Lời Chúa: Mc 16,1-8; Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga
20,1-9
1. Niềm tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới
đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có
lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người
ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm
xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên
là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có
hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ
thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi
đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự
dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế,
chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho
cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng
bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà
biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống
rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch
thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những
chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang,
khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và
khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết
thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời
Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một
dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng
sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên
Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu,
nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị
bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người
cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật,
ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch
sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng
được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức
Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại,
nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
2. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống
lại.
(Suy
niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những
bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu
nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi
chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng
mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu
sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của
Chúa Giêsu - - “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt
Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính
yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, - “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều
trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh
trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói
quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu
tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục
Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về
quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của
Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường
xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài
tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất
hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có
nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết
của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô
tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là
Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu
tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh
hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên
Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với
thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân
xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một
cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục
Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa
và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện
cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về
Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến
cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này,
nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho
các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống
trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi
không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố
này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin
tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và
sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ
ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã
nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống
vẫn không ngớt biểu lộ.
3. Ngôi mộ trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức,
có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới
đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ
của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một
ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới
mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ
xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi
mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm
xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu
vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi
chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối
bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường
được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể
lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn
tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống.
Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người
có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã
chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không
thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người
ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng.
Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác
Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã
thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có
ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có
ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa,
vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là
niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục,
nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều
phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt
đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa
Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn
như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như
một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt
hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị
cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ
tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải
chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ
phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại,
thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng
vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn
mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem
chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ
là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết
của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem
theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những
quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của
người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới.
Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản
ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu
hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái
chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa
Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô
đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền,
vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi
Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh
quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau
khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại
và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội
nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến
thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh
viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh
quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong
Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời,
kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ
không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh.
Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa
đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh,
vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn
phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng
vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm
bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn
nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của
chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình
yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải
là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương
trình Phục Sinh.
4. Tin mừng Phục Sinh – Noel
Quesson.
“Alleluia!
Alleluia!”
Một thời ở miền Nam này người
ta đã xôn xao bàn tán về chuyện một người lính. Sau một trận đánh lớn, gia đình
được giấy báo anh đã chết mất xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này với tâm
trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục. Ba
tháng sau người lính đột ngột trở về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã được
anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng
vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước
Tin Mừng Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe
những lời hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa,
nhưng Chúa đã chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết
của Chúa, và đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa
đưa thuốc thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa
đi vừa lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cửa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới
nơi, các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc
áo trắng ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sự
việc xảy ra mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng,
và màu trắng là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua.
Không còn mờ tối, không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa
trên núi Tabo xưa. Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật
trên trời. Đó cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh
quang Phục Sinh của Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra
mình đang đối diện Thiên Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm
vui lớn quá cũng làm người ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu
Nagiaret, người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa.
Các bà hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã
ra khỏi mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho
tới nay vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục
Sinh đã tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa
nói chuyện với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhận ra Chúa cần
phải có tâm hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính
ân sủng trước khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó.
Chúng ta đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của
Chúa. Tin Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn
sàng đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang
thành tâm tìm kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
5. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM
Ngô Quang Kiệt.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa
bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối.
Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự
dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh.
Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục
Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình.
Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả
trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng.
Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta
còn thuộc về bóng tối.
·
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực
sâu tối đen không có đường thoát ra.
·
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê
ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
·
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí,
khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội
ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
·
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta
không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
·
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không
tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu,
chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn
chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải
quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi
được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình,
quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được
ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ,
xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong
ánh sáng của Chúa.
6. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
– Thiên Phúc.
(Trích
trong “Như Thầy đã yêu”)
Bà Regina Riley hằng cầu
nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật,
bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với
bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ
mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại
Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm
tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi,
dáng điệu khập khiễng. Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang
đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng
vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ
thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới
hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một
chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ
cho chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà
Salome là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã
từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ
Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã
nằm yên trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt.
Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ
lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá
được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để
loan báo Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các
môn đệ tại Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự
sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin
theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức
thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng
lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
-
Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần
Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
-
Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở
về là có đôi mới.
-
Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng
được sống lại với Người.
-
Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá,
thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Mỗi lần chúng
con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm
tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất
bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống. Xin giúp chúng con biết mở rộng
tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa. Amen.
7. Mặt trời hé mọc.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại
thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ
này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm
của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ
nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ. Kẻ
thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo
vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt
lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được
một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp
thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó. Và khi lóe
lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với
dầu thơm vừa mua được để ướp xác. Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm:
"Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở
ngại... Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi,
và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị
đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống
đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải
xức dầu thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống,
Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn...
Vẫn có những ngôi
mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều
chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ
gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng
có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui,
dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép
kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng
Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
·
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn
thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Xin ban cho con sự sống của
Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban cho con niềm vui của
Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn. Xin ban cho con hy vọng của
Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường. Xin ban cho con Thánh Thần của
Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
8. Ông đã thấy và đã tin.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng. Tảng
đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra. Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala! Bà
đã đi thăm mộ lúc trời còn tối. Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ
mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà? Tình yêu đã khiến
bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt
27,61). Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người
môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ. Bà
nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy. Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó
là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15). Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác
về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ
mong tìm lại xác của Thầy đã chết. Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy
đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng. Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải
đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh. Chẳng
ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm. Chúng ta cần có lòng mến thiết
tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn
xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng
hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải. Những
gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn. Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong
nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho
bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải
không ngăn được Ngài ra đi. Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết. Ánh sáng bừng
lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy
xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1.
Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng
và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng
hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
2.
Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã
phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy
mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục
nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người
Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
·
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
·
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
·
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức
thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để
nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
9. Người đã trỗi dậy rồi.
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ
đến chuyện Thầy sẽ sống lại. Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy.
Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá
quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế
ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi
sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị.
Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích
thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì
đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho
nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã
phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ
kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức
Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài. Các môn đệ
chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo. Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau
quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những
gì Ngài dạy (c.8). Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc
cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Quá
khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn,
không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm
Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ... Đức
Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã
chỗi dậy. Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta
không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi
chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật. Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và
là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu
lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi.
Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì
trên cuộc sống đời này không?
·
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ
nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi
tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với
chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng
giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên
nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin
hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng
con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở
thật gần bên chúng con. Amen.
10. Chúa đã sống lại (Ga 20,
1-9).
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – của Radio
Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc
trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất
Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các
bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có
chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy
về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy
đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng
thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết
rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến
các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng
khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì
ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng
Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta,
đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức
tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều
cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều
lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn
đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức
tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin
của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối
diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm
ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho
nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho
chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các
môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa
ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng
ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh
phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem
ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức
tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế
lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc
mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức
tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế
lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở
đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải
theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu
trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay
vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người
gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố
đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những
tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu
thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng
đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín
đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó
chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt
và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này
mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc
niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã
các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn
trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi
đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống
lại thật. Allêluia.
11. Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga
20,1-9).
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ của Radio Veritas Asia )
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại
cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta
đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống
và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh
Gioan đã viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương
16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người
đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ
bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ. Phép tắc, thủ tục
xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu
ngày mới từ lúc mặt trời lặn. Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để
chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật
tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do
Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải
trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong
xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to
đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình
không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ
bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ
để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không
còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên
trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài
khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm
và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân
tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp
xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến
thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một
tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa
Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô,
ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục
nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn
lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ "bình
yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả
mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối
các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy
đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo
nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng
đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan,
ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong
Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn
dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến". Thánh Gioan đã yêu mến
Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những
giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên
con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ
phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu.
Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự
hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa
nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy
sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự
kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu
dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm
xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không
đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng
đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm
Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được
ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để
cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
12. Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa
thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn
chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá
nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần
dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa
mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được
một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một
cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh
mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi
thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy,
trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi,
một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi
ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi
hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc
đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã
chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề
cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra
và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu
hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành
một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo
Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của
Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong
chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước
cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho
niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực
hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người
nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại
sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó
phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi
chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức
Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước
mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý
nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
13. Hãy khai phóng tâm trí (Mc
16,1-8).
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của
bốn Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài
cho nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một
sự khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc
không làm được. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ
thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế
mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố
gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống
lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại.
Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù
là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô
sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy
không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi
tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc
đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ
Chúa trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người
hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.
Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ
mờ sáng đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến làm cho xong việc xức thơm thi hài
Chúa. Họ chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm
tảng đá đậy cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy
bởi lòng trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng
đá đã được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi
mộ, thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu
không còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô,
chúng ta rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?
1) Câu chuyện mấy bà đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa
cho một trong những giai đoạn của đức tin. Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự
cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một Đấng mà người ta không biết được
toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ,
Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho họ chìm trong đau khổ và hoang
mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy giữa Thày và họ chưa hết, vẫn
còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức thơm thi thể Thày đầy
thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ? Đem lại một sự hoang
mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp sợ đến nỗi không
thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng ta tự nhiên đến
với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông? Khoảng chân
không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết. Chúng ta làm
điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức Kitô.
2) Họ thấy tảng đá đã được vần sang một bên. Theo não
trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái, đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có
nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở ra, tức là người chết không còn
thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng tượng những kẻ quá cố cư ngụ.
Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu có những lần chúng ta có ấn
tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền vi chính vì những lúc đó trong
một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm
được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị gò bó trong những hạn chế của
chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống đời Kitô hữu- Chúa vần sang một
bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho
một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.
14. Đức tin của chúng ta (Lc
24,13-35).
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN
LOẠI KHÔNG?
(Đoạn suy niệm sau đây được
đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh, trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong
các lễ sáng).
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ
có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong
Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo
nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự
của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không
ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn,
và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi
lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của
tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng
lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy
ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập
giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử,
chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy,
nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì
Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự
chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng
của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này
đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu
Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối
bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi
lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể
gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là
thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự
sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về
Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa Giêsu trong một
lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu
tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị
tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp
gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy
nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta
dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu
làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta
lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta
trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở
nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực.
Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy
nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người
đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà
Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập
san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong
ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm
hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta
sống.
15. Sáng và tối.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa
bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối.
Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự
dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh.
Đức Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục
sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình,
Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả
trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng.
Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta
còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong
những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong
cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý
trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những
tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn
ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta
không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu,
chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn
chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải
quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi
được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình,
quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được
ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ,
xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong
ánh sáng của Chúa.
16. Niềm hy vọng sống lại.
Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được
sống lại như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?
Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy
ra cho những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo
kích thân xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm
mồi cho cá mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.
Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối
với quyền năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi
nó một khi đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay
là tạo thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng
vũ trụ lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi
giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại được,
họ sẽ lấy thân xác nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô lý, nếu
chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban sự sống ấy
lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xác đã chết và
bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.
Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh,
tất cả đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên
Chúa?
Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của
uy quyền. Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức
chàng trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô,
cũng đang nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức,
cháu bé ấy cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được
chôn táng trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô
cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ
vang lên một lần nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.
Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được
rằng Thiên Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng
rỡ. Sau mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm
non vươn lên.
Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để
hoàn tất chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc
và buồn phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy
giờ chúng ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta
những hậu quả nào?
Hậu quả thứ nhất, đó là một lời báo động: Hãy chuẩn bị
cho ngày ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất của lịch sử nhân loại. Cũng
như ngày đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Thì
trong ngày cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có bóng tối và chấm dứt mọi sự.
Lập tức đã xảy ra như thế. Rồi những người đã chết sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng
triệu triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay từ lòng đất ở một nơi xa xôi
nào đó, cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã bị quên lãng, không một ai biết
đến; những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc sống; những người trung thành
với Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự
đến trong vinh quang.
Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta
sẽ được sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc
đời vĩnh cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng
và không một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ
không thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn
bị cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp,
vì đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.
Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh
cho chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu
anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời.
Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh để đứng vững, để trung thành
cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi, thì chắc chắn ngày huy hoàng ấy
sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước đi trong đêm tối, thì chắc chắn
bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng bao giờ chúng ta thất vọng,
đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta không thể nào gặt hái khi những
bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.
Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm
an ủi cho chúng ta. Thực vậy, người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở
Pérou, mỗi khi có nhật thực, mặt trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội
vã giật tóc và nức nở khóc lóc một cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn
mặt trời nữa.
Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh,
chúng ta biết rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng
ta có thể buồn và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của
chúng ta sẽ chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi
vì chúng ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên,
đâm bông và kết trái.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì
Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt
trời lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu
thì lá vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm
chồi nẩy lộc và trở nên xanh tươi.
Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác
chúng ta sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống
lại như lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có
chết cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được sống đời đời.
Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải
bước qua. Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã
hiên ngang bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tăm ấy một luồng
ánh sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá
chiến thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.
17. Hai cái nhìn.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn
đến hai cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên,
bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà
bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình
huống xấu nhất: “Người ta đẽ đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không
giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng
dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất
kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để
suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn
này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem
lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta
nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy
được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghã, “Tín hữu” là
người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có
cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất
thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp
bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai
là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối
với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng
Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức
tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất
cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu
tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức
tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên
tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
18. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục
sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được
phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một người
Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một
lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là
lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc
khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn
trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc,
và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay
tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ
rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc
của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn
của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới
tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô
con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo
tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục
ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá
hơn.
12 ngày qua đi trong tình
trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này
nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở
trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ
của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ
sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay,
những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở
về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha
sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người
nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con
trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của
nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về
niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng
có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu
đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi
mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi
nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống
lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng
đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh
của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi
Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của
cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối
với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng
cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều
này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức
Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà
thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng
ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại
trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào
thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy
đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm
vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
19. Chiến thắng.
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại
nơi sự sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái
chết của Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi
Thiên Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt
trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi
Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”,
nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu
cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta sẽ
được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật
dậy trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế
ngự sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở
thành một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến
thắng của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu
và chiến thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng
được hưởng lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền lực
của cái chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống
lại – Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng
của lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được
sống lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên có ý thức về tính
hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi hướng đến cái chết.
Cái chết tạo ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của chúng ta, bởi vì
chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua một tấm kính tối
tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng không khí trong lành
của sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn,
nhưng chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến
thắng đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của
niềm hy vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của
người Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào
các sự kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái
chết, đến với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của
sự trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng
ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như
ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng
ta ra, để chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt
lên trên sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo
chúng ta hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật
xa, trong cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng
và hy vọng hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
20. Ngôi mộ trống – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn
không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2.
Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở
nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta
phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một
biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục
sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong
mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh
Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống
rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã
không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống
trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô
cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà
thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi
gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng
hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ
và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ
là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn
qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có
lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một
đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ,
chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ,
cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn
là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000
năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi?
Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc
ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của
Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta
thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống
mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh
Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức
Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết,
cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của
anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống
mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống
lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống
mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại;
chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr
6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải
chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới,
con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có
được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn
trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những
thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ
nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội
lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa»
(Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp
sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để
Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã
được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện»
(Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người
ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ
bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan
tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo
cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện.
Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống
mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ
nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi
một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không
chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác»
(Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một
nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào;
nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm
nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy «cái tôi ích kỷ» của ta,
thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người
mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và
có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của
mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh
phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó
hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai
yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy:
những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và
cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những
gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều
hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người
sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem
ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người
vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người
mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người
mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên
mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa
là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước
khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên
Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên
con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ
là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới
là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm
như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm
cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều
quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời
sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em
thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm
trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một
cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở
thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật
sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh
chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ
thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con
quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi
người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
21. Chú giải mục vụ của Jacques
Hervieux.
NGÔI MỘ TRỐNG (16,1-8)
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy
đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy,
rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông
rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả.
Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh
nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ
năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn
nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối
cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất
hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn,
các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà
ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để
tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải
là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu
lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô
rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng
của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng
trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu
tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa
xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do
Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục
Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ,
những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người
đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn
các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng
ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật.
Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà
phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần
ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này.
Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối
dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không
nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn
tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự
thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn
thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm
cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi
chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa
Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm
chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí
danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa
Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các
môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta
nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như
thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai
Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên
Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có
nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ
Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn
loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng
đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay
đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà
các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của
các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên.
Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn
mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a).
Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được
khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều
được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ
tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước
khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình
cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế
giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh
để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một
chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ
hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và
càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác
phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối
tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một
bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng
thời mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên
thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước
hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết
vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này
trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn
cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ
chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại
không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với
ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và
nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận
(Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi
chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng
đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa
Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi
lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi
nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng
“Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ
hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải
kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của
Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này:
chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn
và Phục Sinh của Ngài.
22. Chú giải mục vụ của Alain
Marchabour.
CHÚA
GIÊSU SỐNG LẠI (Ga 20,1-9)
Những lần hiện ra (20,1-29)
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện
ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ
mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó
(cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm
vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả
bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng
Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã
khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về
đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân
riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được
Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận
biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào
Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được
tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh
quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa
Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ
cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh
Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của
Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
Bà Maria Macđala, ông Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia
(cc. 1-18)
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật:
bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra
gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết
thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa
bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng
khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm
gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy
lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy
những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy
“băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin”
(c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu
lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG (cc.1-2)
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ
nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có
hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây
dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi
đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai
người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương
và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ
(như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một
bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử
khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không
có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu
bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ (cc.3-10)
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều
có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần
gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người
môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong
việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có
sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ
môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau
đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn
bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ
này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà
Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người
mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không
còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề
nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc
nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết
phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn
đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không
tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật
cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước
tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn
người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan
phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
23. Chú giải của Noel Quesson (Mc
16,1-8).
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng
nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô,
chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô"
trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám
câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà
Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp
xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các
"người nữ". Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến
cái chết của Người trên đồi Golgotha ... còn tất
cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành
hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những "phụ nữ tẩm xác", tay
bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa.
Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc
bước đường phiêu lưu của "Đức Giêsu Nagiaret"... thể hiện những bổn
phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc
an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta
không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất
trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải.
Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn
với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên
qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia...
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một
cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau:
"Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:" Nhưng vừa ngước mắt
lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều
đã ghi nhận. "Tảng đá đã được lăn ra". Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận
thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với
kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta
ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự
ngăn cách con người với sự Phục sinh... được coi như một sự kiện không thể có
được... ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?". Chỉ mình Thiên Chúa mới
có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một
người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật
của Matthêu, vì không nói đến "thiên thần", đến “đất rung chuyển"
đến tia chớp sáng"... nhưng chỉ đề cập đến một "người thanh niên".
Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong
ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu "tả vẽ" về biến cố
Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu "trắng"
luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối... đó là màu của
vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô
đã nói đến "một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng
được như vậy" (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu "trắng"
luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is
1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người
thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ!".
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một
sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về
Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc
nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông
(exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như
không người “Caphacnaum đã kinh ngạc" trước sự can thiệp đầu tiên của Đức
Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường
gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay.
Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường
nói: “Các ngươi đừng sợ".
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện
ra đúng nghĩa của Đức Giêsu... Nhưng chỉ ghi một "Lời" mạc khải, qua
một thiên sứ, nói lên “đức tin", một trong những điểm của "kinh Tín
Kính" ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu
Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô,
Ngày thứ ba, Người đã sống lại"
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi
(Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể,
như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, "người
Nagiaret", kẻ "bị đóng đinh", Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ
bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ
bị đóng đinh đã phục sinh
Người
không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này,
xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: "Người sẽ đến
Galilê trước các ông".
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi
mộ" nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến "mồ táng"
đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: "Sau
khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em" (Mc 14,28). Chàng
"thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu,
một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp
xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường
hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn" cũng
như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng
ở lại Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động
nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền
đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối
với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn.
Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời
Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa
đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của
Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một
dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những "dấu chỉ" mới, thời của
Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự... và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng
“không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng
Người". Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói
với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy
Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý
luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn
thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức
Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người
còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không
phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình
dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền
cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng
các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về.
Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn
vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục
Sinh.
“Run lẩy bẩy" (tromos) và “ngây ngất xuất
thần" (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây
đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của
mình, Maccô đã nhấn mạnh đến "bí mật" che giấu căn tính đích thực của
Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là "Con Thiên
Chúa", Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn
ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ "im lặng" và
"chẳng nói gì với ai": Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt
thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại,
luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật
trên, một sự "hiển nhiên tuyệt đối” một sự "ổn định hoàn toàn",
thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin
và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng
con.
24. Chú giải của Fiches
Dominicales (Mc 16, 1-8).
ĐỨC
GIÊSU NAGIARÉT
BỊ
ĐÓNG ĐINH, NGƯỜI ĐÃ CHỖI DẬY RỒI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
1) Bên kia bóng tối, ánh sáng ngày mới đang bừng lên
Anh sao mai xuất hiện đã đánh dấu ngày Sabát, ngày lễ
nghỉ thánh, chính thức chấm dứt. Cuộc sống đã sớm trở lại với nhịp sống bình
thường, các tiệm buôn đã mở cửa. Bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và
bà Salômê - ba bà này "đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi người còn ở
Galilê" (15,41), đã có mặt khi Đức Giêsu bị đóng đinh (15,40), và khi Người
được chôn cất -đã có thể đi mua dầu thơm "để ướp xác Đức Giêsu", mà
chắc không phải là theo cách thức người Ai cập, nhưng theo tục lệ của người Do
thái: ướp xác bằng dầu thơm.
"Các bà ra mộ”, đến chỗ hẹn của cái chết.
Nhưng bằng những hình ảnh biểu tượng khác nhau: "Sáng tinh sương”,
"lúc mặt trời hé mọc" trình thuật đã báo trước một cuộc tạo dựng mới
rồi. Bóng tối của sự chết sắp bị đẩy lui nhường chỗ cho ánh sáng của một ngày mới,
cho một khởi sự mới của vũ trụ; đó là "ngày đầu tuần" của một công
trình tạo dựng mới, ngày ấy chẳng bao lâu nữa sẽ được gọi là Chúa nhật, tiếng
latinh là "dies dominica”, Ngày Chúa phục sinh.
Dọc đường đến mộ, khi nghĩ đến tảng đá lớn chắn cửa mồ,
các bà cảm thấy lo âu. Nỗi lo âu ấy là chuyện rất bình thường, vả chăng còn là
khá muộn màng: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây”, bởi vì các
bà biết rằng "tảng đá ấy lớn lắm" chỉ với sức lực của hai hoặc ba người
đàn ông mới có thể lăn nổi tảng đá ấy. Tảng đá càng lớn, thì càng gây ngạc
nhiên lớn hơn cho các bà sau này.
- Các bà ngạc nhiên trước hết vì "thấy tảng đá đã lăn ra một bên rồi”, điều không thể nào làm
được đối với các bà. Các nhà chú giải muốn lưu ý ta về một chi tiết có tính khá
soi sáng là: nguyên bản bằng tiếng Hy lạp dùng câu này ở thể thụ động (tảng đá
đã được lăn ra một bên) nhằm "ám chỉ đó là hành động của Thiên Chúa mà
không cần phải nói ra, còn sách bài đọc, thì rất tiếc là đã dịch câu đó ở thể bất
định: "người ta đã lăn tảng đá rồi" (J.Hervieux, "L'evangile de
Marc", Centurion, trang 233).
Rồi tiếp đến là một ngạc nhiên khác: "vào trong mồ, các bà thấy một người
thanh niên (tiếng Hy lạp là "neaniskos") ngồi bên phải, mặc áo trắng”.
Người ta nghĩ ngay đến "người thanh niên" (neanikos) được mô tả trong
cảnh Chúa bị bắt; người thanh niên ấy chỉ khoác vỏn vẹn một "tấm vải
gai" (tiếng Hy lạp là "sindona" có nghĩa là tấm vải liệm). Khi họ
túm lấy anh, anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng. Đây là cách dùng
biểu tượng để diễn tả việc Đức Giêsu phục sinh thoát khỏi tay những kẻ thù tưởng
là đã bắt được Người và giam hãm Người trong cái chết (Maccô 14,50, J.Hervieux,
O.C. trang 216-217).
·
"Người thanh niên" trong trình thuật "ngồi
bên phải” đó là địa vị danh dự mà các Kitô hữu vốn dành cho Đức Kitô vinh hiển:
"Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha”
·
Người thanh niên ấy mặc áo trắng, giống như Đức Giêsu biến
hình sáng láng trên núi, ít lâu sau khi loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh lần
thứ nhất (9,3).
J.Hervieux nêu ý trước, rồi P.E Boismard cũng đồng
tình: tất cả gần như khơi gợi một sự "xuất hiện" của Đức Giêsu. Còn
tác giả Maccô thì không nói ra điều này. (O.C. trang 234).
2. Bên kia nỗi sợ hãi là hướng mở ra với sứ mạng
Theo cách diễn tả sinh động của trình thuật, người
thanh niên ấy không phải ở đó để làm gì. Nhưng là để nói lên một lời, để loan
báo một Tin Vui, một Tin Mừng: "Các
bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bi đóng đinh, chứ gì? người thanh niên ấy nói với
ba phụ nữ. Người đã chỗi dậy rồi”.
Sứ điệp phục sinh chứa đựng trong mấy lời sau đây:
"Đức Giêsu Nadarét mà các bà đã đi theo trong thời gian Người rao giảng ở
Galilê, và đã thấy người chết tất tưởi trên thập giá, Đấng ấy nay đã sống lại:
Người là Đấng-Hằng-Sống! Cũng chính sứ điệp ấy mà các tông đồ sẽ loan báo cho
muôn dân sau này" (cf. Cv 2,22-36; 3,12-20; vv...).
Trước đây, ở phần đầu sách Tin Mừng Maccô (Phúc âm
Chúa nhật V thường niên) ta được biết: sau một ngày bận rộn ở Caphácnaum, Đức
Giêsu thức dậy sớm, đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các môn đệ kéo
nhau đi tìm Chúa. Khi gặp Người, các ông được bảo đi đến một ‘nơi khác’:
"Thôi, chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao
giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa”. Còn ở đây, ở phần kết của sách Tin Mừng
Maccô, khi ngày mới đang lên, các môn đệ cũng lại nhận được sứ điệp, qua trung
gian các phụ nữ, để đi đến một nơi khác: Người không còn ở đây nữa... Người sẽ
đến Galilê trước các ông. Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với
các ông nơi hẹn gặp này, nơi Người sẽ "đến trước" các ông ấy chính là
miền Galilê, nơi tiêu biểu cho sự chung sống lẫn lộn giữa người Do thái và dân
ngoại. Đức Giêsu đã chọn Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng của mình (1,
14-15), nên nơi đây, trở thành biểu tượng cho việc khai mở sứ mạng phổ quát vậy.
J. Hervieux kết luận: "Các môn đệ được mời gọi tập họp lại đàng sau Đức
Giêsu phục sinh, để khởi sự một cuộc lên đường mới ra đi truyền giáo" (O.C
trang 234).
-
Được mời gọi đem tin này đến cho "các môn đệ Người và
Phêrô”, khi vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, "run lẩy bẩy”.
"Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá”? Trình thuật về biến cố Phục sinh
kết thúc với những lời trên, và sách Tin Mừng Maccô cũng kết thúc một cách chân
chất như vậy.
Tại sao có sự sợ hãi như vậy? Tại sao lại yên lặng chẳng
nói gì như thế Chắc hẳn là do sự xúc động mãnh liệt và bất ngờ trước lời loan
báo quá lạ lùng về việc phục sinh của Đấng bị đóng đinh. Nhưng nỗi sợ hãi không
thốt lên lời này không thể ngăn cản các bà ra đi truyền lại sứ điệp, cũng như
không thể ngăn cản các tông đồ rao truyền sứ điệp ấy cho đến tận cùng trái đất.
Theo P. Eboismard gợi ý, thì "Maccô coi các độc
giả Tin Mừng của ngài là những người có đủ trí thông minh để hiểu, vậy thì ngài
muốn truyền lại cho họ sứ điệp nào? Trong phần đầu sách Tin Mừng của ngài,
thánh Maccô đã không ngần ngại mà còn lấy làm hứng thú nhấn mạnh đến sự ngớ ngẩn
của các môn đệ vì các ông không sao hiểu biết được chân tính đích thực của Đức
Giêsu. Ngay cả trường hợp ông Phêrô bất thình lình tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống cũng vậy. Đó chỉ là do Chúa tỏ cho ông biết mà
thôi (...). Trong phần thứ hai của Tin Mừng cũng vậy, hết thảy các môn đệ không
trừ một ai, kể cả ba người phụ nữ được coi như trung tín nhất, đều hoảng sợ và
bỏ trốn cả (...). Thế nhưng các độc giả Tin Mừng của Maccô hẳn phải nhận thấy
điều này, là sứ điệp của Đức Kitô được truyền lại cách trung thực "cho đến
tận cùng trái đất" (Cv 1,8) do chính những con người yếu đuối và khiếp nhược
kia. Chính quyền năng của Thiên Chúa (hay của Đức Kitô phục sinh) đã phải tràn
ngập tâm hồn các môn đệ để thông ban cho họ ơn can đảm và hiểu biết mà trước
đây họ khiêm khuyết một cách thảm hại. Đó chính là sự lạ của Hội Thánh lúc mới
khai sinh mà thánh Luca sẽ thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ. Còn Maccô thì
để cho độc giả của mình tự hiểu, giống như ngài đã để cho độc giả tự hiểu rằng,
nếu thánh Phêrô đã có thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Kitô thì chính là nhờ một sự
can thiệp của Thiên Chúa vậy. (Xem "Jésus, un homme de Nazareth",
Cerf, 1996, trang 176).
25. Chú giải của Fiches
Dominicales (Ga 20,1-9).
GẶP
NGƯỜI SỐNG NƠI MỘ ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ngôi mộ “trống”
Sau ngày Sabát, đó là "ngày thứ nhất trong tuần”,
kiểu nói đó gợi ý rằng thế giới đã khởi sự bước vào một thời điểm mới. Maria
Mácđala, người phụ nữ đã đứng dưới chân thập giá Đức Giêsu, "đi đến mộ từ
sáng sớm”. Chỉ có một mình bà đi tới mộ chứ không phải là ba bà như được kể lại
trong Tin Mừng Maccô (Tin Mừng lễ Vọng Phục Sinh). Bà tới đó không phải vì ý muốn
xức dầu thi hài, bởi lẽ việc chôn cất "theo tục lệ của người Do Thái
(19,40), đã hoàn tất, nhưng theo X. Léon-Dufour, có lẽ "chỉ vì con tim
thúc đẩy thôi" ("Đọc Tin Mừng Gioan", quyển IV, Seuil, trang
203).
Vừa
nhận thấy "tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà vội chạy về báo tin cho các môn đệ:
từ ngôi mộ mở toang, bà kết luận là thi hài Chúa đã được đưa đi; từ "tảng
đá đã lăn khỏi mộ”, bà kết luận là "người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”? Bóng
tối bao trùm bà Mácđala đã được gợi ý ngay từ đầu trình thuật: "Lúc trời
còn tối”.
2) Đến dấu chỉ của ngôi mộ trống.
Phêrô là người được thánh sử nêu tên trước, nên dù chạy
chậm hơn môn đệ kia, ông vẫn là người thứ nhất bước vào trong mộ và "nhìn
thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuộn lại, xếp riêng ra một nơi. Như vậy là giả thuyết Maria
Mácđala đưa ra không vững nữa, vì "kẻ trộm sẽ chẳng lợi gì mà lấy băng vải,
cuộn lại rồi đặt riêng ra một nơi" (Thánh Gioan Kim Khẩu). Nhưng ngoài nhận
xét trên đây, người ta không thấy tác giả Gioan nói gì về phản ứng của Phêrô.
Còn Luca thì viết: "Ông rất đỗi ngạc nhiên" (24,12). Trái lại,
"Người môn đệ kia, người được Đức Giêsu thương mến”, tuy chạy tới mộ trước
Phêrô, và vội cúi xuống để nhìn vào trong, nhưng lại nhường cho Phêrô tiến vào
trước, chính người môn đệ ấy bằng trực giác của tình yêu, lại đang nhìn thấy
trong cảnh mồ trống và cảnh các khăn vải sắp xếp ngăn nắp kia dấu chỉ của một
Thực Tại Khác mà chỉ lòng tin mới cảm nhận được: "Ông đã thấy và ông đã
tin”. Theo ông, không phải người ta đã lấy trộm xác Đức Giêsu; mà chính là quyền
lực của sự sống dứt khoát tước hết quyền của sự chết.
X. Léon tự hỏi: "người môn đệ kia đã thấy gì? Hẳn
không phải là ông đã nhìn thấy Đấng phục sinh. Về phương diện này, ông cũng giống
như người có lòng lin được cho là có phúc vì đã không thấy mà tin (20,29). Người
có lòng tin thì chỉ dựa vào chứng từ của các môn đệ đầu tiên, còn Người-môn-đệ ấy
thì tin khi nhìn thấy những dấu vết để lại trong mồ. Dù rằng chưa gặp gỡ tiếp
xúc với Đấng-Phục-sinh, ông đã có khả năng vượt qua vực thẳm ngăn cách: tuy
không thấy xác ở đó, nhưng vải liệm đã là dấu chỉ giá trị đối với ông. Trước hết,
việc các khăn vải được xếp đã ngăn nắp đã loại bỏ giả thuyết cho rằng người ta
đã lấy cắp thi hài, điều mà có lẽ Phêrô đã kết luận. Sau nữa, tình yêu vốn đầy ắp
con tim đã giúp cho người môn đệ ấy có được ánh sáng. Đối với ông, theo J.P. Duplantier
nhận định, ngôi mộ không trống cũng chẳng đầy, nhưng nó đã trở thánh một ngôn
ngữ? Nhớ chú tâm lắng nghe ngôn ngữ ấy người môn đệ kia hiểu rằng Đức Kitô đã
chiến thắng điều mà không ai tránh khỏi, nói cách khác, Đức Giêsu đã toàn thắng
sự chết (Sđd, trang 212).
Phần Giáo Hội sơ khai, sau khi đã có kinh nghiệm về Đấng
Phục Sinh, sẽ còn phải đọc lại Thánh Kinh để soi sáng và nung đúc lòng tin cho
mình. Vì "quả thực, cho tới lúc ấy - bản trình thuật kết luận - các môn đệ
vẫn chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, thì Đức Kitô phải sống lại từ cõi chết”.
BÀI ĐỌC THÊM
“Hiện diện của tình yêu”
(H. Vulliez, trong "Dieu si proche. Năm B".
Desclée de Brouwer trang 51).
Maria Mácđala chạy tới mồ và thấy mộ trống. Chỉ có
băng vải và khăn liệm là lên tiếng nói rằng: xác đã để ở đó. Bây giờ thì không
còn nữa! Chỉ có những điểm mốc cho biết là trước đây đã có một hiện diện -
Maria Mácđala đứng trước một khoảng trống mênh mông. Những gì bà nhìn thấy lúc
này thật khủng khiếp. Điều gì đã xảy ra? Còn đâu những lời hứa Người sẽ sống lại?
Lễ Phục sinh khởi đầu trước ngôi mộ trống. Ta không
thể tin rằng Người-đang-sống. Sống một cách khác, nếu không trải qua khoảng trống
này: đoạn tuyệt với sai lầm, từ bỏ mình hoàn toàn, vượt qua khoảng cách thăm thẳm
do những sự đời này tạo nên, và cái chết. Phải vượt qua khoảng trống chóng mặt
này, phải cảm thấy khao khát một Hiện-diện tuyệt đối. Mới có thể nói cho lòng
mình và cho người khác rằng: Đức Giêsu, Người-bị-đóng- đinh vẫn đang sống. Thật
là kỳ diệu và tuyệt vời khi được nhìn thấy bình minh sự sống mới ló dạng sau
lúc vượt qua cái không trống rỗng này, và cũng thật là kỳ diệu và tuyệt vời khi
băng qua vực thẳm tối tăm của cái chết người ta lại thấy mình sống trong ánh
sáng chan hoà của đời đống phục sinh.
Đức Giêsu vắng mặt về thể lý là điều cần thiết để ta
gặp gỡ Người Hiện Diện cách khác. Nhờ Người, đời sống thần linh lại được khơi
con người. Sự Hiện Diện của Tình yêu là men làm dậy lên một nhân loại mới.
CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Thánh Lễ Chính Ngày
(Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9)
Thánh Lễ Chính Ngày
(Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9)
Chủ đề:
ĐỨC KITÔ PHỤC SINH:
TRỌNG TÂM NIỀM TIN KITÔ GIÁO
ĐỨC KITÔ PHỤC SINH:
TRỌNG TÂM NIỀM TIN KITÔ GIÁO
“Ông đã thấy và đã tin...
Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”
(Ga 20,8-9)
Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”
(Ga 20,8-9)
Phụng vụ Lời Chúa hôm này tập trung vào biến cố Đức Giêsu Phục Sinh và ý
nghĩa của biến cố đó với đời sống Kitô hữu. Quả thật Đức Giêsu Kitô Phục sinh
là trọng tâm của đức tin, đức cậy và đức mến của Kitô giáo. Nếu Đức Giêsu không
phục sinh, niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Mừng lễ Đức Giêsu Kitô phục
sinh là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin, niềm trông cậy vào sự sống đời sau
và từ đó có lối sống xứng hợp được thể hiện ra bằng đức mến trong đời sống
thường ngày.
1. Bài đọc 1 (Cv 10,34a.37-43)
Đức Giêsu Kitô Phục Sinh là tâm điểm của niềm tin Kitô giáo. Biến
cố này đã củng cố niềm tin của các Tông Đồ và những người theo Chúa, giúp họ
nhận ra Đức Giêsu là ai và khám phá ra sứ vụ của mình; đồng thời, giúp đọc lại
và hiểu ra ý nghĩa đích thực của các lời nói và việc làm của Đức Giêsu trước
đó. Vì thế, biến cố Đức Giêsu Kitô Phục Sinh cũng là trọng tâm trong các lời
giảng dạy của các Tông Đồ.
Bài đọc 1 ghi lại lời rao giảng của Thánh Phêrô tại nhà ông Cônêliô ở
Xêdarê. Cũng giống với các lời giảng trước đó, thánh nhân tập trung vào
con người và sứ vụ của Chúa Giêsu: kể từ khi Người bắt đầu sứ vụ công khai cho
đến lúc phục sinh và thăng thiên. Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha dùng Chúa
Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu thánh hiến trong ngày Người Chịu Phép rửa,
để Người ra đi thi hành sứ vụ Đấng Mêsia-Được Xức Dầu. Đó là công bố Tin Mừng
Nước Thiên Chúa và thi ân giáng phúc cho mọi người. Đức Giêsu đã giải thoát
người ta khỏi bị giam cầm của bệnh tật thể lý và khỏi ma quỷ về mặt tinh thần.
Thế nhưng Người đã bị người ta kết án tử bằng cách đóng đinh vào cây thập giá
và đã chết. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Sau khi đã sống lại,
Người đã hiện ra với thánh Phêrô và các Tông Đồ và những người theo Chúa, cùng
ăn uống và trò chuyện với họ. Không những chỉ thấy mà các Tông Đồ còn được
truyền đi rao giảng về Chúa Giêsu Phục Sinh và Người là thẩm phán sẽ xét xử
muôn người.
Như thế, câu chuyện về Đức Giêsu là
một sự kiện lịch sử trong thời gian gây thắc mắc cho bao người, liên quan
đến thấy và làm
chứng, nhưng lại trở nên một biến cố vượt thời gian đem đến ơn
cứu độ cho những
người tin. Ai tin vào Người sẽ được sống nhờ được thông phần vào
sự phục sinh của Người, ai không tin thì sẽ bị chết. Các tông đồ đã tuyên xưng
niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô của mình và đã sống niềm tin đó bằng cách trở
thành những nhân chứng rao giảng về những điều họ đã thấy và đã tin để cho mọi
người, không thiên vị ai, nhờ tin mà được ơn cứu độ.
2. Bài đọc 2 (Cl 3,1-4)
Khi chịu Phép Rửa Tội, người Kitô hữu được trỗi dậy khỏi quyền lực của sự
dữ và thế gian để tham dự vào đời sống mới trong Chúa Kitô phục sinh ở thượng
giới. Do đó, Thánh Phaolô kêu gọi các Kitô hữu hãy tìm kiếm những sự trên trời,
nơi Chúa Kitô, Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết, đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Đối với Thánh Phaolô, vì đang sống trong trần thế, người Kitô hữu cần
phải chu toàn những bổn phận và trách nhiệm của mình để xây dựng thế giới này
tốt đẹp hơn (x. Rm 12-13), nhưng thay vì chú tâm tìm kiếm những thứ tạm thời
chóng qua ở đời này thì hãy tìm kiếm những điều có giá trị vĩnh cửu thuộc
thượng giới, và điều quan trọng nhất là sự sống đời đời.
Nếu người Kitô hữu đã chết với Chúa Giêsu Kitô, thì nay dù đang ở trong
thân xác phải chết nơi đời tạm chóng qua này, nhưng khi Đức Giêsu phục sinh
xuất hiện, Người sẽ ban cho người tin được sự sống vĩnh cửu để cùng Người hưởng
phúc vinh quang muôn đời.
3. Bài Tin Mừng (Ga 20,1-9)
Các bài trình thuật Tin Mừng trong Tam Nhật Thánh cho thấy các môn đệ đã
chứng kiến việc Đức Giêsu chịu chết và được mai táng. Thi hài được chôn trong
ngôi mộ là vật chứng cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả
Tin Mừng Gioan quy chiếu trong bài Tin Mừng hôm nay, đều bắt đầu từ ngôi mộ này
và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu.
Cho đến trước ngày Phục Sinh, đối với
các môn đệ và những người theo Chúa, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ.
Chính vì thế, bà Maria Mácđala đã hỏi: “Người
ta đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”
(Ga 20,2). Họ chưa hiểu những lời Đức Giêsu đã loan báo, cũng chẳng hiểu những
gì đã được tiên báo trong Kinh Thánh. Nhưng sau đó, niềm tin của các môn đệ đã
khởi đi từ sự kiện Đức Giêsu chết đến tuyên xưng niềm tin Người đã sống lại.
Hành trình đức tin của người môn đệ tiến triển từ từ, và không phải tất cả các
môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
Tin Mừng thuật lại: Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Ở đây tác
giả làm nổi bật chủ đề ánh sáng đã nói đến trong Lời Tựa ở Ga 1,9; nhất là khi
Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, ngược lại với khi Giuđa
bỏ Người để đi vào bóng tối trong Ga 13,30. Trong bài Tin Mừng hôm nay, vì Đức
Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng
sáng như là một dấu
chỉ cho biết ánh sáng Đức Giêsu Phục Sinh đã chiếu sáng. Dầu vậy, đối với bà
Maria Mácđala lúc này vẫn là “lúc
trời còn tối”; tối ở đây là “tối” của đức tin, vì vẫn chưa nhận ra
Đức Giêsu đã sống lại.
Tin Mừng Gioan dùng 4 động từ để diễn
tả hành động “thấy” từ cái nhìn hoàn toàn thể lý bên ngoài đến cái nhìn chiêm
ngưỡng sâu sắc nhất ở bên trong, đó là: βλέπω,θεωρέω, θεάομαι, ὁράω. Ở đây, khi đến mộ, bà Maria
Mácđala “thấy/ βλέπω” (quan sát) ngôi
mộ trống và đối với bà, xác Đức Giêsu đã bị người ta đem đi, nên bà về báo tin
cho Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Điều này khiến các ông hốt
hoảng, và hai ông chạy ra mộ. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước.
Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và
“thấy/ βλέπω” (quan sát) những băng vải.
Phêrô đi vào trong mộ, ông cũng “thấy/ θεωρέω” (thấy để tin) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc.
Nếu ngôi mộ là nơi của sự chết và băng vải tượng trưng cho xiềng xích trói buộc
của tử thần, thì ngôi mộ trống và các băng vải cuộn để riêng là những dấu chỉ
cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ cõi chết và đã chiến thắng tử thần: Người đã
loại bỏ xiềng xích Tử thần và đi vào Phục sinh vĩnh cửu.
Mặc dù Tin Mừng nói ông Phêrô đã
“thấy/ θεωρέω” (thấy để tin), nhưng không
minh nhiên nói ông đã tin hay không. Còn người môn đệ kia đã có được một bước
tiến triển trong hành trình đức tin: đã thấy (εἶδεν// ὁράω) và đã tin (ἐπίστευσεν//
πιστεύω). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay
chỉ người môn đệ Chúa thương mến rời mộ như là người đã tin. Như thế, tin vào
Đức Giêsu Phục Sinh khởi đầu bằng một kinh nghiệm cá vị. Tuy nhiên, kinh nghiệm
cá vị này của các môn đệ sẽ được bổ túc bằng những lần Đấng Phục Sinh hiện ra
sau đó. Các ông đã kiểm chứng sự kiện Đức Giêsu phục sinh bằng các dấu chỉ và
làm chứng bằng niềm tin.
Sự kiện Đức Giêsu phục sinh xảy ra vào “lúc tảng sáng” (Ga 20,1) nhưng
các môn đệ còn đang ở trong tình trạng “trời còn tối”, tối của đức tin. Cảnh
tượng này là những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi nhưng cũng xen lẫn hoài nghi.
Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mọi điều mới được sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối,
cái chết và nỗi đau, sự yếu đuối và hoài nghi đều được ánh sáng vinh quang của
Đấng Phục Sinh chiếu soi. Đó là kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi
vào thời hậu Phục Sinh và cũng là kinh nghiệm của chúng ta hôm nay.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về
Người và nói rằng ai tin vào Người thì sẽ nhờ Danh Người mà được ơn tha tội.” Chúng ta có thể học thuộc nhiều Kinh, hiểu biết sâu sắc về Giáo Lý và
Kinh Thánh, nhưng tất cả những thứ đó đều quy về tình yêu cứu độ được thực hiện
nơi Đức Giêsu Kitô. Chúng ta có ý thức lễ Phục Sinh là đỉnh cao của năm phụng
vụ, đó là dịp để chúng ta xét mình có tin nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa của chúng
ta, có hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu ở đời sau hay không?
2. “Anh em đã được trỗi dậy cùng với
Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới.” Vì đã chịu Phép Rửa Tội, chúng ta được trỗi dậy khỏi quyền lực của
sự dữ và thế gian để tham dự vào đời sống mới trong Đức Kitô phục sinh. Biết
rằng bao lâu còn đang sống trong trần thế, chúng ta có bổn phận xây dựng xã hội
này ngày càng tốt đẹp, nhưng lời mời gọi của thánh Phaolô nhắc nhở rằng chúng
ta đã thuộc về Đức Kitô Phục Sinh đang ở trên trời, nên chúng ta phải canh tân
đời sống để xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trên thiên đàng. Chúng
ta có ý thức được các điều đó để có lối sống xứng hợp hay không?
3. “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng
biết họ để Người ở đâu.”Trong cuộc sống,
nhiều khi chúng ta thiếu đức tin, không thấy sự hiện diện của Chúa, và tâm hồn
của chúng ta giống như một “ngôi mộ trống”. Điều đó làm cho chúng ta chán nản,
buông xuôi, thất vọng,… Chúng ta có biết rằng ngay cả những lúc như thế, chúng
ta cần chạy về với các anh chị em đồng đạo của mình để thông tin, để chia sẻ,
để cùng nhau tìm ra chân lý. Nhờ đó, chúng ta lại tiếp tục hành trình để tìm
kiếm, để thấy những
dấu chỉ mới như “băng vải còn ở đó” hay “khăn che đầu được xếp riêng ra” ngay ở
trong “ngôi mộ trống”, từ đó tin rằng
Đức Giêsu đã sống lại và sự sống vĩnh cửu của người sẽ lấp đầy niềm hy vọng của
chúng ta hay không?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Đức Kitô Phục Sinh đã chiến thắng tội lỗi và sự
chết, để mang lại cho nhân loại sự sống vĩnh cửu. Trong tâm tình chúc tụng và
tạ ơn, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin:
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo tin mừng Phục Sinh cho nhân loại. Xin Chúa
cho mọi thành phần Hội Thánh luôn nhiệt tâm chu toàn sứ mạng cao quý ấy bằng
lời rao giảng, bằng đời sống cầu nguyện và chính gương sáng đức tin của mình.
2. Chúa Giêsu sống lại mở đường cho nhân loại đi vào cõi sống. Xin Chúa cho
mọi dân tộc trên thế giới biết tin nhận Đức Kitô là “khởi nguyên và cùng đích”
của muôn loài, để luôn sống trong tin yêu hy vọng hướng về hạnh phúc đời đời.
3. Đức Kitô phục sinh là niềm hy vọng và an ủi cho những ai tuyệt vọng. Xin
Chúa cho những người gặp thất bại hay đang đau khổ hồn xác được tham dự vào niềm
vui phục sinh hôm nay, để thêm lòng can đảm đón nhận cuộc sống hiện tại.
4. Niềm tin Phục Sinh đã thúc đẩy các tông đồ dấn thân làm chứng cho Đức
Kitô. Xin cho anh chị em tân tòng và mọi người trong cộng đoàn chúng ta được
lãnh nhận dồi dào sức sống của Đấng Phục Sinh, luôn can đảm làm chứng cho Chúa
qua cuộc sống hằng ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa, Con Chúa đã chịu chết và sống lại để cứu độ chúng con. Xin nhậm
lời chúng con cầu nguyện, và cho niềm vui phục sinh hôm nay nơi chúng con đem
lại nhiều hoa trái trong cuộc sống. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét