CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG A
Lời Chúa: Is 2,1-5; Rm 13,11-14; Mt
24,37-44
MỤC LỤC
1. Chúa đến
2. Hãy sẵn sàng
3. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
4. Sống tỉnh thức – Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
5. Suy niệm của Ủy Ban Kinh Thánh –
HĐGMVN
6. Niềm tin yêu phó thác
7. Âm vang mùa vọng
8. Một ánh sáng trong đêm tối
9. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc
10. Sẵn sàng đón Chúa – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
11. Hãy sẵn sàng
12. Mùa Vọng: Mùa màu xanh
13. Dấu hiệu thời đại – Achille Degeest
14. Chống lại thói quen – André Sève
15. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas
16. Chờ đợi Chúa đến
17. Niềm vui
18. Hãy sẵn sàng
19. Suy niệm của JKN
20. Hãy tỉnh thức
21. Tỉnh thức
22. Sẵn sàng
23. Chúa đến
24. Sẵn sàng
25. Tỉnh thức
26. Chú giải của Noel Quesson
1. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến.
Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình
trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải
không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn,
chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng
chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và
hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa
chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình
an dưới thế cho người thiện tâm.
Thời đại của Chúa là thời đại hòa bình
như tiên tri Isaia đã diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên
lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm ra xông
đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương.
Sẽ không còn cái cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không còn cái cung cách
người với người là chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh đệ, bốn bể đều là
anh em ruột thịt vì cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn tranh chấp lừa
đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ tuân
theo ý định của Ngài. Mọi mơ ước của con người sẽ được thoả mãn, sẽ trở thành
sự thật. Vậy cảnh địa đàng này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa mới ban cho chúng
ta hoà bình và hạnh phúc đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không hay biết bởi vì
Chúa đã phán: Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Lúc Chúa đến có
thể hiểu là giờ chết của mỗi người chúng ta, hay là ngày tận thế. Chúng ta
không biết lúc nào sẽ xảy ra hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết lúc nào mình
sẽ chết hay lúc nào sẽ là ngày tận thế? Đó là một việc làm luống công và vô
ích. Trái lại hãy phó thác tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán: Chớ áy náy
về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy,
nhưng tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không
phải là tìm biết ngày giờ lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm
hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay như lời thánh
Phaolô đã khuyên nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí
giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn
uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc
lấy Đức Kitô và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì khi Chúa đến, chúng
ta sẽ được nghe những lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu thương của Chúa: Hỡi
những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy phần gia nghiệp Nước
Trời, đã được dọn sẵn cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
2. Hãy sẵn sàng
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm
nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy,
Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ,
trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không
ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình
bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng,
nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao
giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết
chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn
lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của
Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở
trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai
giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được
tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người
được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy
hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời
của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời
hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với
muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho
đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống trong tình thương
và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho
chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức
và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn
ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn.
Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm
của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục
lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa
ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện.
Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả
ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta
được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải
chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của
Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của
thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm
sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí giới
ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say
sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn
những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là
sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
3. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập
đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt
đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy
quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt
kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không
gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của
chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra
những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn
sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi,
bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì
nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ
các bạn trẻ rằng: "Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục.
Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là
sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột
tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!". Mưu chước
nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục
người ta biết rằng Đức Giê-su chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm
toàn những chuyện bịa đặt viển vông..." nhưng rồi ý kiến nầy cũng không
được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa
mưu túc kế lên tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: "có
Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau... (mình
phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ
rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy
đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn."
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng
diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám
dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo
lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn
năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc
đời, còn hôm nay, thì...
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma
trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phao-lô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về
với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm
mình trong lạc thú:
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy
chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày:
không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương.
Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà
thoả mãn các dục vọng."
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi
chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như "Thời ông Nô-ê
thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày
trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày
ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn
đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy".
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh
em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ
nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách
nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút
anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh,
ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì
chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh,
mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa
thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một
bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi
thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng,
là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ,
chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin
rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi
đời đời của chúng con.
4. Sống tỉnh thức – Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
Người Việt Nam có câu "nước tới
chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm thía câu nói này
qua những ngày tháng lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua. Không có lương thực
dự trữ, đa phần phải sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa đói. Có những nơi
chỉ còn biết trông chờ ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang đến. Không ai nghĩ
rằng lũ lụt lại quá kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn uống, vẫn vui chơi,
vẫn không cần tích trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có những ngày "gạo
quế củi châu", khiến họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi phải ngửa tay van xin
lòng thương xót của người khác. Họ đâu ngờ rằng những gì họ tích luỹ, cất dấu
lại bị nước cuốn trôi và trở nên trắng tay lại hoàn trắng tay. Xem ra trên thế
gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể
cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ "một cơn gió
thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy
tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như "thời
ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng". Người ta tưởng
rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải
sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình
ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và
cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình lên tàu, còn
những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn hát cho đến khi cơn hồng thủy đến và nhậm
chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông
mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân
dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó
sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày
đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta
là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh
thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong
thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu
diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông
cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy
chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho
mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai,
cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao
vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn.
Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông
già đó.
Trong thư thứ hai của thánh Phêrô có
ghi rằng: "Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn
luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại vùng Sôđôma. Khi
Sôđôma bị các nước lân bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham là chú phải ra
tay tiếp cứu Lót. Nhưng Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi Chúa quyết
định giáng tai họa xuống kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa giải cứu,
nhưng vì Sôđôma không có đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu diệt.
Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng ông
ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại nhìn và
đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình
trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng
phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng
tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy
mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu diệt hàng trăm
ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào
cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa
đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: "cái đáng buồn
của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ
đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người
ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà
Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống trong xã hội
băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không,
chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ
niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy
lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã
hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh
thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh
lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm
đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
5. Suy niệm của Ủy Ban Kinh Thánh –
HĐGMVN
(Trích từ 'http://www.kinhthanhvn.org')
Đức Giêsu đã đến xưa kia, sẽ đến vào
ngày Quang Lâm và vẫn đang đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp Người đến dưới bất
cứ dạng nào.
Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu bằng Mùa
Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến trong ngày lễ Giáng
Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ trở lại trong vinh
quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh lễ: Lạy Chúa,
chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho
tới khi Chúa lại đến.
1. Israel mong chờ Đấng Thiên Sai
(Messia)
Do-Thái, dân tuyển chọn, lúc ấy đang
sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo. Phương Bắc đã
hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất nước Giuđa,
sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội đầy những
bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong khi dân
nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức. Chính
trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14) về việc
Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi dậy trong
lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất hiện để giải
cứu và phục hưng đất nước. Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong chờ ấy bằng lời
sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai
và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel" (Is 7,14). Vị ngôn sứ còn
loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên mặt
đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng thờ
Giavê (Is 2,2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone
xâm lăng và bị lưu đày (587). Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi
ách nô lệ Ai-Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được
hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước. Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với
sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl
18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã
phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải
chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn
kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân
vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa
trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14). Trong từng giai đoạn,
Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ
dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ
đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong
chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy
đến!
2. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đã đến
hoàn tất niềm mong đợi Cựu Ước
Giữa lúc nhân loại đang chìm sâu trong
đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi Israel đang mòn mỏi
mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé ngang màn đêm. Ánh
sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người, mang tên gọi Emmanuel,
nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23). Loài người khát khao cứu độ,
nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết trông đợi ở Chúa. Con
người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa lại xuống với con người.
Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga
3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên người phàm (Ga
1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những ai đang sống
dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5). Đó là lần thứ nhất
Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong ngày lễ Giáng
Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Chúa đến với ta,
mang niềm vui, an bình và cứu độ.
3. Hướng về ngày Quang Lâm
Tưởng niệm không phải chỉ là một hoài
niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm nay trong mỗi
giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm khi niên cùng
nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định sự sống đời
đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là những ai khi
sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền thống trị của
ma quỷ và tội lỗi.
Ngày Chúa quang lâm thật bất ngờ, không
ai biết trước được sẽ xảy đến lúc nào. Vì thế, Chúa dạy phải sẵn sàng tỉnh thức
như người đầy tớ khôn ngoan chờ đợi chủ về vào lúc đêm khuya, hoặc như các
trinh nữ khôn ngoan chờ đợi chàng rễ đến chậm, như người quản gia trung tín
luôn biết chu toàn bổn phận khi chủ vắng nhà. "Hãy cầm đèn cháy sáng trong
tay và hãy thắt lưng như người chờ đợi chủ về ". Hình ảnh Hồng thuỷ và
Sôđôma luôn là một cảnh tỉnh con người trong cuộc sống cần biết hướng về ngày
thế tận, chứ không phải sống như thể trần gian và hiện tại là tất cả. Cuộc sống
hiện tại là một chuẩn bị và xác định cho định mệnh cuối cùng. Chúa Giêsu đã có
lần cảnh cáo qua dụ ngôn người giàu khờ dại: "Không phải sự sung túc của
cải đời này đảm bảo hạnh phúc đời đời" (Lc 12,15). Thánh Phaolô khuyên:
"Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành vi ám muội và mang lấy
khí giới ánh sáng để chiến đấu..." (Rm 13,11-14).
4. Chúa vẫn đến mỗi ngày
Ngày Quang Lâm vào lúc thế tận sẽ rất
bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón Chúa đến mỗi
ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: "Phúc cho ai chết
trong ân nghĩa của Chúa". Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống
trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự
bàn tiệc với người ấy.
- Chúa đến và đối thoại với ta trong
Kinh Thánh. Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời Chúa.
- Chúa đến và ở giữa chúng ta trong
Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng sống nuôi dưỡng ta
trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ và rước
lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể.
- Chúa đến trong anh em: "Sự gì
các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta" (Mt 25,40). Trọn
cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết mình.
Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục vụ
khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến
chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng
nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
6. Niềm tin yêu phó thác.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn
Tiếng)
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng
Thể, khi được hỏi: "Con tàu No-ê đã trôi về đâu", một em học viên
tuổi vào đời đã trả lời nhanh: "Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không
bến".
Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là
bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo
kiểu "người trần mắt thịt", thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không
trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu "con thuyền không
bến" của người đời: "cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo
xoay vần đến đâu". Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi
nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.
Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm,
có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch
định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.
Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn
ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất
mới - một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông
vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của
Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một
bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô
hình đang chờ đợi "con thuyền không bến" của No-ê cập bến: - bến bờ
sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành trình của con tàu
No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ
trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng
đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì
để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều
tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao
la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy
được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa
Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những
người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta
luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ "nằm há miệng chờ
sung". Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người
luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con
người mới vươn lên được. "Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô
dụng, cũng hoài ngọc đi".
Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui
thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục
thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm
nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong
thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn
sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. "Thời ông Nô-ê thế nào, thì con người quang
lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn
uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết
gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người quan lâm
cũng sẽ như vậy". (Mt.24,37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ...
Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ
biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải
mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc
quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ
đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối,
nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù
gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định
ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy
khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai
cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường
hối hả chạy vào nhà báo tin: "Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang
đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ
ơi, anh Sang còn sống!".
Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng,
không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt
vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh
Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn
chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan
tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc
quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó.
Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ
diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh
phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi
khóc vì cảm động trước lòng mẹ...
Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là
khát vọng muôn thuở của con người!
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa
Giê-su đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc.7,11-17).
"Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: 'Bà đừng khóc nữa'".
Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ.
"Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà
mẹ".
Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ
thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi
khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. "Mọi người đều kinh
sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: 'Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng
ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người '". (Lc.7,16).
Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ
đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều
không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức
không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn
cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ
đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như
thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu
Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc
về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề
bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến "hồn xiêu
phách lạc", vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành
và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. "Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra,
anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ"
(Lc.21.28).
Có một chút màu trắng trinh nguyên,
Có một chút màu đen bóng tối,
Có một chút màu xanh hy vọng,
Có một chút màu đỏ tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời
con. Amen.
7. Âm vang mùa vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng
phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp
bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm
nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc
sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân
cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo
trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại
lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không
cùng hòa nhịp yêu thương!
Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được
vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: "Hãy tỉnh thức!"(Lc
21,36); " Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới
đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét"(Lc
21,25).
"Hãy tỉnh thức": - để sống
cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
"Hãy tỉnh thức": - để tỉnh
táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp "con"để sống
đẹp kiếp "người"!
"Hãy tỉnh thức": - để làm vui
lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời
đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy
hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính
mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn,
nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác
vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng
phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã
không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều
mầm bệnh!
Do từ lòng tham không đáy, mà chính
mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị
bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết
đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao
lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi
được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao
nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này
ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ
mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ
đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: "Hãy tỉnh
thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để
đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương,
trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi
nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần
"con" chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần "người"!
Nếu sống phút giây hiện tại như giây
phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!
Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn
chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm
trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế
hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui
hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa
đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai
lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy;
lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp
trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?
8. Một ánh sáng trong đêm tối
(Suy niệm của Bernard Lafrenière – BTGH
chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban đêm, trên một con
đường xa lạ, chúng ta chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một ngôi nhà để cảm
thấy được an tâm. Như vậy, khi chúng ta vượt qua những giai đoạn khó khăn,
chúng ta tìm một ánh sáng trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm nay, nói về giấc
ngủ, đêm tối và ánh sáng.
"Hãy đến – lời tiên tri Isaia nói
với chúng ta – hãy bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa". Thánh Phaolô
viết: "Giờ đã đến để ra khỏi giấc ngủ... Đêm sắp tàn,ngày đang đến
gần...". Chúa Giêsu nói thêm: "Hãy sẵn sàng: Chính vào giờ các con
không ngờ, Con Người sẽ đến...". Và như để nhấn mạnh tầm quan trọng của
thông điệp nầy, Chúa Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người không nghi ngờ
gì hết trong khi một biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của sách Sáng Thế Ký,
một tình huống khác thường sắp sửa đảo lộn nhân loại,nhưng không ai mảy may
nghi ngờ, trừ một người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới hỏi, ăn uống như
thể không gì có thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một con tàu ngay
giữa nông thôn. Vả lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí ngắm ông làm.
Chúa Giêsu nói thêm: "Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi nạn hồng
thủy ập tới chôn vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở ngoài đồng, làm
công việc rất bình thường, giữa thiên nhiên: "một người được đem đi, người
kia bị bỏ lại". Hai người phụ nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn còn tìm
thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông được làm với hai hòn đá đặt chồng lên nhau
và một hòn có một tay nắm, mà hai phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm cho viên
đá nầy quay. Đây là một công việc rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa Giêsu nói –
"một người được đem đi, một người bị bỏ lại".
Nhưng biến cố nào sẽ chợt xảy đến với
chúng ta? Tại sao lại phải thức dậy khi đang ngủ và để cho mình được dẫn đi
theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ cần nhìn những người sống xung quanh ta và tự
hỏi: "Điều gì làm họ chăm chú vậy?"
Nhiều người an toạ tốt bao nhiêu hay
bấy nhiêu trong thế gian chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp cho chúng ta
một sự thoải mái nhất định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì mỏng manh như
là những lời hứa của thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang đến! Chúng ta
phải chỉnh tề khi Nước Thiên Chúa sắp đến!
9. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc.
(Suy niệm của Lm Jos Phạm Thanh Liêm)
Mùa vọng là thời gian chờ mong Chúa
đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa, nhưng chờ
mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho con người
được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
1) Không có hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc
đời chóng qua này
Thế gian này không phải là nơi ngập
tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau khổ. Không phải
những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái nghèo của bản
thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như con cái, cha
mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ về tinh thần.
Những thất bại trên đường đời, thất bại
trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về công danh sự nghiệp,
cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống. Đời người tuy có những
lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau khổ.
Cái chết, làm người ta phải xa lìa
những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ. Có ai muốn
xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân yêu của
mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy hiểm. Cái
chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản được.
Những áp bức bất công thường xảy đến
với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc vẫn đang tiếp
diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con người thoát cảnh
súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại công bằng cho những
người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên Chúa
Cái chết làm con người khổ, vì thế con
người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như muốn tìm trường
sinh bất tử nơi "cloning", nhưng "cloning" lại làm nảy sinh
bao nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người "tàng tàng"
đã sát hại bao người khác. Con người mới chỉ "cloning" được thân xác,
nhưng đâu "cloning" được tinh thần. Con người được
"cloning" này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng, có chắc gì những người
đó là những người bình thường, biết đâu những người đó có thể là mối đe dọa cho
xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời với con người hôm nay. Hơn
nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một thời gian sống lâu, cũng cảm
thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một người được thuốc trường sinh
bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế hệ chết, rồi con cháu của
người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày người đó cảm thấy cô độc,
và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng, người đó lại ao ước được
chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ muốn sống, khi cuộc sống
hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn nằm trong tầm tay con
người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao ước hạnh phúc của con
người?
Con người chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa
niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh phúc vĩnh cửu.
Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời đó người ta
không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào Thiên Chúa, người
ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này các tín hữu mong
chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn con người.
Ngày Chúa tới trong vinh quang, là ngày
Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con người trọn vẹn, cả về
tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và người lành được hưởng
hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải Huyền diễn tả, có trời
mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc nữa. Con người sẽ được hạnh
phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời này
Bài đọc II thánh Phaolô khuyên bảo tín
hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những công việc đen tối,
đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này chỉ là "đời
tạm" nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của cuộc đời
này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa là Cha và cùng
đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình. Phó thác đời
mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong từng giây phút
của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết sức để làm theo
điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm đến mình ngay cả
khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn, làm cho người khác
vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười với họ, giúp đỡ họ
khi họ cần.
Thánh Thần của Đức Yêsu đang ở với con
người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn từng ngày khi mong chờ
ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói, bạn có mong ước
Chúa đến không? Tại sao?
2. Ngày Chúa đến trong vinh quang, con
người được gì?
3. Bạn cần làm gì trong thời gian chờ
mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?
10. Sẵn sàng đón Chúa – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Hôm nay cung thánh đượm vẻ u buồn. Bàn
thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím của lặng lẽ hy sinh.
Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi chờ. Màu tím ấy nhắc
cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa
đến cứu độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế
tắc. Chỉ có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội
lỗi, đưa ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng là mùa hy vọng.
Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi đã thấy thấp
thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến thành màu xanh?
Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi Người ngự đến? Lời
Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất mùa Vọng, Chúa
Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu thoát khỏi nạn
hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái độ tích cực đó
gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy vọng tương lai vào
cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy vọng. Không có hy
vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc đời tràn ngập đau
khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới có thể tiếp tục
sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một mùa gặt bội thu mà
người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy sớm, cần cù cày
bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu đạt mà học sinh,
sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui chơi, đêm đêm chong
đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng được cứu thoát đã
giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ và công sức để
đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng lời hứa của
Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy niềm hy vọng
vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn hiện tại.
2) Sống tích cực giây phút hiện tại để
chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương lai giúp ta thêm
can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Niềm hy vọng
tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt tới niềm hy vọng
tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích cực làm việc cho
tương lai.
Người học trò muốn có tương lai tươi
sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo học hành.
Người nông phu muốn có mùa gặt bội thu
không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng phải cần cù chăm
chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi khoanh tay chờ
Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực, bất chấp những
lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu: Hãy tự giúp mình,
rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài đã dồn hết công
sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã hứa.
Đời sống ta là một mùa Vọng kéo dài.
Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian nan thử thách,
những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy noi gương tổ
phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu ánh sáng hy
vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e, ta không
ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện tại. Làm
mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ mọn với
tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón Chúa
đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ quan tâm tới đời
sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo làm ăn sinh sống
mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế nào để chu toàn
nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên Chúa, không quên
phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ làm gì để chuẩn bị
đón Chúa đến?
11. Hãy sẵn sàng
(Trích từ 'Manna')
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng 10 năm 1992, một
số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến vào lúc nửa đêm.
Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không phải là ngày tận
thế. Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng bảo là
Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời đồn thổi,
nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ nơm nớp chờ đợi,
khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để chuẩn bị cho trái
đất đón Chúa trở lại.
Mùa Vọng là thời gian đặc biệt để tập
sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất là chờ đợi Chúa
đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày Chúa quang lâm là
một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng kinh khủng sẽ xảy
ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một ngày hội vui: ngày
vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những người được cứu
chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở ra trời mới đất
mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay mong chờ Chúa
đến ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến ngày tận thế. Tận
thế bị coi là chuyện tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có vô số mối lo âu và
hy vọng: ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày tận thế cũng cần
như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta biết cách sống.
Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền tảng vĩnh cửu,
trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo, ngày tận thế không
phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là ngày của thân xác
được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận thù và chết chóc đe
dọa.
Ngày tận thế là ngày Chúa quang lâm.
Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa xây dựng một trái
đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất thành con đường dẫn
tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là một ngày bất
ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng co giữa đời này
và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về đời này không
làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại thêm sức cho
ta chu toàn bổn phận đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế, hôm nay bạn làm
gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang
lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết,
dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu
muốn mất một người nào
Xin cho chúng con biết cộng tác với
Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để
ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin
vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm
chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
12. Mùa Vọng: Mùa màu xanh
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống –
Trích từ 'Nút Vòng Xoay' – trg. 7)
Tuần qua có dịp về quê, mới bước vào
nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến chào mọi người.
Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: "Mùa Vọng, bác có lì xì
cho cháu không?". Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo quanh quẩn
giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần tới, tức hôm
nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa bé chẳng
biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ "năm mới", vì thế mới có
chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại
khoe: cháu còn biết viết chữ "mùa vọng" nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm
bò trên sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến
cho mọi người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì "Mùa Vọng", cháu đã viết
lộn một nét để thành "Màu Vọng" khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng cười ấy và sự lẫn
lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác tự hỏi: Mùa Vọng
màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng năm nay. Đó là gọi
tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, xin được
gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa xanh lên niềm hy vọng. Gọi
thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng
vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên Chúa mà chẳng hy
vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài,
cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy vọng, Ngài đã không
ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi
phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính là một mùa qua đó
Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng vào con
người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người trong lịch sử Giáo
Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống cụ thể của từng
đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện
nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người. Lần thứ nhất
trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan hòa giữa muôn
người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi
Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng, lúc Người về
trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới bắt đầu. Ơn
cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con người lại cứ
tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày chung kết
vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện với chính Người
như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối diện với chính
mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy vọng, Người đến
gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt những gì mình đã
gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể những lần âm thầm
đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà bước đến với con
người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc cá nhân; qua
những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và nhất là qua
những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm hy vọng cứu
rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và cái cách Chúa
đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa chốn chợ đời.
Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con người hy vọng vào
Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào con người là để
cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào
con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào
Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức
rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một vận mệnh tương
lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối với ngày mai;
tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ giới hạn trong
đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng phần tùy theo
mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người tiến về vĩnh
cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự kiện mà chính
là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở nào, để khỏi
phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt mặt mừng đến
độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế kỷ XIX với
khẩu hiệu "con người là tương lai của con người" nên dẫn đến chiến
tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp "Thiên Chúa là tương lai của con
người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy vọng cũng là canh
thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời mình. Sẽ là một thứ
hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm sự sống trên đống
phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường mua tấm vé số và sẽ
là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không nắm trong tay vốn
kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng "bốn mùa" xanh
tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả năng nơi
mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh thức trong hy vọng
cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để gieo niềm hy vọng
vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một cuộc lên
Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi. Hy vọng vào
Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao thành cuốc
thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo, từng bước đi
tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu xanh hy vọng. Hy
vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích; đừng để trở thành
"Chuyến đi không đến đâu" như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế chính là sống
niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như vậy là êm đềm
gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng là mùa màu
xanh.
Sáng nay ngang qua cuối nhà thờ Tân
Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước đã thấy nhưng
vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp Phụng Vụ trở
mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm sao, không vì
kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn của tôi, màu
xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng vươn lên.
Chúc mỗi người có một cây thông xanh
thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay điên đảo thử
thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa giống như
đứa bé đòi lì xì, cứ "lì" ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ
"xì" ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
13. Dấu hiệu thời đại – Achille Degeest
(Trích từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Sau khi Chúa Giêsu đã nói tới những dấu
hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người nói về ngày tận
thế. Ngày ấy sẽ xảy đến bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu hiệu mô tả trong
Phúc Âm đã xảy ra trong lịch sử loài người, và nhân loại đã quen với chúng rồi.
Trong lúc mà bằng vô vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra cho thấy rằng
thế gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn dừng lại ở trình
độ tìm tòi duy vật trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là trường hợp của những
người xưa kia bị hồng thủy thình lình ập xuống trên mình. Những ai không biết
đọc dấu hiệu thời đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như vậy. Cũng trong một
viễn tượng gần như thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc dấu hiệu thời đại
không? Thật vậy, hành động liên tục của Chúa trong nhân loại có thể quan niệm
như một cuộc ngự đến không ngừng của Người trong nhân loại. Ta có biết nhận ra
những dấu hiệu của cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng
của Công Đồng Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang gắn ý nghĩa Phúc
Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người, trên cộng đồng
nhân loại và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút
kính trọng đối với nhân vị. Theo một số khoa học gia, bậc thầy trong khoa sinh
vật học, con người là kết quả của một sự tình cờ may mắn trong đà tiến hóa của
vật chất. Trong cách thức người ta quan niệm thì con người có giá trị gì? Con
người có giá trị nào trước những vấn đề như phá thai, ngừa thai, công bằng,
chính trị v.v... Phúc Âm đặt con người vào trình độ của tương quan giữa nó với
Đức Giêsu Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Nó tội lỗi
nhưng được cứu độ. Trong toàn con người nó, xác và hồn, nó là con cái Chúa. Sự
sống của nó là một điều thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi hỏi rằng trí khôn
nó phải được soi sáng và con tim nó được huấn luyện. Chủ nghĩa duy vật hiện đại
là một dấu hiệu thời đại phải thôi thúc người Kitô hữu quả quyết lại phẩm giá
của con người một cách mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm kiếm, chưa bao giờ
con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như thể gặp gỡ nhau khắp cùng
trái đất. Đó là một dấu hiệu thời đại khiến người Kitô hữu phải tạo cho mình
một não trạng phổ quát 'công giáo', bao trùm toàn thế giới. Hiện nay, đối với
ai biết nhìn xem, Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện
dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con người
Những cuộc chiến thắng, những thành
công của con người là dấu hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên của Chúa trong tạo
vật. Nhưng uy quyền con người càng tăng, thì trách nhiệm của nó càng lớn. Con
người sẽ làm việc cho con người, và làm việc trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó
duy trì liên quan của mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa, thì uy quyền nó
càng nhiều, sức mạnh phá hủy của nó càng tăng.
Trên các biến cố thời sự làm xao động
thế giới, ta hãy luôn luôn chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải tỉnh thức. Hơn
nữa, ta hãy tùy theo phương tiện ta có mà can thiệp vào để giúp cho Chúa ngự
đến trong thế giới chúng ta.
14. Chống lại thói quen – André Sève
"Anh em hãy tỉnh thức!"
Giấc ngủ là thói quen của chúng ta. Nó
làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói quen này như sau:
"Vào thời Noe, người ta ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng ...". Có
một người thoát ra khỏi thói quen này đúng lúc, đó là Noe. "Noe bước lên
tàu". Còn những người khác vẫn sống "mà không nghi ngờ gì cả, cho đến
khi trận lụt nhận chìm họ".
Thói quen nhận chìm chúng ta. Bạn hãy
nghĩ đến những câu: "Tôi phải phản ứng lại... Tôi phải bắt đầu... Không
thể tin được là thời gian trôi qua nhanh thế... Nếu có thể làm lại điều đó... Nếu
lúc trẻ mà biết thì ...".
Chúng ta biết chứ. Chỉ cần lắng nghe
Chúa Giêsu thì đủ rõ: "Hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị đem đi,
và một sẽ được để lại; hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem đi và một
sẽ được để lại. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức". Khi làm cùng những công
việc, có người thì chết, có người thì sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có
người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì? Phải lặp đi lặp
lại lời kêu gọi cảnh giác này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh
giác đó, một sự cảnh giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ như một sự lo âu
làm cho tê liệt, hoặc đi đến chỗ đặt câu hỏi "ích lợi gì cơ chứ?" làm
cho quay sang khinh dể thế gian và những công việc trần thế. Không, trái lại,
sự cảnh giác trong Phúc Âm là một sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì người ta
luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi và sự biểu hiện thực sự của điều mà người
ta đang làm.
Những thói quen của chúng ta (công
việc, truyền hình, xe cộ), những lo toan của chúng ta (kiếm tiền nhiều hơn, hoàn
thành nhiệm vụ nào đó), những dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối tuần mau đến,
mong kỳ nghỉ hè mau đến), có phải những điều đó làm cho mỗi người chúng ta sử
dụng cuộc sống đến nơi đến chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa là cuộc sống
100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở đâu?
"Tôi không có thời giờ" đôi
khi là tiếng than phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là bài ca
của thói quen. Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người Kitô hữu không
gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với Thiên Chúa. Người
ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích lợi, một chiều
dày. "Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại". Những người tỉnh thức
đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào họ
cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất sở thích những gì
thuộc về cuộc sống, sự tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho những bước khai
tâm, những bước đầu học tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua những gì người ta sống,
khi trở thành một người được xây dựng cho sự vĩnh cửu và xây dựng một phần của
nhân loại vĩnh cửu!
Chống lại thói quen là sao? Là suy
nghĩ, lại tiếp tục, không buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch hoặc sự đều đặn
máy móc và bảo "tôi luôn luôn làm điều đó".
Người tín hữu Kitô "sẵn sàng"
là người sống cái bình thường một cách hết sức tự do, ý thức, đến độ điều này
giữ cho họ tỉnh thức đối với điều bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối đời, giờ
kẻ trộm đến: "Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì Con
Người sẽ đến".
15. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas
(Trích từ 'Sống Tin Mừng')
Với Lễ Chúa Kitô Vua được mừng vào hôm
Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng vụ theo chu kỳ
Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa Nhật thứ I Mùa
vọng.
Bài đọc thứ nhất được trích trong đoạn
quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ cao cả nhất của
thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ khoảng năm 742 cho
đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen tối nhất trong lịch
sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc qui tụ thành vương
quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ lạc miền Nam qui tụ
thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa, sống bất trung với
giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ này mà tiên tri
Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng huy hoàng ở
tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời
Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng biết chừng nào
khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân tộc đối với
Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung thành với
Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây nhà Ngài
trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài hiện diện
sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối Thiên Chúa, nhục mạ
Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là sứ điệp hy vọng của
bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân nước sẽ đổ về đó,
nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa,
Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo thánh ý của
Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người thì hoà
bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời tiên tri
Isaia "các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn
nên lưỡi liềm", nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành phương tiện
tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Isaia loan báo
tiếp: "Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa, người ta cũng
không còn thao luyện để chiến đấu nữa". 700 năm sau, sau lời tiên báo của
Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của Ngài xuống trần
gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và sống lời Ngài được
qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi dân nước. Với sự
hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội trở thành dấu chỉ
và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con người với Thiên Chúa,
và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo Hội của Chúa vẫn kiên
trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này, giúp xây dựng hòa bình
giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo Hội bắt đầu cử
hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng, không phải là
thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã Giáng
Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa vọng không phải
là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian hướng con người
về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào lúc cuối
cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự đạt đến
cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên
Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành
toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử
cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp
đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe
lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà bài đọc II và Tin
Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma
đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng
ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới
tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và
mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm 13,
11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết
thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu
sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không
ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để
cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất
để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa Nhật thứ nhất Mùa
vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc
các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp
chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn
phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là
chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên
của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn
bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin
đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ
bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu
sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
16. Chờ đợi Chúa đến
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Mùa Vọng đối với người Kitô hữu chúng
ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa Xuân, cây cối
đâm chồi nẩy lộc, kết nụ đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới. Như vậy, mùa
Xuân cũng là mùa vọng, là thời gian trông chờ, mong đợi...
Nhưng, thưa anh chị em, chúng ta mong
đợi gì?
Sống là phải có hy vọng, đợi chờ. Còn
hy vọng, con người còn nỗ lực, phấn đấu để sống. Mất hy vọng, con người sẽ
không còn động lực nào để sống, để làm việc, dù bất cứ ở lãnh vực nào. Khoảng
thời gian từ lúc bắt đầu đến khi hy vọng được thành tựu, là lúc người ta phải
chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả hết được những tâm trạng chờ đợi? Vì nó đa
dạng và có nhiều mức độ thao thức khác nhau:
- Với một em bé, chắc không còn nôn
nóng nào hơn khi mong mẹ đi chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi, chắc hẳn không
một việc gì có thể làm cậu gián đoạn sự trông chờ kết quả với đầy hồi hộp, bồn
chồn.
- Với một thanh niên, còn gì thú vị hơn
lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề nghiệp, người ta
cũng mong ngóng, đợi chờ: Người buôn bán thì mong trúng mối, đắt hàng, nhiều
lời. Người nông dân chẳng mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho mùa màng tốt
tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy vọng, chờ mong.
Đó là động cơ của cuộc sống con người. Hy vọng với những kết quả đạt được là
hạnh phúc của con người: được mùa, thi đậu, là những món quà hạnh phúc của tuổi
trẻ. Người yêu đến thăm, đến đón, người chồng đi xa trở về, là những hạnh phúc
êm đềm, dịu ngọt. Được mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh phúc ấm no... Tất cả
đều là những hạnh phúc nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị em,
Phải chăng con người chỉ mong đợi có
những hạnh phúc nho nhỏ đó thôi sao? Con người không còn gì lớn lao hơn để đợi
chờ sao? Bởi vì, những hạnh phúc cỏn con đó không thỏa mãn được khát vọng của
con người: Trong cuộc sống, rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn chán, lạc
lõng, không biết mình muốn cái gì và ước mơ điều gì nữa. Đó chính là một cảm
nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu một "ai đó" có thể thỏa mãn được
mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người, sau khi đã hưởng
thụ tất cả, bỗng cảm thấy chán chường mọi giàu sang phú quý và sống vất vưởng,
tuyệt vọng. Nhưng họ không biết đó chính là tiếng réo gọi thiêng liêng đang đòi
hỏi một cái gì có giá trị vô cùng so với mọi thứ hạnh phúc trần gian tổng hợp
lại. Một hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có một đối tượng hy vọng,
một đối tượng trông đợi hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất đối với con người mà qua
bao nhiêu thế hệ, con người vẫn mang khát vọng sâu xa tìm kiếm: đó là Thiên
Chúa.
Thật vậy, đời người là cả một thời gian
nôn nóng chờ đợi ngày giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có Thiên Chúa mới
lấp đầy mọi khát vọng của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là con người là kết
quả của tình thương vô biên đó, nên con người luôn có những khao khát vượt
thoát trần gian, mong được giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, thể xác và
những đau khổ phiền muộn để sống với tình thương viên mãn, bất diệt. Nhưng con
người lại gắn chặt vào thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người luôn bị giằng
co, ray rứt giữa trời và đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại vật chất, nhu
cần thể xác.
Với người tín hữu, đối tượng mong chờ
của chúng ta đã cụ thể: chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên không phải
mong chờ Chúa đến như một cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước, nhưng là Chúa
đến trong vinh quang, Chúa đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc chắn Chúa sẽ
đến, nhưng ngày nào, giờ nào, thì chúng ta không biết được vì vậy, "phải
tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến... Phải sẵn sàng, vì lúc
các con không ngờ, Con Người sẽ đến". Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất
chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại
Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã không tỉnh thức để bị trộm vào nhà vét
sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình Thiên Chúa biết,
chúng ta đi tìm tòi có ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý nghĩa ở ngày hôm
nay, sống để tạo điều kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh Phaolô đã dạy:
"Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần
rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến,
chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta
hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời
dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và chớ lo
lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày Giáo Hội giúp
chúng ta ý thức đến ý nghĩa cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối kết chặt chẽ với
tương lai, với ngày Chúa đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến, không làm cho chúng
ta xa rời cuộc sống, trái lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt để hơn, hoàn thành
nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ chúng ta sống
trung thành với Ngài và yêu như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta có thể chờ đợi
Chúa như đứa con chờ mẹ như người yêu chờ người yêu.
17. Niềm vui
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên là
Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi,
một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở
được.
Khách đến chơi trông thấy cười nói
rằng:
- Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có chết, mà chết
thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú
quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng biết cái chết
là gì. Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm
xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan
đi. Nhà sư Viên Phủ Trung quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn xa trông rộng;
nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục tiêu của nhân sinh
là nước trời.
Tỉnh thức là biết lo trước nghĩ xa, vì
không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được cái lợi lớn ở
tương lai.
Tỉnh thức là biết phải hành động tốt
đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
"Anh em hãy tỉnh thức vì anh em
không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến" (Mt 24,42).
Tỉnh thức để chờ đón Chúa đến thì còn
gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì còn gì hạnh phúc
bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau mắn nhưng xác thịt
thì lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến họ lại chẳng đủ
sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con người nên Chúa
đã khuyên dạy: "Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ
thì Con Người sẽ đến" (Mt 24,44).
"Lúc Con Người đến" chính là
ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người.
Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách bất ngờ:
bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm đêm khuya
đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ nó đến, vì
vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa khỏi chộp
xuống đầu chúng ta như "tiếng sấm đánh không kịp bịt tai", là chúng
ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược điểm hết sức phổ
biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày mai để sám hối ăn
năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh nghiệm hết sức chua
xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao giờ trở lại. Chần
chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ. Xin đừng để quá
muộn! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.
Mùa Vọng là mùa của đợi chờ:
Không phải đợi chờ trong mỏi mòn, day
dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng. Không phải đợi chờ mà không
làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ. Không phải đợi chờ một ai đó, nhưng
là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính là tỉnh thức, là
sẵn sàng, là mở đường về tới nước trời. Chờ đợi như thế chính là chung tay xây
dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh phúc. Chờ đợi như thế
thì ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta đã toàn thắng vinh
quang. Vui vì bao con người được ơn cứu rỗi. Vui vì vũ trụ này đã được giải
thoát. Vui vì "trời mới đất mới" sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi
vĩnh phúc.
18. Hãy sẵn sàng
Sách "Cổ Học Tinh Hoa" có kể
lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước Tề,
nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh nếu
ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi nhưng nổi tiếng
khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu vườn trong hoàng
cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba, vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó?
- Thưa trên ngọn cây cổ thụ này có con
ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình yên thân, song
đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi bọ ngựa định tóm
cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con bọ ngựa. Nhưng
chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang nhắm bắn mình.
Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương rơi và nắng
gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ nhìn thấy cái
lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý thức tỉnh mình,
vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước Tề.
Cũng vậy, vì đam mê chạy theo tiền tài,
danh vọng và lạc thú, chúng ta quên mất thần chết đang rình rập ở sau lưng.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và hằng ngày luôn
đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng người trẻ. Cái
chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức, nhưng chúng ta lại
quên, không chịu sống đạo và thu tích cho mình một kho tàng thiêng liêng. Chúng
ta mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như vua nước Ngô đem quân
xâm lăng, mở thêm chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng, không ngờ rằng một khi
mình giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết không được đặt trọng
tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì càng nhiều lo âu, càng
nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa chân vào vòng cờ bạc, rượu
chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa, thì hãy biết sử
dụng vào những việc bác ái, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì chỉ những
cái chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được đặt trọng tâm đời
mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng càng dày gian nan và càng lắm kẻ
thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị tổng thống, khi
nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những công lao sự
nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn thua chi. Hãy
cầu nguyện cho tôi thì tốt hơn.
Sau cùng, cũng đừng đặt trong tâm đời
mình vào lạc thú vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống càng khát, càng
tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một nhà thần học nổi
tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những người sa xuống hỏa
ngục, chỉ vì đã phạm tội này.
Thực tế cho hay: phạm những tội khác,
chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít khi chịu dừng
lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần chết luôn rình rập
sau lưng. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ
chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình những hành trang
cần thiết, là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy công nghiệp, được
kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã thực hiện.
Bằng không, khi Chúa đến vào cuối đoạn
đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đắng vì thấy mình trắng tay, vì thấy
mình phá sản, vì thấy mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu.
19. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta có thể nói gì về những bất
ngờ xảy đến khi Đức Giê-su quang lâm? Có thể có những bất ngờ nào khác ngoài
phương diện thời gian?
2. Sự công minh của Ngài khi xét xử
trần gian có siêu việt không? Những kẻ gian ác nhưng biết ngụy trang một cách
khéo léo có bị lật tẩy không?
3. Phải tỉnh thức như thế nào trước
những bất ngờ của ngày Chúa đến? để vẫn có thể đứng vững trước mặt Thiên Chúa?
Suy niệm
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su
cho biết Ngài sẽ trở lại trần gian để xét xử nhân loại và cho biết một số điều
về ngày ấy như sau:
1) Ngài đến bất ngờ như kẻ trộm:
Đức Giê-su cho biết: "Chính giờ
phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến" (Mt 24,44; Lc 12,40),
"Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Sự
bất ngờ của kẻ trộm có thể về mặt thời gian – nghĩa là không thể xác định được
ngày nào, giờ nào – mà cũng có thể bất ngờ về cách thức: không biết được trộm
đến theo cách thức nào, vô nhà bằng lối nào, lấy trộm thứ của cải nào, trộm sẽ
giả dạng như thế nào, v.v... rất có thể kẻ trộm lại là người rất quen thuộc với
ta, thậm chí là người nhà của ta nữa.
Hãy rút ra bài học từ quá khứ. Mặc dù
việc Đức Giê-su đến trần gian đã được báo trước cả mấy trăm năm trước, và được
toàn dân Ít-ra-en mong đợi, thế mà khi Ngài đến, chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Tệ
hơn nữa, họ còn kết án và giết chết Ngài một cách tàn ác. Cách Ngài đã đến khác
hẳn với cách mà hầu hết mọi người nghĩ tới trước đó. Cách Ngài đến thật bất ngờ
mà người thường không ai có thể tưởng tượng ra nổi. Lời Kinh Thánh báo trước cả
mấy trăm năm đều được ứng nghiệm, nhưng ứng nghiệm cách khác hẳn với cách giải
thích hay cách hiểu truyền thống.
Ngày Chúa đến lần thứ hai để xét xử
nhân loại cũng có thể có nhiều điều hết sức bất ngờ mà con người không thể đoán
trước được, không chỉ về thời gian, mà còn về nhiều mặt khác nữa. Có như thế,
sự công chính hay gian tà mới lộ diện rõ rệt, vì ở thế gian, sự gian tà rất
nhiều trường hợp lại được ngụy trang bằng sự công chính, và tội lỗi lại mang
những bộ mặt hết sức thánh thiện. Con mắt thế gian không thể nào khám phá được,
nhưng không ai qua mặt được Thiên Chúa. Đức Giê-su đã từng nói về "các
ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ
tham mồi" (Mt 7,15). Thánh Phao-lô đã từng vạch mặt những hạng người ấy:
"Những kẻ đó là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức
Ki-tô. Lạ gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì
là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung
cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm" (2 Cr 11,13-15).
2) Cách phán xử của Ngài công minh
không ai ngờ trước được
Nếu Đức Giê-su đến để xét xử trần gian
mà không vạch mặt được những giả hình gian dối ấy, nếu Ngài cũng bị hạng người
này qua mặt như đã từng qua mặt mọi người trần, thì sự phán xử của Ngài còn gì
là công minh nữa? Với tư cách là vị phán trần gian, cách xét đoán của Ngài sẽ
phải hết sức công minh, công minh vượt hẳn và khác hẳn cách suy đoán của mọi
người. Ngày ấy, biết bao điều bị che dấu thật khôn khéo và kỹ lưỡng, đến nỗi
chưa hề có ai biết, sẽ bị đưa ra ánh sáng: "Không có gì che giấu mà sẽ
không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết" (Lc 12,2),
và "những việc tốt thì đã rành rành; mà cả những việc không tốt cũng chẳng
che giấu được" (1 Tt 5,25). Chính vì thế mới có những chuyện bất ngờ như:
"nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu" (Mc 10,31; x. Mt 20,16; Lc 13,30).
Nhiều kẻ tưởng mình là công chính hoặc
được mọi người tưởng là như thế nhưng lại bị Ngài xét là gian ác, ngược lại có
nhiều kẻ tưởng mình thuộc loại xấu đáng kết án hoặc bị mọi người tưởng là như
thế, nhưng lại được Ngài xét là công chính. Dụ ngôn người biệt phái và người
thu thuế lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14) là một thí dụ điển hình cho sự
trái ngược ấy. Còn bao nhiêu chuyện trái ngược như thế được biểu lộ trong Thánh
Kinh: "Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ
đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.
Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta
sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (Mt 8,11-12; nên xem thêm Rm 9,30-32;
10,20). Vì thế, tới lúc ấy, chẳng ai dám tự hào mình công chính, vì càng tự hào
thì càng dễ trở nên bất chính do chính sự tự hào ấy: "Ai tưởng mình đứng
vững, hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cr 10,12).
Ngày ấy, sẽ có rất nhiều người tưởng
mình công chính vì tự thấy mình chưa bao giờ làm một điều gì xấu, lại làm được
biết bao việc phúc đức, nhưng lại không được coi là công chính, mà thậm chí
ngược lại, vì:
– biết bao nhiêu lần họ đã bỏ qua không
làm những việc quan trọng và cần thiết mà đấng bậc họ buộc phải làm
– họ có thói quen thờ ơ trước những đau
khổ cùng quẫn của người chung quanh, họ không làm gì cả mà lương tâm chẳng hề
cắn rứt
– họ thường xuyên nhắm mắt làm ngơ để
mặc bất công hoành hành đang khi mình có khả năng can thiệp hoặc chặn đứng lại
được
– họ hay tự hào về những việc tốt lành
của mình đồng thời lên mặt khinh chê người khác
Và cũng biết bao người tỏ ra khô khan
nguội lạnh nên tưởng mình là bất chính nhưng lại được Chúa xét là công chính,
vì:
– đã thực tình sám hối và quyết tâm
không bao giờ tái phạm
– khi đụng chuyện cần phải hy sinh cho
tha nhân thì đã hy sinh một cách quảng đại, không tính toán, biết quên mình
thật sự.
– biết mình yếu đuối, nên luôn luôn tỏ
ra khiêm nhường, biết cảm thông với những yếu đuối, sai lầm của mọi người.
3) Số phận con người khi ấy được định
đoạt khác nhau
Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su cho
biết: "Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem
đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được
đem đi, một người bị bỏ lại". Chúng ta chưa biết ý nghĩa chắc chắn của hai
từ "được đem đi" và "bị bỏ lại", nhưng qua đó, ta biết được
số phận mỗi người lúc ấy được định đoạt một cách khác nhau: kẻ "bị"
người "được", kẻ khổ người sướng. Tất cả đều tùy thuộc vào cách sống,
cách cư xử và hành động của mỗi người ở trần gian: Ngài "cứ theo công việc
mỗi người mà xét xử" (1 Pr 1,17; Kh 20,12-13), "sẽ thưởng phạt ai nấy
xứng việc họ làm" (Mt 16,27; x. Rm 2,6). Thánh Gia-cô-bê còn cho biết:
"Đừng ham làm thầy thiên hạ, vì anh em sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn"
(Gc 3,1).
Đó là ngày của công lý. Những kẻ gây
bất công sẽ phải đền tội: "Thiên Chúa sẽ trả báo, nghĩa là bắt những kẻ
gây gian truân cho anh em phải chịu gian truân" (2 Tx 1,6), "Ai ăn ở
bất công sẽ được trả theo điều bất công mình làm; không có chuyện thiên
vị" (Cr 3,25). Còn những kẻ đã phải đau khổ và chịu bất công vì Thiên
Chúa, vì tha nhân, sẽ được đền đáp: "Anh em sẽ được coi là xứng đáng tham
dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ" (2 Tx
1,5).
4) Cần phải tỉnh thức
Vì không ai biết được ngày quang lâm
của Chúa xảy đến lúc nào, và xảy ra thế nào, nhưng có điều chắc chắn là sẽ có
nhiều điều rất bất ngờ, không ai dè trước được. Chính vì thế, Đức Giê-su đề
nghị với chúng ta một thái độ khôn ngoan, đó là phải tỉnh thức. Tỉnh thức có
nghĩa là phải sống làm sao để dù Chúa đến vào bất kỳ lúc nào, dưới bất kỳ hình
thức nào, hoặc xét xử công minh đến đâu, thì ta vẫn có thể đứng vững trước mặt
Ngài. Vậy cần phải tỉnh thức cách nào?
Thái độ tốt nhất trước mặt Thiên Chúa
là thái độ tự hủy và yêu thương. Tự hủy là coi nhẹ cái tôi của mình, không coi
mình là cái gì quan trọng, không tự hào, không tự cho mình hơn ai, không kết án
ai, và cũng không coi ý riêng của mình là sáng suốt, khôn ngoan hơn người. Yêu
thương là thể hiện tinh thần tự hủy một cách tích cực hơn, ích lợi hơn cho tha
nhân: sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích và hạnh phúc của tha nhân. Yêu
thương đòi hỏi phải tự hủy như một điều kiện cần thiết. Không thể yêu thương
đích thực nếu không tự hủy. Sống tinh thần tự hủy và yêu thương như thế là cầu
nguyện đúng nghĩa nhất: cầu nguyện bằng chính cuộc sống, là kết hiệp mật thiết
với Thiên Chúa nơi tha nhân, một sự kết hiệp thực tế và bằng hành động cụ thể.
Đó là cách tích cực để ta nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Thiên Chúa xét xử ta khoan hay nghiêm
tùy thuộc rất nhiều vào sự khoan nghiêm của ta đối với tha nhân: "Thiên
Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết thương xót. Còn với ai biết
thương xót, thì Người chẳng quan tâm đến việc xét xử" (Gc 2,13). Ngài
không thể không tha thứ cho những ai luôn luôn tha thứ. Ngài sẽ phải tha thứ vô
điều kiện cho những kẻ luôn luôn tha thứ vô điều kiện. Chắc chắn Ngài không thể
thua con người về lòng khoan dung. Vả lại chúng ta đã hợp đồng với Chúa như thế
khi đọc kinh Lạy Cha, theo sự chỉ dạy của Đức Giê-su: "Xin tha tội cho
chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con" (Mt
6,12; x. Lc 11,4). Khốn cho chúng ta nếu đã hợp đồng với Chúa như thế mà lại
không biết tha thứ: "Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình,
Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như vậy" (Mt 18,35).
Như thế, luôn luôn tha thứ cho mọi người một cách vô điều kiện, dù lỗi họ có
nặng đến đâu, không cần họ phải hối hận hay xin lỗi, là một bí quyết giúp ta
hoàn toàn trắng án trong ngày đó, cho dù tội lỗi ta có nặng đến đâu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống yêu
thương, quên mình, đồng thời biết cảm thông với những đau khổ cũng như những
yếu đuối của tha nhân, để con biết ra tay cứu giúp, biết tha thứ những lầm lỗi
của họ. Con nghĩ đó là cách tỉnh thức đón chờ Đức Giê-su đến một cách khôn
ngoan nhất. Xin cho con thực hiện được những điều ấy, để ngày ấy Cha sẽ hài
lòng về con và ngày ấy cũng sẽ là ngày hạnh phúc nhất của con. Amen.
20. Hãy tỉnh thức
Đoạn Tin mừng hôm nay làm cho chúng ta
liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm
trong một màu tang tóc và một bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để chúng ta luôn sẵn
dàng và nhìn cái chết bằng cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ
chết thì lại bấp bênh vô định.
Có một mẩu chuyện cổ tích kể lại rằng:
Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu viện, nghe thấy
tiếng chim hót véo von. Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy một con chim họa
mi rất đẹp, thày liền đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi lại dừng, làm
thày miệt đuổi theo, đến lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì con chim biến
mất.
Thày tìm đường trở lại nhà dòng. Mãi
tới chiều mới về đến. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và một người ra
mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay trong nhà dòng.
Thày tự giới thiệu nhưng không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề trên đem sổ
sách ra tìm tòi, thì mới thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất tích cách đây
100 năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng chim hót.
Thời giờ thấm thoát tựa thoi đưa, vụt
đến rồi vụt đi như ngựa hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua đi thì không bao
giờ trở lại, như người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần trên cùng một
dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là một đứa bé, đầu
để chỏm ba quả đào, mà hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt đầu bước vào tuổi
già.
Những em thiếu nhi đang ngồi đây, nhưng
rồi 20, 30, 40 năm nữa sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu nữa sẽ đến giây phút
trọng đại, giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như thế, chắc hẳn sẽ có
người cho tôi là lẫm cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và cứ dệt nhiều ước
mơ, thân xác mình còn đầy tràn nhựa sống và hăng say hoạt động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm, cái chết không
dành riêng cho một người nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy phải bước theo
nó, dù là vua chúa quyền uy. Nó không bao giờ phân biệt giai cấp, tuổi tác cũng
như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của một thanh niên
người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ vì nó dám kéo
người trai trẻ này đi trước cụ già.
Một làn gió nhẹ, một sơ suất nhỏ bé
cũng đủ đưa chúng ta sang thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý thức được sự mỏng
manh, bèo bọt của kiếp sống là như thế, nên thái độ cần phải có, đó là hãy tỉnh
thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá lâu tôi quen một
gia đình ở Sài gòn. Mùa hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú tài phần hai, cả
gia đình rủ nhau đi Vũng tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong xanh, giữa lúc mọi
người đùa giỡn với sóng biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa hơn một chút và rồi
cậu không bao giờ trở lại nữa.
Một xoáy nước nào đó đã cuốn mất cậu,
người ta tìm kiếm hoài mà cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi lên và dạt vào
bờ.
Thế nhưng, chúng ta có biết được niềm
an ủi độc nhất của người cha và người mẹ đáng thương ấy không? Hai ông bà đã
nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và vẫn còn rước lễ
sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng ta có một linh
hồn được chuẩn bị sẵn sàng, bằng không thì chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, mất
cả vốn lẫn lãi, mất cả đời này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những người thời xưa,
chúng ta thường thấy ghi háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết sau nụ hôn của
Chúa.
Chúng ta hãy sống thế nào, để dù Chúa
có đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì chúng ta vẫn
sẵn sàng, vẫn bình an và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng ta có biết chuẩn
bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không?
Trong cơn hấp hối, người ta đã hỏi
thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa chăng?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn sàng.
Cũng vậy trong giờ chơi, một xơ đã hỏi
các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được Chúa gọi về, các
em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục lòng ăn năn tội cách
trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế nhưng có một em đã trả
lời:
- Phần con, con vẫn tiếp tục chơi như
thường vì con đã sẵn sàng.
Em bé ấy sau này đã trở nên một vị
thánh đó là thánh Gioan Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải đến trước tôn nhan
Chúa, liệu tôi đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi đã trả hết những món
nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa hết những vết nhơ
tội lỗi qua bí tích cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa soạn ngay từ ngày
hôm nay, nếu mỗi khi chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự vấn lương tâm và
chỉ ngủ yên khi nào linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình thống hối, nếu
chúng ta giữ được màu trắng của tấm áo ngày rửa tội, nếu chúng ta giữ được ngọn
nến đức tin luôn bừng cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết không còn là giờ
kinh hoàng và đáng sợ nữa.
Nếu bây giờ chúng ta biết chuẩn bị sẵn
sàng, thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ không chết, nhưng chính lúc ấy chúng ta mới
bát đầu sống. Cuộc sống nơi trần thế là một chuyến viễn du trong đêm tối hay
trên mặt biển dậy sóng. Nhưng ở đằng kia bình minh đang ló dạng và Thiên Chúa
đang mở rộng vòng tay chào đón chúng ta nơi bờ bến hạnh phúc.
Hãy sống để chuẩn bị cho cái chết và
hãy chết để được sống muôn đời.
21. Tỉnh thức
Một người thuộc bộ lạc miền núi cả đời
như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa xuống thăm một đô
thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp
đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là tiếng trống báo động về
một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân miền núi nhìn ngọn lủa
đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo cáo với các chức
sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ
diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt
ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ các loại
trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong làng, tất
cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi
được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này đến căn
nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể
lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới giải thích cho dân làng
như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt
được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người ta đánh trống để đánh
thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy, chứ không ngồi đó mà
chờ ngọn lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
nói đến sự tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. Để nói
lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ đêm ngày
trung thành với công việc được chủ trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu kêu mời
là một sự tỉnh thức tích cực đòi hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh Phaolô cũng
nhắc nhở cho các tín hữu Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức ấy. Trong
những năm đầu của Kitô giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại
trong một sớm một chiều, nên họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào chuyện người
khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say lao động và
thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ cơ bản của người
Kitô hữu. Toàn bộ thánh kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi vì Thiên Chúa là
đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến cố và trong mỗi
con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một cách tích cực tiếng
gọi của Ngài, Ước gì cuộc sống đức tin của chúng ta không chỉ là tiếng trống
khua inh ỏi trong bốn bức tường nhà thờ, mà phải được thể hiện bằng những gặp
gỡ để cảm thông và phục vụ.
22. Sẵn sàng
Chúa sẽ đến nhưng bao giờ Ngài đến thì
đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ vào giờ
chúng ta không biết. Vì thế phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Đồng thời thái độ
nguy hiểm nhất đó là cứ cho rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội của quỉ sứ,
chúng bàn bạc và góp ý xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám dỗ con người.
Tên quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo cho loài người biết rằng
chẳng có Thiên Chúa.
Tên quỉ thứ hai phát biểu:
- Tôi sẽ bảo cho họ hay rằng chẳng có
hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Các ngươi sẽ không thể lừa dối được
một ai bằng những phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay, loài người vẫn
tin rằng có Thiên Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến kế:
- Tôi sẽ bảo với loài người rằng còn
nhiều thời gian, nên đừng có vội vã làm chi.
Satan đáp:
- Hãy đi đi, với phương cách này, chúng
ta sẽ làm hại được rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm nhất chính là ảo
tưởng cho rằng mình còn nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất trong cuộc sống
con người chính là khi chúng ta học được hai chữ ngày mai và trì hoãn công việc
bởi vì không ai biết ngày mai có còn đến với mình nữa hay không. Bởi đó, có một
câu danh ngôn đã khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày mai. Lịch sử còn
ghi lai nhiều câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở Thebea đang ngồi uống
rượu với các dũng sĩ của mình, bỗng có sứ giả bước vào và báo cho ông hay về
một âm mưu sát hại ông. Thay vì lên phương án đối phó. Ông nói: để đến mai hãy
hay. Thế nhưng ngay đêm hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai lấy chồng giàu ở
Nữu ước. Ngày kia trên đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn giao thông và bị
thương rất nặng. Lúc còn trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên cuộc hôn nhân đã
đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói với cô về Thiên
Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng dưng về tôn giáo
này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa để rồi cuối cùng
chính cô cũng không còn lưu tân đến Thiên Chúa và linh hồn nữa. Tai nạn bất ngờ
đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của trần gian và ném cô vào vòng tay tử thần. Cô
khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi sẽ chết ư? Tôi còn sống được bao lâu nữa? Chừng
một giờ. Nghe vậy toàn thân côrun rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và nằm yên không
động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại và nói: Xin
hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng vị bác sĩ trả lời:
- Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô nói:
- Tôi đã có thể làm biết bao nhiêu điều
tốt lành với tiền bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức tin. Thế nhưng tôi
chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn sống được một giờ
nữa mà thôi. Bây giờ thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị, hãy tỉnh thức và
hãy sẵn sàng, để chúng ta khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng: đã quá muộn rồi.
23. Chúa đến
Vào năm 1987, người ta cho trình chiếu
cuốn phim mang tựa đề: "After day", nghĩa là "ngày sau đó"
kể lại nghịch cảnh của ít người dân trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa Kỳ còn
sống sót sau một trận bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên
loạn của con người khi quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của
mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh
chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau khổ và thất vọng của những người đang chờ đến
lượt mình phải chết, vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ
ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát hoang tàn và chết
chóc ấy, những người còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh giành từng miếng
bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới văn minh của loài
người biến khỏi mặt đất và con người phải đứng trước cảnh đổ nát với hai bàn
tay trắng, bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa nhật I Mùa Vọng
hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải là ngày tận thế
bị chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một cuộc sống mới.
Đó cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế, chúng ta phải sống
đẹp lòng Thiên Chúa chứ không phải sống đẹp lòng người ta, dù người ta ấy có là
ai đi chăng nữa. Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên Chúa đây? Phải lớn lên,
phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương tha nhân. Thiên Chúa vui
sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn lên trong tình yêu thương
ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta qua chính con người của
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta cần phải
luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc đời bằng cách sống
thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh thiện tức là sống
yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương Chúa Giêsu sống
yêu thương trọn vẹn. Càng biết yêu thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi,
thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa Giêsu bao nhiêu,
thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều đẹp lòng Thiên
Chúa và làm cho Ngài vui sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội loài người gặp nhiều
khổ đau, vì con người không biết yêu thương nhau, hay không yêu thương nhau
theo tinh thần Tin mừng của Chúa mà Ngài mời gọi. Như vậy, cách thức đón chờ
Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau. Bởi vì đó là bí quyết
vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng trời mới đất mới cách cụ thể
và hữu hiệu nhất.
24. Sẵn sàng
Năm Phụng Vụ mới được Giáo Hội hội bắt
đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng.
Thế nhưng, mùa vọng không phải chỉ là
thời gian để Giáo Hội nhìn về quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên Chúa đã giáng
sinh và cử hành biến cố này với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng không phải chỉ là
mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian hướng con
người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh quang vào
lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm cho mọi sự
đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con người đến với Thiên
Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể vũ trụ đến sự thành
toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong hoàn cảnh lịch sử
cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn, nhưng Ngài không áp
đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con người cần lắng nghe
lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sừ điệp mà bài đọc II và Tin
mừng Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô gởi tín hữu Rôma
đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã đến lúc chúng
ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc chúng ta mới
tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và
mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày" (Rm
13,11-14).
Đó là những lời khuyên vẫn còn thiết
thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày nay, ngõ hầu
sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách thình lình không
ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy Chúa Kitô, hãy để
cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách thức tốt đẹp nhất
để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa
vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng phải sẵn sàng vì lúc
các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24,44).
Chúa đến như kẻ trộm, Ngài đến gặp
chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta chu toàn bổn
phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của mình, mà là
chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện lời khuyên
của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chu toàn
bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin
đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong thái độ tích cực từ
bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn hầu
sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
25. Tỉnh thức
Theo Phúc âm thánh Matthêu thì việc
canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng ba dụ ngôn: Dụ ngôn kẻ
trộm đến bất ưng ban đêm và người đầy tớ bất trung, người trinh nữ ban đêm chờ
đợi chàng rể đến và các nén bạc phải được sinh lời cho chủ.
Lời căn dặn chung của ba dụ ngôn này:
"Các con hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết Chúa đến lúc nào".
Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh phòng
ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là việc chu
toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa trở lại được loan báo trong các dụ ngôn là
điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài đến lại không thể biết được. Vì không thể
biết trước, nên cần phải tỉnh thức và canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng kitô hữu thời các
thánh Tông đồ, việc chờ đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc biệt. Chúa đến
trong ngày tận thế đã gây nên những phản ứng khác nhau nơi các tín hữu thành
Thessalônica, họ thất vọng vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên vì công việc
làm, vì ham thích thú vui. Chính thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới tình trạng
này trong thư gởi tín hữu Thessalônica như sau: "Kẻ thì sống qua ngày
không làm lụng gì cả, người thì luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều
chuyện".
Sau khi nhắc đi nhắc lại cho các tín
hữu biết ngày giờ của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh Phaolô khuyên họ
bằng những lời sau đây: "Thưa anh em, vì mình không ở trong chỗ tối tăm,
nên ngày ấy vụt đến với anh em như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là con cái sự
sáng, con cái ban ngày không thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên chúng ta chẳng
phải chết như những người khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và điều độ".
Có những người đã dùng những từ ngữ
kinh hoàng gây nên sợ hãi về giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây không là mục
tiêu, là nhân tố thiết yếu của việc canh phòng theo tinh thần Phúc âm. Bởi vì
việc chờ ngày Chúa đến không phải là lý do gây nên sợ hãi một cách nô lệ cho
những người theo Chúa Kitô. Trái lại, đây là lý do của niềm tin cậy, của ước
ao, của khát khao và của nguồn vui chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể đến với
chúng ta hôm nay và ngày mai như kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng ta
không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp Người, nếu chúng ta không chuẩn bị, không
canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta biết rằng, Thiên
Chúa ở gần chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần chúng ta không
biết hoặc vô tình quên ngài. Để nhận biết Người, chúng ta phải bỏ qua những gì
ngăn cách giữa Ngài với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng Ngài và sống
hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ đợi của chúng ta sẽ được thỏa mãn và được
thưởng công: "Hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành, hãy vào hưởng sự sung
sướng của chủ ngươi".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con khám phá
ra những lần Chúa đến trong lịch sử, trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người
chúng con. Chúa đến nơi người anh em chúng con đang sống trong cảnh cùng cực
cần sự giúp đỡ, săn sóc và tình yêu thương của chúng con. Chúa đến trong anh em
đang đau khổ tinh thần và thể xác, như người bị cướp đánh, bị đả thương bỏ bên
lề đường Giêricô. Chúa đến trong những anh em đang tìm Chúa để gặp được Ngài,
tôn thờ và yêu mến Chúa như chúng con. Những người anh em này cần đến chúng
con, chúng con phải trở nên những người đem Tin mừng của Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết
tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức khác nhau, để đón
tiếp Chúa với niềm hân hoan: "Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về mà còn đang
tỉnh thức".
26. Chú giải của Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay
(A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B
là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày
quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng
La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng
này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của
quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về
việc người quang lâm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta
không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến
và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp
đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi
qua!
Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày trước nạn hồng
thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào
tàu.
Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại
sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê.
Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở
"vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là
bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất
cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế (16,5-13), cơn hồng
thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó;
"Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ
toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài
và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục
dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong
tục... và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự
hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót..." (chú giải về sách
Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề
nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó
chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không
trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả:
họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một
hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức
Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn
hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển trách vì phóng đãng
mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ "không biết sớ hãi gì cả!"
không lo đến chuyện chính yếu... không có một nhận thức đúng đắn về thực tại...
Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị
bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt
trôi" để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là
"những thần linh" và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở vào "những
ngày thời No-ê!".
Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị
đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta
tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc
chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về
mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc
lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột
ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy
là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn ... Và tất cả mọi thứ
an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như
vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ
"quang lâm" "parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này
có nghĩa là sự "hiện diện", "đã đến": Có mặt ở đấy! Xưa
người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm chính
thức của các hoàng đế".
Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem
áp dụng nghĩa "parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ
rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh
giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức
Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức" chúng ta
trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà
ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào
ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối
cùng", ' có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn ông đang làm
nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang
kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng ngày.
Chính trong những lúc bận rộn rất
thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm,
người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta
đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em
không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng ta phải
"tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi
lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến" tạo ra một
cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ
không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà
cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì
sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh
sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là
không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên
Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải
thấy ở đó có một "hành vi cứu thoát": Khi con người bấy giờ đang đi
tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can
thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên
Chúa "cứu độ".
Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm
nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước
chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những
ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu
tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được
cứu độ... một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ
(Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm
theo toán học.
Không hề muốn nói đến một bầu không khí
sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người "đang đứng", những người "canh
thức", những người "đang rình". Cái "liều lĩnh" trong
cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ.
Ong chủ doanh nghiệp đang "thiêm thiếp ngủ" sẽ kết án chính cái doanh
nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì chính
mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn
ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc "viếng
thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh thức, bởi vì anh em
không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hay biết điều này: nếu chủ nhà
biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy
tỉnh thức!
Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang
săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có
nghĩa là "tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung
quanh nhà để tránh cướp": Không! Tỉnh thức, chính là "sắn sàng"
để đối phó, chính là "được vận động liên tục" để hành động:.. Tỉnh
thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi", lo lắng, bất cần.
Không nên nói "giá mà tôi đã biết
trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào canh nào kẻ trộm
sẽ đến... Hẳn ông đã thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình
ảnh của "người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc
một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó
"khoét vách nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng
nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực
củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho
Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở
cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ ...coi chừng! Cửa không phải lúc
nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ
vào thế giới của Thiên Chúa không?
Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn
sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi
cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời.
Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc khải này của
Chúa không?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét