Mừng và giảm
thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được sứ mạng
này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu ("ở với Người"; x.
3,14).
2. Người Kitô hữu không được chỉ giới
hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải nhận ra
trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa lại sự
giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói là một khía
cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm khuyết nếu việc làm
chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng bằng hành động, bằng
chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ rằng mình là
người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa mình và phải
trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi loan báo Tin
Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của riêng mình.
28. Chú giải của Noel Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi
từng hai người một.
Một trong những việc làm đầu tiên của
Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn những cộng tác viên (Mc
1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc 2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã
chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của Người muốn thành lập một dân
tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười hai Chi tộc. Trong phần đầu
của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức Giêsu và ở "với
Người" (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể nói, Đức Giêsu sắp ẩn
mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông đồ. Lần đầu tiên các ông
đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời kỳ Giáo Hội đang bắt đầu.
Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái độ này của Người: Thiên
Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách vụ quan trọng: Người
không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những trách nhiệm nào? Lạy
Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương đầu của trình thuật,
Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy "Đức Giêsu với các môn đệ", tạo
thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông, với các đối thủ. Vào
lúc "kêu gọi" các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi nhận, Đức Giêsu đã
"thiết lập Nhóm Mười Hai" để ở với Người và để Người "sai họ
đi". Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm trương... tâm thu...
máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ thông thường cũng như
thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô đến khắp nơi trên thế
giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp quanh Chúa vào mỗi
Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân chứng sống động của
Chúa.
"Anh hãy đi! Anh em được sai
đi" "Ite, Missa est" chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là "sự
sai đi". Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như thế không?
Tôi có thường sống "với Chúa" trong suy niệm, trong nguyện cầu không?
Tôi có ý thức mình được Chúa "sai đi" vào đời sống thướng nhật để làm
một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người thì chứng tá mới có
giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra nhiều câu ngạn ngữ để
nói về điều này. "Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ
người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv 4,9).
Quy tắc đầu tiên của việc tông đồ là
tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình yêu, trước khi bàn
tới. "Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết bao!". Chứng tá Kitô
hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo Hội. Đó là ý muốn rõ ràng
của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của tôi. Chủ nghĩa cá nhân có
nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không thích những người anh em
khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được
mang gì đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang
tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là chúng ta không thấy
Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết, "Sứ vụ" của các
ông. Chúa không bảo các ông "phải giảng điều gì". Người chỉ nhắc nhở
các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Đức Giêsu, chứng tá bằng
cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên duy nhất của Thầy
liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện Chúa phải tỏ ra mình
không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con người. Tất cả chỉ dựa vào
niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai triển đòi hỏi này khi khẳng
định: "Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên gương mặt Đức Kitô, nhưng
kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất, để chứng tỏ quyền năng phi
thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi" (2 Cr 4,6-7).
Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình: "Khi tôi đến với anh em,
tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý cao siêu... nhưng tôi thấy
mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin của anh em mới không dựa vào
lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa" (l Cr
2,1-5).
Vâng, điều Đức Giêsu muốn, đó là những
đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng kềnh, luôn sẵn sàng đi
nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo Hội không ngừng tự
"làm nhẹ bớt" để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống thế nào trước đòi hỏi
nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của Người, chỉ mang theo
những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của tiền bạc là chiến thắng
đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần thiết cho một thế giới
tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân mình trước hết) chống lại
một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải! Nguồn gốc của chia rẽ,
tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đến gần lý
tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và
nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên vi tầm quan trọng
của thái độ khước từ "tiếp nhận" trong diễn từ của Đức Giêsu. Nhưng
môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá lắm. Người ta
dễ dàng đoán được những ý nghĩ: "Các ông muốn chúng tôi trở lại chăng?
Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái tốt theo truyền
thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin các ông hãy đi
giảng đạo nơi khác" Những khó khăn của Kitô hữu khi trình bày đức tin
không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay: "Các
con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước cho các
con". "Chúng ta chớ nên ảo tưởng".
Ngày nay cũng như thời Đức Giêsu sứ
điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón nhận. Vì thế điều
Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng: "Nếu người ta
không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác". Chịu đựng thái độ không
tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình thường đối với Đức
Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó cho những người được
sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta
ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và
chữa họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng những gì họ thấy Đức
Giêsu làm khi họ "ở với Người". Nội dung của nỗ lực "truyền
giáo" gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời Chúa, đòi hỏi một sự
thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống sự dữ, xua đuổi ma
quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp người nghèo, cải
thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ nhất của việc rao
giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì sao các Tông đồ
được ít người nghe theo và bị từ chối. Thông thường, con người không thích
"thay đổi" cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà, Thiên Chúa
lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc sống mới.
Chữ Hy Lạp "mitanoa" dịch ra là "hoán cải", có nghĩa là
"đổi ngược tinh thần". Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo một
hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin
Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ
học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện
hành? "Các Ngài đã kêu to" "ékèruxan" phải thay đổi cuộc
sống "Metanoôsin".
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã dùng những cách mô tả
theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng sứ vụ mang tính chất bi
kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại quyền lực của sự dữ trên
thế giới. Những "nhà truyền giáo" những người được Chúa "sai
đi" không quảng cáo cho một sản phẩm để bán chạy. Các Ngài đã lên đường để
đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối mà các Ngài gặp không chỉ đến
từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực lượng đối kháng. Một sự chống
lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều chúng ta gọi là 'tội lỗi thế
gian'. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào về những thế lực xấu xa mà
chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người ra khỏi những thế lực
xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm giá một cách tích cực,
là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng của Đức Giêsu. Mệnh
lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện nay, nó mang một hình
thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là "giảng dạy"
mà đặc biệt còn là "giải thoát". Ngày nay rao giảng Tin Mừng phải có
những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp với thời đại của chúng
ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào? Xã hội chúng ta cần sự
chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn mang tính thời sự,
nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán cải của Tin Mừng nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét