26 NĂM LM ĐC NGÂN , ĐC THIÊN VÀ QUÝ CHA |
PHÁT DIỆM ĐĂNG CAI ĐH. GIỚI TRẺ 2014 |
CHÚA NHẬT 3 MÙA
VỌNG A
Lời Chúa: Is
35,1-6a.10; Gc 5,7-10; Mt 11,2-11
MỤC LỤC
1. Vở kịch dang
dở
2. Đấng sẽ đến
3. Dung mạo Đức
Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
4. Suy niệm của
ĐGM. GiuseVũ Duy Thống
5. Còn phải đợi
ai?
6. Kiên nhẫn
đợi chờ!
7. Hãy để việc
làm minh chứng về Ta
8. Vững tâm –
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
9. Đấng phải đến
10. Vở kịch còn
dang dở – Lm. Mark Link
11. Đấng phải
đến
12. Phi thường
13. Một đức tin
luôn luôn đứng vững – Achille Degeest
14. Mùa Vọng
của đức tin
15. Gioan Tiền
Hô
16. Đấng phải
đến
17. Đấng phải
đến
18. Sứ giả của
Thiên Chúa
19. Suy niệm
của JKN
20. Thầy có
thật là đấng phải đến không?
21. Chú giải
của Noel Quesson
1. Vở
kịch dang dở
Có một văn sĩ,
khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ
là khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như
thế nào thì chưa một ai được biết.
Toàn bộ Cựu Ước
cũng giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề
xuất hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới
chỉ là sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được
biết.
Từ bối cảnh
này, chúng ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan
có một khúc nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua
lại để buôn bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao
giảng và rửa tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có
phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?
Và qua đoạn Tin
Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân
chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước
Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ
cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải
đợi một Đấng nào khác?
Để trả lời cho
vấn nạn này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng
Cứu Thế, Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người
mù được thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ
đích của Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết
Ngài là ai? Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập
vương quốc của Ngài ở trần gian.
Tuy nhiên, như
chúng ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài
trao phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương
quốc của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh
quang để phán xét chúng ta về công việc này.
Hiện giờ chúng ta
đang sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ
chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào
công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.
Nói một cách cụ
thể hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình
thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng
cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa.
2. Đấng
sẽ đến
Thầy có phải là
Đấng sẽ đến hay không?
Như chúng ta đã
biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ
thế giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra
câu hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng
nào khác?
Câu hỏi này
thoạt xem ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn
đường của Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông
Giođan ông đã chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa
cho Ngài. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự
kiện lạ lùng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa
Thánh Thần, ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được
loan báo từ những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và
phản lại những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan
trọng. Quan trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ
chi nữa, nhưng quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân,
lưỡng lự và chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc
câu trả lời và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan
mọi thứ nghi ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ
Ngài làm là một lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù
được thấy, kẻ què được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan
báo Tin Mừng. Và sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái
luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng
chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở
trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta
đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không
vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu
thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha
Gioan XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian
sẽ sắp đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa,
cũng như giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã
được thực hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu
người ta tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo
hoàng. Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết
định triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một
luồng sinh khí mới.
Thánh Giacôbê
tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa
đến. Như người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của
đồng ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê
luôn cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa
dối những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận
chúng ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu
thoát.
3. Dung
mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan
Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực,
cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê
Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công
kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục
Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của
Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây
ngỡ ngàng cho ta: "Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải
chờ đợi một Đấng khác?".
Thật lạ lùng
đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ
Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho
thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo.
Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang
của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân
thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan
Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại.
Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn
ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm
sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa
đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế
mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực,
Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: "Người không bẻ
gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói". Gioan Tiền Hô loan
báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu
nói: "Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa".
"Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc". Thật là trái ngược.
Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân
thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược
đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính
nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết
rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông
tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của
Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm
của Isaia còn rành rành: "Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù
nhân". Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không
phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được.
Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường,
lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu:
"Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng
khác?" Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời
Gioan.
Trước câu hỏi
ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật
cho Gioan những việc Ngài làm: "Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người
cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin
Mừng".
Với câu trả lời
ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời
cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế
không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một
hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế
không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh
thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế
không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một
lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ
người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế
không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm
thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế
không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội.
Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên
lề xã hội.
Câu trả lời của
Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về
dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng:
Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây
dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm
cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình
dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn
quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những
việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu
bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón
Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa.
Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành
công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm
thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo
nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt
tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi
đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa
trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Đức Thánh
Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của
Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2) Bạn muốn một
Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3) Bạn nghĩ gì
về những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4) Bạn phải làm
gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé
hằng ngày?
4. Suy
niệm của ĐGM. GiuseVũ Duy Thống
MÙA VỌNG: MÙA
MÀU HỒNG
(Trích trong
'Nút Vòng Xoay' – trg. 19)
Nếu khởi đầu
Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng
vào mình và hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì
ở giữa lòng Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng
lực mới cho một cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn
tả bằng một niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để
cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu hồng.
Nhưng không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng
không phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà
chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên
sức sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi
tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng
đem lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.
Không phải vô
cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình "Hãy vui
lên!" cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng
là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật
lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau,
mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời
sống Kitô hữu. Có hy vọng là có niềm vui.
Bởi có hy vọng
nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời
theo kiểu "cũng liều nhắm mắt đưa chân" trôi nổi vật vờ theo dòng
nước cuốn, mà là đón nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ
không chấp nhận nhìn môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết
nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và
làm con Chúa. Cho dẫu cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao.
"Trong khi chưa có được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những
điều mình đang có". Tôi muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn
chỉ là những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng
cách nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy
vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong đại dương không
ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ khách cô đơn.
Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành và đồng hành
cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về. Cũng giống như tình yêu, hy vọng là
rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác, không ai có thể cho cái mình không có,
nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình không biết cho
đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi
thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi
vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên
niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với
niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ
tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc,
nhưng đã hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm
hy vọng.
Chắc cộng đoàn
còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba
mươi ba ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh
của một Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài
miệng. Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương:
vui vẻ là một nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp
vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống
tốt hơn, Mẹ bảo: "Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm
cảm thực tại Thiên Chúa".
2) Niềm hy vọng
đem lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.
Những lúc an
bình, niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách,
niềm hy vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ
được xem là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự
chiến đấu trước những thách đố không thiếu trong đời.
Có những thách
đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu hỏi
"tại sao?" khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu hỏi tại
sao của Cựu Ước: "Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ
phây phây?". Như câu hỏi của thánh Phaolô: "Tại sao điều tốt muốn làm
tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?". Như câu
hỏi về Giáo Hội: "Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử
vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?". Như câu hỏi của các bạn trẻ
Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: "Tại sao Thiên Chúa
tốt lành mà trong tạo thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?". Như câu
hỏi của báo chí: "Tại sao người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không
biết yêu thương nhau?". Hay như câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng
mình: "Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như
cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?" Những câu hỏi ấy được đặt ra và còn được đặt
ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp; nhưng sẽ không
có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn
chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.
Có những thách
đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa giáo lý tốt
lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống thực dụng
của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và
phổ biến nhất vẫn là thái độ "mackeno" dửng dưng với đạo của một số
kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ
thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định
niềm tin.
Và cũng có
những thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng, như
sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất
bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là
hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn
cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.
Trọn trang Tin
Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng
về một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về
Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan
hòa nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào
giữa lúc mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi
môn đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách
đố ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không
phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất
khuất của lẽ cậy trông.
Niềm hy vọng
chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách
đố biết kiên vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với
hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống
của tín hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn
cả chính nỗi niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không
chỉ là thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn
no thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.
Và như thế,
thiết tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?
Bài đọc thứ
nhất nhắc nhở "Đừng sợ". Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi
ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân. Cũng đừng sợ
mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng cùng sống với ta
và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá
nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời. Điều đáng sợ đáng ngại và đáng
đau khổ nhất là "thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người",
nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc
danh lợi thú.
Bài đọc thứ hai
khuyến khích "Hãy vui lên!" Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn
cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp sáng cho anh em
mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc "nghĩ gì vui thế mà cười một
mình" như Trần Tiến trong ca khúc "Thành phố trẻ", mà còn để
chuyển tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn
phim "Cuộc đời Chúa Cứu Thế" chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến
cố lên trời và lời trao sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn
ảnh một chân dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng
hoàng. Không biết dụng ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng
phấn khích, vừa đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa
hy vọng.
Mong rằng nụ
cười thật lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể
hiện niềm hy vọng. Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của
niềm vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật
tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.
5. Còn
phải đợi ai?
(Trích từ
'Manna')
Suy Niệm
"Anh em ra
xem gì trong hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn
không phải để xem một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung
lay, khuất phục. Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ
có áo lông lạc đà và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả,
vì ông ở đỉnh cao kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô
cho dân Israel.
Đối với ông,
Đức Kitô là Đấng mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x. Mt 3,11).
Ngài như người cầm rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x. Mt
3,10). Ngài còn như người cầm nia sàng sảy (x. Mt 3,12), thóc lép thì cho vào
lửa, thóc mẩy thì thu vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x. Mt
3,11).
Quả thực Ngài
là vị thẩm phán đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.
Khi ở tù, Gioan
vẫn nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông
đã loan báo. Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.
Đức Giêsu kín
đáo cho thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ
Isaia loan báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một
Mêsia xót thương cúi xuống người đau khổ.
Gioan đứng
trước một thách đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu
không đổi, ông chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là
Kitô, là Mêsia. "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Phêrô cũng đã
vấp ngã sau khi tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia
chịu đau khổ. Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời
ông loan báo (x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra
để đón lấy Thiên Chúa bất ngờ.
Ngài không như
điều ta tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược với điều ta rao giảng.
Gioan đã vượt
qua chính mình khi nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga
3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn
phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình
về Đấng Mêsia.
Mùa vọng là
thời gian chờ đợi Chúa đến.
Ta nghĩ Chúa
đến một cách ồn ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.
Ta tưởng Chúa
đến qua những đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.
Ta chờ Ngài
những câu trả lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi!
Xin cho chúng
ta đừng đi tìm Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa
thích chơi ú tim với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài
luôn vượt quá điều ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?
Đức Giêsu đã kể
ra những việc Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý
bạn, đâu là những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi
chẳng còn gì, nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn
trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người
trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi
chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi
ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và
thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
6. Kiên
nhẫn đợi chờ!
(Trích từ 'Bước
Theo' – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa
quý vị, Mùa Vọng đã đi hơn nửa chặng đường, tâm tình Mùa Vọng cũng làm cho
conngười trĩu nặng, bởi đặc tính của nó. Chúng ta thấy ngay tâm tình đó của
Gioan Tiền Hô, người mang trọng trách loan báo Đấng Cứu Thế. Ông Gioan đang
ngồi tù, chúng ta biết: "nhất nhật tù....", chúng ta hãy đặt mình vào
hoàn cảnh hiện tại của Gioan. Vâng, chính ông cũng nghĩ rằng: Đấng Cứu Thế sẽ
đến trong uy quyền mạnh mẽ, một dũng lực siêu phàm, đánh tan những thế lực chống
đối. Nhưng, ông thấy Đấng Cứu Thế, sao mà có vẻ yếu đuối thế, như vậy sứ mạng
Tiền Hô của ông có lẽ sẽ mai một chăng? Thật vậy, Gioan đang mang tâm trạng của
những ai chưa biết về Chúa Giêsu mà làm chứng về Người. Thật vậy, không ai có
thể nói về Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần của Người. Thật vậy, đoạn Tin
Mừng (Mt 11,2-11) hôm nay có thể chia làm 3 phần:
- Ông Gioan
Tiền Hô muốn biết về Đấng Cứu thế (c 3)
- Chúa Giêsu
khen Gioan (c 9- 11a)
- Chúa Giêsu
mặc khải vể Nước Trời (11b -12).
Vâng, nhưng
thật ra,điểm chính của đoạn Tin Mừng hôm nay là sự so sánh giữa hai nhân vật,
chính là Gioan Tiền Hô và Đấng Cứu Thế.
Dù là rất thành
công trong sứ mạng Tiền Hô của mình, nhưng Gioan là một phàm nhân do lòng mẹ
sinh ra. Tuy nhiên, nhân vật Gioan hết sức khiêm tốn, ông luôn giữ đúng vị trí
của mình, không mạo nhận là Đấng Cứu Thế. Bản thân ông không làm được những
điều kỳ diệu. Vì vậy, khi nghe Chúa Giêsu làm những việc lạ thường, thì ông
muốn xác định cho rõ ràng, để khỏi nhầm lẫn.Chính ông cũng như bao nhiều người
khác, nghĩ rằng Đấng Cứu Thế xuất thân từ dòng dõi Vua Đavit, nghĩa là phải có
binh hùng, tướng mạnh. Chứ không lặng lẽ, âm thầm đến độ "tầm thường"
như vậy. Nên cho người đến hỏi thẳng Chúa Giêsu.Nhưng Chúa Giêsu không vỗ ngực
xưng tên, mà là trả lời một cách: "cứ nhìn quả thì biết cây". Vâng,
và Chuá Giêsu đã trả lời cho môn đệ của Gioan bằng cánh nhắc lại lời của Isaia
xưa: "Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng." (c5).
Vâng! Đây chính
là sự khác nhau giữa Đấng Cứu Thế và Gioan Tiền Hô. Và cũng chính vì vậy, mà
Chúa Giêu đã khen Gioan, vì ông là người công chính, sự công chính của ông vượt
trên mọi sự công chính của phàm nhân. Điều nầy không phải do công trạng của
Gioan, mà là do chân lý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khen Gioan không phải vì
Gioan,mà là do bởi chương trình Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Vì chính Gioan muốn
xác định Đấng Cứu Thế do chính bởi Đấng Cứu Thế.
Lại thêm một
lần nữa, Chúa Giêsu mặc khải về Nước Trời, theo đó, Chúa nói: "kẻ nhỏ bé
trên Nước Trời, thì còn cao trọng hơn Gioan..." (c 11b). Câu nầy không
phải Chúa Giêsu muốn hạ bệ Gioan, mà là Chúa muốn xác định sự thật. Câu nầy có
hai ý quan trọng:
1/ Cho muôn thế
hệ hiểu về Nước Trời. Nước Trời là một điều gì đó mạnh mẽ hơn, cố gắng hơn và
cam go hơn. Có nghĩa là Nước Trời là một sự phấn đấu không dừng. Vì thực sự
Gioan không phải là siêu phàm, mà cũng chỉ là một phàm nhân. Nhưng "phàm
nhân ấy" trổi vược trên thảy phàm nhân, phàm nhân trên hết phàm nhân.
Những kẻ nhỏ bé trên Nước Trời là sự siêu phàm. Mặc nhiên siêu phàm thì hơn
phàm nhân.
2/ Theo đó,
Nước Trời dành cho những ai "mạnh sức", vì phải chiến đấu cam go.
Nhưng như thế, liệu có mâu thuẫn với sự nhỏ bé không? Thưa không, vì sao? Thưa
vì, sự nhỏ bé về hình thể cũng như kích thước trên Nước Trời không giống như
trần thế. Như gương Thánh nữ Teresa Hài Đồng chẳng hạn.
Và như vậy, vấn
đề mà Gioan thắc mắc về Đấng Cứu Thế, đã được giải đáp qua câu Lời Chúa nầy.
Như vậy, ba bài
đọc Thánh Kinh hôm nay trình bày ý nghĩa của tâm tình Mùa Vọng tuần thứ III đó
là:
Mong đợi Thiên
Chúa, hay là mong đợi ơn Cứu Chuộc là một hành trình tiệm tiến. Tiến một cách
dần dần theo Thiên định chứ không theo ý muốn của loài người.
Thiên Chúa đã
hiện diện trong thế gian bằng mầu nhiệm Nhập Thể Hữu Hình, để thu về những linh
hồn nhỏ bé trong Nước Trời. Theo đó, ngày quang lâm chung cũng như riêng của
từng cá nhân sẽ đến, hoặc ngay hôm nay, hoặc ngày mai. Ngày mà Đấng Cứu Độ sẽ
không đến như lần thứ I, mà là sẽ đến trong vinh quang của Thiên Chúa. Sự đợi
chờ kiên nhẫn, là sự bình an của Thiên Chúa.
Tâm trạng của
Gioan cũng là tâm trạng của người Dothai mang đợi ĐẤNG Cứu Chuộc đến. Lời giáo
huấn của thánh Giacobe Tông Đồ (Gc 5, 7 -10) hôm nay, nhắc nhở cho chúng ta về
sự kiên nhẫn đó. Sự kiên nhẫn đón chờ Chúa đến lần thứ II trong cuộc đời mỗi
người, là một sự mong chờ đích thực vậy. Đây là một Mùa Vọng duy nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến lần thứ I, mang lấy sự yếu hèn của nhân loại, đó là mặc lấy kiếp
phàm nhân, để cứu chuộc phàm nhân. Từ hang đá Bethlehem, đến hành trình Nhập
Thế ba mươi ba năm, và sau cùng chịu tử nạn trên Thập Gía. Ôi! Tất cả Hành
Trình đó là để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Xin Chúa thương ban cho con
người biết nhận ra tình Chúa cao vời, mà đáp đền muôn một, bằng cách nhận ra
tình Chúa đối với nhân loiại, để họ được sống và sống dồi dào. Amen
7. Hãy
để việc làm minh chứng về Ta
(Suy niệm của
Lm. Ignatio Trần Ngà)
Chỉ có nếp sống
yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy
họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu.
Qua lời rao
giảng của mình, ông Gioan đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị
thẩm phán uy nghi đáng sợ; Ngài đến để xét xử và trừng trị nghiêm khắc những
lỗi phạm của con người. Ông gióng lên những lời răn đe nẩy lửa: "Chiếc rìu
đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa...
Ngài cầm nia trong tay mà sẩy sân lúa của Ngài, lúa tốt thì cho vào kho, còn
lúa lép thì đốt đi trong lửa không hề tắt" (Mt 3, 10.12).
Vậy mà từ bấy
lâu nay, Gioan chưa từng thấy Chúa Giêsu trừng phạt bất cứ tội nhân nào; chưa
thấy Ngài kê "rìu" để đốn hạ những "cây không sinh trái";
chưa từng thấy Ngài loại trừ phường gian ác như những thứ "lúa lép"
và "thiêu đốt họ trong lửa không hề tắt"...
Ngoài ra, theo
như mong đợi của dân Do-thái, khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ tiêu diệt quân thù,
giải thoát những ai bị giam cầm tù tội... Vậy mà Chúa Giêsu đâu có đánh đuổi
quân xâm lược Rô-ma, chưa thấy Ngài giải thoát kẻ bị xiềng xích tù đày...
Thế là trong
tâm tư của ông Gioan phát sinh một nghi vấn. Vì vậy, ông phái các môn đệ đến
gặp và hỏi thẳng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Trước câu hỏi
của Gioan, Chúa Giêsu không dùng lời nói nhưng dùng chính việc làm để minh
chứng về mình, như có lần Ngài đã nói: "Công việc tôi làm nhân danh Cha
tôi làm chứng về tôi (Gioan 5, 36).
Vì thế, Chúa
Giêsu chỉ cho các môn đệ của Gioan thấy những việc Ngài đang làm và bảo họ:
"Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng..."
Từ ngàn xưa,
Ngôn Sứ I-sa-i-a đã tiên báo rằng khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ cho
"người mù được thấy, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như
nai..." (Is 35, 10...).
Gioan là người
am hiểu lời các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai và thấy rằng Chúa Giêsu
đã thực hiện đúng như lời ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo như trích dẫn trên đây,
tất nhiên Gioan biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ I-sa-i-a
đã loan báo.
Như vậy, chính
việc làm của Chúa Giêsu minh chứng cho biết Ngài là Đấng cứu thế.
Hôm nay, người
đời cũng thường chất vấn chúng ta như xưa kia, môn đệ của Gioan đã từng chất
vấn Chúa Giêsu. Họ hỏi chúng ta: "Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu
không?"
Trước câu hỏi
nầy, chúng ta không thể đáp gọn: "Phải, tôi chính là môn đệ của Thầy
Giêsu", vì một câu trả lời suông mà chẳng dựa trên cơ sở nào cả thì chẳng
thuyết phục được ai.
Người khôn
ngoan và thận trọng không dễ tin vào lời tự khẳng định của người khác nhưng căn
cứ vào việc làm. Chính việc làm của từng người sẽ chứng tỏ cho người khác biết
bản chất của người đó.
Thế thì, trước
câu hỏi: "Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không", chúng ta cần
dựa vào câu đáp của Chúa Giêsu trước thắc mắc của các môn đệ Gioan, (Ngài nói:
"Hãy về thuật lại cho ông Gioan những gì tôi đã làm...") để đáp lại
như sau: "Các bạn hãy xem công việc tôi làm... Các bạn cứ nhìn vào lối
sống của tôi thì biết...
Đúng vậy, chỉ
có nếp sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi
người thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, như Lời Ngài dạy: "Người
ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương
nhau" (Gioan 13, 35).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng
con biết sống thế nào để cho việc làm của chúng con không tố cáo chúng con là
người môn đệ giả, nhưng luôn minh chứng cách thuyết phục rằng chúng con đích
thực là môn đệ chân chính của Chúa. Amen.
8. Vững
tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào một ngày
đẹp trời, có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa
đến. Tình cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái
banh và mở lời làm quen: "Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này,
ông đang chờ đợi ai vậy?" Ông nói: "Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu
được điều ông mong đợi." "Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì
trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ hơn." Nghe cô bé nói thế, ông liền
thổ lộ tâm tình: "Ông đang chờ đợi Chúa đến." Cô bé kinh ngạc, ông
già giải thích: "Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên
Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à." Bấy giờ cô bé lên tiếng:
"Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi: Mỗi khi
ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi... Chúa cho ông
dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở
trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây."
Thiên Chúa vô
hình hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài
đã chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được
hé mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một
chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên
tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân
chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: "Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ
vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan." (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa
trơ trọi, khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia
hy vọng của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm
khổ ải qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: "Hãy
can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng;
chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi." (Is 35,4).
Trong bất cứ
một dự kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi
sự diễn tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt
thời gian. Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: "Anh
em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu
quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu." (Gc 5,7). Hình
ảnh của bác nông phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và
chính xác. Chính xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên
nhẫn đợi chờ là một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống
Giáo Hội trên trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và
trưởng thành. Thời gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống
của con người theo sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không
thể đi những bước nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu
từng bước.
Sự kiên tâm
sống đạo đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện
tính và tập tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng
ta không gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội
và hội đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và
tu thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm
những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ
luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để
rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh
nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay
thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề
ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều
khuynh hướng hành đạo giống như kiểu 'mì ăn liền'. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ
các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin
đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành.
Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.
Ông Gioan Tẩy
Giả đang bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng
Cứu Thế hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: "Thầy có phải là
Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" (Mt 11,2).
Ông Gioan muốn các môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa
không chỉ cho riêng ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm
nhận diện ra sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các
dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo họ: "Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông
nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi,
người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ
nghèo khó." (Mt 11,4-5). Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã
loan báo về Ngài.
Các dấu hiệu từ
trời cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi
trường và chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo
thiên lập địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực
hiện các phép lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên
Chúa cũng trao ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh
Gioan Vianney, Piô Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier...,
các ngài có thể thực hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là
những người có đời sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm
đắm trong ân sủng của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất
hiếm xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của
Tin Mừng cứu độ. Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá
chính mình để chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và
những nhà làm ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng
ta phải luôn cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân
này. Họ không phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn,
mà chỉ có thể tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời
chóng qua.
Chúa Giêsu xác
nhận Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: "Phải, Ta bảo các ngươi, và
còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: 'Này Ta sai sứ thần Ta đi
trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con.'" (Mt 11,10). Gioan được vinh dự
giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội
trần gian. Biết bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ
nhưng có mấy người nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo
Chúa, có người chỉ tò mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân
huệ và có người ùa theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi
theo Chúa để thực sự đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng
của chúng ta cũng chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy
gẫm thật nhiều lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao
sự lạ lùng trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.
Lạy Chúa, đời
sống đạo của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội
lạnh và mệt mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước.
Chúng con chỉ tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là
mong tìm ơn cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: "Anh em đừng kêu trách lẫn
nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa." (Gc
5,9).
9. Đấng
phải đến
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Gioan Tẩy Giả
là một nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng
ta đã nghe Gioan Tẩy Giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán chí
công, thưởng phạt nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng
đối với những người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải.
Nhưng rồi, khi
Chúa Giêsu đến, Gioan Tẩy Giả đã thất vọng, vì ông chẳng thấy có gì là kinh
hoàng như ông đã loan báo trước. Đang lúc đó chính Gioan Tẩy Giả lại phải ngồi
tù, vì đã ăn ngay nói thẳng. Thật là trớ trêu!
- Gioan Tẩy Giả
đã loan báo sai chăng?
- Hay là Chúa
Giêsu chưa phải là Đấng Cứu Thế thực sự phải đến mà còn phải chờ đợi ai khác
nữa?
Gioan sai các
môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một lần cho rõ: Xin Thầy nói thật cho chúng tôi:
"Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào
khác nữa?". Để trả lời Gioan và các môn đệ, Chúa Giêsu đã mượn lời Ngôn sứ
Isaia loan báo về Đấng Cứu Thế: "Người mù được thấy, người què được đi,
người phong hủi được sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại...".
Thì ra Chúa Cứu
Thế đến "không phải để xét xử luận phạt, nhưng để tìm kiếm và cứu chữa
những gì đã hư hỏng". "Ngài đến không phải để kêu gọi người công
chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi sinh hoạt ăn năn". "Ngài đến để
cho con người được sống và được sống dồi dào". "Và Ngài còn đến không
phải để được người ta hầu hạ phục vụ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống cứu
chuộc loài người".
Bao lâu còn
quan niệm như Gioan Tẩy Giả, còn chờ mong Chúa đến can thiệp kiểu vua chúa trần
gian để áp đặt một quyền lực, chúng ta sẽ mãi mãi ảo vọng. Trong khi Gioan Tẩy
Giả và dân Do Thái mong một Đấng Cứu Thế đến tái lập uy quyền và vinh quang
Thiên Chúa, thì Thiên Chúa lại chỉ mãi lo cho vinh quang của con người, ưu tiên
cho những con người bị coi rẻ nhất: người mù, người què, người điếc, là những
hạng người phải ăn mày để sống, ăn mày sự sống với những người quyền thế giàu
có vẫn coi thường khinh bỉ họ, và nắm quyền sinh tử trên họ. Ngài coi đó là trả
lại sự sống cho hạng người sống mà như chết dở, những người cùi hủi, những
người bị khinh tởm, bị xua đuổi khỏi xã hội, chỉ được sống trong những nấm mồ
hoang giữa người chết.
Ngày xưa, khi
Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, các luật sĩ và cả vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem
đã không nhận ra Chúa Cứu Thế, vì họ quan niệm Chúa Cứu Thế phải đến trong oai
phong lẫm liệt, phải sinh ra ở lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.
Chúa Cứu Thế
phải xuất hiện trong cung cách như thế đó. Chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh
táo mới khỏi đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện
diện ở giữa chúng ta; không ồn ào giữa hàng lũ người tuỳ tùng hầu hạ kiểu vua
chúa phong kiến, mà ẩn mình trong thân phận những con người nghèo đói, ốm đau,
bệnh tật... Vẫn như ngày nào và sẽ mãi mãi cho đến tận thế. Ngài không dạy
chúng ta đón nhận Ngài bằng bất cứ một hình thức nào khác hơn là đón nhận chính
con người anh em, những người bé nhỏ, đói khát, mình trần thân trụi, không nhà
không cửa, ốm đau bệnh tật, tù đày... Vì vậy, nếu không hết sức tỉnh táo, chúng
ta sẽ đón hụt mất Ngài.
Anh chị em thân
mến, Hai ngàn năm rồi, Chúa đã đến, nhưng cũng còn những người vãn đang mong
chờ một Chúa Cứu Thế khác sẽ đến, chứ Ông Giêsu này không phải là Chúa Cứu Thế.
Thậm chí có cả những người Công Giáo cũng nghi ngờ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế
của họ. Bởi vì, tại sao Chúa cứ bắt tôi phải đói khổ, bệnh tật? Tại sao Chúa
không trừng trị địch thù, những bọn gian ác? Chúng tôi phải chờ một Đấng Cứu
Thế khác. Ngài sẽ đến thanh trừng với bạo lực, thống trị với quyền năng hiển
hách như lời các ngôn sứ loan báo.
Chúa Giêsu Kitô
chính là "Đấng phải đến". Ngài đã đến rồi. Đó là niềm tin của chúng
ta hôm nay như đã là niềm tin của Thánh Phêrô. Ngài nói: "Ngoài Đức Giêsu
ra, dưới bầu trời này, ơn cứu độ chúng ta không có ở một người nào khác, không
có một ai khác có khả năng cứu độ chúng ta" (Cv 4,12).
Chúa Giêsu,
Đấng Cứu Thế đã đến, đã chết để cứu chuộc chúng ta, đã sống lại và đang sống ở
giữa chúng ta. Ng đã giải phóng chúng ta và bao nhiêu con người khác đang bị
giam cầm trong tội lỗi. Chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Ngài cứu độ
và được sống trong Ngài. Chúng ta không phải chờ đợi một ai khác nữa.
10. Vở
kịch còn dang dở – Lm. Mark Link
Chủ đề: Thánh
Gioan tiền hô là sứ giả, còn Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta
phải hoàn tất công việc của hai Đấng.
Nathaniel
hawthorne là một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn
còn bản phác thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch
này tập trung vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều
nói, đều mơ, đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các
nhân vật phụ đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân
vật chính ấy sẽ như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã
chẳng xuất hiện.
Toàn bộ Cựu ước
cũng giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không
có đoạn kết.
Trên dòng sông
Giôđan có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ,
đây là chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các
thương buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại
chúng thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại
chỗ này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo
da thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: "Ông
này là ai vậy? Ông ta có phải là Đấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị
sứ giả dọn đừơng cho Đấng Mesia?"
Trong bài phúc
âm hôm nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.
Ngài nói với
dân chúng: "Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: "Ta sẽ sai sứ giả Ta đi
trước con để mở đường cho con". Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà
đám môn đệ của Gioan Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: "Có phải Ngài là Đấng mà
Gioan bảo sẽ phải đến, hay chúng tôi còn phải mong chờ Đấng khác?" Để trả
lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong
bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói về Đấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu
sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai lịch vị ấy: "Người mù sẽ thấy được và
người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy múa và người câm sẽ reo vui".
Chủ ý của Giêsu
thực là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù
thấy, kẻ điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Đây là những dấu hịêu mà
các lời tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Đấng Mesia đến.
Như vậy, bài
Phúc Âm hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ
điệp sau: Chúa Giêsu là Đấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết
lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy
nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài
giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế
mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.
Người Roma xưa
có thời một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng
giêng). Vị thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một
mặt nhìn về đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như
thế. Nó nhìn về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa
Giêsu trong lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch
sử.
Anh chị em cũng
như tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta
không phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng
trông về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu
đã trao phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
Nói một cách cụ
thể, điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên
trần gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù,
đem chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm
lạnh lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa
Giêsu sẽ dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.
Đó chính là sứ
điệp trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Mesia,
Ngài sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta
đã xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.
Vậy chúng ta
hãy kết thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia cũng là
Đấng Cứu Độ chúng ta:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin
Chúa đã đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế
giới của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin
rằng Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin
rằng Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin
rằng Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với
Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin
rằng Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như
anh chị em của Chúa.
11.
Đấng phải đến
Ngài có phải là
Đấng sẽ đến. Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là
chính Gioan cũng nghi ngờ không biết Đức Kitô có phải là Đấng Thiên sai hay
không? Chắc hẳn không phải là như vậy, chúng ta hãy nhìn vào con người và cuộc
đời của Gioan sẽ rõ.
Ngày sinh của
ngài đầy những việc lạ lùng nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Cuộc
sống nơi hoang địa đầy những khắc khổ mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật ong
rừng. Người ta đến để nghe Gioan, thì ông đã không đem lại một sự khen ngợi ủi
an, lời lẽ của ông thì ngăn đe và cảnh cáo: Hỡi nòi rắn độc. Cái rìu đã đặt
dưới gốc, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Ông đã miễn
cưỡng ban phép rửa cho Chúa Giêsu vì ông nghĩ rằng mình không xứng đáng cởi dây
giày cho Ngài. Ông đã giới thiệu Đức Kitô là con chiên Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tội
lỗi trần gian.
Qua những sự
kiện ấy, nếu ông nghi ngờ Đức Kitô thì đó là điều không thể nào chấp nhận được.
Ông đã được Chúa Giêsu khen ngợi là người cao trọng nhất trong số những con cái
của người nữ sinh ra. Chẳng lẽ ông lại là một kẻ đa nghi và thiếu lòng tin
tưởng? Sự thật là như thế này: Gioan có một lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa
Giêsu, nhưng còn các môn đệ của ông thì chưa được xác tín cho lắm, vì thế ông
muốn soi dẫn và tạo hoàn cảnh để họ nhìn rõ, nghe kỹ và tự nhận ra Ngài là Đấng
Thiên sai đã được tiên báo từ hàng trăm năm về trước.
Đức Kitô đã
hiểu được ý nghĩ thâm sâu của Gioan và Ngài muốn tế nhị chứng thực điều đó.
Tiên vàn Ngài đã chữa lành các bệnh tật trước sự quan sát của những người được
sai đến, rồi Ngài nói với họ: Các ngươi hãy đi thuật lại cho Gioan biết những
điều đã nghe và đã thấy: người mù được xem, kẻ què được đi, người phong hủi
được lành sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được rao
giảng cho những người nghèo khó.
Đó chính là dấu
chỉ của vị Thiên Sai mà các tiên tri, nhất là Isaia đã đề cập đến. Thực vậy,
Ngài đã làm các phép lạ, để biểu lộ quyền năng và sứ mạng của Ngài xuất phát từ
Thiên Chúa. Từ trước đến nay chưa một ai có thể chữa lành bệnh cùi và cho người
chết sống lại. Hơn thế nữa, tiên tri Isaia cũng bảo Tin Mừng được rao giảng cho
người nghèo khó, Đức Kitô đã giảng dạy cho mọi người không trừ một ai, từ những
người giàu sang quyền thế, đến những kẻ túng cực và bất hạnh, Ngài đã đặc biệt
lưu ý tới hạng người thứ hai này, vì nhiều lần Ngài đã phán: Tất cả những gì
các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Ngài đã hướng
dẫn dân chúng tới những chân lý cao siêu bằng những ngôn từ đơn sơ, rõ ràng,
bằng những hình ảnh sống động và cụ thể... Chính nhờ đó mà các môn đệ của Chúa
không còn nghi ngờ gì nữa. Con người này, Đức Kitô thành Nagiarét chính là Đấng
Cứu Thế thiên hạ đợi trông. Khi các người được Gioan sai đến đã trở về. Chúa
Giêsu nói với dân chúng: Các ngươi vào sa mạc để làm gì? Để tìm gặp một vị tiên
tri.
Vị tiên tri ấy
chính là Gioan, ông đã can đảm nói lên sự thật, đã trình bày cho mỗi người biết
bổn phận của mình, và bây giờ ông đang bị tù tội. Ông còn cao trọng hơn một vị
tiên tri nữa vì Kinh Thánh đã nói về ông. Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt
con để dọn đường cho con. Gioan chính là người đã được Chúa sai đi dọn đường
trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Ông được đặc ân chiêm ngưỡng Chúa và giới thiệu
Chúa cho mọi người. Hãy lắng nghe và thi hành sứ điệp mà Gioan gửi đến, để nhờ
đó chúng ta cũng nhận biết Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
12. Phi
thường
Tể tướng lưng
gù là một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gù
lưng, nhưng rất anh minh trong việc trị nước.
Chuyện xảy ra
vào đời nhà Thanh: Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều
giỏi như nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp,
vừa cao thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua.
Tiểu thư lá ngọc cành vàng ấy chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ
thí cờ do cô mở ra. Đúng lúc Lưu Dung về kinh thi trạng nguyên và chàng đã lấy
được người đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên, được làm tể tướng.
Tuy hình thù dị
dạng nhưng tể tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông
đã lật tẩy nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành vị
cứu tinh của dân nghèo, những người bị hà hiếp và bị đàn áp. Tuy ở địa vị tể
tướng nhưng ông lại dùng mưu lược nhiều hơn là vũ lực để đối nhân xử thế, nên
ông được dân chúng đặt trọn niềm tin.
Tin Mừng giới
thiệu cho chúng ta một Gioan Tẩy giả có cuộc sống rất dị thường nhưng lại làm
được những việc phi thường: Ông chỉ mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong
rừng. Con người khổ hạnh ấy lại kiên quyết ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy
chị dâu là nàng Hêrôđia làm vợ. Chính vì lòng can đảm thi hành vai trò ngôn sứ
ấy, mà ông đã bị bạo chúa Hêrôđê bắt giam trong tù.
Hôm nay, từ
chốn lao tù ông đã sai các môn đệ của mình còn ngờ vực về sứ mạng Thiên Sai của
Đức Giêsu, để hỏi Người rằng: "Thầy có đúng là Đấng phải đến, hay chúng
tôi còn phải đợi Đấng nào khác?" (Mt 11,3). Đức Giêsu không muốn chứng
minh sứ mạng của mình bằng lời nói, nhưng Người đã trả lời bằng việc làm, mà
chính việc làm này đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai:
"Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo khó được loan báo Tin Mừng".
Đây chính là
một cuộc hành trình đức tin của Gioan, của các môn đệ ông, và cũng là của mỗi
người chúng ta. Con đường đến với đức tin không phải là con đường tơ lụa, mà là
con đường đau khổ. Con đường ấy đi từ vùng tối tăm tới miền ánh sáng, từ dấu
chỉ hữu hình đến thực tại vô hình, từ các phép lạ đến quyền năng siêu việt của
Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu. Con đường không dẫn người ta đến Rôma vinh hiển,
Athêna thông thái, Babylon kiều diễm, hay Giêrusalem thành thánh... Nhưng đưa
họ đến một góc nhỏ của thôn nghèo Nadarét, để thấy một con người khiêm hạ, một
cuộc đời ẩn dật, một trái tim yêu thương, và một cái chết ô nhục trên thập giá:
"Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta".
Trước dáng vẻ
bề ngoài xem ra tầm thường đó, có một con người không những chẳng hề vấp phạm;
trái lại, can đảm bất khuất đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Người:
"Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: "Này Ta sai
sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến" (Mt
11,10). Đó chính là Gioan Tẩy Giả, người được Đức Giêsu khen ngợi: "Trong
số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai cao trọng hơn ông" (Mt 11,11a).
Ông cao trọng
vì ông là ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, vì ông đã được nhìn thấy Đấng
Cứu Thế và tin vào các việc Người làm, và nhất là vì ông mang một sứ mạng cao
cả. Tuy nhiên, Gioan vẫn còn ở bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói tiếp:
"Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông" (Mt 11,11b). Đây
chính là một niềm vinh hạnh cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước,
vì Cựu ước chỉ là thời chuẩn bị, còn Tân Ước mới là lúc ban ơn cứu độ.
Được may mắn
sống trong thời cứu độ của Tân Ước cũng có nghĩa là chúng ta đang mang trên vai
sứ mạng cứu rỗi.
Nếu Đấng Cứu
Thế đã đến với chúng ta trước để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không tận
tình cứu giúp anh em.
Nếu Đấng Cứu
Thế đã muốn xây dựng thế giới này thành một cộng đoàn yêu thương, lẽ nào chúng
ta lại sống trong hận thù ganh ghét.
Nếu Đấng Cứu
Thế đã luôn ở với chúng ta mặc dù chúng ta không luôn luôn sống với Người, lẽ
nào chúng ta lại không sống thuận hòa với nhau.
Sống Mùa Vọng
có nghĩa là trong trí ta phải thấy một rừng lửa rực cháy yêu thương, và trong
tim ta phải vang lên một tiếng gọi lên đường.
13. Một
đức tin luôn luôn đứng vững – Achille Degeest
(Trích từ 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật')
Gioan Tẩy Giả
biết mình là sứ giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa tự
do trong giòng sông Giorđanô, ngài đã tuyên bố Đức Giêsu là Con Chiên Thiên
Chúa. Nay ở trong tù dường như ngài có một thoáng hồ nghi. Ngài biết số phận
mình lệ thuộc ở lòng thù hiềm của một người đàn bà muốn ngài phải chết. Có thể
là ngài bị cám dỗ ngã lòng, trong đêm lâm nạn. Điều đó càng dễ hiểu, vì các môn
đệ ngài còn bối rối hơn ngài nữa. Những giờ phút trong sáng khi ngài và Chúa Giêsu
gặp nhau bên giòng sông Giorđanô, bây giờ dường như đã chìm sâu trong đêm đen
của cơn thử thách. Cần phải hỏi Chúa Giêsu. Chúa trả lời bằng cách trích dẫn
tiên tri Isaia về những người bệnh tật được chữa lành. Chúa Giêsu biết ý nghĩa
mà Gioan sẽ gán cho dấu hiệu đó; và Chúa chắc vị Tiền Hô sẽ được an ủi. Nhưng
rồi Chúa Giêsu nói lên hai câu khiến ta phải suy nghĩ:
1) "Phúc
cho người không phải vấp ngã vì Ta!"
Người ta có thể
vì Đức Kitô mà vấp ngã được không? Đức Kitô có thể làm cớ cho ai vấp ngã chăng?
Vấp ngã nói đây là thứ nào? Đối với Gioan Tẩy Giả, hiểm họa vấp ngã là hiểm họa
hết tin vào Chúa Giêsu. Sự vấp ngã trước cơn thử thách của đức tin, trước những
khó khăn làm sao kiên trì được trong đức tin khi mà ta sống trong một hoàn cảnh
đau đớn cùng cực dường như bị Chúa bỏ quên, sự vấp ngã đó chính là một mối nguy
mà Chúa nhắc tới. Và Chúa nói rằng hạnh phúc cho kẻ nào vượt qua khỏi mối nguy
ấy. Thánh Gioan ở trong một hoàn cảnh nhục nhã và phi lý khiến mạng sống ngài
bị đe dọa. Vì thế con người tự nhiên trong Gioan thắc mắc. Câu nói của Chúa
Giêsu cũng có nghĩa là: Phúc cho Gioan vì đã không hết tin. Nhưng lời của Người
cũng nhắn nhủ chính chúng ta nữa. Hạnh phúc cho ta nếu trên đường thử thách
gian truân, đức tin ta luôn vẫn đứng vững. Như Gioan, chúng ta cần chạy tới
Chúa Giêsu, truy vấn Người. Ở đâu? Thưa trong Hội Thánh Người, trong cuộc gặp
gỡ thân mật của lời cầu nguyện và các bí tích, nhất là Thánh Thể.
2) "Người
nhỏ hơn trong Nước Trời lại lớn hơn ông"
Chúa nói như
thế về Gioan sau khi tuyên bố rằng trong những kẻ bởi người nữ sinh ra chẳng ai
lớn hơn Gioan. Câu nói của Đức Kitô cho biết rằng vai trò của Gioan nằm ở bình
diện của lời hứa và công cuộc chuẩn bị. Trên bình diện ấy không ai hơn Gioan.
Nhưng khi Nước Trời bắt đầu được thực hiện, sau công cuộc cứu độ, thì kẻ nhỏ
nhất giữa đám tín dân cũng vượt quá vị tiên tri lớn nhất, xét về lợi lộc ân
sủng. Ta có thể rút ra bài học cho hoạt động tông đồ của ta. Hoạt động tông đồ
bao gồm khía cạnh chuẩn bị con người gặp gỡ Đức Kitô. Trên bình diện chuẩn bị
này, người ta có thể hoạt động một cách hết sức đắc lực, nhưng hoạt động cần
phải tổ chức thế nào để kết thúc nơi Đức Kitô. Hành vi đức tin vào Đức Kitô, dù
nhỏ nhất, miễn là đích thật, vẫn đem lại giá trị thật cho tất cả những gì đã
chuẩn bị nó.
14. Mùa
Vọng của đức tin
Gioan Tẩy Giả
là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa Vọng
của chúng ta. Đời sống chúng ta há không phải là một Mùa Vọng đó sao – Mùa Vọng
của đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn và của nỗi khắc khoải về
điều mình chưa nhìn thấy? Đời Kitô hữu dựa trên cái gì nếu không phải là dựa
trên cái mà mình tin và hy vọng? Làm Kitô hữu đích thực là chấp nhận sự điên rồ
của Thiên Chúa để dám liều mất con chim trong tay mình hôm nay nhằm có thể bắt
được hai con chim khác trong bụi rậm trên trời. Làm Kitô hữu đích thực là dám
hy sinh những mối lợi tiền bạc, những khoái lạc thân xác; là không khư khư cố
bám các quyền lợi của mình, vì Nước Trời. Nước Trời ấy, hỡi ôi, chưa từng mắt
nào nhìn thấy được.
Gioan Tẩy Giả
của bài Tin Mừng hôm nay thuộc về một Mùa Vọng như thế: Mùa Vọng của nỗi mong
chờ điều vẫn còn đang đến. Ông quả là mẫu người mà chúng ta phải trở nên trong
Mùa Vọng suốt đời người. Con người ấy đã bị bỏ tù. Con người ấy đã điên rồ đến
nỗi dám nói lên "sự thật mất lòng" ngay cả với nhà vua. Có ai hành
động khờ khạo về chính trị như thế không? Ông ngồi đó, trong bóng tối ngục tù.
Thật đáng đời ông. Không ai cứu ông ra. Các bạn hữu ông không phát động một
cuộc cách mạng. Họ làm gì có khả năng đó. Họ chỉ thao thức với thần học và hoàn
toàn ngu ngơ trong đời sống thực tiễn - hay ít ra là có vẻ như thế.
Và cả Thiên
Chúa nữa, cũng bỏ mặc vị ngôn sứ rao giảng sám hối của Người. Cả Thiên Chúa
cũng dường như đứng về phía thế lực hùng mạnh của nhà vua. Thiên Chúa đang thực
hiện các phép lạ nơi Con của Người. Nhưng, bi kịch hay hài kịch đây, khi mà
những phép lạ ấy chỉ cứu chữa có vài kẻ bất hạnh xem ra chẳng giữ tầm quan
trọng nào đối với Nước Thiên Chúa. Những phép lạ ấy đã không giải thoát vị ngôn
sứ thánh – là người có liên hệ máu huyết và là vị sứ giả mở đường chính thức
cho Đấng đang thực hiện các phép lạ ấy. Gioan vẫn bị giam cầm trong ngục tối
cho đến ngày bị chém đầu!
Đối với một
ngôn sứ, thật không gì khó chịu cho bằng phải ngồi trong tù chờ chết, bị xem là
hết thời, song lại phải quan tâm đến những phép lạ chẳng chút ích lợi gì cho
mình.
Nhưng Gioan
không phải là một cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn tin, bất chấp mọi sự.
Ông là sứ giả dọn đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông.
Ông dọn đường cho Chúa, Đấng chần chừ mãi một cách bất nhẫn trước khi đến, và
Người thậm chí chẳng tỏ vẻ hối hả gì khi vị ngôn sứ của Người đang lâm nạn: Vị
Thiên Chúa dường như bao giờ cũng chỉ nghĩ đến khi đã quá muộn màng! Song Gioan
Tẩy Giả biết rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý của Người, rằng Người chiến thắng
bằng cách nhận chịu thất bại, rằng Người sống và thông ban sự sống bằng cách
trao nộp mình chịu chết, rằng Người là tương lai đích thực cuối cùng của mọi
thứ tương lai.
Tắt một lời,
Gioan Tẩy Giả chỉ biết tin và tin. Và điều đó đối với ông thật không dễ. Lòng
ông đắng cay và bầu trời thì mù mịt. Nỗi khắc khoải cào cứa trong ông: "Có
phải Người là Đấng phải đến?". Có phải là chuyện tình cờ, khi câu hỏi ấy
được đặt ra với đúng đối tượng – tức vị Thiên Chúa làm người. Trong cầu nguyện,
người ta có thể trang trải ngay cả một cõi lòng đầy xao động với Thiên Chúa,
một cõi lòng mà trong thực tiễn chẳng còn điểm tựa và cũng không biết nghị lực
mình sẽ còn cầm cự được bao lâu. Bao lâu một tâm hồn còn là một tâm hồn cầu
nguyện, bấy lâu tâm hồn ấy vẫn còn đức tin và sẽ nhận được một câu trả lời thỏa
đáng: "Hãy đi và nói với Gioan những gì các anh xem thấy... và phúc cho kẻ
không đối đầu với Ta". Gioan đã nhận được tiếng trả lời của Chúa dẫu là
ông đang ngồi trong ngục tối!
Cả cuộc đời
chúng ta là một Mùa Vọng, vì Kitô hữu là những người mong đợi một Đấng sẽ đến.
Và chỉ khi Đấng ấy đến, chúng ta mới được chứng minh là đúng đắn. Bao lâu còn
phải đợi trông, bấy lâu ta còn thấy dường như thế gian mới đúng. Thế gian sẽ
vui cười, còn anh em sẽ khóc lóc. Thầy Chí Thánh đã từng nói thế. Chúng ta cũng
đang ngồi trong một ngục tù, ngục tù của sự chết, của những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
của sự yếu đuối nơi mình, của tính ích kỷ hẹp hòi của mình, của những cam go và
những bi kịch trong cuộc sống.
Nhưng mỗi ngày,
bằng đức tin và lời cầu nguyện của mình, chúng ta sẽ gửi các sứ giả của chúng
ta đến với Đấng sẽ đến xét xử người sống và kẻ chết. Và các sứ giả Mùa Vọng này
sẽ trở lại với câu trả lời: "Ta đang đến đây, phúc cho kẻ không đối đầu
với Ta".
15.
Gioan Tiền Hô
Một khuôn mặt
không thể thiếu vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Vậy
Gioan Tiền hô là ai?
Ông là con của
Giacaria và Isave, mở mắt chào đời khoảng sáu tháng trước Chúa Giêsu, tại làng
Ain Karim, gần Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà
Isave, là chị họ của Đức Maria. Khi đã khôn lớn, ông vào trong hoang địa sống
một cuộc sống khắc khổ, mặc áo da lạc đà, ăn châu chấu với mật ong rừng. Sau
đó, vâng lệnh Chúa, ông rảo khắp vùng sông Gióc đan, rao giảng sự ăn năn và
trao ban phép rửa sám hối, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông thật
đơn sơ: với người thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng, với binh lính, ông đòi
hỏi sự ngay thẳng. Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể.
Ông loan báo cho mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa
trong Thánh Thần và trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một
cuộc thẩm phán để thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại
giới thiệu Ngài với dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần
gian. Sau cùng, vì can đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục và
bị chém đầu.
Nhìn vào cuộc
đời của ông, chúng ta thấy nổi bật một mẫu gương khiêm nhường. Chính nhờ thái
độ khiêm nhường này mà ông đã gặp được Chúa.
Thực vậy, sứ
điệp ông loan truyền bên bờ sông Giócđan là gì, nếu không phải là sứ điệp sám
hối. Thế nhưng, muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm
nhường. Thái độ khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời
ông nói với dân chúng.
Khi được hỏi
ông là ai, thì Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn:
- Tôi chỉ là một
tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi nhận ra Đức
Kitô, ông đã xác quyết:
- Tôi không
xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải
nhỏ đi.
Sau khi đã giới
thiệu Chúa Giêsu với dân chúng, ông đã để cho các môn đệ thân tín của mình bước
theo Ngài. Chính vì thế, ông xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi:
- Trong số
những người nam được sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sự khiêm nhường
cũng chính là điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những
người khiêm nhường mới gặp được Chúa mà thôi.
Đúng thế, Kinh
Thánh đã nhiều lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng
cao những người phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình
xuống, thì sẽ được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác
quyết:
- Kiêu ngạo là
dấu chỉ chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Đúng thế, một
Lucifer vì không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa
ngục. Một Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án
của đau khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân
phận tôi tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Kinh nghiệm
cũng cho hay: một người khô khan mà kiêu căng tự mãn khó trở lại hơn một trăm
người sa ngã về xác thịt., bởi vì người sa ngã do yếu đuối dễ nhận ra mình tội
lỗi và trống vắng, nên cũng dễ khiêm nhường trở về cùng Chúa.
Hơn thế nữa,
muốn bỏ một vật gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu
đã chặt rồi, thì làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa
ngự trị, cần phải rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn.
Trong khi đó, kẻ kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại,
tự mãn thì còn chỗ đâu mà dành cho Chúa nữa.
Ngày kia, một
du khách đang đứng chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn của Thorwaldsen. Và hình như
ông ta chẳng khám phá ra được một vẻ đẹp nào cả trên bức tượng thời danh này.
Bỗng ông ta nghe thấy như có tiếng thì thầm bên tai:
- Xin ông hãy
quì xuống và nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa.
Ông ta đã quì
xuống và khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng.
Chúng ta cũng
vậy. Hãy quì xuống, có nghĩa là hãy sống khiêm nhường và rồi chúng ta sẽ gặp
được Chúa.
16.
Đấng phải đến
Chúng ta thường
cầu nguyện: "Lạy Chúa, con rất vui vẻ thi hành thánh ý Ngài. Con chỉ xin
Ngài tỏ cho con biết thật rõ ràng Chúa muốn con phải làm gì?".
Khi còn nhỏ,
tôi nghĩ rằng các đấng thánh là những người biết chính xác điều Thiên Chúa
muốn. Khi Ngài muốn các thánh làm điều gì, Ngài gửi sứ giả đến. Sứ giả là các
thiên thần thường mặc áo dài trắng và đàng sau lưng có khoét hai cái lỗ lớn để
đeo cánh. Nhưng khi lớn lên, đọc hạnh các thánh, tôi biết thêm về đời sống của
các ngài cũng rất giống tôi. Họ cũng thường gặp khủng hoảng rắc rối để tìm ra
điều Thiên Chúa muốn. Đôi khi còn tệ hơn nữa, có những vị lúc đầu nghĩ rằng
mình đã biết chính xác ý muốn của Thiên Chúa, nhưng sau nhiều năm, các ngài lại
không còn chắc chắn nữa. Có những vị lại khám phá thấy mình đã đi sai đường, và
phải quay trở về để hoàn toàn bắt đầu lại một đường hướng mới.
Trường hợp của
Thánh Gioan tẩy giả ngồi trong tù, trong bài Phúc âm hôm nay, đặt vấn đề hoài
nghi về Chúa Giêsu là một điển hình: "Thầy có phải là Đấng phải đến chăng,
hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác". Gioan nghi ngờ về những điều
Thiên Chúa muốn ông đã rao giảng trước đây rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa
cho các anh trong nước để các anh giục lòng sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì
quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người".
Gioan Tẩy giả
đang bị ngồi tù. Nhà tù là nơi thử thách, gây thất vọng và nghi ngờ. Đành rằng
trước đây, Gioan đã biết rõ Đức Giêsu là ai rồi, nhưng trong tù niềm tin đó có
thể gặp thử thách. Trong tù Gioan mong đợi ngày giờ giải phóng của Đấng Cứu Thế.
Dân Do Thái
cũng không khác gì Gioan, đang bị giam cầm bởi đế quốc Rôma. Gioan đặt vấn đề
chắc chắn không phải vì ích lợi của cá nhân ông, nhưng của những người môn đệ
theo ông và của toàn dân Do thái. Phúc âm ghi rõ lời của Gioan: "Chúng tôi
còn phải đợi...". Trong cách hỏi này, đã ẩn ý Gioan là đại diện cho toàn
thể dân Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế.
Nhà tù mang
hình ảnh của mùa vọng. Một người chỉ ngồi chờ đợi, hy vọng, làm những việc
không cần thiết và hoàn toàn tùy thuộc vào nỗi ước mong rằng cánh cửa tự do sẽ
được mở ra "từ phía bên ngoài" (Bonhoeffer).
Con người hôm
nay cũng đang ngồi trong những nhà tù của riêng mình. Chúng ta đang mong chờ
một người nào đó sẽ đến để giải thoát. Khi phải đối diện với những giới hạn của
cuộc sống và của thân phận con người, chúng ta cũng đặt vấn đề như Gioan. Nhà
tù là những thử thách của đau khổ, thất bại và đổ vỡ trong gia đình như vợ
chồng ly dị, con cái xung khắc nhau, thất nghiệp, bệnh tật lâu ngày, ung thư,
những người thân yêu phải chết, con cái sinh ra mang tật nguyền v.v... Thỉnh
thoảng qua bạn bè chúng ta cũng sai người đi dò hỏi xem: "Có người nào có
thể giúp tôi thay đổi được tình trạng này không?".
17.
Đấng phải đến
Tác giả sách
"Gương Chúa Giêsu" viết như sau: "Bao lâu chúng ta sống trong
thế giới này, chúng ta không thể tránh được đau khổ và cám dỗ". "Tại
sao lại đi tìm kiếm sự nghỉ ngơi trong khi chúng ta đã được sinh vào nỗi khốn
khổ". Tác giả biết không ai có thể tránh được đau khổ vì con người đã bị
mất ơn sủng. Đau khổ nhắc nhở chúng ta rằng thế giới này không phải là nơi ở
vĩnh viễn của con người. Trong đau khổ chúng ta học cách tin tưởng vào những
lời hứa của Thiên Chúa, những lời hứa cho tương lai, không phải ở hiện tại.
Những lời hứa chỉ được hoàn thành trong Chúa Giêsu Kitô.
"Chúa
Giêsu, dù là Con, nhưng đã nhờ sự chịu đau khổ mà học được đức vâng lời",
phương chi chúng ta, những tạo vật và những tội nhân, đã được nhận làm những
nghĩa tử ở trong Ngài".
Trong đau khổ,
thử thách và gian nan, Chúa Giêsu Kitô chính là niềm hy vọng, là những dấu hiệu
chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa mà Gioan tẩy giả đã mong đợi. Chính Ngài
sẽ giúp chúng ta định hướng cho cuộc đời: "Người mù được thấy, người què
đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại,
và Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì
Ta".
Chúa nhật thứ 3
Mùa vọng, màu của phụng vụ là màu hồng. Mầu hồng biểu tượng cho niềm vui và hy
vọng. Giáo Hội gọi Chúa nhật này là "Chúa nhật gaudete", Chúa nhật
Vui mừng". Vui mừng vì Đấng Cứu Thế đã đến gần. Tôi biết sẽ có người nói
rằng: "Tôi chẳng cảm thấy vui chút nào!" "Đúng, ngay cả Gioan
Tẩy giả ở trong tù cũng không cảm thấy vui!" Niềm vui tôn giáo, nhất là sự
vui mừng của Tin Mừng không phải là một cảm giác, hay một cảm xúc, nhưng là một
niềm xác tín của đức tin, đức cậy và đức mến nơi Chúa Giêsu Kitô. Sách Giáo lý
Công giáo dạy: "Đức tin cho ta nếm trước niềm vui và ánh sáng của sự hưởng
kiến diễm phúc trên trời..."
Vị thầy vĩ đại
đã cảm nghiệm được niềm vui đích thật chính là thánh Phanxicô thành Assisi. Khi
còn là một thanh niên trẻ, ngài đến viếng thăm Rôma, quì gối cầu nguyện trước
mộ thánh Phêrô, và trong sự biết ơn đối với thánh cả, Phanxicô đã quăng vài
đồng tiền kẽm vào, qua những chắn song sắt. Nhưng khi vừa bước ra ngoài đường
ngài liền gặp một người ăn xin. Trong giây phút xúc cảm, Phanxicô đã yêu cầu
người ăn xin đổi chiếc áo choàng của anh cho ngài. Phanxicô đang làm việc cho
cha là một thương gia giàu có, chiếc áo choàng của ngài rất đắt tiền và quí
phái. Người ăn xin rất sung sướng, và còn sướng hơn nữa vì có những đồng tiền
cắc sót lại trong túi áo. Rồi sau đó, Phanxicô đã ngồi ở góc đường, làm công
việc rất nhục nhã: xin ăn những người qua lại bên đường. Nhưng ngày hôm đó ngài
đã cảm nghiệm được một niềm vui không tả xiết. Nguồn vui ấy đã hình thành nền
tảng cho một trong những dòng tu lớn nhất của lịch sử Kitô giáo.
Chỉ nhờ vào
niềm tin cậy mến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa sẽ ngự đến trong
tâm hồn chúng ta trong suốt mùa vọng và Giáng sinh để ban cho ta khả năng chịu
đựng những đau khổ, gian truân, thử thách và cảm nghiệm được niềm vui cũng
giống như thánh Phaolô và thánh Gioan tẩy giả khi xưa ngồi trong tù.
18. Sứ
giả của Thiên Chúa
Khi Chúa Giêsu
sinh ra tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại
rực rỡ nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai
trị một cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia,
những dân tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế
quyết định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ
giả đi trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc
thúc họ chuẩn bị cuộc đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ
đợi, chính vị sứ giả cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào
lúc vị vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa
chúng ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như
lời tiên tri Malachia đã loan báo:
- Này đây, ta
sai sứ giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời nói này ám
chỉ về Gioan tẩy giả. Bởi vì ở bờ sông Giócđan, Gioan tẩy giả đã rao giảng và
trao ban phép rửa thống hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu
thế:
- Có tiếng kêu
trong sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho
phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan tẩy giả
không bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống
tinh thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật
ngăn chặn không cho Chúa đến với chúng ta.
Nếu không hoán
cải, nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc
cây và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Gioan tẩy giả
cũng tụ tập chung quanh mình một số môn đệ. Nhưng rồi một ngày kia, khi Chúa
Giêsu xuất hiện và đi ngang qua. Gioan tẩy giả đã vội vã giới thiệu Chúa Giêsu
cho họ:
- Đây chiên
Thiên Chúa, đây đấng xóa tội trần gian.
Và lập tức các
môn đệ ấy đã rời bỏ Gioan tẩy giả để theo Chúa Giêsu. Đó chính là điều Gioan đã
mong ước.
Chúng ta có thể
nói được rằng:
- Khát vọng duy
nhất của Gioan tẩy giả là dẫn đưa các linh hồn về với Chúa Giêsu.
Phải chăng ông
đã chẳng công bố:
- Đức Kitô phải
lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Một sự từ bỏ
dứt khoát đáng cho chúng ta ca tụng và bắt chước, vì chúng ta không có quyền
tìm kiếm cho mình những vinh dự đã được dành cho Chúa Giêsu.
Hơn nữa, chính
Chúa Giêsu còn nói rõ qua đoạn Phúc âm vừa nghe: Gioan đã hoàn tất sứ mạng của
mình mà không lo lắng gì đến dư luận, Gioan đã mặc cho người nói ngược nói
xuôi, còn mình vẫn vững như kiềng ba chân. Phải chăng người ta đã trách cứ ông
chỉ là một cây sậy bé bỏng, một cái đạp nhẹ cũng sẽ làm cho nó bị dập nát? Hay
chỉ là một ngọn cờ bị cuốn theo chiều gió. Không, Gioan có con đường của mình,
Gioan có sứ mạng phải theo đuổi.
Sau khi đã tìm
hiểu một vài nét chính yếu về Gioan tẩy giả, mỗi người kitô hữu chúng ta cũng
phải trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Thiên Chúa. Mỗi người kitô hữu
chúng ta cũng có bổn phận phải đem Chúa, phải giới thiệu Chúa cho những người
chung quanh.
Chúng ta phải
làm chứng về Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện,
bái ái và yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa
tội đều được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và
trong tâm hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Có một em bé
mới lên bốn đã cảm hóa được người cha, để ông làm dấu và đọc kinh trước bữa ăn.
Câu chuyện rất đơn sơ. Trưa hôm đó, em đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì người
chị kêu về ăn cơm. Ngồi vào bàn, em lén lút nhìn người cha, và khẽ nói:
- Ba à, Ma-sơ
bảo phải đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người
cha chỉ còn cách làm dấu và đọc Kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Có một bác sĩ
giải phẫu đã ăn năn trở lại chỉ vì một em bé đau yếu, em vừa mới được bảy tuổi
và bị giải phẫu. Ông bác sĩ ấy đã kể lại như sau:
Hôm đó, em được
đưa vào phòng mổ và trước khi gây mê cho em, tôi đã nói với em:
- Chúng tôi sắp
sửa chữa cho cháu được khỏi, nhưng trước hết cháu cần phải ngủ.
Nhưng em bé đã
trả lời với tôi:
- Vậy hãy để
cho cháu cầu nguyện một chút.
Nói đoạn em quỳ
xuống bên cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một
kinh lạy cha. Lúc bấy giờ vị bác sĩ và những cô y tá đều cảm động đến nỗi rưng
rưng như muốn khóc. Vị bác sĩ đã kể tiếp: Sau đó, tôi cảm thấy lương tâm cắn
rứt, tôi đã đi xưng tội, và mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không đọc
kinh, mà không cầu nguyện.
Này ta sai sứ
giả của ta đi trước con để dọn đường cho con. Những lời nói này làm cho chúng
ta liên tưởng tới Gioan tiền hô, nhưng cũng được áp dụng cho mỗi người chúng
ta. Phải, mỗi người chúng ta đều được mời gọi để trở nên một vị tiền hô, một vị
sứ giả của Chúa.
Trong mùa vọng
này chúng ta hãy suy nghĩ và sống cái sứ mạng đó, bởi vì chúng ta chỉ có một
nỗi băn khoăn và bận tâm, đó là phải sống thế nào để Chúa đến trong tâm hồn anh
em của chúng ta?
19. Suy
niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao
Gioan Tẩy Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Đức Giêsu xem Ngài có phải là Đấng
Cứu Thế không? Theo ông nghĩ, nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Do Thái,
thì ông sẽ đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?
2. Đức Giêsu
đến có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gioan Tẩy Giả và của những
người Do Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự
suy nghĩ và lòng mong ước của chúng ta không?
3. Tại sao khi
Đức Giêsu đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí,
hay vì họ chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước
để khi Ngài đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
Suy Niệm
1. Thắc mắc của
Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả
là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để
dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm
vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những
sai trái của chính quyền đương thời là vua Hê-rốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt
vọng trong tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào
Đức Giêsu phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó
ông tự hỏi: Nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài,
thì tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn
Thiên Chúa phải để ông ơ ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới
chứ! Ông sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm
như mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ
trở thành một vị Hoàng Đế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt
mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn
đệ của ông đến gặp Đức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
2. Những điều
ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu đã
không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng
trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ
I-sa-i-a đã tiên báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: "Người mù xem thấy, kẻ
què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng" (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1). Đó là
những điều mà Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi
người.
Thử đặt mình
vào địa vị Gioan Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài
là Đấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất
nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện
tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao
tin được Ngài là Đấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như
một tội nhân?
Chính vì thế,
ngay từ lúc này Ngài đã nói: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi". Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không?
Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn
thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo
cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến "như kẻ trộm"
đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì
Ngài.
3. Đức Giêsu
đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo.
Tôi e rằng khi
Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần
Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt
tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn
luôn tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo - vốn là phương tiện phục vụ con
người, dẫn con người đến với Thiên Chúa - cũng phải thay đổi theo để phục vụ
con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang
thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật
hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những
chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan
niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan
niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo
không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. "Không ai đổ rượu mới vào bầu da
cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư" (Lc
5,37). Đương nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi
được. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi
không thể thay đổi được.
Tôn giáo và
luật lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do
Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc
nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V
8,13; Tv 98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ
có những Đấng Thiên Sai như Đức Giêsu mới có thể làm chuyện ấy. Chính Đức Giêsu
đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc
cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như
ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp ngã!
4. Cuộc cách
mạng tôn giáo của Đức Giêsu
Tôn giáo Do
Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những luật lệ do Mô-sê
ban hành được coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên
Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của
dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng.
Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể
chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên
hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Đối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi
để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế
nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp
giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay
tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ
cần giữ luật cho đúng là được. Và người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu chính là mẫu
người được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn
vẹn hơn họ!
Nhưng từ Mô-sê
đến Đức Giêsu, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm
linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là "trẻ
con" của họ để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo
cũng phải thay đổi để thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Đức Giêsu là
người có sứ mạng thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng
trên sự sợ hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân
loại lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ
không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý
thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha
mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động
lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu
thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách
sống hay giữ đạo "vị luật" của người Pha-ri-siêu không còn được Đức
Giêsu coi là công chính nữa: "Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không
ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước
Trời" (Mt 5,20).
Những cuộc cách
mạng vĩ đại về tôn giáo như Đức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng
bị những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn
chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ
nhỏ, và được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những
chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan
niệm mới, nguyên tắc mới.
Để nói lên sự
ưu việt của thời "hậu cách mạng" do Đức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí
dụ điển hình: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ,
chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong
Nước Trời còn cao trọng hơn ông". Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính
của Cựu Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của
thời Tan Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan
Tẩy giả và Đức Giêsu, giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Điển
hình như: "Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: "Tại sao
chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn
chay?"" (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta
hãy tỉnh táo để khi Đức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước
được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: "Phúc thay người nào không vấp ngã
vì tôi" (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần
trước Đức Giêsu đến đã có biết bao người vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra
được những kinh nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện trong Tin Mừng để
khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp
con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học ấy. Amen.
20.
Thầy có thật là đấng phải đến không?
(Chú giải và
gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu tôn
trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng
ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng
ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người.
1- Ngữ cảnh
Với các chương
11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương
trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều
mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả
phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: "Thầy có đúng là Đấng phải đến không,
hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?" (11,3). Phía họ, những người Pharisêu
cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu
với giọng trách móc và phê phán: "Ông coi, các môn đệ ông làm điều không
được phép làm ngày sa-bát" (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất
hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập
trường. Dường như Đức Giêsu có thể là "đối tượng gây vấp phạm" (11,6),
còn "thế hệ này" không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các
thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị
tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã "bàn bạc để tìm cách giết Đức
Giêsu" (12,14).
Bầu khí ngờ vực
và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật,
cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia;
các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn
văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con
cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng
Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số
phận của Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị
Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này,
Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ
thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên
Chúa.
3. Trong các ch.
5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên
Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông
phải kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua
các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng
của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như
quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10,
qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra
rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức
Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất
cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay
sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao
nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc
các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một
phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được
nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này,
chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại
trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên
ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin
Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống
các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là
10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc
là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước
Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được
đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết
của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ
gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách
đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải
tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài:
phải nghĩ gì về những "việc Đức Giêsu làm" (11,2.19)? Phải hiểu thế
nào về những "cử chỉ quyền lực" ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu
hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ "Kitô" mà Mt đã sử dụng
trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta
đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt
được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh
luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần
Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng
này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng
Mátthêu.
2- Bố cục
Bản văn có thể
chia thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc
tranh luận Kitô học (11,2-3);
2) Câu trả lời
của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6);
3) Bài tán
dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3- Vài điểm chú
giải
- Đấng phải đến
(3): dịch sát ho erchomenos là "Đấng đang đến". Chúng ta nhớ đến lời
rao giảng trước đây của Gioan: "Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho
opisô mou erchomenos)" (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia
40: "Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ
quyền" (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là "Đấng được chờ
đợi", "Đấng sẽ đến", "Đấng Thẩm phán" (x. Dcr 9,9; Tv
118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều
phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12).
Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám
hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa
để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt
mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).
- phúc thay
người nào không vấp ngã vì tôi (6): "Cớ vấp phạm", skandalon, là
"cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã"; và
nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn
giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất
vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang
thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng
của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy
Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của
bản văn
Gioan Tẩy Giả
đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm
cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra
(3,11t; x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy
Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của
ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là
đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết
những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc
tranh luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói
đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có
thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của
Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông
không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật
đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải
nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn
cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan
nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có
thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến
gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời
của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không
cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu
đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch
ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy
Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về
những việc Đức Giêsu đã làm ("Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều
mắt thấy tai nghe") và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến
các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng
định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành
vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động
của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và
ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên
không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài
người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập
giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa
tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung
kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những
người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những
người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi
sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt
đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở
tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và
nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả
mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới
thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng
về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống
lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải
tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp
chúng ta ý thức về điểm này: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì
tôi" (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết
phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta
đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương
của Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả
lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản
thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống
không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền
quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là
mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là
một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn
hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa,
các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang
theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng
hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị
trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho
dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh
giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của
ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến.
Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức
Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là
theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người
cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải
nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ.
Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con
người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự
vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và
người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một
ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ
của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia
mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành
với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc
lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ
hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta
nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng
theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ
nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người
hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ
mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy
niệm
1. Hôm nay,
nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan
niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người
nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một
vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những
kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi,
Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài
người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những
người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa
mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó
Đức Giêsu đã nói: "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi". Đây
cũng chính là "cớ vấp phạm" do các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường
tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng
đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức
tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là
ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với
thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra
đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã
nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực
tại.
3. Đức Giêsu
tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó,
chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của
chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta
phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với
niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc
sự chờ đợi sai lạc nào đó.
4. Là những con
người sống ở thời đại "cuối cùng", chúng ta "có phúc" hơn
là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ
đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người
khác chăng?
21. Chú
giải của Noel Quesson
Ông Gioan lúc
ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến
của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên
quan với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan
Tẩy Giả rao giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu ...
Mt 4,12 Việc
bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu "khởi đầu"...
Mt 11,2-18
Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu
hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái
chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai
môn đệ đến hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Chính với lòng
nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự
sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu' của ông, do
"Tin Mừng" của ông: "Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây
là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái
"hoài nghi" này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa
vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái
pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá
của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một
tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất:
"đức tin" bị nao núng... Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta:
"tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu
phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy
Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến
chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có
lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà
Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở
từ miệng người". Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người
ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây
nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng?
Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng
hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên
Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục
mong ước rằng Thiên Chúa làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như
hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên
Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực
các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người
bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của
mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê
khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại "quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa
ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết
bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy
Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến
cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi
một người khác?
Chúng con có
phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con
hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở
Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả
lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:
Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe,
người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không
trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói "Tôi là Người phải
đến". Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn
phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng
Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong
ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn
là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là "loại Mêsia
nào": Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ
của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với
những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác...
Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành
sau cùng được nói lên: 'cái chết' bị đánh bại... người nghèo được rao giảng Tin
Mừng... Đấy chính là niềm vui mới!
Những câu hỏi
mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa,
thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với "chính ta": bạn đã cáo
giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải
phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên
tốt hơn?
Dấu hiệu đích
thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng
ta 'không phải đợi một ai khác nữa'.
Câu trả lời của
Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki
tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn
tình yêu của Đức Giêsu và của "Tin Mừng của Người cho người nghèo không
hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân
cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi
an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay người
nào không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp
nói ở đây: "Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi". Tiếng
"skandalon" là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng
dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một
cơ hội "vấp ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người
rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ
sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi
tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay
trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này
mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... những cái chết
của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập
giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm
hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một
người khổ tu, một vị thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất"... được mời để làm
cho đức tin lớn lên, được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức
Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem gì trong
hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một
người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong
cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó;
mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây
giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.
"Giêsu,
ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu
vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba
lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây
sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng
phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr
1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự
dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói:
Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.
Chính ông là
người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước
mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến
Như trong phần
thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh
Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng
Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã
viết: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong
đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi
giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn
đường, và Đấng sẽ đến"; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con:
"trước mặt Con!". Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như
Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên
bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn
bị sứ giả". Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của
Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật
với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn
ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn
ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai
trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử
thật sự. Có "trước" người và "sau' người. Lịch sử thế giới đang
ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé
kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không
đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và
thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và
Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của
Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới
bắt đầu... Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé
mọn": tự khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại
quyền lực, chính là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan
đã học được điều đó.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét