CHÚA NHẬT 3 PHỤC
SINH – Năm B
Lời
Chúa: Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48
1. Emmaus.
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ
trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi
và hăng hái.
Thực
vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ông bước theo Chúa với tham vọng vật
chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng
lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ
này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa,
nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo
trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất
vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như
hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên
rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta
cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng
mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong
việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần
gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những
kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng.
Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ
chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế
nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa
lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các
ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi
và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để
các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con
đường tiến tới vinh quang.
Trái
tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã
nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi.
Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản
ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng
Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục
sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước
gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là
những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh
thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
2. Đau khổ.
Đang
khi các tông đồ nghe hai môn đệ từ Emmaus trở về, say sưa kể lại sụ kiện gặp gỡ
Đức Kitô phục sinh, thì Ngài bỗng hiện ra và ở giữa họ. Chắc hẳn lúc bấy giờ
các ông đã vô cùng sững sờ và ngạc nhiên đến nỗi tưởng như mình đã gặp phải một
hồn ma nào đó. Khi ấy Chúa Giêsu mới ân cần làm cho họ nhận biết mình. Ngài nói
chuyện với họ, khuyến khích họ sờ vào tay chân Ngài để họ không còn nghi ngờ
chi nữa.
Dù vậy
các ông vẫn còn e dè sợ sệt. Chúa Giêsu lại phải đưa thêm một bằng chứng khác nữa,
đó là Ngài cùng ăn uống với họ. Hồn ma chỉ có thể tạo ra những ảo giác chứ
không thể ăn uống như người thật. Các tông đồ đến lúc đó mới hết ngờ vực. Vả lại
nhìn chung quanh các ông thấy ai cũng tin như thế, các ông mới yên lòng, vì nếu
ảo tưởng thì chỉ có nơi một vài người lẻ tẻ, chứ không thể nào tất cả bằng ấy
người lại cùng có một ảo tưởng.
Họ
nhận ra Ngài như Ngài đã nói: Chính Thầy đây. Và họ tin chắc đó là Chúa Giêsu,
người mà họ đã bước theo suốt ba năm dài, đã trở nên tông đồ, đã sống thân mật
và gần gũi với Ngài. Ngài đã chịu nạn chịu chết và bây giờ đã sống lại.
Giờ
đây, Chúa Giêsu cũng làm lại điều Ngài đã làm cho hai môn đệ tại Emmaus, đó là
mở trí cho họ hiểu Kinh thánh. Bấy lâu nay Ngài đã nhiều lần và bằng nhiều cách
dạy cho họ hiểu những lời tiên tri, thánh vịnh. Cố ý cho họ biết Ngài là Đấng
Messia, sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết. Nhưng nào họ có chịu hiểu cho đâu, lại
còn bực bội tức tối về điều đó nữa.
Chúng
ta cũng thế. Biết bao nhiêu lần chúng ta vẫn quan niệm Giáo Hội như là một cơ
chế quyền lực do Chúa thiết lập. Giáo Hội phải thành công rực rỡ trong mọi lãnh
vực. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đòi hỏi cuộc sống thiêng liêng và những hoạt
động tông đồ của mình phải gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta không
thể nào chấp nhận được chương trình và cách thức hành động của Thiên Chúa.
Giờ
đây Chúa Giêsu mở lòng trí các tông đồ khiến họ phải hiểu qua con đường nào mới
tiến đến được vinh quang Nước Trời. Thực tế, con đường của Chúa không đi đôi với
vẻ hào nhoáng của những thành công sáng chói ở đời, nhưng đó là con đường nghịch
lý mà Chúa Giêsu đã dạy trong tám mối phúc thật. Có thể thỉnh thoảng Chúa cũng
ban cho chúng ta một vài thành quả nào đó, tuy nhiên những thành quả ấy phải được
sử dụng để làm vinh danh Chúa và mưu cầu lợi ích cho anh em, chứ không phải là
để kiếm chác những lợi lộc tư riêng theo kiểu vinh thân phì gia.
Cái
định luật bất di bất dịch mà những người tin Chúa phải tuân theo, đó là hãy chấp
nhận gian khổ, hãy vác lấy thập giá trên vai nếu như chúng ta muốn trở thành
môn đệ Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với
Ngài.
3. Không phải mọi sự
chỉ toàn là ánh sáng.
(Suy niệm của Jean-Yves
Garneau)
Những nỗi nghi ngờ của chúng ta.
Nhiều
người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ
lùng Ngài làm. Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người
đó vẫn không tin nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ.
Trái lại, nhiều người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều
lần sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến cố
như thế xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu,
nhưng đúng hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng:
“Họ tưởng trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho
các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà vẫn
chưa đủ, Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi
biết được những điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những
thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít
ra là nghi ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi
có lầm đường chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế.
Có lẽ hiện giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả
như ít ra, vào những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt
như những dấu chỉ mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ
vào Ngài, nghe Ngài! Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu chỉ
ấy không được ban cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy Chúa
Giêsu bằng mắt xác thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính tai
chúng ta nghe Ngài, ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự Phục
Sinh, đó không phải là cơ may của chúng ta.
Những điểm qui chiếu.
Như
thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không thể
bám víu vào cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa
Giêsu đã nói với Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng
Ngài nói với chúng ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ
đã sống những gì. Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời
họ. Thầy đã làm cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài
cũng nói với chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn
xem Giáo Hội. Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả những
người nam, người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi của họ.
Hãy nói chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ trả lẽ về
niềm hy vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ những tín hữu
chân chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của họ sẽ củng cố đức
tin của các con”.
Lời khuyên khác để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh
Gioan cho chúng ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta
có thể biết được chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài
không?). Đó là tuân giữ các giới răn của Ngài”.
Chính
nhờ sống như Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo.
Chính nhờ thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi của
Tin Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa Giêsu dạy.
Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp được Chúa
Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để tin nơi
Ngài!
Những nghi nan của chúng ta vẫn còn.
Khi
bước theo con đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có
sống trong ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là
không. Sự nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn
chúng ta hoàn toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể xảy
ra cho chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giới bên
kia. Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở đây
ta phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin!
Chắc chắn đó là một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm
mỗi ngày. Người nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao thức,
một đức tin có thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Và hễ
ai tìm kiếm, thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho. Ngài
là Cha và Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
4. Sự thử thách cho
trọng tâm đức tin.
(Trích trong ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’)
Để
tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của
nó đi từ sự khảo sát dĩ vãng theo con mắt khoa học, đến khái niệm về một truyện
tích thần kỳ –ở đây chúng ta không muốn nói đến những “câu chuyện” thuật những
lần Chúa hiện ra, mà chỉ bàn đến những đoạn tường thuật trong Phúc Âm. Ký sự của
thánh Luca về lần Chúa hiện ra trong phòng Tiệc ly, nhấn mạnh sự việc các môn đệ
nhận ra một người đang sống mà các ông tưởng là mãi mãi khuất bóng. Các ông tưởng
nghĩ Chúa nằm yên trong mộ. Vậy mà Chúa cho các ông thấy Người đang sống. Chúa
khẳng định: Chính là Ta đây. Sự kiện này quá vĩ đại, nên các ông chưa thể trong
phút chốc chấp nhận thực tại trước mắt. Vì thế, Chúa đưa ra những bằng chứng về
nhân dạng Người: Chúa muốn cho các ông chạm tay vào người Chúa, cho các ông
nhìn những vết sẹo ở tay chân Người. Chúa lại dùng bữa trước mặt các ông.
Đoạn
Phúc Âm có sức kích thích mạnh, cho thấy các Tông đồ đã sống sự kiện Phục Sinh,
coi đó là một biến cố thật sự xảy đến cho Chúa, chứ không như một kinh nghiệm
tôn giáo đơn giản. Nếu sự sống lại vì có tính cách phi thường cho nên phần nào ở
ngoài vòng kiểm soát của khoa sử học với khả năng hạn hẹp của loài người- thì ở
đây ta thấy sự Phục Sinh như là một sự kiện gây nền một niềm xác tín vững mạnh
trong tập thể một nhóm người. Các ông xem sự Chúa sống lại như một biến cố cũng
có tính cách cụ thể như những biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố
Thương Khó. Mặc dù vượt quá những khuôn khổ nhân loại của những sự kiện dĩ vãng
được khoa sử học, khoa học khảo sát, sự Phục Sinh hiện diện như là một sự kiện
được kiểm soát, dựa trên lời chứng của các Tông đồ. Người ta có thể trích dẫn
ra đây một câu trong sách Công Vụ. Sau cuộc Thương Khó, Người cho họ thấy mình
vẫn sống, với nhiều bằng chứng rành rành (1,3).
Để
suy niệm, chúng ta giữ lại 2 điểm
1) Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ
kinh ngạc. Chúng ta thích thú mà nhận
thấy rằng ngay cả đối với các môn đệ, tin vào sự sống lại không phải là việc dễ.
Tâm trí con người hiện đại rất khó chấp nhận sự sống lại của một kẻ chết. Chỉ cần
thêm một chút tưởng tượng thôi, thì sự Phục Sinh chỉ là một huyền thoại đối với
những người biết suy xét. Điều khó khăn ấy gây trở ngại cho niềm tin vào sự Phục
Sinh của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta đứng trước sự thử thách về đức tin, vì
chính đời sống Kitô hữu xây móng trên niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa. ta
hãy gạt hết những gì là tưởng tượng khỏi tâm trí ta. Một cách rất đơn sơ, cùng
với các Tông đồ, chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu từng bị đóng
đinh, giờ đây đang sống. Nếp sống của Chúa đã thay đổi, nhưng đích thật Người
–một Đấng vừa có thể xác, vừa có thiên tính- đã bằng sự Phục Sinh của Người,
đóng dấu ấn lên công cuộc cứu rỗi của Người.
2) Nhân danh Người, phải được rao giảng việc hối cải
để được tha thứ tội lỗi. Trong bối cảnh
tổng quát của nền tư tưởng Kitô giáo, câu đó rất phong phú.
Sau
đây là một quan điểm có một giá trị của nó. Tội lỗi làm cho con người mất quân
bình, sinh ra lầm đường lạc lối, cho nên tội lỗi xô đấy con người đến chỗ hoặc
làm Thiên thần hoặc làm giống thú. Tại sao? Vì lẽ con người là cơ thể và tâm
trí hợp nhất, lẽ thứ hai là tội lỗi đem hỗn loạn vào cơ thể và tâm trí. Thế
quân bình hoàn chỉnh giữa cơ thể và tâm trí được thực hiện trong Đức Kitô Phục
Sinh. Chúa vừa có tính chất siêu nhân loại thần kỳ, vừa mặc một xác phàm cụ thể.
Trong Chúa không có tội lỗi mà chỉ có nhân vị thành toàn và bản thể chính trực.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trở nên một thứ men phi thường cho sự thành
toàn con người cả hồn lẫn xác. Đó là một sức mạnh thiêng liêng, nó loại bỏ tội
lỗi và dẫn đưa con người tới sự thành toàn một số mệnh chung cho xác hồn.
5. Niềm tin thắng
vượt sợ hãi
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia
Sẻ’)
Khi
thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống
như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể
làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của
trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác
nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng
vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu
phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo
con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với vẻ do dự:
-
Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.
Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn
con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
-
Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?
Cậu trả lời:
-
con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.
Người cha bảo con
-
hãy cầm đèn đi ra tới đó.
Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo:
-
từ đó con nhìn tới đâu nữa?
-
Con nhìn tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng
ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
-
Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa
anh chị em,
Chính
các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả
khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng
là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang
lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa
Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các
ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó,
đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên
mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây,
đừng sợ!” (Mc 6,47-50)
Chúng
ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện
ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của
Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài
muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa
đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở
trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi
chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo
chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy,
vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao
lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho
sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại
chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi.
Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.
Tuy
nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới
an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt
các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa
Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của
Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác
bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh
em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn
ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật
chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước
mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân
tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những
người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật
như Kinh Thánh đã báo trước.
Chúa
Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc
vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm
tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình,
nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm
vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ
các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa,
cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử
thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn
khởi vui mừng.
Đối
với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống
và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói
khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày
xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày
cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững
tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó,
chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô
giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại.
Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả
của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu
thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao
sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm
ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm
tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin
rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng
khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người
Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm
vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục
Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước
bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh
trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời
Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
6. Chúa Giêsu là
trung tâm lịch sử – Noel Quesson.
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu
Kinh Thánh”
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của
Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã
mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những
chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên
vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của
mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.
Toàn bộ lịch
sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người
trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn
người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái
chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ Người phải chịu.
Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và
Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người
đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại,
ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho
tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa
chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ
trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường
thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước nói về Người.
Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.
Những
cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc
nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục
xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi
nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải
thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và mỗi người chúng ta là những chứng nhân.
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là
đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng
con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.
7. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
NHỮNG BÓNG
MA TƯỞNG TƯỢNG
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một
luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc
bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một
hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản,
dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy
như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi
trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh
An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa,
ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi
vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài
đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn
lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về
con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài
trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh
vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong
sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các
môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các
ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người
làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an... Có lần Đức Giêsu
cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà
vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe
sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm
nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết
đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức
Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với
họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và
tin tưởng.
Trong
đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến
đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng
như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử
dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại
ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã
dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới
cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng
như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện
diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú
hơn.
Khi
đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng
cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng
cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải
nghĩa Thánh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các
tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người
trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là
hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự
thân mật với Chúa.
Hãy
củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng
ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất
là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ
Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ
nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ
tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy
Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con
trong tay Chúa.
8. Suy Niệm của
ĐGM. Vũ Duy Thống.
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Một
trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi
làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng
đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích
chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa
với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa
nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp
là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ
đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn
muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần
ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:
1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH
CHIA SẺ
Bối
cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của
các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống
công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới.
Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị
chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là
ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, thất vọng, cô đơn, họ như những môn sinh
“chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà
đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng
Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ,
trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi
rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi
hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng
giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.
Vâng,
Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa
cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ.
Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên
Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng
hành chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn
có đó trong sức mạnh đồng hành.
2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN
YÊU
Tâm
trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau
lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa
gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng.
Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa
giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt
họ vào một đà sống mới.
Lời
Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào
cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời
Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo
chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phái. Sẽ không có mặt của Đấng Phục
sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là
coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện
diện thường xuyên ở bất cứ đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân
thành trong đời sống.
Hai
môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại
Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng
cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống
lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những
ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân
cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.
3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA
CHO ĐỜI
Nếu
có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phải là lúc
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật
ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói
và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đấng Phục sinh mà không một định luật
vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần
phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người
không giống như kẻ hồi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu
“ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus
đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng
tin vốn đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng
Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã
làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi
hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm
đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.
Nếu
có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới
mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và
nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời
gọi để trở nên những tấm bánh, những mẩu cá, những tảng mật ong sống động biết
chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi
mình sinh sống.
Ba
cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm
tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt,
nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện
vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình
không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những
người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện
thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chủ động khi ta biết tích cực
đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ
lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.
Qua
thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy
Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới
phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.
9. Anh em là chứng
nhân.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sợ
ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con. Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ
ma. Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ, nhưng họ kinh hoàng tưởng
Thầy là ma. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ, họ cũng hoảng hốt
tưởng là thấy ma.
Đấng
sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài để thấy Ngài là người bằng xương bằng
thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng
ma.
Khi
các môn đệ yếu đức tin, họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức
tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm
khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa, vì Chúa đến gặp ta một cách quá
bất ngờ, giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược, hay lúc căn nhà
lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau. Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài. Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.
Đức
Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ. Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù
bị thảm bại. Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời. Chiến thắng cuối cùng thuộc
về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi
thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế
giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết. Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát,
bạo động. Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người. Những vụ phá
thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ. Những vụ tự tử chỉ vì những lý do không
đâu. Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt, và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết. Họ
phải là nguồn sống dồi dào, sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô
hữu là chứng nhân của niềm vui. Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường
học. Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc. Bao người nghèo khổ sống
trong nỗi muộn phiền. Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa, nếu chúng ta
đã ra khỏi nỗi âu lo về mình, chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục
Sinh, bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện
Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ
thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Theo ý bạn, người
Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người
nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi...)?
·
Làm chứng cho
Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều
cần?
Cầu Nguyện
Giữa
một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc
sống đơn sơ.
Giữa
một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa
một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng
người.
Giữa
một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy
Chúa Giêsu,
Xin
cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
Xin
cho con nghe được lời mời của Chúa: "Các con hãy cho họ ăn đi."
Ước
gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả
những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
10. Phiền muộn, bối
rối, & bình an.
(Suy niệm của Lm Nguyễn
Trung Tây)
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn,
phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co
cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Ngoài
thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi
cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối
thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt
đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến
cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải
qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng
đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi
nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá và sỏi dẫn
lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng
búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn
nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đức Giêsu.
Nhưng
rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu
chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một
xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt
hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ.
Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá
nữa. Mà nếu xác Đức Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên
cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện
tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ
những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có
người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen
tối (Ga 20,2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ
La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm
xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem.
Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giêsu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là
những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra
khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người
môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại
càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế,
khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ của Đức
Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài
đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên,
ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn
phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích
xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh
cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai người môn
đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ,
tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người
môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức
Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những
sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ
của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đã trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người
ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã
phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường
dài mười một cây số.
Trong
căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng
hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn
Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại
thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và
sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút
hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng
hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân
vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ,
và hoang mang.
Không
trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng
kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có
người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho
các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân
thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục
Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Trong
ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một
điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với
bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người.
Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai
lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân
loại ngày hôm nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng
hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn
hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày
hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ
thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con
đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày
hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn
xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân
loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu
thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục
lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày
hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhiều hơn, nhưng hạnh phúc và bình
an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ
thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn
rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy.
Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố
New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người
trên thế giới đã biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là
vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình
an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng
mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi
không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện
diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng,
phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm
thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn,
chúng ta cùng hướng về căn phòng đóng kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện
diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài:
Lời Nguyện
Lạy
Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để
con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong
căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những
sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời
chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền,
nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
11. Chúa hiện ra với
các tông đồ - R. Gutzwiller
Trình thuật này gợi lên cho
ta 3 ý tưởng:
1) Sự kiện Phục sinh
Chúa
bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào
chấp nhận nổi sự kiện, mặc dù họ đã được sứ điệp của các bà, của Simon báo trước,
và rồi của hai môn đệ đi thành Emmau nữa. Họ không thể hiểu nổi sự kiện xảy ra
đến nỗi Chúa Giêsu phải chính thức nhấn mạnh: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính
là Ta đó: Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt xương như anh em thấy Ta đây’.
Và hình như họ còn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, nên
Ngài hỏi ‘Ở đây các anh em có gì ăn không?’ Và Ngài đã ăn trước mắt họ. Khi ấy
họ không nghi ngờ nữa. Ngài đó, Ngài đứng đó với xác thịt rành rành. Sự Ngài Phục
sinh không chỉ là sự sống lại thiêng liêng mà thôi, nhưng còn là sự sống lại thể
xác nữa.
Hơn
thế nữa, những lời ‘Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài’ cũng như Ngài nói: ‘Hãy
coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó’ chứng tỏ rõ ràng rằng sau khi sống lại, những
dấu của cuộc khổ nạn vẫn còn y nguyên. Vậy Đấng chịu khổ nạn đã sống lại với
xác thân của Ngài. Khải huyền thơ nói Chúa biến hình dưới dạng một ‘con chiên bị
đem đi sát tế’. Những dấu tích cho thấy rằng thân thể Ngài là thân thể của một
tế vật và sự Phục sinh là hoàn tất hy tế đó. Đấy không phải là một biến cố lịch
sử đơn giản, xảy ra trong một vài khoảnh khắc, nhưng là một biến cố lâu dài, bền
bỉ, để lại kết quả lâu dài qua dòng thời gian.
2) Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức
Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh
Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ
Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên
tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác
hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được
phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách
thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa
sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu
độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy
sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy
tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel
cũng như cho cả nhân loại.
3) Loan báo Phục sinh
‘Các
anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý
tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải
là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết
và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch
sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là
những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập
thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là
chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời
nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con
người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em,
điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm
chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài
bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt
của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách
công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhòa đi hết.
Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải
các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy
trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là
những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
12. Bình an cho các
con – Lm. Tạ Duy Tuyền.
Cuộc
đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất
an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị
trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta "ăn không
ngon, ngủ không yên". Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản
thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.
Tâm
trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ.
Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc
đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến
đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà,
vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người
phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể
về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ
có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt
đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.
Chúa
đã quở trách các ông "sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!".
Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. "Sao
lòng anh em còn ngờ vực?". Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến
những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo "Sau ba ngày
Thầy sẽ sống lại". Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ
hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ
nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn
người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm
trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.
Nỗi
sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho
tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan,
khốn khó của giòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết
có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc
cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin
nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để
sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc
đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền
vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời
không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó
mà có bình an tâm hồn.
Thế
nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng
sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì
không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn
lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc,
tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới
không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo
tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với
nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn
nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời
xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc
trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời
giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm
thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt
hoảng và cầu cứu cha:
-
Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
-
Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
-
Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay
ra phía trước quờ quạng.
-
Cha đây, Cha đây!
Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy
cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng
nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn,
nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vâng,
Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến
với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những
thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn
tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời
có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy
trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin
Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là
khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
13. Loan báo.
Kinh
nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta
thường chạy đi nói cho người khác được biết, để cùng chia sẻ niềm vui ấy với
chúng ta. Chẳng hạn như khi nhận được tin mình vừa mới thi đỗ, thế là lập tức,
chúng ta vội chạy về nhà để loan báo cho những người thân yêu cùng biết. Cũng vậy,
trong phạm vi đức tin, việc Chúa sống lại là một tin mừng. Một khi đã đón nhận
tin mừng Phục sinh thì chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo tin mừng ấy cho
những người chung quanh.
Trước
hết, đây chính là ý muốn của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Ý muốn này được
Ngài nói lên qua những lần hiện ra.
Thực
vậy, thiên thần đã nói với những người phụ nữ đi viếng mồ vào buổi sáng ngày thứ
nhất trong tuần rằng: Các bà đừng sợ chi cả, ta đã hiểu. Các bà tìm Chúa Giêsu
chịu đóng đinh. Nhưng Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại như lời Ngài đã
phán. Hãy đến mà xem chỗ Ngài nằm. Vậy hãy về mau báo cho các môn đệ Ngài biết.
Ngài đã sống lại, Ngài sẽ đến xứ Galilêa trước các ông. Nơi đây các ông sẽ xem
thấy Ngài.
Rồi
hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài cũng bảo: Có lời Kinh Thánh chép rằng
Đấng Messia sẽ phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại. Phải
nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám
hối để được ơn tha tội. Chính các con sẽ làm chứng về những điều này.
Và
sau cùng, trước khi về trời, Ngài cũng đã long trọng truyền cho các môn đệ: Các
con hãy đi giảng dạy muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho
các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Cũng
trong Phúc âm, chúng ta thấy: những người đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng
Phục sinh, đã mau mắn thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là loan báo Tin Mừng ấy
cho người khác.
Thực
vậy, những người phụ nữ đã trở về loan báo cho các môn đệ hay: Chúa đã sống lại.
Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh, lập
tức các ông đã chổi dậy, trở về Giêrusalem, và loan báo cho các môn đệ khác được
hay: Chúa đã sống lại.
Và
sau cùng, khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã
lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho mọi dân mọi nước. Và các ông sẵn
sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng ấy. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta đã làm được những gì để loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người
chung quanh. Chúng ta đã làm được những gì để bản thân chúng ta trở thành chứng
nhân cho tin mừng tuyệt vời ấy.
Hãy
cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, biết dùng lời nói và việc làm, nhất là đời sống
đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để loan báo tin mừng Phục sinh và
trở nên những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
14. Làm chứng.
Việc
Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng
đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử
đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại
ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống rỗng,
lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.
Nếu muốn
biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc kỹ đoạn
28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn
20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã chết trên
thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và trước cửa mộ
được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất trong tuần,
tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.
Quả
thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi
đến sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết,
người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong đó, ai
cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như
thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt và sợ
hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã
nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay thân xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu
chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.
Trong
khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín,
bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh vấn đề Chúa chết và
hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng sớm
Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình an
cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hãi, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này
không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà
không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám
chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn
nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài
đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:
Trước
hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài
còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ
không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ
để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các
ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các
ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn
ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài
không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng chứng
khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo
trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ
sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi Ngài.
Sau khi đã đưa ra tất cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại
thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho mọi người.
Như
vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về
mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc
chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc
làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành
công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để đạt
ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã thực
thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.
Từ
đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng
và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không
tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu,
và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người khác
niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.
Nói
rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần
đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin
Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh thần đức
tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua
nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi, giải
trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đạo bằng đời sống tốt đẹp
của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm
gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những
lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần thuyết phục
những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng
chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người
hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho đạo
không?
15. Đau khổ.
Chớ
thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô
đã đi con đường đau khổ để tiến tới vinh quang, đã đi con đường thập giá để tiến
tới Phục sinh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta cũng không có một con đường nào
khác ngoài con đường đau khổ và thập giá, nếu như chúng ta muốn được cứu độ.
Đúng
thế, đã là người thì ai cũng phải đau khổ và thập giá không bao giờ thiếu vắng
trong cuộc đời chúng ta. Người xưa đã nói:
-
Thoạt sinh ra
thì đà khóc chóe,
Đời
có vui sao chẳng cười khì.
Giáo
lý nhà Phật thì diễn tả thân phận con người như một cánh bèo trôi dạt trên bể
khổ.
Vậy
thì đâu là những nguyên nhân gây nên đau khổ?
Trước
hết,
đau khổ có thể là bởi thiên nhiên. Chẳng hạn như lụt lội, bão táp, hạn
hán, mất mùa… Bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời buổi nào cũng có. Khoa học và kỹ thuật
chỉ làm giảm đi phần nào, chứ không thể chặn đứng được tất cả.
Tiếp
đến đau
khổ có thể do lòng gian tham độc ác của con người. Đau khổ có thể do bởi
người khác, chẳng hạn như bỏ vạ cáo gian, ăn trộm ăn cắp mà gây nên. Đau khổ
còn có thể do bởi chính bản thân mình, chẳng hạn vì đam mê cờ bạc, rượu chè
chơi bời mà sinh ra nghèo túng bệnh tật, vì bất cẩn trong lời nói và trong việc
làm mà sinh ra tai nạn.
Và
sau cùng đau khổ cũng có thể do chính Thiên Chúa. Sở dĩ như vậy vì Ngài
muốn thử thách để con người chúng ta được trưởng thành và đem lại những lợi ích
siêu nhiên, như tục ngữ cũng đã bảo:
-
Lửa thử vàng,
gian nan thử đức.
Hay
như một câu danh ngôn đã bảo:
-
Khi yêu thương
ai chúng ta thường trao tặng họ những bông hồng, còn Thiên Chúa khi yêu thương
ai, Ngài thường gửi đến cho họ những đau khổ và thử thách.
Đúng
theo kiểu:
Yêu cho roi
cho vọt,
Ghét cho ngọt
cho bùi.
Hẳn
rằng trong chúng ta chẳng ai muốn cho mình bị đau khổ, chính Chúa Giêsu trong
vườn cây dầu cũng đã cầu nguyện:
-
Lạy Cha xin cất
chén đắng này cho con, nhưng không theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.
Tuy
nhiên nhiều khi chúng ta đã đề phòng cẩn thận mà vẫn không tránh khỏi tai ương.
Trong những trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn một cách, đó là cúi đầu chấp
nhận. Nhưng làm thế nào để dễ dàng chấp nhận, để tìm được niềm an ủi trong những
giờ phút đen tối ấy?
Trước
hết hãy nhớ rằng không phải chỉ có một mình chúng ta bị đau khổ. Đang lúc chúng
ta bị thử thách thì cũng có biết bao nhiêu người bị đau khổ.
Hãy
vào một bệnh viện, giữa những tiếng rên la, chúng ta cảm thấy mình còn được hạnh
phúc và may mắn hơn rất nhiều.
Nhất
là hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy chính Chúa Giêsu đã đau khổ trước
chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Khi
phải đối mặt với những đau khổ, nếu chúng ta hậm hực tức tối, thì đau khổ vẫn
phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích chi cả, nó còn là nguyên nhân gây nên những
tội lỗi khác nữa.
Trái
lại, nếu chúng ta can đảm chấp nhận và nhất là chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa,
thì những đau khổ ấy sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Biết đâu, nhờ những đau
khổ mà chúng ta sẽ ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Thiên Chúa.
Đau
khổ là một lưỡi kéo của người thợ, cắt tỉa những cành cây để nhờ đó chúng sẽ được
sai trái hơn. Đau khổ là như một nhát búa của người nghệ sĩ đập xuống cuộc đời
chúng ta để biến nó trở nên một tác phẩm nghệ thuật.
Đau
khổ là như một lưỡi cày, xới tung tâm hồn chúng ta để nó trở nên màu mỡ và dễ
dàng hấp thụ ơn sủng của Thiên Chúa.
Đức
Kitô đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh, thì chúng ta cũng vậy, muốn
tiến tới vinh quang, chúng ta cũng phải tôi luyện trong đau khổ.
16. Làm chứng.
Chúa
Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh,
không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ
ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài
không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của
Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với
người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt
thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.Cụ thể như câu truyện
kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ.
Diễn tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những
hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa
trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục sinh cho mọi
người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng
ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa
Phục sinh thế nào? Làm chứng là gì?
Làm
chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng
là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện
có thật mà chính mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng
là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng
nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.Hiểu
như vậy, các tông đồ là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của
Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất
là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương
và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho
Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt
đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của
nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục
sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều
đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống
lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa.
Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu
độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.Sau khi Chúa về trời,
và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những
người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các tông đồ đã trở nên
những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao
giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần
gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng
đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.Bằng lời
nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi
khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”.
Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí
vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy,
đã nghe”.Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc
làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù
ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông
đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng
nhân cho Chúa Giêsu.Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là
một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói:
“Mỗi người
giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là
phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa.
Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của
chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay
quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người
tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái
Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công
giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người
Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa
không?
17. Vâng lời.
Các
bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng
ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao giảng
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn
áp.Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tông đồ rao
giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các
ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an.
Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài
không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của
Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài
và bảo: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy,
thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem”. Bấy giờ Phêrô và
các tông đồ thưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Bực tức,
họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa
Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng
các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa
Giêsu.
Ôi!
Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực
cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các
tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
người ta”. Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng
các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa
Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.
Bóng
tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng
Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những
bước chân rao giảng của các ngài. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người
ta”. Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn
sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, được
sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người ta”. Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến
cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong công việc phụng thờ
Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người
vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng
đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn
nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.
Sang
bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là
con người xây nhà mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế
quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi
bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của nhân
loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với
Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan,
sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không
thể chống lại chương trình của Chúa. “Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho người
ấy”. Phần Thiên Chúa, Ngài luôn được chúc tụng, được danh dự, vinh quang và quyền
năng đến muôn đời.
Bài
Phúc Am đem lại cho chúng ta một hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền
năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta
cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chết của Chúa
Giêsu từ lúc nhập thể làm người đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục
sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một
việc tầm thường của người chài lưới, nhưng vì làm theo lời chỉ dạy của Chúa,
các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa, hành động đó còn có một ý nghĩa
tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc
của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của
Chúa.
Sau
cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc Âm cho chúng ta một bài học quan trọng
là nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của
mình mà làm nên, nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy mẻ cá lạ
lùng, thánh Gioan hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác biết
rằng: “Chính Chúa đó!”. Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và luôn
truyền ban sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những người
có đức tin, những người môn đệ của Chúa.
Vậy,
để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi.
Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng lời Chúa hay tôi vâng lời người đời?
Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đức
tin của tôi mọi ngày trong đời sống, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau
tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
18. Tình yêu.
Có một
người đàn ông rất gắn bó với cha mình, vốn là một người lao công trong suốt cả
cuộc đời. Khi người cha qua đời, người con rất đau khổ. Trong lúc anh đứng yên
nhìn vào cỗ quan tài mà người cha được đặt nằm tại đó, đôi bàn tay của cha anh
làm cho đặc biệt xúc động. Ngay cả những điều thật nhỏ bé cũng có thể bộc lộ được
nét chính yếu nơi cuộc đời của một con người. Sau này, anh nói:
“Tôi sẽ không bao giờ quên được đôi bàn tay già nua
giãi dầu mưa nắng tuyệt vời đó. Chúng nói lên câu chuyện cuộc đời của một người
nông dân, bằng loại ngôn ngữ hùng biện của những nếp nhăn, những mạch máu, những
vết sẹo cũ và mới. Đôi bàn tay của cha tôi luôn luôn mang một số vết trầy xước
hoặc vết cắt mới, giống như một loại đồ trang trí, do ông vừa mới vác một đống
dây thép phế liệu, một ống sắt han rỉ, một bộ rễ cây cồng kềnh. Đến khi chết,
đôi bàn tay của cha tôi vẫn không làm ai thất vọng, thậm chí ngay cả đối với những
chi tiết nhỏ bé và có ích như vậy.
“Không phải chỉ những người con trai mới nhận biết tất
cả mọi sự từ cha của họ. Nhưng trong trí nhớ của tôi, tôi đã từng nhìn thấy đôi
bàn tay đó cung cấp chứng cứ về những nghĩa vụ mà cha tôi gánh vác, những giọt
mồ hôi mà ông đổ ra, những việc làm đầy vinh dự mà ông đã thực hiện. Khi nhìn
vào đôi bàn tay đó, bạn có thể đọc được một phần nào về tấm lòng của cụ già
này”.
Đức
Giêsu đã nói với các tông đồ “Hãy nhìn vào tay chân của Thầy… Cứ sờ tay vào Thầy
và nhìn đi”. Rồi Người nói với Tôma “Hãy nhìn xem những vết thương ở hai bàn
tay và cạnh sườn của Thầy. Đừng cứng lòng nữa, và hãy tin đi”.
Người
ta có thể mong ước được nhìn thấy thân thể của Đức Giêsu sống lại trong sự toàn
vẹn và không có một vết nhơ nào. Tuy nhiên, không những thân xác của Người vẫn
còn dấu vết, mà chính nhờ những dấu vết đó, đã giúp cho các môn đệ nhận ra Người.
Những dấu vết đó chính là những vết thương của Người cho các tông đồ. Tại sao lại
là những vết thương của Người? Trước hết, những vết thương đó chứng tỏ rằng Đức
Giêsu sống lại cũng chính là Đấng đã chịu đóng đinh. Thứ hai, những vết thương
đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Trong suốt cuộc sống của mình, những ai
chăm sóc người khác, thì hay bị nhiều vết thương. Có lẽ đó không phải là những
vết thương lớn, mà chỉ là một loạt những vết thương nhỏ – những vết trầy xước,
vết nhăn, và vết sưng. Tuy nhiên, đó chỉ là những vết thương nhìn thấy được. Thế
còn vô số những vết thương vô hình: những nếp nhăn để lại trong tâm trí và tâm
hồn, do nỗi đau khổ, lo lắng và băn khoăn khắc khoải thì sao? Rồi còn những vết
thương xuyên thấu, ảnh hưởng đến phần nhạy cảm nhất nơi con người chúng ta –
trái tim – những vết thương lòng chẳng hạn như những nỗi thất vọng, vô ơn, phản
bội. Nỗi đau tình cảm đánh vào tận tâm can bạn, và có thể còn khó giải quyết
hơn, so với những vết thương về mặt thể lý. Nhưng những vết thương này không có
gì khiến cho chúng ta phải xấu hổ cả. Chúng là bằng chứng về tình yêu của chúng
ta. Liệu sẽ có người nào nhìn thấy những vết thương này, và tin tưởng vào tình
yêu của chúng ta đối với họ không? Thậm chí nếu không ai nhìn thấy, thì Thiên
Chúa nhìn thấy, và Người tự hào về chúng ta, bởi vì Người nhận thấy rằng chúng
ta nên giống như Con của Người. Chúng ta không được chỉ nhìn vào thành tích của
một người, mà còn phải nhìn vào những vết thương và vết sẹo trong tâm hồn của họ
nữa.
Đức
Giêsu không hề che giấu những vết thương của Người, bởi vì đó là bằng chứng về
tình yêu của Người. Đó là những vết thương mà Chúa Chiên Lành đã chịu đựng,
trong khi bảo vệ đàn chiên khỏi chó sói. Người mời gọi các tông đồ sờ tay vào
những vết thương đó. Chính khi đụng chạm vào và được đụng chạm vào, mà họ được
chữa lành khỏi bệnh cứng lòng tin của họ. Những vết thương của Người ban cho
chúng ta niềm hy vọng trong những vết thương của chúng ta.
Đức
Giêsu đã không trở nên cay đắng do những vết thương của Người. Chúng ta cũng
nên giống như vậy. Sau khi đã mang lại bình an và chữa lành cho các tông đồ, Đức
Giêsu giao phó cho họ sứ vụ ra đi và đem tin vui đến cho những người khác. Đức
Giêsu mong muốn chúng ta trở nên những chứng nhân cho sự sống lại của Người. Một
con người buồn bã, cay đắng là một chứng nhân nghèo nàn.
19. Tái sinh.
Có một tài xế xe lửa, mỗi ngày đều lái xe lửa đi tới
đi lui trên cùng một đường ray. Ở cách đường tàu một quãng ngắn, có một ngôi
nhà tranh nhỏ bé xinh xắn. Những bức tường màu trắng của ngôi nhà tranh sáng bừng
lên dưới ánh sáng mặt trời. Phía trước ngôi nhà tranh, có trồng những cây hoa hồng
đẹp tuyệt vời, mà anh chưa bao giờ nhìn thấy. Ngôi nhà tranh này mang một nét
gì đó, khiến cho người ta cứ tưởng tượng là chỉ tồn tại trong bức tranh của những
tấm bưu thiếp mà thôi. Chẳng bao lâu, người tài xế đó cảm thấy yêu mến ngôi nhà
tranh này.
Vào một buổi chiều, khi chạy ngang qua đó, anh nhìn
thấy một cô bé gái đang chơi phía trước sân cỏ. Khi xe lửa chạy qua, cô bé vẫy
tay với anh. Người tài xế đó bóp còi đáp lại. Chiều hôm sau, cũng xảy ra giống
như vậy. Từ đó, bắt đầu có một tình bạn trong sáng và đẹp đẽ giữa anh và cô bé.
Cứ mỗi buổi chiều, cô bé đều vẫy tay với anh, rồi anh lại bóp còi đáp trả. Đôi
khi, còn có mẹ của cô bé cùng đi, và cả hai người cùng vẫy tay chào anh. Điều
này khiến cho anh rất vui, và cũng làm cho cuộc hành trình buồn tẻ của anh dường
như được rút ngắn lại.
Nhiều năm trôi qua, cô bé lớn lên. Hiện nay chỉ thỉnh
thoảng, cô mới có mặt ở đó để vẫy tay với anh. Tuy nhiên, mối quan hệ của họ
càng ngày càng thâm sâu thêm theo năm tháng vẫn còn nguyên vẹn, không hề bị sứt
mẻ. Thế rồi người đàn ông đó về hưu, và đến sống tại một nơi thật xa. Nhưng ông
không hề xua đuổi ra khỏi tâm trí mình hình ảnh của ngôi nhà tranh và hai người
bạn của ông. Vì thế, một ngày kia, ông quyết định đến thăm viếng họ.
Khi đến đó, mọi sự đều rất khác biệt, so với những gì
mà ông tưởng tượng. Nhưng bức tường của ngôi nhà tranh hầu như không có màu trắng
như ông nghĩ. Những cây hoa hồng trông không đẹp rực rỡ như ông tưởng. Nhưng
khi ông gặp người phụ nữ và cô con gái của bà, thì một nỗi thất vọng thấm thía
nhất đến với ông.
Khi ông tự giới thiệu mình, thì họ cư xử rất lịch sự
với ông. Họ mời ông đi vào một phòng khách tối tăm, để nói chuyện và uống trà.
Nhưng ông cảm thấy không muốn ở đó. Vì thế, ông muốn ra về ngay khi ông có thể
làm được điều đó một cách lịch sự. Ông cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng. Thế giới
giấc mơ của ông đã bị tan rã. Tình bạn vốn đem lại rất nhiều ý nghĩa cho cuộc đời
của ông đã bị phá hủy.
Chúng ta cảm thấy tiếc cho người tài xế xe lửa đó.
Tuy nhiên, đó cũng là do lỗi của ông. Ông đã sống trong thế giới của giấc mơ.
Ông theo đuổi một ảo tưởng.
Nhiều
người theo đuổi ảo tưởng về một Đấng mêsia vinh quang, không thể đau khổ được.
Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh, thì ảo tưởng đó bị phơi ra, và thế giới của họ bị
sụp đổ. Họ phản ứng bằng cách tự cách ly mình phía sau những cánh cửa đóng kín.
Chỉ
đến khi Đức Giêsu hiện ra với họ, và tâm trí của họ đến với một chân lý mới,
thì giấc mơ của họ mới được tái sinh. Chân lý mới này là gì vậy? Chính thông
qua nỗi đau và cái chết của Người, mà Người mới đi vào vinh quang. Phải mất một
thời gian, họ mới thấm nhuần được điều này, nhưng sau khi đã thấm nhuần rồi,
thì họ biết rằng ngay cả cái chết cũng không thể bẻ gãy được mối dây ràng buộc
đã gắn bó giữa Đức Giêsu và họ trong suốt ba năm.
Biến
cố Phục sinh mang ý nghĩa rằng Đức Giêsu vẫn đang sống, và chúng ta cũng có thể
được gặp gỡ Người trong lòng tin. Chúng ta gặp gỡ Người một cách đặc biệt trong
“việc bẻ bánh”, nghĩa là trong phép Thánh Thể. Người sẽ không cách ly chúng ta
ra khỏi thực tế cuộc sống. Nhưng Người sẽ ở với chúng ta tại chỗ nào chúng ta sống,
giúp đỡ chúng ta biết mang ý nghĩa và nét đẹp đến cho cuộc sống của chúng ta, đặc
biệt trong những lúc đau khổ và tối tăm. Và giống như các tông đồ, chúng ta
cũng được Người giao phó sứ vụ mang Tin Mừng đến cho những người khác.
20. Đức Giêsu hiện
ra với các Tông Đồ – JKN.
Câu
hỏi gợi ý:
1. Đặt mình vào địa vị các tông đồ khi gặp Đức Giêsu sống
lại lần đầu tiên, bạn có dễ dàng tin rằng Ngài hiện diện thật sự trước mắt mình
không? Hiện nay, bạn có tin rằng Ngài đang thật sự hiện diện bằng thần khí
trong tâm hồn bạn không?
2. Đức Giêsu đang hiện diện ở trong tâm hồn ta có khả
năng hoạt động, dạy dỗ, biến cải ta như Ngài đã từng hoạt động, dạy dỗ, biến cải
các tông đồ ngày xưa không? Sự hoạt động của Ngài có lệ thuộc vào thái độ nội
tâm của ta không?
3. Ta phải làm gì để được Ngài dạy dỗ, biến cải một cách
hữu hiệu?
Suy
tư gợi ý:
1.
Đức Giêsu mời gọi ta cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài
Sau
khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông
kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giêsu trấn an
các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải
bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy
và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. - Hiện nay, Đức Giêsu đang thật sự
hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người
trong chúng ta - cũng giống như các tông đồ xưa - không dám tin vào điều ấy. Nếu
có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình
bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: «Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn
chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như
anh em thấy Thầy có đây?» - Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sự hiện diện đích
thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy
Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.
2.
Hiện nay, Đức Giêsu có ở với chúng ta không? Ngài ở đâu?
Trước
khi chịu khổ nạn và tử hình thập giá, Đức Giêsu đã sống giữa các tông đồ, để dạy
dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu hình hữu
tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu theo kiểu
cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân xác của
Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh các ông
một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến Đức Giêsu
và các ông xa cách nhau hơn? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn ở cùng các
ông nữa không?
Không
phải vậy. Trước khi về trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời khỏi
các môn đệ, Ngài nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt
28,20). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy
thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý! Đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy phải ra đi và
không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận thế!»
Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài?
Chắc
chắn không phải như vậy! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng
Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và
bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta
hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nào chúng ta muốn, một cách hết sức
dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức mạnh
cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong
chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng
nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ người
Kitô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được bình
an, sức mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.
3.
Phục sinh Đức Giêsu trong ý thức và nội tâm ta
Đức
Giêsu hứa với chúng ta: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “(Mt
28,20). Ngài cũng nói với Chúa Cha: «Con ở trong họ và Cha ở trong con » (Ga
17,23). Thánh Phaolô nhắc lại sự hiện diện ấy: «Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở
trong mọi người » (Cl 3,11); «Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự
trong lòng anh em » (Gl 4,6). Như vậy, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với
và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng
gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng
trên các ông? - Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có khả
năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do cộng
tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện của Ngài
trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác Ngài
trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả. Chính ý
thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong bản thân ta làm cho Ngài
«sống lại» trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy
thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong đức tin. Thánh Phaolô yêu cầu ta
kiểm điểm lại đức tin của mình: «Anh em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức
tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu Kitô ở
trong anh em sao?» (2Cr 13,5).
Vì
thế, để lời hứa của Ngài - là ở với chúng ta - trở nên hiện thực, chúng ta phải
tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm
mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng
thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật sự.
Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để
Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị hạn
chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống,
nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20). Nói cụ thể
hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm (suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ, nghỉ...)
đều không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giêsu làm trong
tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm
mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức
Giêsu. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu
trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.
4.
«Những gì...đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm»
Khi
chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giêsu trong bản
thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy «tất cả những gì sách Luật Môsê, các
Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm» ngay trong
bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh.
Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các tổ phụ, với Môsê
(đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn), những lời hứa của Ngài đối với Dân
Ngài qua các ngôn sứ, qua các lời Thánh Vịnh (sự thái bình, thịnh vượng…) đều
được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế
nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy thuộc
vào những điều kiện bên ngoài, nên «không ai lấy mất được» (Ga 16,22). Lúc ấy
Bát Phúc trong bài giảng trên núi của Đức Giêsu sẽ trở nên hiện thực và cụ thể
trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị thánh thường
xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ cảm nghiệm được
thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian lao thử thách. Hạnh
phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài tất cả những hy
sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ Kitô hữu nào ý thức
được sự hiện diện của Đức Giêsu trong tâm hồn mình, và hoàn toàn sống với ý thức
ấy đều có thể cảm nghiệm được.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, Đức Giêsu vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến
Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện
diện của Đức Giêsu trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì
ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và
thường xuyên sống với ý thức ấy, để làm cho Đức Giêsu trở thành sống động trong
con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc. Amen.
21. Suy niệm của Lm
Đan Vinh.
HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy Tin và làm chứng về mầu nhiệm Phục
Sinh.
Bài
Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là
lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của
các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp phải ma, bằng cách cho họ xem tay chân của
Người bằng xương thịt, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các
ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đấng
Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng cho các ông là
phải đi rao giảng sự ăn năn để được tha tội, và làm chứng nhân về các điều ấy.
2) CHÚ THÍCH:
- Còn hai
ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế
nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các
ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,35-36):
] Còn hai ông: Đây là hai số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giêsu (x.Lc 10,1). Một trong
hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). Sau khi Đức Giêsu bị người Do Thái giết
hại trên thập giá, hai ông đã vỡ mộng và quyết định trở về quê cũ là làng
Emmau. Trên đường về làng, hai ông đã gặp được Đức Giêsu Phục Sinh như một
khách bộ hành. Trong cuộc trao đổi nói chuyện dọc đường, Người đã giải thích những
lời Kinh Thánh về cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi
Người. Kết quả là các ông đang từ tâm trạng buồn chán thất vọng (x. Lc
24,17.20), đã lấy lại được niềm tin và đã nhận biết Người (x. Lc 24,25-27.31).
] Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giêsu đã làm khi nhân
bánh ra nhiều 2 lần 9x. Mt 14,19; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích
Thánh Thể 9x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ kia nhận ra người
khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã chết và giờ đây sống lại.
] “Bình an cho anh em”: Đây là lời chào thông thường của người Do Thái
(Sha-lom). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống
lại, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa là ban sự bình an cho các môn đệ: “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).
- Các ông
kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?
Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ
xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,37-39):
] Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng la thấy ma: Đây là thái độ thường tình của con người khi gặp một
cuộc thần hiện. Trước đây, có lần vào lúc canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã đi trên
mặt biển mà đến gần thuyền các môn đệ. Bấy giờ các ông cũng sợ hãi kêu la lớn
tiếng: “Ma kìa!”. Và Đức Giêsu đã phải trấn an các ông: “Cứ yên tân, chính Thầy
đây, đừng sợ!” (x. Mt 14,25-27).
] Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!: Chân tay Đức Giêsu có những vết thương do đã bị quân
lính đóng đinh tên cây thập tự (x. Lc 23,33).
] Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có
đây?: Chết là khi linh hồn lìa
ra khỏi xác. Khi một người xắp chết, họ sẽ thở hắt ra và sẽ chết hẳn khi thân
xác ngừng thở (x. St 35,18). Khi thân xác thở lại là dấu họ sống lại (1 V
17,21). Linh hồn người chết hiện về được gọi là hồn ma. Ở đây, Đức Giêsu Phục
Sinh chứng tỏ Người không phải là hồn ma, khi chứng minh cho các môn đệ thấy
Người có xương thịt như một người bình thường.
- Nói xong,
Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn
đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho
Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông (Lc 24,40-43):
] Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin mừng Gioan (x Ga 20,22), Đức
Giêsu Phục Sinh đã đưa ra những dấu hiệu chứng tỏ người là Đấng bị đóng đinh,
đã chết trên cây thập giá, mà nay sống lại và hiện đang ở trước mặt các ông.
] Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ
ngàng: Luca hay thêm vào các câu
bào chữa khuyết điểm của các môn đệ. Chẳng hạn: Khi Đức Giêsu bị bắt, Luca viết:
“ Người thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền” (Lc 22,45). Ở đây, Luca viết “ Vì
mừng quá” và “còn đang ngỡ ngàng” để bào chữa cho sự cứng lòng chưa tin của các
ông.
] Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy
và ăn trước mặt các ông: Xem ra
các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu
đã sống lại, nên Người đã cho họ thêm một bằng chứng là Người thật chứ không phải
hồn ma, bằng cách Người đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông.
- Rồi Người
bảo: “ Khi còn ở với các anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những
gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải
được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc
24,44-45):
] Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đức Giêsu cho các môn đệ thêm bằng chứng về việc
Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời tiên báo mà giờ đây đã ứng
nghiệm.
] Sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Trước đó, khi thuật lại việc Đức Giêsu Phục Sinh giảng
cho hai môn đệ làng Emmau, Luca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các
Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả
các Sách Thánh” (Lc 24,27). Ở đây, Luca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật
Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.
« Sách Luật Môsê: Năm cuốn đầu của Cựu Ước, được xếp
thành bộ Ngũ Thư gồm 5 cuốn là: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lêvi, sách
Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái gọi Ngũ Thư là Luật Môsê (Tôra), vì
đây là nền tảng đời sống đức tin của Dân Chúa. Truyền thống Do Thái vẫn coi tác
giả của Ngũ Thư là ông Môsê. Nhưng thực ra, việc biên soạn bốn cuốn đầu chủ yếu
do các tư tế thuộc triều đại vua Đavít và Salomon. Riêng sách Đệ nhị luật: Gọi
là “Luật thứ hai” vì Luật của Giao Ước Môsê đã được ghi trong ba cuốn Xuất
hành, Lêvi, Dân số trước đó. Còn Đệ nhị luật là do các môn đệ của các Ngôn sứ
và các Tư Tế biên soạn vào thời dân Do Thái đi lưu đầy ở Babylon và còn tiếp tục
hoàn chỉnh sau thời lưu đầy. Nội dung sách này nhằm nhắn nhủ dân Chúa hồi tâm
sám hối tội lỗi, trở về tôn thờ Một Thiên Chúa độc nhất và trung thành tuân giữ
Giao Ước Xinai.
« Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến
để thay Chúa mà nói với dân Người. Sứ mạng của các ngôn sứ là giúp dân Do Thái
nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ trở về với Giao Ước, khuyên bảo, loan báo
hình phạt. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mêsia (hay Thiên
Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ Sách Ngôn Sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn Sứ
lớn như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Đanien, và 12 Ngôn Sứ nhỏ như Hôsê, Giôen,
Amốt, Ovađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria,
Malakhi. Phân biệt Ngôn sứ lớn hay nhỏ là do độ dày của cuốn sách của các ngài.
« Thánh Vịnh: Là bộ sưu tập các bài ca vịnh được
sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời Đavít đến thế kỷ thứ III trước
Công Nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như
trong Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịnh trong
các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Phụng Vụ Lời Chúa.
- Và Người bảo:
“Có Lời Kinh Thánh chép rằng:Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ
cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ
Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của
những điều này (Lc 24,46-48):
] Các câu 46-48: Trình bày tất cả các chủ đề về Đức Giêsu đã được tông đồ Phêrô và các
tông đồ rao giảng trong Công Vụ Tông Đồ: Trưng dẫn Kinh Thánh đã được ứng nghiệm
nơi Đức Giêsu, rao giảng sự sám hối và ơn tha tội, Nhóm Mười Hai được trao sứ mạng
làm chứng nhân cho Đức Giêsu (x. Cv 2,14-41; 3,12-26; 13,16-43).
] Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ
hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”: Khi Đức Giêsu giảng cho hai môn đệ trên đường Emmau,
Luca cũng viết: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới
vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn
sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách
Thánh” (Lc 24,25-27).
] Rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Hoạt động truyền giáo của các tông đồ vừa theo một
tiến trình ưu tiên nhất định là bắt đầu từ dân Do Thái, vừa có tính phổ quát. Từ
đây, Giêrusalem trở thành điểm xuất phát để loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi
cho mọi dân tộc.
] Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: Sám hối (tiếng Hy lạp là Me-ta-noe-ô), nói chung
nghĩa là đổi ý, thay đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Theo ngôn sứ Giêrêmia,
sám hối là thay đổi hướng đi, quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, dấn thân bước
vào đời sống mới. Sám hối là điều kiện để được ơn tha tội hay được hưởng ơn cứu
độ.
] Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là rao giảng Tin Mừng, là chứng
thực về tất cả những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, từ khi chịu phép
rửa của Gioan Tẩy Giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt
các ông phải sẳn sàng chịu chết để làm chứng những điều mình rao giảng là trung
thực.
HỌC
SỐNG LỜI CHÚA
1) Chính anh em là chứng nhân của những điều này:
- Câu chuyện:
Một chứng nhân sống động:
Trong
quyển sách “Tôi tin” của tác giả Găng Típ (Grant Teaff), có thuật lại một câu
chuyện về một cựu lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới tên là Biăng Tonbéc (Brian
Sternberg) đã trở nên chứng nhân sống động của Đức Giêsu như thế nào.
Vào
năm 1963, Biăng (Brian) lúc đó đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Washington . Anh vừa là lực
sĩ nhảy sào vô địch thế giới, lại vừa đoạt chức quán quân về nhào lộn của Mỹ châu.
Tác giả đã kể chuyện về nhà vô địch Biăng như sau: “Khắp trường đua, ai cũng biết
Biăng là một lực sĩ trẻ đầy tài năng, nhưng phong cách của anh ta vừa có tính tự
mãn lại vừa ích kỷ. Trong ngày đạt thành tích phá kỷ lục thế giới, khi tiến ra
lãnh huy chương vàng, anh ta tỏ thái độ ngạo mạn khi cố ra vẻ nghiêm nghị và
không thèm mỉm cười đáp lễ nhiều người đang hoan hô anh. Nhưng ngày hôm sau,
báo chí đã đăng hàng tít lớn: “Nhà vô địch nhảy sào Biăng đã bị chấn thương!”.
Số là hôm ấy, đang lúc một mình tập nhào lộn ba nhịp trên sàn tập, Biăng đã bị
mất phương hướng để cho mình rơi ngay vào khung căng. Cổ anh bị va vào bờ khung
căng làm cây gỗ khung căng bị gãy và Biăng té văng ra ngoài đệm mút, bị tê liệt
hoàn toàn do chấn thương sọ não. Thân thể anh bây giờ chỉ có đôi mắt và cái miệng
là còn cử động được thôi. Từ ngày đó, Biăng trở nên một phế nhân. Anh không thể
tự mình làm điều gì, ngay cả những việc riêng cá nhân như ăn uống vệ sinh cũng
phải nhờ người giúp đỡ. Anh cảm thấy chán nản và đau khổ. Từ đó, người ta không
còn nhắc đến Biăng nữa. Năm năm sau, tác giả có cơ hội gặp Biăng trong một hội
nghị gồm các huấn luyện viên và lực sĩ đã đạt huy chương vàng, tại hội trường lớn
của nhà thi đấu trong tiểu bang Côlôrađô.Hôm ấy, trước khi khai mạc hội nghị, đột
nhiên hội trường bị tắt điện tối thui, rồi máy đèn chiếu lên màn ảnh một đoạn
phim trong đó người ta thấy lực sĩ Biăng đang chạy trên đường băng và thực hiện
cú nhảy sào phá kỷ lục thế giới. Rồi trên sân khấu ánh đèn tròn lại chiếu sáng
tập trung vào một người cao lớn đang từ hậu trường bước ra sân khấu. Đó là cầu
thủ bóng đá nổi tiếng Uet Uynmơ (Wes Wilmer). Anh ta đang cõng theo một hình
nhân gầy đét với đôi tay rũ rượi và đôi chân dài, đu đưa hai bên sườn của
Uynmơ. Hình nhân này không ai khác hơn là anh chàng cựu vô địch nhảy sào Biăng,
cao 1,9 mét, nhưng chỉ nặng không tới 38 kilô. Sau đó, Uynmơ đặt anh chàng hình
nhân ngồi trên ghế. Rồi hình nhân Biăng bắt đầu phát biểu với cử tọa như sau:
“Thưa
các bạn, hôm nay tôi vui mừng được mời đến đây tham dự hội nghị các huấn luyện
viên và các nhà vô địch. Ôi! Tôi cầu xin Chúa để những gì xảy đến cho tôi sẽ
không bao giờ xảy đến cho bất cứ người nào trong các bạn. Tôi cầu xin để các bạn
không bao giờ phải nếm mùi nhục nhã hổ thẹn vì không thể tự làm lấy các việc của
một người bình thường như ăn uống, vệ sinh, đi lại…Ôi! Tôi cầu xin Chúa để các
bạn sẽ không bao giờ phải nếm mùi thương đau mà tôi đang phải chịu đựng từng
ngày. Trừ phi, đó là điều cần thiết để giúp các bạn chấp nhận Thiên Chúa là trọng
tâm cuộc đời của các bạn giống như hoàn cảnh của tôi hôm nay”.
Những
lời của Biăng đã gây chấn động mạnh nơi cử tọa đang hiện diện trong hội trường.
Ai nấy đều xúc động và cảm thông với một tài năng đã sớm lụi tàn. Nhưng đồng thời
cũng khâm phục về một con người tuy tàn nhưng không phế. Anh đã dành những hơi
sức còn lại để làm chứng cho tình yêu của mình vào Đức Kitô.
- Suy nghĩ:
Phải làm gì để làm chứng cho Đức Giê-su?
] Làm chứng cho Đức Kitô trước hết là thuật lại cho
người khác biết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này ai cũng có
thể làm được!
] Làm chứng cho Đức Giêsu là khẳng định rằng Đức Giêsu
đã sống lại từ trong cõi chết như Maria Mácđala và một số phụ nữ viếng mồ Người
đã làm. Nhưng thực tế cho thấy lời chứng ấy đã không đem lại kết quả bao nhiêu
(x. Lc 24,8-11).
] Làm chứng cho Đức Giêsu là dùng chính cuộc sống đã
được đổi mới của mình để chứng tỏ quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh đã tác động
và biến đổi chúng ta nên mới cách lạ lùng. Đó là điều mà Biăng đã làm trong câu
chuyện trên.
] Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người ngỏ lời với
tha nhân qua con người đã được đổi mới của chúng ta. Là làm chứng rằng Đức
Giêsu vẫn đang sống và hiện diện cụ thể nơi bản thân mình, và ta phải chia sẻ sự
xác tín, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được tông đồ
Phêrô và nhóm mười một tông đồ áp dụng. Nhờ được Thánh Thần biến đổi nên Phêrô
đã rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của Phêrô đã có kết quả là 3 ngàn người xin
theo đạo (x. Cv 2,1-41).
] Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giêsu là sẵn sàng chịu
chết vì đức tin, chứ không chịu bỏ đạo bước qua thập giá để được thả. Do đó,
các vị tử đạo được gọi là các chứng nhân Đức Giêsu. Téc-tuy-li-a-nô nói: “Máu của
các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh ra các Kitô hữu”.
Vậy
mỗi tín hữu chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?
2) Hãy đi rao giảng Tin Mừng:
- Câu chuyện:
Bác tài xế Tắc xi làm tông đồ:
Một vị linh mục sau chuyến
đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một tài xế
tắc xi như sau:
“Ngày
nọ, tôi đón tắc xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu
niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy hàng chữ
như sau: “Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe.
Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách
theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách
và thấy độ một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in
trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân công
giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường như
thế nào…
Ngoài
ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế, cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng
Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng
cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ có chứ! Có nhiều người
đã lấy ra xem, và có người còn cầm mang về nhà nữa.
Tôi
hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy
người ta đọc các sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng
anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải
luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất
mừng có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà
không mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!
Một
số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở
Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có
in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt
sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con
yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho
bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn
sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường,
cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho
tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái
xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất
chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn Thượng Lộ
Bình An”.
- Suy nghĩ
và quyết tâm: Bạn nhận xét thế
nào về phương cách tặng sách truyện tranh ảnh Kinh Thánh, truyện của các thánh
và những truyện sống đức tin trong đời thường của bác tài xế tắc xi trong câu
chuyện trên? Bạn sẽ chọn cách truyền giảng Tin Mừng nào đối với bạn học cùng
trường hay cùng làm trong một cơ quan xí nghiệp hay nhà máy?
HIỆP
SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy
Chúa Giêsu, Hầu như trong mọi lần hiện ra, Chúa cũng đều dùng Kinh Thánh để
giúp các môn đệ hiểu biết Thánh Ý Chúa Cha, giải thích cho các ông về mầu nhiệm
“vào vinh quang ngang qua đau khổ”. Đồng thời cũng chứng minh Chúa đã thực sự sống
lại đúng như các ngôn sứ đã tiên báo. Xin Chúa giúp chúng con hiểu biết giá trị
của Kinh Thánh, hầu trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, chúng
con biết tìm ra Thánh Ý Chúa. Xin cho chúng con siêng năng hiệp sống Lời Chúa,
cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn,
chúng con sẽ ngày một sống tử tế tốt lành hơn và làm đẹp lòng Chúa hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng
con.
2) Lạy Mẹ
Maria. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của các tông
đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh, ăn uống trước mặt các ông.
Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại đòi họ phải làm chứng nhân cho Người. Xin Mẹ
giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa, bằng việc sám hối và xa
lánh dịp tội, làm nhiều việc lành như chia sẻ cơm áo tiền bạc cho những người
nghèo, thăm viếng những người đau liệt…để chúng con nên nhân chứng tình thương
của Chúa Giêsu.
X) Hiệp cùng mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng
con.
22. Chú giải của
Noel Quesson.
Hôm
nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”. Theo Tin Mừng
của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:
-
Các phụ nữ đến
viếng mộ vào buổi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24, 1-10).
-
Phêrô cũng đến
thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
-
Chúa hiện ra với
hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
-
Chúa hiện ra với
mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
-
Đức Giêsu thăng
thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).
Còn hai ông
thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra Chúa thế
nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa
các ông.
Từ
ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương
này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn
Ghétsêmani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa
như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa
thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mười Hai trở
thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!
Chính
trong bối cảnh này mà cuộc "Phục sinh" xảy đến một cách bất ngờ và
làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.
Người nói với
các ông: "Chúc anh em được bình an"
Đó
là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!" có nghĩa là
"Bình an”.
Nhưng
ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một
ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến
trấn an các ông: "Anh em đừng sợ", "Hãy an tâm". Theo Thánh
Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các
tông đồ sẽ được bình an sau một 'thời gian khủng hoảng đớn đau’: "Thầy để
lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy"
(Ga 14,27). "Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô đơn”.
“Thầy nói với anh em những điều ấy để nhờ kết hợp với Thầy, anh em được bình
an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,32-33). Hôm
nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.
Các ông sợ hết
hồn hết vía, tưởng là thấy ma.
Rõ
ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm "Mười Một" bắt
đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự kiện
Đức Giêsu phải "mở trí lòng" họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ ngắm
nhìn thì chưa đủ còn phải "mở trí lòng" tới mầu nhiệm.
Nhưng Người
nói: "Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy
coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây?"
Trong
trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem "tay và
cạnh sườn" Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem
"chân tay" Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan "cạnh sườn"
rộng mở tượng trưng cho nguồn nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời tiên báo của
ngôn sứ Êdêkien.
Những
điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức
Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là
những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của
Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người sống
động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không phải
là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể giản
lược vào nguyên một tình trạng "linh hồn bất tử". Do đó, mọi chi tiết
trên đây đều diễn tả cách cụ thể: "Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay Thầy.
Hãy cho Thầy ăn".
Tuy
nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ
diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý
đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: "Chúa là thần khí”(2Cr
3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một "thân-thể-thuộc-linh”
(1Cr 15,44).
Các ông vẫn
chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em
có ăn gì không" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và
ăn trước mặt các ông.
Việc
ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này
Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, "cùng uống với Người,
sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10,41). Trong trình thuật của Luca
trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu không khí vẫn
là khung cảnh của những "bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ sẽ nhận ra một
sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.
Rồi Người bảo:
"Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với anh em"
Công
cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ
hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn "tâm
trí" vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông
đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng "ký ức” Người đã báo trước cái chết và
sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa Đức
Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và Đức
Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.
Về vấn
đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở với
anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện diện với
chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy, nhưng
Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là Người,
nhưng không phải y như trước. Đây luôn là mầu nhiệm đức tin.
Tất
cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy
đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.
Các
Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng
ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc lại
cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. "Kinh thánh
đã nói về đời tôi!". Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta hình dung
ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh thánh.
Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kiện cho
chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc thay
hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các văn
bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đã đi đúng hướng biết
bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô hữu,
biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ "trễ muộn",
bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian
mà "Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh".
Người bảo có
lời Kinh Thánh chép rằng: "Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba
sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.
Ôi!
nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời
ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta
biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu "tự nhận ra
mình" và nhờ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản
văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23;
Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương
trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến "việc hoàn tất"
này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ. Những bài
thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng, "đau
khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn đạt tới một
sự phong phú phi thường". Thực vậy người ta phải vượt qua giai đoạn đau khổ
mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa
cho mọi dân tộc, "sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã hiện diện
trong các bản văn đó (Is 49,50).
Đấng Mêsia
phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng
cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng,
mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước
hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ tội
nhân sẽ được tắm trong "nước tha thứ tội lỗi", sẽ được ghìm ngập
trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần, Đấng
tha thứ và "ban sự sống". Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta gặp
lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: "Đức Giêsu thổi
hơi để tha thứ tội lỗi!".
Và
chúng ta đón nhận sứ điệp "Phục sinh" đó. Chúng ta có thể nói, Phục
sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một "métanoia":
Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là
một động lực sống! Nó luôn vận hành.
Phải rao giảng
cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em làm chứng
về những điều này.
"Sứ
vụ của Giáo Hội" khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động
Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống" giữa các nhân chứng của Người, từ
một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là
nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên,
và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó
hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ
chết, đã trở thành nơi có "ngôi mộ trống", nơi của sự sống hiển thắng.
Lạy
Chúa, xin ban cho con "sức mạnh" từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để
con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh,
xin hãy ngự đến.
23. Chú giải của
Fiches Dominicales.
CHÚA GIÊSU
HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ kinh ngạc, sợ hãi đến niềm vui.
Cũng
như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ
III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra.
Câu
chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về Họ vừa kể cho 11 tông đồ
và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhặn ra Người thế nào
khi Người bẻ bánh thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ.
Ở
đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức
Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh.
Tin
Mừng kể: "Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ
ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”.
Cuộc
hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến họ "kinh ngạc và sợ hãi, vì họ
tưởng là thây ma hiện hình”. Họ đã phải sống giây phút khó khăn của cuộc quá độ
từ bất tín đến chân nhận.
2. Từ khổ đau đến cuộc sống mới của Đức Messia.
Thoạt
tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ.
Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh.
Trước
hết, Người cho họ xem “tay", "chân” và nói: "Tại sao các con sợ
hãi? Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy".
Họ
hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy,
Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng
Phục sinh “chính là Thầy đây!".
Roland
Meynet chú giải: "Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một cái chết
hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã
từng ăn uống với họ, tay Ngài đã từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình.
Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh. Họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người
cơ mà, đúng là Người.
Nhưng
cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho
họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ
xác minh mà vững lòng tin tưởng; Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức
Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh (‘Tin Mừng thánh Luca’, Phân tích
từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238).
- Vì
các môn đệ "trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người
kinh ngạc", Đức Giêsu bèn hỏi xin họ "cho ăn”. Người ăn "một miếng
cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông
phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung
nghinh hầu cận.
Khi
đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh họa
thực tại của biến cố phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường
như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Sau
cùng, Đức Gtêsu giúp các môn đệ đang hội họp ở đó đọc lại cuộc Khổ Nạn-Phục
Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên
đường đi Emmau: "Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong
sách Lề Luật của Môsê; các sách Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí
cho họ hiểu Kinh Thánh".
R.Meynet
bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh
loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người.
Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ
lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh
Thánh, người thực hiện Kinh Thánh, Người hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người
hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi
đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời
Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời
Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các
ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất" (Sđd, trang 238).
3. Từ chân nhận đến sứ mệnh phổ quát
Một
lần nữa, cuộc gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh.
Sứ mệnh
mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà
nhờ đó họ được ban một "sức mạnh từ trên cao" (câu 49), tóm kết trong
câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng
của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc I ngày lễ Phục sinh và
Chúa nhật III (Phục sinh):
Đúng
như lời Kinh Thánh đã loan báo về:
] Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ
trong cõi chết vào ngày thứ 3.
] Công bố sự hoán cải nhân danh Người để được tha thứ
tội lỗi cho mọi dân tộc, khởi đi từ Giêrusalem.
] Chính các con là chứng nhân cho những điều đó".
Như
thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người
là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện
diện trong Giáo Hội, nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng
ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel , từ nay
lan toả đến “mọi dân tộc". Sứ mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ
của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu
những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay”.
(L.Monloubou, trong "Tin Mừng
theo thánh Luca, Salvator, trang 286-287).
Câu
đầu tiên (35) nhắc ra nhớ chính vào lúc "bẻ bánh" mà các lữ khách
làng Emmau ‘nhận ra Đức Giêsu’, chắc hẳn trong tâm tưởng thánh Luca muốn qui
chiếu việc bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu "nhận ra" Đức
Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc "khai mở
lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ
một lối "hiểu Kinh Thánh" mới.
Ta
thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu
niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật
hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên
Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và
các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu
cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức
tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm
truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho ‘mọi
dân tộc’, ‘bắt đầu từ Giêrusalem’, sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”.
Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự
rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết
của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực
tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm.
Sự
kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của
Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền
tảng của suy tư; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội.
Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để
tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: đó là những lời mà Thầy đã nói với anh
em để cử hành việc bẻ bánh; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội
ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu đích thân đứng giữa họ,
Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn
là sâu sắc.
Cảm
nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm
nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân
các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ
giữa Kinh Thánh với những gì đã xảy ra tại Giêrusalem, những gì đã xảy đến với
Đức Giêsu, người Nagiarét, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự
Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một
đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm
mà họ phải sống hôm nay".
2) Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh
(H.Vulliez, trong "Thiên Chúa
đã gần đến". Năm B, DDB trang 57-58).
Bạn
có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục
sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng
việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp,
cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ
chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường.
Dường
như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra
ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách
nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng
ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với
con người để trở thành Người-Chúa với họ vĩnh viễn không?".
CHÚA NHẬT 3 PS Phúc Âm Lc 24, 35-48
“Chính anh em là chứng nhân
về những điều này”
Chúa Giêsu đã phục
sinh. Người đang ở giữa nhân loại và đang củng cố niềm tin cho các tông đồ.
Chúa Giêsu sống lại đã hơn một lần bị ngộ nhận là ma. Lần này khi hai môn đệ
trên đường Em-mau đang kể lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa họ và Chúa phục
sinh cho các tông đồ khác” thì Chúa phục sinh hiện đến đứng giữa các ông. Các
ông lo sợ, hồn vía lên mây, tưởng rằng thấy ma”( Lc 24, 40-42 ). Đức Giêsu phục
sinh ban bình an cho các ông, rồi Ngài mời gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân
cho Người
Sau khi phục sinh,
Đức Giêsu sống lại đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Người củng cố niềm tin
cho các ông khi các ông còn đang hoang mang, sợ hãi, nghi ngờ. Người trao ban
sứ vụ cho các môn đệ và sai các ông ra đi làm chứng cho Người. Trước khi lãnh
nhận Thánh Thần, các môn đệ còn đang co cụm, lo âu, sợ chết. Nhưng khi Chúa
phục sinh trao ban Thánh Thần cho các ông. Tất cả các môn đệ đều được biến đổi,
các ông hăng say ra đi làm chứng cho Chúa phục sinh. Các tông đồ đã làm chứng
cho Chúa phục sinh hết mình. Hầu hết các tông đồ đều đổ máu ra hy sinh mạng
sống làm chứng cho Chúa phục sinh và để biểu lộ niềm tin của các ông vào Chúa
phục sinh như lời Chúa phán dậy:” Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới
đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho
họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùnh anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt
28, 18-20 ). Chúa trao ban sứ vụ nhưng cũng là lệnh truyền cho các môn đệ cũng
như cho Hội Thánh và từng người Kitô hữu. Mỗi người Kitô hữu hãy là chứng nhân
cho sự sống mới của Chúa Giêsu phục sinh vì Đức Kitô phục sinh là biểu tượng
cho sự an bình, cho hòa bình của nhân loại khi nhân loại đang sống trong nỗi
chết. Thế giới nhiều nơi đang còn chiến tranh, chiến tranh sắc tộc, chiến tranh
giữa các người anh em với nhau. Nạn khủng bố lan tràn, bệnh hoạn và những tiêu
cực lớn của thế giới như sida, ma túy vv…Đây là nỗi ám ảnh của nhiều
người. Chúa phục sinh đang có đó, đang hiện diện, Người sẽ xoa dịu
những ám ảnh khủng khiếp của nhân loại, của con người khi con người có lòng tin
biết làm chứng cho sự sống lại của Chúa và niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa sống
lại đem đến cho nhân loại, cho mỗi người.
Chúa phục đang mời
gọi mỗi người chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người và mỗi khi chúng ta
trao ban niềm vui, trao ban nụ cười, giúp đỡ những người cô đơn, bất hạnh là
chúng ta đang làm chứng cho sự phục sinh của Chúa.
Linh mục Giuse Nguyễn
Hưng Lợi, DCCT