NOEL TẠI PHONG HẢI |
NOEL TAI CAM ĐƯỜNG |
TIẾP CHÍNH QUYỀN ĐÊN MỪNG NOEL |
NOEL TAI QUANG KIM |
NOEL TAI PHONG HẢI |
NOEL TẠI CAM ĐƯỜNG |
Thêm chú thích |
HỌP XƯỚNG VINH DANH THIÊN CHÚA |
NHÀ THỜ HÒA LAC GP. PHÁT DIỆM |
CHÍNH QUYỀN THÀNH PHỐ LÀO CAI CHUC MƯNG GIÁNG SINH |
NOEL TẠI BẮC CƯỜNG |
LỄ THÁNH GIA – Năm C
Lời
Chúa: 1Sm 1,20-22.24-28); 1Ga 3,1-2.21-24); Lc 2,41-52
MỤC LỤC
1. Gia đình nhân loại
2. Con có bổn phận
3. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
4. Lễ Thánh Gia Thất
5. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày
6. Tìm thấy – Flor McCarthy
7. Lễ Thánh Gia Thất
8. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình
9. Những thánh gia Nagiarét thời đại
mới
10. Thánh gia, gương sáng của tin yêu
11. Có một lý do
12. Gia đình thánh thiện
13. Gia đình
14. Tài sản
15. Thánh Gia
16. Suy niệm
17. Noi gương
18. Mẫu gương gia đình hạnh phúc
19. Mái ấm tình thương
20. Bí quyết hạnh phúc gia đình
21. Kiểu mẫu của mọi gia đình
1. Gia đình nhân loại.
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây
dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường
dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói
của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn
đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết
thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong
xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng
đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ
lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng
bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường
dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong
suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc
xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc
đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa
Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết
và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được
sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý
thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại
nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa
Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta
hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ
con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia
đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên
chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ
giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác
lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần
phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em
theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của
Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng
nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người
trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin
Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào
sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của
Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu
toàn trách nhiệm ấy.
2. Con có bổn phận.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin
Vâng ở Nadarét.
Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống
phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường.
Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.
Nadarét là trường học đầu tiên huấn
luyện Chúa Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là
trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình
cho người khác.
Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật của
trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn
lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.
Con Thiên Chúa đã tập làm người ở
Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn
ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.
Nền giáo dục gia đình được coi là tốt
khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.
"Cha mẹ không biết là con có bổn
phận ở nhà CHA con sao?" - Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con
của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan
thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại
trong nhà Cha hay lo việc của Cha.
Càng lúc Chúa Giêsu càng ý thức về
mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.
Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái
ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu
hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.
Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực
khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này
cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.
Chúa Giêsu không chỉ là người con hiếu
thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA
trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.
Đức Maria không hiểu câu trả lời của
Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những
biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.
Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa
xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ
vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và
nghiền ngẫm mãi.
Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của
mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.
Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật
hiểu Con.
Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con
mình vào đời.
Gia đình cung ứng những công dân tốt và
tín hữu nhiệt thành.
Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn
trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.
Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh
các con như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều
khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất...) Theo bạn, đâu
là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?
Theo bạn, thế nào là một gia đình lý
tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha
nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay
biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình
thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia
đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành
hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên
thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng,
bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những
trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia
đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở
ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến
hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc
luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
3. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt.
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường
diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ
ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống
trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình
thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải,
trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo.
Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải
qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi
phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc
vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn
đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét
của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê
hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng
hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi
quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ
hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy
con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ
đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà
không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền
đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người
con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải
đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế
nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã
vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý
Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng
không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc
khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu
nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài
lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý
Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: "Này tôi là nữ
tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền". Thánh Giuse đang muốn bỏ
đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không
ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì
hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã
hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng
mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành
người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng
hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng
những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc
Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì
vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm
nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi
gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa;
và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta
mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó
khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình
chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối,
tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi
thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có
quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?
4. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa
Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức
Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên
Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy
Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong
gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời
chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về
Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà
tầm thường và gia đình tầm thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến
thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện
nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret
Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng
giống như người đương thời (Lc 8,44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt
9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một
danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng
những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng
cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu
cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: "Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng
ta sẽ mặc gì?" Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm
và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe
theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài
dùng diễn ngữ này: "Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu
thuế" (Mt 18,17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với
những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với
chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa
Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh
hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu
thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công
việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không
làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học
nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn
toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy:
"Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không
phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông
không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông
không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như
thế?" (Mt 13,54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một
công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu
công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm
đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay
khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống
chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng
ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng:
"Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn" (St 3,19), nhưng theo Tân
Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay
Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một
Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống
thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi
người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự,
mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa
Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha
thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người.
Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi
chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật
vậy, như lời Thánh Gioan: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban
Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời" (Ga 3,16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân
mình "trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài" vì Ngài "không lấy
làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài" (Dt 2,17.11). Tình yêu đòi phải
nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói
dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13,13). Cécil Northcott
trong quyển "Chúa hiển hiện đời nay" thuật lại một cuộc thảo luận
trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới:
"Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau
làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi
châu: "Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?" Maria trả lời:
"Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo.
Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng.
Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô
hữu".
4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống
trong trắng và thánh thiện giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết:
"Ai thấy Ta là thấy Cha" thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài
cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật
có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt
đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ
thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm,
bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu
để đồng bào Ngài ghét Ngài.
5. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật' – Achille Degeest)
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây
là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn
lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi
chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện.
Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời
của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết
trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết
rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta
hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát
hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số
mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của
Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý
Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác,
hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng
hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải
tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng
với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy
suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với
Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người
đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết
hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt
trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa
Giêsu: "Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?".
Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này:
Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời
chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là
không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có
được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của 'cái ta'.
3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi
chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm
nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên,
và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn
tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân
nhà tạm, nếu có thể được.
6. Tìm thấy – Flor McCarthy.
SUY NIỆM 1
Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời
gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và
thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có
nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy
dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải
được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng ; nếu không, chúng sẽ
luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành
trình trở về, thì Chúa Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên,
các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện
đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy
nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn
có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm
Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài
liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu
nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa
con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ
của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những
điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ
dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha
mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an
toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó
có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp
của Chúa Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm.
Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Chúa Giêsu, câu
hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: "Con ơi, sao con
lại cư xử với cha mẹ như vậy ?". Và Người trả lời "Cha mẹ không biết
rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao ?". Mặc dù không hiểu được
lời giải thích của Chúa Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi
làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm
nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để
khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria
ghi nhớ những lời nói của Chúa Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một
phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời
con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng
nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự
kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu
quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Chúa Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà
Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui
vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Chúa Giêsu là
một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát
triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học
được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày
qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người
của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu
đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái,
các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối
với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là
một đứa con "ngoan", hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó
nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói
rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một
đức tính cao đẹp nhất.
Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền
thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện
được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện
này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.
SUY NIỆM 2:
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu
nói rất gây ấn tượng. Đó là "Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy
trong lòng". Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta
nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng "Còn bà
Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng". Đức
Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận
thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.
Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức
khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa
đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó.
Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào
đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ
sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu
được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.
Hơn một lần, chúng ta đọc được trong
các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì ? Mẹ
ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho
bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo
lắng.
Đức Maria là một con người âm thầm, hay
suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách
thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ
trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự
kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói: "Cuộc sống ở phía sau
chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch
ngói, dành cho người thợ nề ngày nay". Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta
mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự
kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết
suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được
những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.
Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị,
đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những
sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương.
Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có
thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại
những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là
vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta
hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc
ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ
sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự
kiện đó.
Thật đáng buồn, có những người dường
như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người
khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con
người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn
ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.
Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn
ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ
đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ
đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng "ngày
càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến". Chúa
Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan,
kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu nói "Một bà mẹ có thể
nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ".
Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ
dưới đây.
Ngày xưa, một con chim mẹ có một con
chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú.
Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ
cõng chim non trên lưng.
Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu
cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng
thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy
mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang
nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói "Con của mẹ, con hãy nói sự
thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua
đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?".
Con chim con đáp "Mẹ ơi, con không
thể hứa gì với mẹ về điều đó".
Chim mẹ hỏi "Mà tại sao lại không
được?"
"Bởi vì có thể chính con cũng bận
rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho
con bây giờ vậy".
Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không
thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể
làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của
chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc
chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha
mẹ đã săn sóc chúng ta.
7. Lễ Thánh Gia Thất.
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng
Ngày' – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có
kể lại một câu chuyện sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một
người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi
người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng
hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người
cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc
càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng
mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để
đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu
được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy
cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả
cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng
hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia
đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và
phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế
độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn,
eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong
lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc
khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi
vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình
thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu
mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị
với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa,
gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài
quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha
mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
"Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ kính mẹ cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh
đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã
dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe
lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình
cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn
ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc
sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện
diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã
đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn
vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng
đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi
và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình
trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn
nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình
được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh
Vịnh 28. Đây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là
điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia
đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ
cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng
hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng
đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên
nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một
thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái
là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý
muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình
yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu
là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được
chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn
lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không
bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình
yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia
đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu
Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin
trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần
khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn
bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên
Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết
người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn
cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống
yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên
giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân
đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta
hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu
hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu
khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng
thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu
đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia
đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng
biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của
chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và
hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước
cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ
nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa.
Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà
biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người
khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng
với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn
lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm
sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng
thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình
hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý
Chúa muốn: "Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt
gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ
hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái,
đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng".
Có người coi cái tôn ti trật tự của
cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời.
Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ
chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình
yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì
sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như
nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia
đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có
gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành
phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng
trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng
gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu
thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có
thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính
mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình
thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi
thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở
Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải
rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với
hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm
thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria
cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa
Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh
Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy
thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện
không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn
lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái
độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải
thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa
Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế
giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và
thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi
sự và suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ
hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày
Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại
theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu
thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.
8. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào
xứng đáng là mẫu mực cho mọi gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì
khác hơn là thánh gia thất Nadarét.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã
cùng nhau xây nên một gia đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.
Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người
công chính.
Là người công chính, thánh Giuse đã
không hành động cách nông nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người
bạn trăm năm của mình mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao
dung, quảng đại và khôn ngoan. (Mt 1, 19)
Thánh Giuse là một người cha luôn mau
mắn phục vụ gia đình không quản khó nhọc, không quản ngày đêm: "Đang đêm,
sứ thần hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ và bảo: "hãy đem Hài Nhi và Mẹ
Người trốn sang Ai-cập", thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14).
Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông
rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en", thánh
Giuse mau mắn thi hành không do dự. ( Mt 2, 19 # 21)
Thánh Giuse là người lao động cần cù để
nuôi dưỡng gia đình. Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ
trong làng Nadarét thì người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét
gọi Chúa Giêsu là con bác thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. ( Mt
13, 55).
Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người
Mẹ tuyệt vời.
Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường.
Cho dù được sứ thần Gabrien gọi là "Đấng đầy ơn phúc" (Lc 1, 28),
được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì
Mẹ vẫn nhận mình chỉ là "nữ tì hèn mọn" (Lc 1, 48).
Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và
phục vụ: khi vừa hay tin người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai
trong tuổi già, Mẹ tất tả lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà
Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian
thai nghén và sinh nở ròng rã ba tháng trời.
Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui
và hạnh phúc người khác, thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là
người nhà, Mẹ là người đầu tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách
chữa cháy cho sự việc nầy. (Ga 2, 3)
Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù
phải nôn nao, lo lắng, cực lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ
vẫn giữ được sự dịu dàng hiếm có: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như
vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!"
Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.
Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu
đã trở thành một người con hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế.
Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba
mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia
đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng
phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ
mạng.
Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể,
nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian.
Thánh Luca tóm tắt cuộc sống tại gia của Ngài như sau: "Người hằng vâng
phục cha mẹ... ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta" (Lc 2, 51-52)
* * *
Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một
ngôi nhà rất đẹp, rất ấm cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa
nhận thấy đây là một mẫu nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô
hình đó để dựng xây gia đình mình y như vậy.
Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà
Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong
thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh
Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và
săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha
mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục
vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính
mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
* * *
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong
tâm thư gửi các gia đình, nhắn nhủ: "Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người
cha, người mẹ, người con trong gia đình... Những gì mà các thành viên trong gia
đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa".
Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa
Giêsu ưu ái trao tặng cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn
nhau.
Và thế là một phần thưởng vô cùng quý
báu đang nằm trong tầm tay mọi người.
9. Những thánh gia Nagiarét thời đại
mới.
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền
Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn
Thánh Gia Nagiarét làm bổn mạng.
Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một
hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng
thành.
Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng
của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia
đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh
gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi
đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giu-se những
bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.
Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra
trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có
thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng
hang đá vỡ ra nhiều mảnh.
Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang
mang và bối rối!
Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh
gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan?
Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền
thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ
qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?
Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ
và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có
huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.
Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng
kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được
chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống
thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng
hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên
trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia
đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.
Sáng kiến nầy đã làm cho một số người
trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình
người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.
Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như
sau:
Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng
vai Giu-se, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao
bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia
đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của
Chúa Giêsu.
Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng
ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình
tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có
trí tuệ như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.
Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:
Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có
phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các
giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh
tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô nói: "Nào Anh em
chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (1Cr
6,15)
Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa
Giêsu cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của
Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.
Như vậy, không có một sản phẩm nào do
tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý
như bạc như vàng... xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ
Maria, của thánh Giu-se cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay
vẫn nhìn nhận gia đình của Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó
là những hội thánh tại gia.
Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để
thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình
Kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nagiarét.
Sau khi hiểu được những điều cha xứ
giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị
Năm được cử đóng vai thánh gia Nagiarét.
Rồi qua những năm sau, nhiều người
trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình
công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch
cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh
con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng
vai thánh Giu-se, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ
lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé
trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ,
những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giu-se những dụng cụ
làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào...
Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu
trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ
chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ
Maria và thánh Giu-se. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và
thánh Giu-se đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và
thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giu-se và Đức Mẹ. Niềm
vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.
Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình
trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia
đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.
10. Thánh gia, gương sáng của tin yêu.
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm.
Jos. Tạ Duy Tuyền)
Lần giở lại những trang đầu của sách
Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc
phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên
Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà
Thánh kinh đã diễn tả: "chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người
trong vườn địa đàng". Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ.
Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam - Eve giơ
tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên
ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau.
Adam đã kết án vợ mình: "Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm".
Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần
gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần
phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con
người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa
đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn
lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia
đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết
tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh
Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm
ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia
đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác
hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một
nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giê-su, một người
con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và
người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta
thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để
cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín
thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại
thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương
nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn". Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một
lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia
cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời
sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn
đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ,
đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời
hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách
nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng
còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang
lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường
tình cha, nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không
còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng
còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì
người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp
người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình
đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi
gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh
phúc gia đình. Amen.
11. Có một lý do.
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký.
Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như
những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.
Đây là đoạn trích thư của một người mẹ:
"Cho dù là tòa đã phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn
không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu
nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu
thương nó."
Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư
của một em bé 12 tuổi. Em viết: "Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ
của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi
phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi
đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm.
Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong
được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ
làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái
nghề tệ nhất trên trái đất này." (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The
Second Oldest Profession).
Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm
giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều
không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy
rằng, cho dù là Gia Đình Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.
Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải
đau khổ khi lạc mất con. Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa
Giêsu. Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: "Con ơi, sao con lại làm cho chúng
ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con."
Chúa Giêsu trả lời: "Mà tại sao
tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?"
Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu
hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria đã phản ứng thế nào?
Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu,
hoặc bắt Ngài phải giải thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng
và suy ngẫm. Phúc Âm viết: "Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói...
Maria, Mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng" (Lc 2:48-51)
Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy
nhất để giải quyết những cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn "Tình
Mẹ": "Tôi cho rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt
nào đó về người mẹ của mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp
người con khỏi cảnh nguy hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con
đạt tới mục đích cách dễ dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi
lúc bà ấy chẳng nói điều gì hết."
Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên
trong nội tâm của mình sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên,
cũng có lúc những thinh lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng
lưỡi.
Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình
Thánh Gia không phải là một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng
chẳng thua kém gì.
Một người giảng phòng đã kết thúc bài
giảng của ngài với các ông bố như sau: "Thánh Giuse là mẫu gương cho tất
cả mọi người chúng ta."
Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến
lên vị giảng phòng và nói: "Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp
của Thánh Giuse thì khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ
nhất, Ngài là một vị thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba,
người Con của Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì
tội lỗi, và con của tôi không phải là Con Thiên Chúa."
Vị giảng phòng trả lời: "Điều ông
nói đúng, nhưng tôi xin thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có
thai trước khi đám cưới, mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông
có khi nào bỏ nhà ra đi ba ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều
này đã xảy ra với Thánh Giuse."
Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia
đình thánh thiện cũng không tránh khỏi sự khó khăn.
Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và
Thánh Giuse phù hộ chúng ta sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia
Nazarét.
12. Gia đình thánh thiện.
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc
nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria
và thánh Giuse. Vậy đâu là bí quyết dẫn đến hạnh phúc ?
Tôi xin thưa:
- Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính
đoạn Tin mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ
rằng:
- Những con người đặc biệt thì được
miễn trừ nhiều việc, kể cả việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy
thái độ của thánh gia là sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những
lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ
Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo
như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ
Maria hàng năm vốn thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười
hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận: cha mẹ
đạo đức bao giờ cũng muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức
như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể
không cần phải tuân giữ luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền
thờ mà con người phải tôn kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ
tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ
không theo cách thức thông thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề
luật, đã phục vụ Thiên Chúa một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải
là điều luật buộc, nhưng là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng
cơ hội chu toàn nghi lệ tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích
giúp đỡ hai mẹ con, bởi vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho
thấy Mẹ Maria và thánh Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ
đó tạo nên một mái gia đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm
của những bậc làm cha làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại
Nagiarét. Cuộc sống của gia đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài
cũng đã phải lao động vất vả mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn
hạnh phúc, đầm ấm và thánh thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có
một chiếc gạch nối là Chúa Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm
vàng. Lúc trở về thì bốn người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của
những thiếu thốn và cực nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn
bình thường, vui vẻ và lạc quan. Người ta hỏi :
- Tại sao anh lại giữ vững được tinh
thần như vậy ?
Anh ta trả lời :
- Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi
đã mang theo. Dĩ nhiên không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình
ảnh của gia đình tôi vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi
người đã cầu nguyện và cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo
tôi trong suốt cuộc hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia: chúng
ta hãy tuân giữ lề luật của Thiên Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia
đình của chúng ta sẽ mãi mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
13. Gia đình
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh
hưởng của nền văn hóa Kitô thì ngày lễ Giáng sinh ngoài ý nghĩa tôn giáo như là
ngày lễ cử hành Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Lễ Giáng sinh còn mang ý
nghĩa văn hóa xã hội nữa, như là ngày lễ của gia đình, ngày mà mọi thành phần
gia đình sum họp bên nhau.
Giáo Hội đã luôn luôn nhắc nhở về mối
tương quan giữa mầu nhiệm nhập thể và gia đình. Vì thế, trong chu kỳ phụng vụ
luôn luôn cử hành lễ thánh gia đình Nagiarét vào Chúa nhật trong tuần bát nhật
Giáng sinh. Giáo Hội muốn đặt gia đình trong ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể
của Con Thiên Chúa, và gia đình đầu tiên hưởng lấy ơn của mầu nhiệm Giáng sinh
là thánh gia đình Nagiarét. Con Thiên Chúa nhập thể làm người nhận lấy một thể
xác để thánh hóa mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài nhập thể trong một
gia đình tại Nagiarét để thánh hóa thực tại đời sống gia đình.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là
yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần gia đình chung lại với nhau, để thánh
hóa tình yêu con người, mặc cho tình yêu phàm trần đó một chiều kích thần
thiêng được thấm nhuần trong tình yêu thần thiêng, trong tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu tự nhiên trở thành tình yêu bác ái.
Bài đọc hai trong thánh lễ của Chúa
nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh được diễn tả như là hiến chương của đời
sống Gia đình Kitô: "Hãy để cho Chúa hiện diện trong gia đình. Hãy để cho
Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em. Hãy đọc Lời Chúa trong gia đình".
Năm thánh 2000, các Giám mục Việt Nam
trong bức thư Mục Vụ chung gởi toàn thể dân Chúa như sau: "Đối với người
Việt Nam, gia đình vẫn là rường cột của Giáo Hội và xã hội. Gia đình phải là
một Giáo Hội thu nhỏ, nghĩa là nơi lấy sự thật của Tin Mừng làm qui luật sống
và làm quà tặng cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đình không phải chỉ là đối tượng
cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ mà còn là một trong những tác nhân đắc dụng
nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng".
Tông huấn đề ra các phương thế thực
hiện như gia đình tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, lãnh nhận các bí
tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải, dấn thân phục vụ các gia
đình khác. Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút của gia đình qui tụ bên
nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách thánh.
14. Tài sản
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài
Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà
Giáo Hội muốn đề cao như gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu
này và so sánh với các gia đình hôm nay, ta có thể tự nhủ: "Ôi khác biệt
quá ! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn,
rất bệnh hoạn !"
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang
đối diện với vô số vấn đề: cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá... Những gia đình chỉ
có cha hay mẹ mà thôi... Uy tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh
khủng... Anh hưởng bên ngoài của xã hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong
gia đình. Giới trẻ hầu như không còn tin tưởng gì nữa... Những người trẻ rời
gia đình rất sớm...
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng
hiện nay ! Bao nhiêu người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong
chính gia đình của họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa ! Quá
nhiều lần ta đã nghe nói: "Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia
đình, tôi sẽ không có con, như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi
nấng một gia đình. Thật quá vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn ! Phải đổ ra biết
bao nhiêu là nước mắt !"
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi ? Khi
tình trạng xấu đến thế ? Bao giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa:
người ta có thể buông trôi hết hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự ; người ta có thể
bỏ cuộc hoặc làm lại ; người ta có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán
chường hoặc lăn xả vào việc tái thiết ; người ta có thể để cho tình hình xuống
cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển
khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra
chúng ta không nên mất thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một
giải pháp có giá trị thôi: đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù
khó khăn trắc trở vẫn không ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà
người ta học biết làm người có trách nhiệm ; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự
lập và giá trị của kẻ khác ; nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập
thể, biết kính trọng và yêu thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ
bản thân mình, cùng với những gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những
điều này, người ta chưa tìm ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta
sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã
viết: "Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của
nhân loại" (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để
cho tiêu tan một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải
làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để
chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc
thân, những khẳng định này có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất
vọng một số người khác. Họ sẽ nói: "Nếu ngài biết ! Nếu ngài đã từng trải
qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói khác". Tuy nhiên, những lời mời gọi
của linh mục là những lời mời gọi của Giáo Hội, là tiếng vọng lại từ chính
những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Ngài thì người nam và người
nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm
cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau
đớn, không vất vả, không gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo
hôm nay mang đầy ý nghĩa về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ:
"Con ơi tại sao con làm cho cha mẹ như vậy ? Con xem, cha mẹ đã phải đau
đớn tìm kiếm con..." Có biết bao nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời
tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không
nản lòng. Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương
yêu và sống trước nhan Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ
đợi nơi các Ngài. Nơi điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ
trên thế giới. Và quá hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho
tất cả các con cái trên thế giới.
15. Thánh Gia
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng
sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm
của Thánh Gia với tượng Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng
ta đào sâu thêm một điểm nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể
thực sự là một tổ ấm, mà trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm
kiếm và thực hành thánh ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành
phầm trong gia đình Kitô ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống
trọn bí tích hôn nhnâ để chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo
mẫu gương của Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có
hạnh phúc thì xã hội mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng
nghe và được nuôi dưỡng bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận
những lỗi lầm chúng ta đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm
đối với cha mẹ, vợ chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh
thiêng vừa qua, thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước
máng cỏ để nhìn ngắm Chúa Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh
Giuse âu yếm bảo bọc, nâng niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng
an bình thư thái của những gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng
ta dễ dàng để ý tưởng tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận
hòa, mọi người yêu thương đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia
hôm nay có lẽ dẫn chúng ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về
với thực tế của những sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể
xảy ra những mâu thuẫn, những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường
như cha mẹ con cái lạc mất nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó
vẫn là sự thật. Sự thật của cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp
những cơn khủng hoảng, đời sống kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày
nay đều khó khăn, sinh hoạt trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người
ai nấy phải sống hối hả, sống vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả,
theo họ dầu muốn dầu không cũng thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục
con cái cũng trở nên trong những việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất
những giá trị cổ truyền trong gia đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái
đối với cha mẹ, sự kính trên nhường dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh,
nhịn nhục... đã bị các trào lưu tân tiến và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận,
những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không đề ra những giá trị mới thay thế
vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng
của gia đình cũng bị lung lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức
tin có chiều sâu, thiếu phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu
cả nước với những cố gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích
Thanh tẩy, Thêm sức và nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những
khó khăn mà các gia đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi
người, mời gọi bạn và tôi đặt câu vấn nạn: "Có phải gia đình chúng ta lạc
mất Chúa Giêsu rồi không ?", đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời
gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse
lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta phải ý thức rằng: đây không phải là một con
đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm
kiếm, trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để
khi gặp lại Con phải nghe câu trả lời khó hiểu: "Tại sao cha mẹ lại tìm
Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con sao ?".
Đức Maria là người đã ghi nhớ những
việc đó trong lòng, chắc hẳn đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của
Chúa Giêsu trong suốt khoảng thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân
thập giá mới hiểu nòng cốt của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm
hiểu sống trọn thánh ý Thiên Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau
tìm hiểu và thực hành thánh ý của Ngài.
16. Suy niệm
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài
đọc trong ngày lễ này: Bài đọc 1: Samuen là một đứa trẻ rất đặc biệt. Bà Anna
nhìn thấy con trai mình như là một ân sủng đến từ Thiên Chúa, một dấu hiệu về
đặc ân mà Thiên Chúa dành cho bà. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên, khi bà
dâng hiến con trai bà cho Chúa. Đến kỳ hạn, Samuen tự mình thực hiện việc hiến
thân đó, và tiếp tục đóng vai trò chính yếu trong lịch sử Israen.
Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều là quà tặng
của Thiên Chúa. Tất cả các bậc cha mẹ đều có hy vọng và mơ ước cho con cái của
họ. Nhưng cha mẹ không thể xác định được tương lai của con cái. Con cái phải
tìm kiếm con đường của bản thân chúng. Ngoài ra, có thể Thiên Chúa có những kế
hoạch khác dành cho chúng ta, trái ngược với kế hoạch của các bậc cha mẹ.
Tin Mừng: Bài đọc này kể lại câu chuyện
về con trẻ Giêsu 12 tuổi tại Giêrusalem. Bài đọc này cho thấy rằng sự hiểu lầm
vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất. Chúng ta có
khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu bị thất lạc tại Đền thờ. Nhưng Chúa Giêsu
không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người ở nhà của Người tại đó.
Chính tại nơi đó, Người bắt đầu tìm kiếm bản thân, và phát hiện được căn tính
đích thực của mình. Người không chỉ là con của Đức Maria, mà còn là Con duy
nhất của Thiên Chúa nữa.
Những tâm hồn cô đơn, lạc lõng, không
nhà đã đến với nhà của Thiên Chúa, hầu như do tình cờ, họ đã đến đây, cảm thấy
nơi đó như ở nhà mình, tìm được sự bình an và gặp được chính bản thân mình tại
đó. Bất kể thế giới có thể nghĩ gì về chúng ta, khi ở trong nhà của Thiên Chúa,
chúng ta biết rằng mình là những người con trai và con gái của Thiên Chúa.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu có căn tính kép,
Người vừa là con của Đức Maria, và cũng vừa là Con của Thiên Chúa. Chúng ta
cũng có căn tính kép. Chúng ta không chỉ là con của cha mẹ chúng ta, mà còn là
con cái của Thiên Chúa nữa. Thánh Gioan nói rất rõ ràng về điều này. Chúng ta
thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta
trước. Chúng ta không cần phải làm gì, để đạt được tình yêu của Thiên Chúa.
Chính bản thân chúng ta đã đủ để Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chính sự hiện
hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Con cái đáp ứng lại tình yêu của cha mẹ bằng cách vâng lời cha mẹ. Cách chúng
ta đáp ứng lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, là tuân theo những
huấn lệnh của Người, đặc biệt là giới răn yêu thương.
Trong sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc và
tìm thấy ở Đền thờ, chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà Đức Maria và thánh
Giuse dành cho Chúa Giêsu. Sau đó, Người trở về nhà Nagiarét cùng với các ngài
và vâng lời các ngài.
Mái nhà là một nơi mà trong đó, chúng
ta được chấp nhận như là chính con người của mình, với những mặt mạnh và mặt
yếu của chúng ta. Sự chấp nhận theo kiểu này giúp chúng ta có được khả năng để
phát triển, với tư cách là con người nhân loại và là con cái Thiên Chúa.
Trong bài tường thuật của thánh Luca về
thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Đức Maria là người duy nhất sẽ hiện diện trong sứ
vụ công khai của Người, và cho đến tận lúc bắt đầu có Giáo Hội. Mẹ được giới
thiệu cho chúng ta như là gương mẫu của người Kitô hữu.
17. Noi gương.
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây
mừng kính lễ Thánh Gia. Vậy các em có hiểu chữ Thánh Gia là gì không? Nghĩa là
gia đình thánh. Vậy gia đình thánh gồm bao nhiêu người ? Có ba người: Thánh
Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Gia đình thánh có thương yêu nhau không ? Chắc
chắn là có rồi. Các em vừa nghe Tin Mừng kể gì về gia đình thánh này? Có phải
là các ngài hành hương lên đền thờ Giêrusalem, rồi khi trở về thì lạc mất Chúa,
khiến thánh Giuse và Đức Mẹ phải chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm đến ba ngày mới
thấy. Thế rồi khi gặp được Chúa Giêsu, Đức Mẹ chỉ hỏi: tại sao con làm cho cha
mẹ phải lo lắng kiếm tìm ? Và sau đó, các ngài trở về Nagiarét chứ không hề
thấy Tin mừng nói thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng Chúa Giêsu phải không ?
Chắc hẳn các em nói rằng: nếu chúng
mình mà như vậy thế nào cũng bị ba mẹ đánh đòn, hay ít ra cũng bị mắng cho một
trận nên thân. Chúa Giêsu thật sướng, cha mẹ Ngài hiền quá và thương Ngài quá.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy ba mẹ chúng ta cũng rất hiền và cũng
rất thương chúng ta. Có cha mẹ nào mà chẳng thương đứa con mình đã sinh ra và
nuôi lớn với biết bao vất vả nhọc nhằn: Suốt cả cuộc đời mỗi người chúng ta từ
khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, lúc nào cũng được cha mẹ yêu thương, ân cần
chăm sóc, dạy dỗ. Có ai trong chúng ta không được hưởng những lời ru êm ái của
mẹ đâu: Dù ta đi trọn kiếp người, cũng không đi hết những lời mẹ ru. Ngoài mẹ
ra, chúng ta còn có ba nữa. Và với ba thì có lẽ còn vui hơn: ba làm tàu lửa, ba
làm xe hơi, ba làm con ngựa để con cưỡi con chơi...Ít có người con nào lại
không có niềm vui được cha cõng trên vai, tay chân nhún nhảy...Các em thấy đó,
ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời cho con.
Vậy tại sao thỉnh thoảng ba mẹ cứ phải
la rầy, có khi còn đánh mắng chúng ta nữa ? Những lúc áy ba mẹ có còn thương
chúng ta không ? Chắc chắn là còn chứ. Các em thử nghĩ coi: một đứa trẻ hay gây
gỗ, phá phách có được ai thương mến không ? Không. Một em học sinh lười, có
được thầy cô và bạn bè thương mến không ? Cũng không luôn...Như vậy là vì không
muốn chúng ta bị mọi người ghét bỏ mà ba mẹ phải la rầy. Không muốn chúng ta bị
bệnh, bị tai nạn mà ba mẹ phải đánh đòn để chúng ta biết sửa lỗi...
Còn về Chúa Giêsu trong bài Tin mừng
hôm nay, tại sao không bị thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng ? Thứ nhất vì các ngài
tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, như vậy là Chúa Giêsu rất ngoan, rất vâng
lời. Ngài không chạy chơi ngoài đường như chúng ta. Thứ hai vì khi được hỏi
Chúa Giêsu không hề chối quanh để chạy tội, nhưng Ngài nhận ngay: Con ở lại để
lo việc của Cha Con, tức là việc của Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu rất thật thà
và đạo đức. Thứ ba vì khi tìm được Chúa Giêsu, các ngài thấy Chúa đang ngồi
nghe và hỏi các thầy Rabbi. Như vậy Chúa Giêsu cũng rất chăm học phải không ?
Các em thấy: một đứa trẻ vâng lời, thật
thà, đạo đức và chăm học như vậy thì chẳng có lý do gì để cha mẹ phải la mắng
cả. Vậy nếu các em muốn ba mẹ mình luôn hiền lành dịu dàng như thánh Giuse và
Đức Mẹ, thì các em cũng phải luôn cố gắng sống ngoan ngoãn như Chúa Giêsu.
18. Mẫu gương gia đình hạnh phúc.
"Phúc thay người ở trong thánh
điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài" (Tv 84,5)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia,
chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc khi được sống dưới sự bảo trợ của Thánh Gia.
Xét về phương diện quyền thế, không ai sánh được với ba Đấng. Chúa Giêsu chính
là "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi". Ngài là 'hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì trong Ngài vạn vật đã được tạo
thành...' Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự tồn tại nơi Ngài. Và Ngài là
đầu của Thân Mình tức là Hội Thánh. Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong
nhân, ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ nhất vô song... Và Ngài đã giảng hoà cả
vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ Bửu Huyết đổ ra nơi Thập
Giá, cho mọi vật trên trời, dưới đất (Cl 1,15-20). Bản văn này gợi lên trong
chúng ta niềm hân hoan tin tưởng, bởi vì Đấng bảo trợ chúng ta là Thiên Chúa,
là Vua vũ trụ, mọi quyền trên trời, dưới đất đều ở trong tay Ngài. Chính Ngài
nắm trong tay chìa khoá tử thần và âm phủ. Chính Ngài là Đấng ngự bên hữu Chúa
Cha để cầu bầu cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn là nguồn mạch sự sống, Ngài
đã đến để ta được sống và sống dồi dào (Ga 1,4; 14,5)
Đức Maria chính là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ
Vương các thiên thần và các thánh, nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ nhân loại,
là Mẹ của từng người chúng ta. Người chính là tình yêu xả kỷ, hy sinh, thương
xót và tha thứ. Sống bên Người bao giờ chúng ta cũng tìm được ơn nghĩa cùng
Chúa, vì theo lời thánh Bênađô: 'tất cả mọi ơn lành đến với chúng ta đều qua
tay Đức Maria'.
Còn thánh Giuse là người đã được nhìn
tận mắt, sờ tận tay Đấng mà các tổ phụ và các tiên tri hằng mong đợi. Hơn nữa,
trước mặt Thiên Chúa và nhân loại, công lao của Ngài thật vĩ đại, vì chính Ngài
đã tận tâm bảo vệ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu là của lễ hy sinh đền tội thế gian và
là Bánh nuôi sống linh hồn tín hữu cho đến ngày tận thế.
Dĩ nhiên chúng ta nhận Thánh Gia làm
bổn mạng là để cậy nhờ, nhưng nhất là để noi gương, như mẫu mực cho đời sống
chúng ta.
Gia đình là tế bào nền tảng của xã hội.
Tội đã nhập vào gia đình thứ nhất và phá hoại nhân loại. Thiên Chúa muốn cải
tạo xã hội nhân loại khi phái Con Một Ngài đến trong một gia đình nhân loại.
Nagiarét là trường học lý tưởng cho mọi gia đình. Ở đó có mọi nhân đức cao quý
của đời sống gia đình: cả ba đều hoàn toàn trinh khiết, cả ba đều cao trọng
nhưng lại tuyệt đối khiêm tốn và vâng phục, bởi vì cả ba đều tìm thánh ý Thiên
Chúa.
Nagiarét cũng là trường học của đức bác
ái. Vì trong đó cả ba đều quên mình để nghĩ đến người khác, tận tuỵ phục vụ
người khác. Thánh Giuse âm thầm làm việc không quản nhọc nhằn, Đức Maria chăm
lo việc nội trợ, Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với cha mẹ.
Cũng tại Nagiarét chúng ta tìm lại được
giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của
Chúa trong nhà Nagiarét không hề kém giá trị cứu rỗi hơn việc rao giảng Tin
Mừng hay cuộc tử nạn của Ngài, vì trong mọi sự Ngài đều tìm đẹp lòng Thiên
Chúa.
Chúng ta cũng có thể và phải tham gia
công cuộc cứu rỗi nhân loại bằng chính đời sống chúng ta, trong việc thực thi
thánh ý Thiên Chúa, trong sự dấn thân phục vụ, trong cầu nguyện âm thầm và hy
sinh. Sống được như thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.
19. Mái ấm tình thương
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa
địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn,
khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: "Chỗ này không phải chỗ con ta ở". Rồi dọn
nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn
bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại
nói: "Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở". Bèn dọn nhà đến ở cạnh
trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ
đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ
mới vui lòng nói: "Chỗ này là chỗ con ta ở"
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm
giết heo, về nhà hỏi mẹ: "Người ta giết heo làm gì thế?" Bà mẹ nói
đùa: "Để cho con ăn đấy". Nói xong, bà nghĩ lại, hối hận: "Ta
nói lỡ rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra
ta dạy nó nói dối hay sao?". Rồi bà đi mua thịt heo, đem về cho con ăn
thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học,
bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt
tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: "Con đang đi học, mà bỏ học, thì
cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy". Từ ngày đó, thầy
Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ
công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao?
Thánh Gia là mẫu gương giáo dục tuyệt
vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện. Thánh Gia là trường
huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Thánh Gia là chuẩn mực chính xác nhất
cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Thánh Giuse đích thực là một người cha:
sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình
chăm lo cho trẻ Giêsu cùng Mẹ Maria. Người làm chủ gia đình với tinh thần trách
nhiệm cao và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu
trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là
người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ
Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu:
"Hằng vâng phục cha mẹ" Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự
khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc "bổn phận ở nhà Cha".
Gia đình là nền tảng của xã hội: Gia
đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia
đình. Noi gương Thánh Gia, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên
dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương
đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba
năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là
trường dạy cầu nguyện, dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê
nghèo hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi
bình thường, nhưng cũng rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu
thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười
vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý
quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia
đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc
nào cũng có Chúa ở giữa thánh Giuse và Đức Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều
mời được Chúa đến ở trong gia đình, thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng
ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu
gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia
đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là
mẹ, là chồng, là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: "Người làm vợ hãy
phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng
hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong
mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái
bực tức, kẻo chúng ngã lòng" (Cl 3,18-21).
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng
con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia, làm khuôn mẫu cho mọi
quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia
đình, và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
20. Bí quyết hạnh phúc gia đình
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn
dành cho đài BBC, công chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch hết
câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến
nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường,
thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền
tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu
là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự
giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được
khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm
ngắm Thánh Gia để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình
khác, Thánh Gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn
lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh
đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng
súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một
cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức
Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh.
Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh Gia, ngày nay các gia
đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái
nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác.
Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh Gia, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương
nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia
đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn
đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo, Thánh
Gia còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng
phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng
bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những
luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia
đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị...
Thánh Gia đã vượt qua được sóng gió nhờ
niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí
quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia.
Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là
mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa
Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia
đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là
một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.
21. Kiểu mẫu của mọi gia đình
Trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn thế
giới, Đức Gioan Phaolô II nêu cao: Con Thiên Chúa đã chọn lựa đi vào trần gian
trong một gia đình là gia đình Nagiarét. Trong mùa Giáng Sinh, đôi mắt chúng ta
vui mừng khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Gia, cũng như trẻ em hân hoan khi nhìn
về máng cỏ và nhận ra nơi đó một kiểu mẫu cho gia đình chúng.
Gia đình Nagiarét quả là kiểu mẫu của
mọi gia đình. Chúa Giêsu đã có một khung cảnh thích hợp để trưởng thành, Ngài
đã được nuôi dưỡng và giáo dục bởi hai vị thánh là Đức Maria và thánh Giuse.
Nói như thế không có nghĩa là gia đình này không có vấn đề. Chúa Giêsu đã không
được sinh ra trong những điều kiện bình thường, cha mẹ Ngài đã phải đi gõ cửa
từng quán trọ; không bao lâu sau ngày Chúa Giêsu sinh ra, cả ba lại phải lên
đường trốn sang Ai cập; mười hai tuổi Ngài lạc mất trong Đền thờ; cuối cùng
thảm thương nhất đối với gia đình này hẳn phải là cái chết của Chúa Giêsu trên
Thập giá.
Cũng như mọi gia đình trên trần thế
này, Thánh Gia đã phải trải qua nhiều vấn đề. Tuy nhiên Thánh Gia là một gia
đình đặc biệt. Ngày nay các nhà xã hội học đưa ra một lý do giải thích: Đây là
một gia đình Do thái. Quả thế tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới,
gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi
là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm
tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa,
người cha chúc lành cho con cái. Lớn lên, con cái có thể chê trách người cha
của họ về nhiều thiếu sót, nhưng không bao giờ chối bỏ vai trò đại diện Chúa
của người cha.
Có bao nhiêu người cha Công Giáo đóng
trọn vai trò trong gia đình như thánh Giuse đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có
bao nhiêu người cha Công Giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có
bao nhiêu người cha chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao
người cha hy sinh cho gia đình, cho con cái, nhưng họ chỉ là những bóng mờ
trong gia đình. Trái lại, nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình,
thì quả thực niềm vui trong gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói
đó là bí quyết của Thánh Gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha
trong gia đình.
Lời Chúa Giêsu nói với cha mẹ Ngài đáng
cho chúng ta suy nghĩ: "Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà cha con
sao?". Được ở trong nhà cha, luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên
Chúa trong gia đình, đó là bí quyết hạnh phúc gia đình mà Chúa Giêsu muốn chỉ
cho mọi gia đình. Thật thế, chỉ trong niềm tin, con người mới có thể vượt qua
được mọi khó khăn thử thách trong đời sống gia đình; chỉ trong niềm tin vào
Thiên Chúa là Cha, nói như thánh Phaolô, con người mới có thể sống hiền lành,
khiêm nhường, chịu đựng lẫn nhau.
Chúng ta hãy hướng về Nagiarét, nơi
Chúa Giêsu đã từng lớn lên như một con người biết vâng phục cha mẹ và càng khôn
lớn thì càng được Thiên Chúa và người đời thương mến. Sự vâng phục của Chúa
Giêsu đối với cha mẹ Ngài là một thể hiện của chính sự vâng phục của Ngài đối
với Chúa Cha: Ngài đã vâng phục và vâng lời cho đến chết. Đó là bí quyết của
đời sống gia đình mà Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại: Ngài luôn sống kết
hiệp với Chúa Cha. Chính sự kết hiệp này đã giúp Chúa Giêsu sống vâng phục cha
mẹ Ngài, và chính ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Chúa
Giêsu đã giúp cho Đức Maria và thánh Giuse vượt qua được bao khó khăn của cuộc
sống gia đình.
Chúng ta cầu xin gì trước Hài Nhi Giêsu
trong máng cỏ, nếu không phải là niềm tin, một niềm tin vào sự hiện diện và
tình yêu của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể thắng vượt mọi cám dỗ thử thách
trong cuộc sống.
Sưu tầm