BÀI
GIẢNG CHÚA NHẬT 34 TN B – CHÚA KITO VUA
1. Kitô Vua
2. Vua tình yêu
3. Một vị vua khác thường – Guy Marin
4. Ai là vua của bạn? – Charles E.
Miller
5. Dung mạo của vương quyền Đức Kitô
6. Vua Sự Thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
7. Làm Vua là làm chứng – ĐGM. Vũ Duy
Thống
8. Đức Giêsu Kitô Vua: phục vụ là cai
trị
9. Nước Cha trị đến - Gm. Arthur Tonne
10. Tôi là Vua – Noel Quesson
11. Thuộc về Chúa
12. Vua vĩnh cửu
13. Vạn tuế Vua Giêsu
14. Đứng về phía sự thật
15. Vương quyền tình yêu – Lm. Hồng
Phúc
16. Hoàng tử và người nghèo
17. Một giải pháp cho nền hòa bình thế
giới
18. Phục vụ
19. Làm chứng cho sự thật – Lm. Tạ Duy
Tuyền
20. Vua sự thật
21. Trung tín
22. Danh hiệu
23. Xét xử
24. Suy niệm của JKN
25. Chú giải của Noel Quesson
26. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Kitô Vua
Trong lịch sử nhân loại, không thiếu gì
những ông vua bị đem ra xét xử và bị đem ra hành quyết. Nhưng khi một ông vua
bị đem đi hành quyết thì ông ta đã bị truất quyền hay bị cướp quyền. Đối với
những kẻ hành quyết hay lên án ông, thì ông không còn được nhìn nhận là vua
nữa. Đó là trường hợp vua Louis 16 của nước Pháp chẳng hạn. Vì thế, người ta
không bao giờ nói xử tử vua Louis 16 mà xử tử một người với cái tên thật của
người ấy chứ không phải là tên hiệu.
Trường hợp Chúa Giêsu thì khác hẳn.
Trước khi bị điệu ra trước tòa án Philatô, Ngài chưa bao giờ thực sự là vua,
theo kiểu các vua chúa trần gian, tuy rằng Ngài đã có cơ hội lên ngôi nếu như
Ngài muốn. Trái lại chỉ khi bị bắt và bị giải ra trước tòa tổng trấn Philatô,
Ngài mới dõng dạc tuyên bố công khai: Phải, tôi là vua, tôi đã sinh ra và đã
đến thế gian là để làm chứng cho sự thật.
Thực ra thì Chúa Giêsu không bao giờ
trực tiếp khẳng định Ngài là vua, nhưng Ngài nói với Philatô: Nước tôi không
thuộc về thế gian này, nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì người của tôi đã
chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái, nhưng quả thật, nước tôi không
thuộc về thế gian này.
Câu trả lời muốn nói lên rằng Chúa
Giêsu có một vương quốc, thế nhưng vương quốc đó ở đâu? Ở trên trời hay ở một
hành tinh nào khác? Hay là vương quốc ấy chỉ có ở đời sau? Chúa Giêsu không bảo
rằng: Nước tôi không ở thế gian này, mà Ngài nói: Nước tôi không thuộc về thế
gian này.
Cũng như các môn đệ tuy ở giữa thế gian
mà không thuộc về thế gian, chúng ta có thể nói: Nước Thiên Chúa ở ngay giữa
thế gian này, nhưng lại không thuộc về thế gian này. Bởi vì như thánh Phaolô
cũng đã xác quyết: Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công
chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.
Điều ấy có nghĩa Nước Thiên Chúa là một
thực tại tâm linh đã bắt đầu hình thành ngay giữa lòng thế giới hiện đại, nhưng
không thuộc về trật tự hay những lãnh vực trần gian, do đó người ta không thể
nói rằng: Nước Thiên Chúa đây này hoặc kia kìa, mặc dầu nước ấy đang thực sự ở
giữa chúng ta.
Vương quốc của Chúa Giêsu không phải là
một lãnh thổ, mà trước hết là cộng đoàn những con người tin theo Chúa và sống
tinh thần bác ái yêu thương đối với mọi người. Bởi đó, những ai sống theo chân
lý của tình thương, nghĩa là xác tín rằng chỉ có tình thương mới thực sự đem
lại công lý hòa bình và hoan lạc cho loài người. Một khi xác tín như vậy, chúng
ta sẽ đem hết tài năng, sức lực và thời giờ vào công trình xây dựng một cộng
đồng huynh đệ bác ái: tất cả những người ấy sẽ tạo nên nước Đức Kitô ngay hôm
nay, ở trong thế giới này.
Thế nhưng, không một công trình xây
dựng nào mà lại không đòi hỏi mồ hôi nước mắt và đôi khi cả xương máu nữa. Bởi
vì để hạt giống có thể trở thành cây lúa đâm bông kết trái, thì hạt giống đó
phải chết đi, đó chính là lý do khiến Đức Kitô đã lấy chính thân mình làm nền
tảng, làm nguyên lý hay làm mầm phát sinh vương quốc Ngài muốn thiết lập.
Bởi thế, cây thập giá chính là ngai
Ngài đã chọn để lên ngôi, mạo gai là vương miện Ngài chọn cho lễ đăng quang và
trái tim Ngài bị đâm thâu và mở rộng là biểu tượng của vương quốc mở ra cho mọi
người.
2. Vua tình yêu.
Ngày nay, người ta thường gán chức vua
cho những ai thành công trong một lãnh vực nào đó, chẳng hạn như ông Honda là
vua xe máy, vì ông rất thành công trong việc chế tạo các loại xe tự động vừa
bền lại vừa đẹp. Ông Henri Ford là vua xe hơi. Cầu thủ bóng đá Maradona là vua
sân cỏ. Còn Đức Kitô, khi chúng ta tuyên xưng Ngài là vua, thì Ngài là loại vua
nào? Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta có thể xác quyết mạnh mẽ mà không sợ
lầm lẫn: Ngài là Vua, nhưng lại là Vua Tình Yêu, vì Ngài đứng đầu trong lãnh
vực yêu thương phục vụ.
Thực vậy, không một ai đã yêu thương
như Ngài. Vì yêu thương, Ngài đã chịu chết ngay cả khi chúng ta là kẻ tội lỗi.
Cái chết của Ngài là một bằng chứng hùng hồn, là một đỉnh cao tuyệt vời của
tình yêu như lời Ngài nói: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn
hữu. Vì yêu thương, Ngài đã tự xoá bỏ mình đi, hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài
lại còn vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài đã hiến thân như
người mục tử hy sinh tính mạng để bảo vệ cho đoàn chiên.
Ngài cảm thông thân phận yếu đuối của
chúng ta nên không nghiêm khắc kết án. Ngay cả người phụ nữ bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình. Ngài nhân từ dạy chúng ta: Hãy nghiêm khắc với bản thân và
rộng rãi với người khác. Không bới lông tìm vết, không nguyền rủa chửi bới. Hãy
yêu thương kẻ thù và tha thứ cho nhau mãi mãi. Ngài đề cao phục vụ và kêu gọi
chúng ta phục vụ, vì thế Ngài nói: Ta không đến để được phục vụ, nhưng đến để
phụv vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài muốn
chúng ta noi gương bắt chước Ngài, cũng sống tình bác ái yêu thương và phục vụ.
Và để cho việc yêu thương không chỉ là
một lời khuyên tuỳ ý, nhưng là một mệnh lệnh có tính cách bắt buộc, Ngài đã ban
bố giới luật yêu thương: Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy
yêu thương nhau. Và tình yêu thương đã trở thành một giới răn quan trọng nhất
như là lòng kính mến Thiên Chúa.
Tình yêu thương của Chúa Giêsu đã trở
nên nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao nhiêu sáng kiến, bao nhiêu tổ chức, bao
nhiêu phong trào, bao nhiêu dòng tu chuyên lo việc yêu thương phục vụ. Chúng ta
thử thưởng tượng xem: Thế giới này sẽ ra sao, nếu đã không có những người,
những phong trào, những tổ chức, những dòng tu như thế. Nhân vật hiện nay đang
được cả thế giới ngưỡng mộ, tôn vinh đó là Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì sao? Vì Mẹ đã
noi gương Đức Kitô và thực hành lời Ngài dạy, đó là đem tình thương đến cho
những người nghèo khổ và bất hạnh.
Quả thực, trong lịch sử nhân loại,
không có một nhân vật nào giàu lòng nhân từ thương xót như Đức Kitô. Thật lạ
lùng vì mặc dù là Đấng Tối Cao, Ngài vẫn tự nguyện làm người tôi tớ, phục vụ
chúng ta. Và còn lạ lùng hơn nữa vì mặc dù Ngài không cần ai, song Ngài lại
muốn cần đến chúng ta và tình yêu của chúng ta. Và sau hết, điều lạ lùng hơn cả
vì mặc dù là Thiên Chúa, Ngài lại khao khát trở nên bạn hữu của chúng ta và chờ
mong chúng ta tiếp nhận Ngài qua những kẻ khổ đau và bất hạnh.
3. Một vị vua khác
thường – Guy Marin.
Vua chúa trần gian có một lãnh thổ mà
họ thống trị và họ tìm cách mở rộng: Chúa Giêsu Kitô không có nơi gối đầu. Vua
chúa trần gian cho phát hành tem và đồng tiền mang hình ảnh của họ, như thể họ
muốn kiểm soát mọi thư từ và mọi việc buôn bán vậy; Chúa Giêsu không có như
vậy. Những kẻ quyền thế ở đời có quân đội và cảnh sát, bom và súng đại bác, và
sử dụng chúng khi cần, trong vườn Cây Dầu, Chúa Kitô chỉ có hai thanh gươm và
cấm Phêrô sử dụng. Vua chúa và những người làm lớn ở đời này cai quản dân tộc
của họ bằng sự khéo léo, mưu mô và những thủ đoạn, thậm chí đôi khi bằng dối
trá, bất công và tội ác nữa; Chúa Giêsu Kitô không thể dùng phương tiện nào
trong những phương tiện cấy, vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Nếu Chúa Giêsu Kitô không có chút gì
trong những điều làm nên các vị vua, vậy có thể thực sự xưng Ngài là vua không?
Kinh Tin Kính trả lời chúng ta... "vương quốc Ngài sẽ vô cùng tận".
Và tất cả Tin Mừng cũng nói như vậy: Thiên sứ Gabriel loan tin cho Đức Maria
rằng con của bà sẽ lên ngôi Đavit; Ba vua thờ lạy Ngài như một vị vua; suốt ba
năm Chúa Giêsu không ngớt nói về vương quốc.
Tuy nhiên, các sách Tin Mừng kể lại một
sự kiện lạ lùng, đó là thái độ của Chúa Giêsu đối với quyền làm vua. Khi dân
chúng hăng say muốn tôn Ngài lên làm Vua, Ngài đã từ chối. Trái lại trước mặt
Philatô, trong lúc không ai đặt Ngài làm vua cả, Chúa Giêsu lại khẳng định
vương quyền của Ngài. Ngài nhất thiết đòi cho được vương quyền, trong lúc không
ai muốn trao cho Ngài cả. Khi người ta hiến dâng nó cho Ngài thì Ngài lại tránh
né. Thái độ lạ lùng thật: khi có thể dễ dàng làm Vua, thì Ngài từ chối. Khi
điều này không thể xẩy ra thì Ngài lại cố đòi cho được. Chúa Giêsu quả là một
vị Vua lạ lùng.
Chứng nhân cho sự thật.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu khẳng
định Ngài là Vua ở điểm nào: "Tôi đến để làm chứng cho sự thật". Sự
thật mà Ngài tuyên bố là độc nhất, đó là ý định cứu rỗi của Thiên Chúa: Thiên
Chúa đã sai Con Một Ngài đến để cứu độ thế gian. Mỗi lần bằng lời nói và và
việc làm, Chúa Giêsu biểu lộ ý định này, là mỗi lần Ngài thực thi quyền là vua
của Ngài. Có thể nói rằng cuộc đời của Ngài là cuộc đời vương giả, vì nó hoàn
toàn diễn tả ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân,
mù, què, bất toại, phong cùi, nhưng hành động này đối với dân chúng là dấu hiệu
cho thấy vương quốc đã đến gần, tức là Thiên Chúa đang can thiệp. Cũng vậy khi,
bởi quyền năng của Thiên Chúa, Ngài trừ quỷ là Ngài minh chứng về sự hiện diện
hữu hiệu của Thiên Chúa nơi dân Ngài. Khi Ngài lui tới với những người thu
thuế, khi Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình là Ngài biểu lộ lòng thương xót của
Thiên Chúa không muốn cho kẻ tội lỗi phải chết. Khi Ngài khóc thương
Giêrusalem, Ladarô là Ngài biểu lộ lòng ưu ái của Chúa Cha đối với những nỗi
khốn khó của loài người chúng ta.
Một hôm, Chúa Giêsu tuyên bố là có phúc
những kẻ bất hạnh đủ loại: nghèo, đói, khát, buồn rầu, bị bách hại. Ngài không
khôi hài đâu, nhưng Ngài loan báo cho họ rằng họ sẽ là những người đầu tiên được
hưởng Nước Trời sắp đến. Đối với những kẻ bị trói buộc bởi những luật lệ tỉ mỉ,
Ngài nói với một lời giải phóng: "Ngày sabat được đặt ra vì con
người...". Trong các dụ ngôn, như dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa
Giêsu nhắc lại hình ảnh của Thiên Chúa và những mối tương quan của chúng ta với
Thiên Chúa.
Làm chứng cho sự thật bằng cuộc sống
của mình, Ngài lại càng làm chứng hơn nữa bằng cái chết. Vì những giá trị mà
Ngài đề cao chính là nguyên nhân của cái chết này. Vì làm chứng như vậy về
Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu chống lại những tư tưởng quen thuộc, Ngài thay đổi
những cách đối xử với Thiên Chúa và với tha nhân. Ngài làm cho các chức trách
tôn giáo căm thù. Tóm lại Ngài trở thành kẻ xách động. Người ta nói với một
kinh sư rằng Đấng Mêsia đã đến. Ông chạy ra cửa sổ nhìn và trở về lắc đầu mà
nói: "Không tôi không thấy gì thay đổi cả". Kinh sư này có lý, Chúa
Giêsu là Vua khi sự việc thay đổi nhân danh Tin Mừng. Và trước hết là lòng con
người. Chúa Giêsu là Vua khi con người hoán cải theo các mối phúc thật và từ bỏ
các giá trị theo tinh thần thế gian: Nghèo còn hơn là bóc lột, bị bách hại còn
hơn là bách hại, hiền lành còn hơn là hung dữ, thà khóc còn hơn làm cho kẻ khác
khóc, tha thứ hơn là được giải oan.
Khi con người biết Tin Mừng họ sẽ không
thể dửng dưng đối với những gì thuộc lãnh vực chính trị. Họ không dửng dưng khi
chính phủ kỳ thị chủng tộc, tạo nên bất bình đẳng, áp bức kẻ yếu hoặc bóc lột
thế giới thứ ba. Nhân danh Tin Mừng người Kitô hữu có một cái nhìn phê phán
trên tất cả những điều này. Chúa Giêsu đã từ chối quyền bính chính trị, nhưng
Ngài đã để lại những nguyên tắc hướng dẫn lương tâm chính trị. Hôm nay chúng ta
hãy nhớ rằng Ngài chỉ làm Vua theo mức độ chúng ta sống theo chân lý của Ngài
mà thôi.
4. Ai là vua của bạn?
– Charles E. Miller.
(Trích trong 'Mở ra những kho tàng')
Vào năm 1925 Đức Giáo Hoàng Piô XI
thiết lập lễ tôn kính Đức Kitô Vua, lễ này được đặt vào ngày chúa nhật cuối
tháng 10. Giáo Hội qua nhiều thế kỷ đã tôn kính Đức Kitô như là Vua trong cuộc
rước vào ngày Lễ Lá nhưng Đức Giáo Hoàng thấy có nhu cầu thiết lập một lễ đặc
biệt, để chống lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vật chất của kỷ nguyên này.
Trong xứ sở Hoa Kỳ, kỷ nguyên được gọi là tiếng gầm thứ hai mươi.
Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đặt lễ vào
Chúa nhật cuối tháng 10 và tiếp đó là lễ Các Thánh. Sự nhận biết của phụng vụ
mừng các môn đệ đã bước vào trong vương quốc trên trời. Công đồng Vatican II đã
đổi mới và chuyển lễ Kitô Vua vào chúa nhật cuối năm phụng vụ như đặt một biểu
hiệu của vương quốc, mặc dầu đang hiện diện giữa chúng ta và vẫn còn đang đến:
"Chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng ngày Chúa Giêsu Kitô, Đấng
cứu độ chúng ta sẽ đến". Đấng sẽ mang lại vương quốc của Ngài tới sự hoàn
hảo khi Ngài trở lại trong vinh quang cho ngày Phục Sinh chung.
Theo sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô XI
vào năm 1925 liên quan đến Đức Kitô Vua, Ngài muốn làm cho cả thế giới chú ý
tới nhu cầu thiết lập những giá trị tinh thần như là những hướng dẫn cho đời
sống. Những lời của Đức Giáo Hoàng hầu như không được mấy ai chú ý đến. Nước Mỹ
đặc biệt vẫn tiếp tục tinh thần tham lam, nhấn mạnh là mọi người đều có thể trở
nên giàu có, có thể có tài sản mà không cần làm việc. Người ta có nhiều cấp độ
kinh tế khác nhau, "ngay cả những chàng trai đánh giày" cũng như một
sử gia đã nói "cũng lao vào chợ hàng hóa". Cuộc khủng hoảng vào năm
1929 đã đổ vỡ là một điều không thể tránh được.
Thất là đau buồn khi nhận biết rằng sắc
lệnh đã được viết bởi Đức Giáo Hoàng vào năm 1925, có thể là bản chúc thư mà
ngài đã sáng tác vào những tuần cuối đời Giáo Hoàng của ngài. Chủ nghĩa thế tục
và chủ nghĩa vật chất đi đến sự thất bài trong cuộc khủng hoảng tài chính vào
năm 1929, dẫn đến trong thời đại của chúng ta một hậu quả khôn lường, đó là
khủng hoảng về tiết kiệm và những món nợ chồng chất trong những năm gần đây.
Việc cử hành phụng vụ của chúng ta về Đức Kitô là Vua, thách đố chúng ta bất
chấp những thất bại trong lãnh vực tài chính hoặc trong thái độ thiêng liêng
của chúng ta, điều quan trọng nhất không phải sự tham lam đã dẫn tới sự sụp đổ
tài chính nhưng chính việc loại bỏ những giáo huấn và gương mẫu của Đức Kitô
Vua.
Chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh rằng, đất
nước giàu có thì ở trên mặt đất này. Nó loại bỏ mọi hình thức của đức tin tôn
giáo và thờ phượng. Chủ nghĩa vật chất rao giảng giáo lý tìm sự an ủi, vui thú
và giàu có như là những mục đích cao nhất của đời sống. Chúa của chủ nghĩa thế
tục và chủ nghĩa vật chất thì không đụng móng chân đến thánh giá hy sinh nhưng
là chìm vào trong ăn uống xa hoa và những ăn chơi dâm dật.
Trái lại, làm nhân chứng cho sự khôn
ngoan của Phúc Âm Kitô giáo; họ là những công dân của Nước Trời. Họ trình bày
cho chúng ta về tính vô vị lợi, là con đường hạnh phúc còn con đường tham lam
là không, những thực tại thiêng liêng là thật sự và những tạm bợ của những chủ
nghĩa thế tục là không, và tôn giáo là phần thưởng tuyệt đối còn chủ nghĩa vật
chất là không.
Kinh Tiền Tụng ngày chúa nhật hôm nay
tuyên bố rằng Đức Kitô Vua cai trị một vương quốc đời đời, một vương quốc của
sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương
quốc của sự công chính tình yêu và bình an. Đó là vương quốc ngự trị mãi mãi.
Một lời nài xin cho được trung thành
với Đức Kitô Vua.
Ngày chúa nhật hôm nay là thời gian
thích hợp để nài xin trung thành với Đức Kitô Vua. Theo hình thức đề nghị được
rút ra từ kinh Tiền Tụng, kinh nguyện Thánh Thể trong lễ trọng này có thể dùng
tại Thánh Lễ hoặc mọi người có thể lập lại những lời nài xin theo sau vị linh
mục chủ tế của họ.
Chúng con nài xin sự trung thành với
Đức Kitô Vua.
Chúng con trân trọng vương quốc đời đời
và phổ quát của Người.
Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài
là vương quốc của chân lý và sự sống.
Của sự thánh thiện và ân sủng.
Chúng con ước mong làm những gì chúng
con có thể làm trong cầu nguyện và hành động.
Để mang lại cho thế giới này vương quốc
của Người. Một vương quốc của sự công chính và tình yêu bình an.
5. Dung mạo của vương
quyền Đức Kitô.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật' – Achille Degeest)
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho chúng ta dự
khán một hồi trong cuộc thương khó, Chúa sắp bị Philatô lên án tử hình. Để hiểu
rõ bản văn, cần nhớ rằng Chúa và Philatô ở hai mức độ khác biệt. Khi Philatô
nói lên tiếng 'vua', ông nghĩ đến một vương quyền chính trị. Khi Chúa tự nhận
là Vua, Người nói đến vương quyền Cứu Thế của Người. Chúng ta diễn giải rõ hơn.
Chúa xưng mình là Vua Cứu Thế với một ý nghĩ vô cùng rộng lớn so với quan niệm
của cấp lãnh đạo Do Thái, Chúa đặt câu hỏi: Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai
khác đã nói với ông về tôi? Để cho Philatô biết rằng Người là Vua, nhưng không
theo quan niệm của ông, cũng không theo dự tính của người Do Thái. Vì thế, sau
câu đáp của Philatô, Chúa nói: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Thật là
một xử án lạ đời. Người Do Thái muốn cho Chúa bị kết án vì Người tự nhận từ 1
thế giới khác mà đến, tức là được Thiên Chúa sai đến. Đối với Philatô, đó không
phải là cớ để buộc tội Chúa. Vì vậy người Do Thái đưa ra một cớ khác, mà trớ
trêu thay, cớ này lại chính là điều Chúa không muốn chút nào, là làm một ông
vua đối lập với hoàng đế La mã. Chúa bị kết án theo hai thẩm quyền xét xử. Thẩm
quyền pháp lý La-mã dựa theo một đế quyền thế gian, tuy nhiên Philatô nhận thấy
Chúa bác khước quyền đó. Thẩm quyền pháp lý Do Thái buộc tội Chúa vì lẽ Người
tự nhận là từ Thiên Chúa mà đến, mà chính vấn đề pháp lý này lại chẳng liên
quan gì đến Philatô.
Minh định xong điểm rắc rối đó, chúng
ta tự hỏi: Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta tôn vinh điều gì?
1) Vương quyền của Chúa làm chứng về sự
thật.
Chúa không phải là Vua của thế gian.
Nhưng là vua trong thế gian và trong thế gian Người làm chứng cho một thực tại
thần linh. Thật vậy, cần hiểu rõ nghĩa 'sự thật' ở đây. Trong Phúc Âm theo
thánh Gio-an, sự thật không chỉ là sự hiểu biết của trí tuệ phù hợp với điều có
thật. Sự thật là thực tại của Thiên Chúa đến trong con người. Con người do đó
được thấm nhuần tất cả bản thể và tất cả đời mình. Tuy nhiên muốn được như vậy,
phải nghênh đón thực tại của Thiên Chúa. Nghênh đón không chỉ bằng trí tuệ mà
cả bằng tấm lòng, bằng ý chí, bằng tất cả bản thể mình. Chúa làm chứng cho sự
thật, bởi vì trong tư thế một con người được thấm nhuần và biến hóa nhờ một
cuộc thực nghiệm thần linh, Chúa đề nghị với tất cả mọi người hãy tiến tới một
sự hiệp thông có hiệu năng thần hóa, đó là sự hiệp thông với Chúa, vì lẽ Người
đích thật là Con Thiên Chúa. Chúa là Vua khi mà trong nhân loại, quá nhiều phen
làm phản chống lại Thiên Chúa, cũng vẫn còn những kẻ nghênh đón 'lời chứng',
nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tư hiến mình để được Chúa thần hóa.
2) Phàm ai thuộc về sự thật thì nghe
tiếng Tôi
Vậy 'thuộc về sự thật' là gì? Là có tâm
hồn sẵn sàng đón nhận thực tại thần linh do Chúa đem đến cho loài ngừoi. Về
thực tế, đối với chúng ta ngày nay, điều đó là sự ăn ở ngay thẳng đối với Lời
Thiên Chúa, là theo chân Chúa Giêsu mà ta gặp trong Phúc Âm, trong Giáo Hội,
trong các bí tích, trong anh em đồng loại. Vương quyền Chúa chẳng giống chút
nào một sự thống trị của loài người, tuy nhiên Vương quyền đó trở nên hữu hiệu
khi nào con người, về mặt bản thân và về mặt xã hội, trong đời sống thật sự, đạt
tới chỗ hiểu biết rằng mình từ Thiên Chúa mà đến và về với Thiên Chúa, để rồi
trong hướng nghĩ đó biết cư xử và hành động làm cho nhân loại nhận biết sự thật
với những nét đẹp nhất, đó là dung mạo tuyệt vời của Tình yêu.
6. Vua Sự Thật – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt.
Chúa Giêsu thật là ngược đời. Khi làm
phép lạ cho bánh hoá ra nhiều, dân chúng hân hoan phấn khởi, muốn tôn Ngài làm
vua thì Ngài không muốn. Ngài phản đối bằng cách trốn đi. Cũng như hôm vinh
quang vào thành Giêrusalem, dân chúng hân hoan, cởi áo lót đường, cầm cành lá
phất phơ đón chào. Hôm ấy mà Chúa xưng vương thì quá thuận lợi. Thế mà Chúa
phản đối bằng cách cỡi con lừa bé nhỏ, yếu ớt. Còn hôm nay, phận tội đồ đứng
trước mặt quan án, bị dân chúng khinh khi chối bỏ, thân tàn ma dại, chẳng còn hình
tượng con người nữa, thì Ngài lại hiên ngang xưng mình là vua. Chẳng phải vô
tình, nhưng là cố ý. Hôm nay, đối diện với cái chết, đối diện với quyền lực và
đối diện với sự hận thù, Chúa Giêsu muốn xưng vương trong hoàn cảnh này để làm
chứng cho sự thật.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là có
một vương quốc khác, vượt xa mọi vương quốc trần gian. Khi tự nguyện chấp nhận
cái chết, Đức Giêsu muốn cho ta hiểu: Ngoài cuộc đời này còn có một cuộc đời
khác. Ngoài thế giới này còn có một thế giới khác. Đó là vương quốc của Chúa.
Đó là Nước Trời. Vương quốc ấy là vương quốc sự sống vì sẽ không còn bóng dáng
cái chết. Khi còn ngày rộng tháng dài, Đức Giêsu không xưng vương. Nay cận kề
cái chết Ngài mới xưng vương để dạy cho ta biết vương quốc của Ngài "không
thuộc thế gian này". Sự sống trần gian này chẳng đáng giá gì so với sự
sống trong Nước Chúa. Vì thế muốn vào được vương quốc của Chúa, phải biết từ bỏ
tất cả, kể cả mạng sống nữa.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là
quyền năng của Chúa là trên hết. Khi một mình yếu đuối nhưng vẫn hiên ngang đối
diện với Philatô tượng trưng cho quyền lực của đế quốc La mã bao trùm thiên hạ,
Đức Giêsu muốn cho ta hiểu rằng Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi quyền năng như
Ngài đã trả lời Philatô: "Ông có quyền không bởi tự mình mà có, nhưng từ
thành công ban cho". Thánh nữ Xêxilia cũng nói: "Quyền uy ở đời giống
như quả bong bóng. Nó không triển nở ở tự nó. Nó không tự mình tròn trịa được.
Phải nhờ đến không khí. Nhưng chỉ một mũi kim cũng làm nó xẹp xuống".
Quyền uy trần gian mau tàn. Chỉ có quyền năng của Thiên Chúa mới bền vững.
Chính vì thế Đức Giêsu không xưng vương khi tràn đầy uy tín, khi được dân chúng
ngưỡng mộ. Vì nếu Ngài xưng vương khi được dân chúng tung hô vạn tuế, khi làm
những việc kỳ lạ lớn lao, khi tràn đầy uy tín, thì vương quyền ấy chẳng hơn gì
vương quyền của vua chúa trần gian khác. Nhưng hôm nay, khi mất hết mọi uy tín,
không còn ai tung hô ủng hộ, Đức Giêsu xưng vương để cho ta thấy Ngài siêu
thoát mọi quyền lực và vinh quang theo thói thế gian. Ngài chỉ trông cậy vào
quyền năng của Thiên Chúa. Vì thế những ai muốn vào vương quyền của Ngài phải
biết coi thường mọi vinh quang quyền thế ở trần gian.
Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng đó là
tình thương chiến thắng thù hận. Khi một mình đối diện với những ghen ghét thù hận
của đám đông, Đức Giêsu muốn dạy ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu là
hiện thân của tình yêu Thiên Chúa trên trần gian. Vì yêu thương mà Ngài đã
xuống trần gian. Ngài đã yêu thương cho đến chết vì yêu. Đó là tình yêu lớn lao
nhất như lời Ngài nói: "Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của
người dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu". Dù những thù hận vây bọc, nhưng
Đức Giêsu vẫn yêu thương. Hôm nay đơn thân độc mã trong vòng vây của hận thù,
Đức Giêsu vẫn xưng vương để cho ta thấy: tình yêu thương đã chiến thắng. Hận
thù đem lại chết chóc, chỉ có tình yêu thương mới cứu được thế giới.
Đức Giêsu đã chiến thắng. Ngài là Đấng
đầu tiên từ trong kẻ chết sống lại. Với chiến thắng, Đức Giêsu mở cửa vương
quốc của Ngài. Đó là vương quốc của Sự Thật. Chỉ những ai thuộc về sự thật mới
được vào. Và những ai thuộc về sự thật phải biết chiến thắng sự giả trá. Sự giả
trá đó là sự chết, đó là những vinh hoa phú quý trần gian và đó là lòng thù hận
ghen ghét. Hiểu biết sự thật, đập tan sự dối trá, ta mới tiến vào Nước Sự Sống
theo bước Đức Giêsu Kitô. Với chiến thắng Ngài thật sự là Đường dẫn đến Sự Thật
và Sự Sống muôn đời.
Lạy Đức Giêsu là Vua của chúng con, xin
cho chúng con được làm dân của Chúa, được thuộc về Nước Chúa, nước đầy tràn Sự
Thật và Sự Sống, nước công chính và tình yêu muôn đời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Chúa Giêsu cho biết gì về vương quốc
của Chúa?
2- Chúa Giêsu cho biết gì về quyền năng
của Chúa?
3- Chúa Giêsu cho biết gì về cuộc chiến
giữa tình thương và thù hận?
4- Muốn sống trong vương quốc của Chúa,
ta phải làm gì?
7. Làm Vua là làm
chứng – ĐGM. Vũ Duy Thống.
(Trích trong 'VỚI CẢ TÂM TÌNH')
Không còn nữa hình ảnh của những vì vua
oai phong lẫm liệt như trong chế độ quân chủ ngày nào, nhưng thay vào đó là một
lớp những nhà vua mới lên ngôi thần tượng, không ngai vàng mà nhiều khi cũng
đầy uy lực: vua dầu hoả, vua xe hơi, vua trò chơi, vua bóng đá. Mỗi thời có
những kiểu đăng quang riêng, và mỗi lĩnh vực cũng có những nhà vua riêng của
mình.
Thuật ngữ "Vua" xem ra đã có
nhiều biến thể. Phổ cập hơn nhưng cũng mong manh hơn, thời sự hơn và cũng đời
thường hơn. Trong bối cảnh đó, lễ Chúa Kitô Vua lại trở về, vừa khép lại năm
Phụng Vụ cũ vừa mở sang năm Phụng Vụ mới. Phải chăng đây cũng chỉ là một lễ
đăng quang tương tự như các nhà vua trần thế? Hay là một lễ của niềm tin yêu hy
vọng vào Chúa Kitô – Đấng làm Vua bằng cách làm chứng, hiến thân đến cùng trong
tình yêu để mở ra triều đại cứu độ?
1) Chúa Kitô không làm Vua như những
vua trần thế.
Có lẽ khi tự ý cho treo tấm bảng
"Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái" lên đầu Thập giá, Philatô đã không
nghĩ đến điều gì khác ngoài lợi thế chính trị cho ông, bất kể phải chơi khăm
những người Do thái, nhưng có một điều ông không bao giờ nghĩ tới, mà điều đó
lại thật quan trọng trong lợi thế đức tin của người Công giáo, đó là tấm bảng
kia trong ý định của Thiên Chúa lại là một tuyên xưng không thể xoá nhoà.
Chúa Kitô không chỉ làm Vua một thời,
mà là Vua vĩnh cửu. Dù trong đời sống công khai, có lần Người đã nặng lời quở
trách Phêrô khi ông này chỉ muốn thấy nơi Người hình ảnh của một Đấng Messia dễ
dãi đồng nghĩa với vị vua phàm trần, và Người cũng đã từng trốn chạy khỏi đám
đông cuồng nhiệt khi họ muốn bắt Người làm vua sau phép lạ hoá bánh nhiều.
Nhưng, trước mặt Philatô, Người đã công khai tuyên bố mình là Vua, để rồi trên
Thập giá, chính lúc tưởng rằng chết đi, Người cho thấy mình còn sống mãi, và
chính khi tưởng rằng bị huỷ diệt, Người cho thấy mình vẫn muôn thuở tồn tại.
Thời gian là đại lượng dành cho những vị vua trần thế, còn Người vượt trên thời
gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.
Chúa Kitô không chỉ
làm Vua dân Do thái mà là Vua phổ quát. Với cái chết của Người trên Thập giá
trong tư cách Đấng Cứu Thế, một dân mới đã được khai sinh không phải giới hạn
trong một vùng lãnh thổ địa lý mà đã mang lấy tầm vóc của cả thế giới vũ hoàn.
Trong máu của Người, giao ước mới phổ quát đã hình thành vượt trên giao ước cũ
vốn giới hạn nơi dân Do thái. Và trong công cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, những
gì cũ phải qua đi để nhường chỗ cho một triều đại mới vượt trên tất cả.
Người là Vua phổ quát vì Nước Người
chẳng thuộc trật tự trần thế. Người là Vua vũ trụ bởi chính Người là Thủ Lãnh
sẽ quy tụ mọi sự về một mối: "Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên
cùng Ta".
Và nếu theo nhãn giới của bài đọc thứ
nhất và thứ hai với hình ảnh của "Đấng đến giữa mây trời" thì vương
quyền của Chúa Kitô đã khác xa một trời một vực so với các vương quyền trần thế
khác. Vương quyền trần thế dẫu có lan tràn khắp mặt đất cũng vẫn có thể đo
lường được, còn vương quyền của Chúa Kitô vì vượt trên tất cả nên cũng vô
phương dò thấu. Người là Vua muôn Vua.
Không phải vô tình mà phiên toà lễ Vượt
Qua đã đặt Chúa Giêsu đối diện với Philatô, mà chính trong tư thế đối diện cộng
với những đối chất qua lại đã làm nổi bật lên cái nghịch lý mầu nhiệm của Giờ
Tử Nạn. Vào chính lúc quyền bính thế gian xem ra thắng thế còn quyền bính trời
cao dường như hạ bệ, thì Chúa Giêsu đã tuyên bố mình là Vua. Lời tuyên bố như
thế lẽ ra đẩy Philatô vào thế đối thủ, nhưng – Chúa Giêsu đã nhanh chóng khẳng
định Nước Người chẳng thuộc trật tự chính trị thế gian, nên Tổng trấn Rôma dầu
quyền uy là thế vẫn chỉ là chiếc bóng mờ nhạt đứng đó trong vai trò của một đối
chứng hơn là một đối thủ để làm nổi bật lên dung mạo của Chúa Giêsu – Vua muôn
Vua. Hơn nữa, bởi Philatô là một người ngoại nên tầm vóc của lời tuyên bố kia
đã vượt xa giới hạn đạo giáo để trở thành phổ quát cho cả muôn người. Và hệ luỵ
là quyền bính Philatô bởi thuộc về thế gian nên cũng qua đi với thế gian, còn
vương quyền Chúa Kitô vẫn tồn tại mãi bởi thuộc về trật tự tâm linh để không gì
có thể đặt giới hạn cho Người. Người là Vua vĩnh cửu.
2) Chúa Kitô làm Vua bằng cách làm
chứng.
Dẫu vào Giờ Tử Nạn, Chúa Giêsu mới
tuyên bố mình là Vua để khởi đầu cho một triều đại mới trong "sự thật và
sự sống, thánh thiện và ân sủng, công chính, yêu thương và an bình" (Kinh
Tiền Tụng), nhưng thực ra đó chỉ là đỉnh cao của một đời lựa chọn và là điểm
đến của một quá trình thực thi sứ mệnh làm chứng cho sự thật: "Tôi sinh ra
và đến thế gian là để làm chứng cho sự thật". Nếu sự thật là chính Thiên
Chúa, là thực tại thần linh, là "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con
Một mình" như một kiểu nói của thánh Gioan hoặc là ơn cứu độ, thì trót
cuộc đời của Chúa Giêsu là một công cuộc liên lỉ minh chứng.
Qua Nhập Thể, Người đã mang lấy bộ mặt
đớn hèn của cả nhân loại. Qua Tử Nạn, Người đã nhận vào mình thân phận loài
người tội lỗi. Qua Thập giá, Người đã sẵn sàng chấp nhận cái chết để cứu độ
toàn thế giới. Và đỉnh cao Phục Sinh tôn vinh chỉ có được khi Người đã trải qua
nẻo đường Thương Khó đến cùng trong số phận của "Người Tôi Tớ đau
khổ".
Rõ ràng là nơi Đức Kitô, làm Vua có
nghĩa là làm chứng và làm chứng không chỉ bằng lời mà bằng chính cuộc đời của
Người, trải dài từ Nhập Thể qua Tử Nạn cho đến Phục Sinh. Nói cách khác, làm
chứng cho sự thật cũng là sống và chết cho sự thật ấy, và làm chứng cho hiện
thân của Thiên Chúa ở giữa thế gian cũng chính là sống và chết để cho hiện thân
tình thương được triển nở cách hiện thực sống động và viên thành.
Thảo nào vương quốc và vương quyền của
Chúa Kitô thật khác lạ. Chẳng cần đến lực lượng để mà thiết lập, chẳng cần đến
vũ lực để mà cai trị, cũng chẳng cần đến quân sự để mà bảo tồn. Như vậy, điều
mà mọi vị vua trần thế mong ước là trải dài vương quốc trong không gian và thời
gian, thì chỉ duy Chúa Kitô mới thực hiện được, không phải bằng vũ trang mà là
bằng một tình thương không mệt mỏi hiến thân làm chứng cho sự thật. Và đó là
phương thế duy nhất để thiết lập một Vương quốc phổ quát và vĩnh cửu.
Trong ý hướng ấy, bài đọc thứ hai là
một tiến trình mạch lạc không thể đảo ngược: chỉ khi nào sống trọn vai trò
chứng nhân trung thành, Đức Kitô mới nên Trưởng Tử kẻ chết và làm Vua muôn vua.
3) Ai thuộc về sự thật thì nghe Đức
Kitô.
Đức Kitô, Người làm Vua như thế đó. Nên
mục đích của Thánh lễ hôm nay đối với mọi kẻ tin là: "tôn vương" Chúa
Kitô trong cuộc sống của mình.
Thực ra thì cử hành lễ Chúa Kitô Vua
vào Chúa Nhật cuối năm Phụng Vụ cũng nói lên niềm tin vào vương quyền Chúa Kitô
như tinh thần của Thông điệp Quas Primas mà Đức Piô XI đã ban hành ngày 11
tháng 12 năm 1925, nhưng niềm tin vốn là một sự sống, nên chỉ khi thể hiện niềm
tin bằng cuộc sống, tín hữu mới có thể an lòng là thần dân trong Vương quốc của
Đức Kitô.
Không thể nhận mình là dân của Vua Kitô
trong khi cuộc sống cá nhân và gia đình lại nghiêng theo lối sống thế tục làm
vẩn đục vũ trụ quan Kitô giáo, dần dà xa rời Giáo Hội và có nguy cơ chối bỏ
vương quyền Chúa Kitô mà không hay biết.
Cũng không thể nhận mình ở trong Vương
Quốc của Đức Kitô mà hằng ngày một cách nào đó mình vẫn dửng dưng với sự hiện
diện của Người trong cuộc sống con người như coi thường nhân phẩm, khinh rẻ
người nghèo... càng không thể nhận mình sống trong Vương Quốc Đức Kitô khi mà
cuộc sống chung riêng vẫn gây ra những oán thù, ghen ghét, gian tham, bất công,
gương xấu, tội lỗi...
Càng không thể nhận mình thuộc về vương
quyền của Đức Kitô khi mình chưa thực sự hiến thân một cách nào đó để thể hiện
tinh thần chứng nhân. Đức Kitô đã lấy cái chết để làm chứng, Kitô hữu cũng phải
đi vào lối sống hy sinh mới có thể trở thành chứng nhân cho đức tin được. Đừng
quên, chứng nhân có nghĩa là tử đạo và sống đạo một cách anh hùng cũng chính là
chứng nhân.
Nhưng ai thuộc về sự thật thì nghe Đức
Kitô và ai thuộc về Đức Kitô thì hãy để Người sống và lớn lên trong cuộc đời
mình và chấp nhận để Người biến đổi toàn diện. Đồng thời, chính mình cũng cần
nỗ lực "làm chứng" sao cho niềm tin luôn luôn vươn lên, mà cũng không
quên nhiệt tình tông đồ là làm cho những người lân cận nhận biết và tin yêu
Chúa Kitô nữa. Như thế là tin vào vương quyền Chúa Kitô, là "tôn
vương" Chúa Kitô trong cuộc sống của mình và cũng là cùng với mọi người
tích cực hoạt động cho công cuộc truyền giáo nhằm "quy tụ mọi sự trong
Chúa Kitô".
Ở Bãi Sau Vũng Tàu, có một tượng Chúa
Kitô Vua thật lớn dựng trên triền núi quay mặt ra biển, đôi tay giang rộng như
ôm lấy cả trùng dương. Ngư dân quanh đó kể lại rằng những khi ra khơi, họ vẫn
căn cứ vào đó để mà định hướng đi về, và nhiều lần sóng gió họ cũng hướng về đó
để mà cầu nguyện xin ơn bình an.
Giữa trùng dương cuộc sống, Kitô hữu
biết rằng Chúa Kitô vẫn luôn hiện diện như một chuẩn đích để định hướng tin yêu
hy vọng. Xin Người cũng làm Vua quy tụ mọi sự trong Vương Quốc vĩnh cửu của
Người.
Lạy Chúa Kitô, cùng với Giáo Hội, hôm
nay chúng con lặp lại niềm tin của mình vào Vương Quyền của Chúa. Xin chúc lành
cho những ước nguyện chúng con dâng lên, để khi quyết tâm xa lìa tội lỗi và
sống thánh thiện, chúng con được trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị muôn đời. Amen.
8. Đức Giêsu Kitô Vua:
phục vụ là cai trị.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Truyện cổ Nga thuật lại rằng: Vào thời
Trung cổ, Hoàng tử Alexis cũng như bao vua chúa khác sống trong cung điện nguy
nga tráng lệ, trong khi dân chúng chung quanh phải sống trong những khu xóm
nghèo nàn tồi tệ. Thế nhưng Alexis rất hiểu nổi cơ cực của thần dân và cảm
thương họ. Ông bỏ ra mỗi ngày một tí thời giờ để thăm họ. Nhưng dù cố gắng đến
đâu, Alexis vẫn không thu phục được lòng yêu mến của thần dân. Vì thế, sau mỗi
lần thăm họ trở về, ông thấy lòng mình buồn rười rượi.
Ngày kia, có một người lạ mặt đi vào
khu xóm, ăn mặc đơn sơ, anh tự xưng là bác sĩ, anh săn sóc những người già cả,
bệnh tật. Đặc biệt, bác sĩ không lấy tiền thù lao, và còn phát thuốc miễn phí
cho bệnh nhân.
Bác sĩ ấy trở thành người của xóm nghèo,
được mọi người yêu mến kính phục. Ngày ngày, anh dàn xếp những cuộc cãi vã,
tranh giành, hòa giải những thù oán, và giúp đỡ họ sống đúng với phẩm giá con
người.
Bác sĩ trẻ ấy chính là Hoàng tử Alexis,
người đã bỏ cung điện giàu sang đến sống với thần dân nghèo khổ và trở nên bạn
bè của họ, để yêu thương săn sóc và phục vụ họ.
Anh chị em thân mến, Đức Kitô thực sự
là một vị Vua đầy uy quyền. Nhưng Ngài đã trở nên giống như chúng ta, để có thể
yêu thương và phục vụ chúng ta. Ngài đã tuyên bố: "Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến sống làm giá chuộc muôn
người" (Mt 20,28). Trong Tin Mừng hôm nay, khi bị Philatô tra hỏi:
"Ông là Vua ư?" Chúa Giêsu không phủ nhận, Ngài chỉ nói: "Chính
quan nói rằng tôi là vua". Vua vẫn chỉ là một từ ngữ gây hiểu lầm mà Đức
Giêsu muốn tránh. Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói đến Nước của Ngài. Ngài
"sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài... trong Nước của Ngài" (Mt
16,27-28). Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: "Nước tôi không thuộc về thế
gian này" (Ga 18,36). Khi người trộm lành xin Ngài nhớ đến anh "khi
Ngài đến trong Nước của Ngài", Chúa Giêsu đã không từ chối: "Hôm nay
anh sẽ ở trêm Thiên Đàng với tôi" (Lc 23,41-43). Vào ngày tận thế, Ngài sẽ
đến phân xử người lành kẻ dữ trong tư cách một vị Vua (Mt 25,34-40).
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ. Ngài đã được
Chúa Cha ban cho mọi quyền năng trên trời dưới đất (Mt 28,18). Nhưng Ngài đã
sống như một người tôi tớ phục vụ. Trong cuộc sống trần thế, Ngài vẫn luôn ý
thức về vai trò quan trọng của mình trong việc cứu độ nhân loại. Ngài biết mình
là Con Thiên Chúa. Thế nhưng cả cuộc đời Ngài là một sự phục vụ không ngừng.
"Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị họ, và những ai cầm quyền thì
tự xưng là ân nhân... Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ hầu bàn, ai lớn hơn ai?
Hẳn là người ngồi ăn chứ gì? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một
người hầu bàn" (Lc 22,25-27). Chúa Giêsu tự nhận mình là người phục vụ như
một kẻ hầu bàn, chỉ mong cho thực khách được ngon miệng. Kiểu làm vua của Chúa
Giêsu là phục vụ, chứ không phải là được người ta phục vụ. Ngài làm vua bằng
cách cúi xuống để làm cử chỉ hầu hạ của người nô lệ: "Nếu Thầy là Chúa, là
Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau"
(Ga 13,14). Với Chúa Giêsu, cử chỉ đó là một việc làm bình thường gắn liền với
quyền bính đích thực. Qua cung cách của Ngài, Chúa Giêsu đưa ra định nghĩa đúng
đắn về quyền bính. Quyền bính đích thực đồng nghĩa với phục vụ và phục vụ cho
đến hy sinh mạng sống.
Cử chỉ phục vụ cao cả nhất và khiêm hạ
nhất của Chúa Giêsu là cái chết của Ngài trên thập giá. Cần chiêm ngưỡng vị vua
bị đóng đinh thật lâu để hiểu được cách làm vua của Ngài. Trên đầu Ngài có gắn
tấm bảng ghi dòng chữ: "Giêsu Nagiaret Vua dân Do Thái", được viết
bằng ba thứ tiếng: Do Thái, La Tinh, Hy Lạp, để ai cũng đọc được. Một vị vua lạ
lùng! Không ngai vàng, chỉ có thập giá. Không vương miện, chỉ có vòng gai.
Không cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không quan quân đứng hầu, chỉ có
người qua kẻ lại nhiếc móc, chế nhiễu, lăng mạ. Một vị vua không có chút quyền
lực, cũng chẳng áp bức ai. Một vị vua của vâng phục và yêu thương tha thứ tất
cả. Thập Giá vừa đưa Chúa Giêsu xuống vực thẳm, vừa nâng Người lên cao. Chúa
Giêsu trở thành vua vũ trụ nhờ đi vào con đường thập giá, con đường tử bỏ mình
để khiêm tốn phục vụ, con đường hẹp nhưng không phải là con đường cùng, mà là
con đường dẫn đến vinh quang. "Khi nào Ta được đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ
kéo mọi người lên với Ta" (Ga 12,3). Vua Giêsu hôm nay vẫn tiếp tục thu
hút cả vũ trụ nhân loại với Ngài. Nước của Ngài đã được khai mạc và nước ấy vẫn
lan rộng không ngừng nhờ có những người dám "đứng về phía sự thật" và
"nghe được tiếng Ngài mời gọi" (Ga 18,37).
Nước của Vua Giêsu không có trên bản
đồ, bởi lẽ Nước ấy "ở trong thế gian này" nhưng "không thuộc về
thế gian này". "Ở trong thế gian", nghĩa là không xa cách, nhưng
hòa quyện với thế gian như men trong bột, như muối ướp thức ăn. Nhưng
"không thuộc về thế gian này", nghĩa là không chạy theo những thần
tượng của thế gian: quyền lực, tiền của, khoái lạc... Thế gian sa đọa là thế
gian chống lại Nước Chúa và cũng chống lại quyền lực của con người. Thế nên,
xây dựng Nước Chúa cũng là xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, tôn trọng con
người. Chúng ta cầu nguyện: "Xin cho Nước Cha trị đến", được mọi
người nhận biết. Nhưng Nước Cha chỉ thành tựu khi Chúa Giêsu Kitô được mọi
người tuyên xưng là Chúa, là Đấng Cứu Độ là Vua cả hoàn vũ. Nước Cha và Nước
Chúa Kitô là một. "Vào lúc tận thế, Chúa Kitô sẽ trao lại Nước cho Chúa
Cha, sau khi Ngài đã hủy diệt và khuất phục quyền lực sự dữ, để cuối cùng,
Thiên Chúa làm mọi sự cho mọi người" (x.1Cr 15,24-28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô, một vị vua dùng thập giá
ngai vàng, mão gai làm triều thiên và muôn thuở cạnh sườn của Ngài bị đâm
thủng, để nguồn suối tình yêu luôn tuôn tràn cho nhân loại đang khao khát tình
yêu. Yêu là trao ban và trao ban đến cùng. Tình yêu, đó là món quà quí nhất của
Thiên Chúa đã trao tặng con người. Từ nay, để sống đích thực là người, con
người cần phải dốc cạn con tim mình để yêu thương và trao ban cho đồng loại.
Chúa Giêsu đã lấy tình yêu thương và phục vụ làm quyền bính cai trị. Ngài đã
trở nên gương mẫu đích thực cho các nhà lãnh đạo, cho các người cầm quyền. Ai
biết yêu thương và phục vụ như Ngài thì mới được tham dự vào vương quyền của
Ngài trong Nước của Ngài, vì "Phục vụ là cai trị" vậy.
9. Nước Cha trị đến -
Gm. Arthur Tonne.
Thánh Gioan Cantio sinh tại Ba lan năm
1390. Khi còn là một cậu bé, ngài tỏ ra thông minh và tử tế. Khi làm linh mục,
ngài dạy Kinh Thánh tại đại học Cracow và cũng làm cha sở mấy năm. Người ta nhớ
sự thông thái và lòng nhiệt thành của ngài đối với người nghèo khó. Người đã đi
bộ hành hương Roma đến bốn lần, đeo hành trang trên lưng. Một lần trong cuộc
hành hương, bọn cướp lấy bóp của ngài, hỏi ngài còn tiền không. Vị thánh trả
lời ngài chỉ có bấy nhiêu, bọn cướp cho ngài đi.
Đi được một quãng xa, ngài nhớ ra mấy
miếng vàng giấu trong gấu áo. Ngài vội vàng trở lại, đưa vàng cho bọn cướp, năn
nỉ xin họ tha thứ cho ngài vì ngài đã nói dối họ.
Bọn cướp ngỡ ngàng, lặng thinh và lấy
làm thích thú, bọn chúng trả lại cho ngài tất cả tiền nong đã lấy của ngài.
Hôm nay chúng ta tôn thờ Đức Kitô là
Vua của chúng ta. Chúng ta nghe Chúa Kitô nói với Philatô: "Vương quyền
của tôi không thuộc về trần gian". Chúa Giêsu nhận rằng Người là Vua nhưng
không phải là Vua của các Vua.
Người không phải là một nhà lãnh đạo
chính trị hay quân sự. Người không phải là một ông vua giàu có, danh vọng và
quyền thế. Vậy Người là loại vua nào? Vương quốc Người ở đâu? Vương quốc Người
là gì? Bài kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ hôm nay trả lời các câu hỏi ấy.
"Người hiến thân trên thập giá...
Người đã hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại... Người đã quy phục mọi loài
dưới quyền bính mình và đặt dưới uy quyền vô hạn của Chúa. Một vương quốc sự
thật và sự sống, một vương quốc thánh thiện và ân sủng, một vương quốc công
bình, tình thương và hòa bình".
Mỗi lần chúng ta hành động vì những
điều quý giá này: Chân lý, sự sống, sự thánh thiện, ân sủng, sự công bình, tình
thương và hòa bình, là chúng ta hành động cho Chúa Kitô, làm cho Chúa Kitô là
Vua của chúng ta.
* Sự thật: Như Thánh Gioan Cantio, bạn
hãy nói sự thật dù phải trả bằng mọi giá và bạn phục vụ Chúa Kitô –Vua sự thật.
* Sự sống: Chúa Kitô đến để chúng ta
được sống, những kẻ theo Chúa phải phát triển sự sống. Thí dụ: Bạn hãy làm mọi
cái có thể, để ngăn ngừa sát hại hàng triệu em bé vô tội vì phá thai.
* Thánh thiện và ân sủng: Mọi cái chúng
ta làm đều gia tăng sự sống của Chúa trong chúng ta. Thí dụ: Tham dự Thánh Lễ
này là một việc phục vụ Chúa Kitô, nguồn mạch sự thánh thiện.
* Công bình: Khi chúng ta cố gắng khiêm
nhường đối với Chúa, với người lối xóm và với chúng ta. Chúng ta bỏ phiếu bầu
Chúa Kitô là Vua, làm nhà lãnh đạo chúng ta.
* Tình yêu: Mỗi lần chúng ta cố gắng
làm đẹp lòng Chúa, giúp đỡ anh em chúng ta minh chứng dấu chỉ đặc biệt việc
phục tùng Chúa Kitô là Vua.
* Hòa bình: Bạn hãy cố gắng xây dựng
hòa bình mọi nơi và bạn chứng tỏ rằng bạn thuộc về vương quốc hòa bình của Chúa
Kitô. "Nước Cha trị đến" chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha.
Trong ngày lễ Chúa Kitô là Vua, chúng ta thề hứa phát triển trong đời sống cá
nhân và cộng đoàn, đặc tính thâm sâu và thiêng liêng này để thực sự nhận Chúa
Kitô là Vua.
Xin Chúa chúc lành bạn.
10. Tôi là Vua – Noel
Quesson.
Đức Hồng Y Deschamps, Tổng Giám Mục
Malines, khi còn trẻ đã chứng kiến cuộc đăng quang của vua Bỉ. Từ cửa sổ một
cao ốc, Deschamps đứng xem, cuộc lễ diễn ra, rồi cuộc diễn hành trang trọng của
hoàng gia và đoàn tùy tùng. Sau khi mọi việc đã hoàn tất, các nẻo đường phố trở
lại bình thường như mọi ngày, chàng trai mỉm cười nói: Thế là một vị vua đã đi
qua. Rồi nhờ ơn Chúa chàng suy nghĩ tiếp: Tôi không muốn phục vụ cho một vị vua
sẽ qua đi. Tôi muốn một vị vua ở mãi với tôi. Và chàng nghĩ tới Đức Kitô, chàng
từ bỏ địa vị đầy hứa hẹn và trở thành một tu sĩ, một linh mục và một niên
trưởng Giáo Hội nước Bỉ.
Chúa Giêsu đã nhận mình là Vua, lời
tuyên bố của Chúa được thốt lên ngay trong vụ án người ta đang xét xử Chúa.
Chúa bị tố cáo vì xưng mình là Vua. Khi Philatô hỏi Chúa: Ông có phải là Vua
không? Thì Chúa lại quả quyết Người thực là Vua. Danh hiệu Vua có thể hiểu theo
nhiều nghĩa khác biệt.
Trước hết, một vị Vua theo quan điểm
chính trị giống như Hoàng đế La Mã. Ông tìm cách thống trị và đòi người ta làm
nô lệ cho mình. Còn một vị Vua theo quan điểm Đấng Thiên Sai mà người Do Thái
trông chờ, đó là người kế vị ngai tòa Đavid. Người sẽ chiến thắng quân thù và
giải thoát dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc.
Còn khi Chúa Giêsu nói với Philatô: Tôi
là Vua, thì chức vị Vua ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Chúa là Vua mà không hề
bó buộc ai theo mình, một vị Vua để người ta bắt nộp mà không chống cự, không
có quân đội, không có vũ khí. Một vương quốc như vậy làm ngạc nhiên các chính
trị gia và các người chỉ huy quân sự.
Chúa Giêsu không phải một người yếu
đuối, Chúa đã từng xua đuổi ma quỷ, đã triệt hạ khổ đau bệnh tật. Người đã lên
tiếng nạt sóng gió và khiến bão tố im lặng. Người đã cải tổ Luật Do Thái với tư
thế quyền uy. Tuy Người là Chúa và là Thày chúng ta mà vẫn để chúng ta hoàn
toàn tự do.
Chúa Giêsu thực là Thiên Chúa: "Ai
thấy Ta là thấy Cha". Chúa đến để thiết lập một vương quốc nhưng đó là một
vương quốc Thiên Chúa. Một vương quốc giấu ẩn như hạt cải nhỏ xíu nhưng rồi sẽ
phát dậy men... như hạt lúa mì mục nát trong đất và đem lại mùa màng tốt đẹp.
Chúa Giêsu là Vua, nhưng là Vua theo kiểu Thiên Chúa. Dĩ nhiên không phải một
Thiên Chúa cai trị như Thánh Vịnh ca tụng (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1).
Chúa dạy ta cầu nguyện hàng ngày cho "Nước Chúa trị đến". Thiên Chúa
không tiêu diệt kẻ thù, không ép buộc con người tin theo. "Người cho mặt
trời soi chiếu cho người công chính và kẻ bất lương, cho người vô thần cũng như
cho các tín hữu" (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu những kẻ không yêu mến
Người. Và Chúa đòi ta cũng hành động theo lối Người.
Philatô hỏi: "Vậy ông là Vua
sao?". Sau khi đã xác định cung cách làm Vua của Chúa khác với quan niệm
người trần, Chúa công bố với Philatô: "Ông nói đúng, tôi sinh ra để làm
Vua, để làm chứng cho chân lý". Chúa làm Vua theo lối khác, Chúa không nói
khác biệt thế nào nhưng sự kiện đã chứng tỏ. Người ta giết Chúa, Chúa vẫn cai
trị, vẫn chiến thắng. Chúa bị treo trên thập giá là lúc Chúa đăng quang, là lúc
Người lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha.
Vậy ai là thần dân của Chúa? Chúa bảo:
"Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi". Chúa cai trị những người
nghe tiếng Chúa, những người tin thác vào Lời Chúa, tin hoặc không tin. Như
vậy, cả nhân loại là công dân của Nước Chúa, không một ai có thể thoát khỏi
quyền cai trị của Chúa.
Tôn kính Đức Kitô Vua, không phải là
dâng hương, là cử hành nghi lễ tung hô... Nhưng trước hết là nghe tiếng Chúa,
và điều chỉnh cuộc sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, xã hội theo Lời Chúa.
Lạy Chúa là Vua Vũ Trụ, xin làm cho mọi
người nhận biết quyền năng và tình thương của Chúa, để tất cả được trở nên công
dân trong Nước Chúa. Nước yêu thương, an bình bất diệt. Amen.
11. Thuộc về Chúa.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác
quyết: Phải, Ta là vua, nhưng Nước Ta không thuộc về thế gian này. Đúng thế,
nhìn vào xã hội ngày hôm nay, chúng ta sẽ thấy Nước Chúa không có một thế lực
chính trị, không có một sức mạnh quân sự nào cả. Nước Chúa không có xe tăng và
đại pháo, mà chỉ có các linh hồn. Nước Ngài là nước thiêng liêng triển nở trong
cõi lòng chúng ta. Và như vậy, Ngài là vua của tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên một
khi đã tuyên xưng Ngài là vua, thì điều quan trọng, đó là chúng ta phải thuộc
về Ngài. Thế nhưng, chúng ta phải thuộc về Ngài như thế nào?
Chúng ta không thuộc về Chúa bằng cách
chỉ có tên trong sổ Rửa tội, bằng cách chỉ mang danh hiệu là người Kitô hữu,
nhưng chúng ta phải thuộc về Ngài bằng chính đời sống kitô hữu của chúng ta.
Đây quả thực là một điều cay đắng và chua xót, bởi vì: xét theo tên gọi, thì
nhiều người Kitô hữu đã thuộc về Ngài, nhưng xét theo đời sống, thì họ lại chối
bỏ Ngài. Họ tới nhà thờ ba lần trong đời. Lần thứ nhất đễ lạnh nhận bí tích Rửa
Tội, lần thứ hai để cử hành bí tích Hôn Phối và lần thứ ba để ra đi đến nơi an
nghỉ cuối cùng.
Mặc dù tin Chúa, nhưng họ lại chẳng bao
giờ sống niềm tin của mình. Họ chấp nhận Đức Kitô là vua, nhưng lại chẳng bao
giờ tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, khiến anh em lương dân đã phải thốt
lên: Đi đạo thì tin đạo, chứ đừng tin kẻ có đạo. Họ chỉ là một thứ Kitô hữu
"dổm", hữu danh vô thực mà thôi. Họ giống như mồ mả bên ngoài thì
quét vôi trắng xóa, hay ốp lát cẩm thạch hay đá quí, nhưng bên trong thì lại
chất chứa đủ mọi thứ giòi bọ và xú khí. Đức tin của họ chỉ là như một bộ quần
áo đẹp, mặc vào để tới nhà thờ, rồi sau đó thì cởi ra và treo và tủ. Họ chỉ giữ
đạo ở trong nhà thờ mà chẳng sống đạo giữ lòng cuộc đời. Tại nhà thờ họ là
những con chiên ngoan, nhưng bước xuống cuộc đời họ bỗng hóa kiếp thành một
loài lang sói, cũng gian tham, cũng độc ác... Với chúng ta thì khác. Giữa một
xã hội chối bỏ Thiên Chúa để chạy theo vật chất và hưởng thụ, thì những người
Kitô hữu, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, phải
trở nên chứng nhân cho Tin mừng tình yêu của Đức Kitô, phải trở nên nắm men làm
cho cả đấu bột xã hội dậy men đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương,
phải trở nên muối mặn ướp cho một môi trường khỏi ươn thối, phải trở nên ánh
sáng chiếu trong một thế giới bị phủ đầy bóng tối. Tất cả những điều ấy muốn
nói lên rằng mỗi người chúng ta cần phải có một đức tin sống động, thì mới có thể
cẳm hóa được thế giới ngày nay, một thế giới đang xa lìa khỏi quỹ đạo của Thiên
Chúa.
Trong cuộc sống này, không thiếu gì
những người vỗ ngực tự xưng là đạo gốc, là đạo dòng, nhưng lại thiếu mất một
đức tin sống động. Họ nói: Nếu tôi không có đức tin, thì tôi chẳng cần phải ăn
ngay ở lành, chẳng cần phải để ý tới linh hồn làm chi? Với chúng ta thì khác,
nếu chúng ta có một đức tin sống động, thì liệu chúng ta có thể bỏ bê linh hồn,
trốn tránh việc đi xưng tội và lười biếng việc rước lễ được hay không? Chắc
chắn là không.
Nếu kiểm điểm lại đời sống và tự vấn
lương tâm, có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà rằng: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi
mọi đàng... Bởi vì chúng ta mới chỉ là những người Kitô hữu trong sổ sách,
những người Kitô hữu trên môi trên miệng, chứ chưa thực sự là những người Kitô
hữu trong việc làm, trong cuộc sống với một đức tin mạnh mẽ và nhiệt thành.Với
lời nói, chúng ta là những người Kitô hữu, nhưng với việc làm chúng ta lại là
những kẻ ngoại đạo. Với miệng lưỡi, chúng ta là những người có đạo, nhưng với
đời sống, chúng ta lại là những kẻ vô đạo. Với ngôn ngữ, chúng ta là những
người tin Chúa, nhưng với tư cách chứng nhân, chúng ta lại là những kẻ chối bỏ
Chúa, đúng như tục ngữ đã diễn tả: Khẩu Phật tâm xà. Miệng Na mô, bụng bồ dao
găm. Đức Kitô là vua cõi lòng chúng ta. Vì thế, chúng ta phải nói, phải làm và
phải sống thế nào để trói cả cuộc đời chúng ta là một lời tuyên xưng vương
quyền của Ngài và bản thân chúng ta xứng đáng mang danh hiệu là công dân Nước
Trời.
12. Vua vĩnh cửu.
Trong một ngày lễ Chúa Kitô Vua, chúng
tôi đã mời gọi dân chúng ở Tagalog tôn vinh Chúa Giêsu bằng những tiếng chúc
tụng và ca khen "Chúa Kitô muôn năm". Khi tung hô ai như vậy, chúng
ta muốn nói rằng tôi ước ao cho ngài được trường thọ. Đó vừa là lời chúc mừng
vừa là lời hoan hô đầy phấn khích, là một lời kêu cầu và cũng là một cử hành
tôn vinh chính sự sống.
Khi chúng ta nói: "Chúa Kitô muôn
năm", chúng ta dùng câu đó như một lời khẩn cầu, một lời kính tôn đối với
Đức Vua nhân từ của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng diễn tả trong câu đó một lời
tán dương đối với Chúa. Đồng thời, chúng ta cũng diễn tả một nỗi khát vọng,
mong ước Chúa đến và sống mãi mãi trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn
mọi người tin vào Chúa.
Thầy Brian Morton có kể lại câu chuyện
sau đây:
"Một nữ tu trẻ khởi sự ngày đầu
tiên làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sơ rất lo lắng. Sơ thấy những
người hấp hối nằm trên các giường bệnh. Sơ thấy các sơ khác đang đi từ giường
này sang giường khác, rót nước ở chỗ này, phát thuốc ở chỗ kia.
Bất thình lình Mẹ Têrêxa đến bên sơ,
mỉm cười và nói: "Này chị, đến với tôi. Tôi muốn chị gặp một người".
Nữ tu trẻ đi theo Mẹ Têrêxa. Chẳng mấy chốc họ đến bên một cái giường nằm ở góc
xa nhất của khu nhà. Nằm trên giường là một ông lão gầy giơ xương. Đôi mắt của ông
sâu hoắm. Đầu ông cao trọc. Ông chỉ còn một cái răng duy nhất trong miệng.
Mẹ Têrêxa ôm khuôn mặt của ông lão
trong đôi bàn tay của mình và quì xuống bên giường. Mẹ gọi người nữ tu trẻ
tuổi: "Chị Anna, tôi muốn chị gặp Chúa Giêsu".
Chúng ta cần mời gọi Chúa Kitô đến cư
ngụ trong chúng ta để những qui tắc, lối sống của Người trở thành qui tắc vào
lối sống của chúng ta. Chúng ta cần Người đến sống trong và với chúng ta để
chúng ta hành động, ứng xử như Người. Chúa Kitô đang sống trong mỗi người chúng
ta. Và chúng ta phải để cho Chúa hướng dẫn chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của
Chúa trong những người chung quanh chúng ta.
Chúa Kitô muôn năm! Xin Chúa sống mãi
mãi trong tâm hồn chúng con.
13. Vạn tuế Vua Giêsu.
Cách đây hai ngàn năm, nước Do Thái,
một tiểu quốc bên bờ Địa Trung Hải, đã ngậm đắng nuốt cay, sống dưới chế độ hà
khắc của đế quốc Rôma. Tại Galilê, miền bắc Do Thái, những người đế quốc đã đặt
Hêrôđê, một con người vô lương tâm làm vua, để tận diệt vương tộc Đavid, còn ở
Giuđê, miền nam Do Thái, Rôma trực tiếp đô hộ, dưới sự thống trị của tổng trấn
Philatô và quân đội của ông. Cũng như trong các nước bị chiếm đóng, đô hộ,
người Do Thái thời bấy giờ chia ra nhiều phe đảng chống đối nhau và kình địch
nhau, cụ thể là hai đảng Sađốc và Pharisêu. Đảng Sađốc thì cộng tác với quân
đội chiếm đóng, ngược lại, đảng Pharisêu tha thiết với nền độc lập quốc gia, họ
sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc và đẩy lui đế quốc, họ luôn nhắc
nhở cho dân chúng niềm hy vọng ngày giải phóng mà Thiên Chúa đã hứa.
Trong khi đất nước đang bị phân hóa như
vậy thì Chúa Giêsu xuất hiện với những quyền lực vô song, Ngài đã làm những
việc mà không ai có thể làm được. Trước những sự kiện đó, người Do Thái hồ hởi
phấn khởi tin chắc Ngài là vị cứu tinh Thiên Chúa gửi đến và ngày giải phóng đã
gần. Vì thế, ngày lễ lá, dân chúng rầm rộ đón rước Chúa vào thành đô như một vị
đại tướng thắng trận trở về lên ngôi. Họ lũ lượt kéo nhau đi như biểu tình,
miệng ca hát: "Vạn tuế con vua Đavid". Như vậy, dân chúng đã nhận ra
Ngài là vị vua Thiên Sai khiêm tốn, ngồi trên lưng lừa, đúng như ngôn sứ
Dacaria đã loan báo năm thế kỷ trước. Họ reo vang hô lớn: "Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến, Người chính là vua". Hôm ấy Chúa Giêsu không cải
chính, cứ để họ tiếp tục tung hô như vậy.
Nhưng dân Do Thái đã thất vọng, vì Chúa
Giêsu từ chối vương quyền họ trao cho Ngài, từ chối việc giải phóng dân Do Thái
khỏi ách đô hộ của Rôma. Ngài tuyên bố Ngài là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa,
là vị cứu tinh, là Vua Do Thái, nhưng không như người Do Thái quan niệm. Thời
giờ đã điểm, Ngài không còn giấu diếm như trước nữa, Ngài công khai chấp nhận
và tuyên bố Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế là việc gì phải đến đã đến: ngày thứ Năm,
cũng trong tuần lễ đó, chính những người đã reo mừng tung hô Ngài trước đây,
bây giờ lại xuống đường biểu tình, điệu Ngài đến nhà cầm quyền để tố cáo giết
Ngài. Họ điệu Ngài đến tổng trấn Philatô, Philatô ra gặp họ, Chúa Giêsu và
Philatô đối diện nhau. Philatô quay về phía đám đông đang gào thét và hỏi họ:
"Các ngươi tố cáo người này về tội gì?". Nếu họ tố cáo Chúa là đã nói
xúc phạm vì tự xưng là Thiên Chúa, thì Philatô chỉ mỉm cười bỏ qua, nhưng lời
tố cáo của họ là "Chúa đã xúi giục dân nổi loạn, cấm nộp thuế cho Xêda, và
tự xưng mình là vua". Nghe vậy, Philatô hỏi Chúa: "Ông là vua
à?". Chúa trả lời: "Ông nói đúng, tôi là vua". Nhưng Ngài nói
thêm ngay: "Vương quyền của tôi không đến từ thế gian này", vương
quyền ấy chủ yếu hệ tại ở việc "làm chứng cho sự thật". Đây là điều
Philatô không thể nào hiểu được.
Đúng vậy, Chúa Giêsu không phải là vua
Do Thái theo nghĩa chính trị để tranh giành quyền thế với hoàng đế Xêda, Ngài
là vua theo nghĩa Ngài là Đấng chăn chiên dẫn người ta vào sự thật của Thiên
Chúa, Ngài đến làm chứng cho sự thật, ai thuộc về Ngài thì nghe tiếng Ngài,
Ngài là vua thật, vì Ngài dẫn người ta đến sự sống thật. Nói khác đi, Chúa
Giêsu đến trần gian không phải với sứ mạng giải phóng dân Do Thái và nhân loại
khỏi ách nô lệ của đế quốc, Ngài cũng không đến để giải thoát chúng ta khỏi đói
khát và chiến tranh. Tất cả sứ mạng của Ngài là giải phóng chúng ta khỏi tội
lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu đã đi vào tận đáy thân phận con người để bộc lộ vương
quyền thật của Ngài, Ngài chỉ muốn cai trị tâm hồn người ta. Do đó, tất cả
những ai muốn được giải thoát khỏi tội lỗi, tin theo Ngài và sống theo những
lời Ngài dạy, họ sẽ là thần dân của Ngài và được hội nhập vào nước của Ngài.
Trong thời đại này, chúng ta tuyên xưng
Chúa Giêsu là vua vẫn là một điều hợp thời, hợp tình, hợp lý. Vấn đề là chúng
ta hiểu đúng nội dung và bản chất vương quyền của Chúa. Ngài đến trần gian để
làm chứng cho sự thật và đưa chúng ta vào sự thật. Sự thật đây là ơn cứu rỗi và
hạnh phúc. Như vậy, tất cả chúng ta hãy cùng nhau vung tay lên hô lớn:
"Vạn tuế Chúa Giêsu là vua" như người đàn bà trong câu truyện sau:
Đức giám mục thành Pam-lo-ra kể lại rằng: người ta mới mang về đây thi thể của
một chiến sĩ đã chết vì Chúa và vì tổ quốc. Một quả lựu đạn nổ tung làm cho xác
người chiến sĩ đó nát bấy, các bạn bè nhận ra xác đó nên đem về chôn cất tử tế,
trước khi chôn, bà mẹ của người chiến sĩ đó xin mở quan tài ra, bà ta có một
người con đầu lòng cũng chết như vậy, khi mở quan tài ra, bà chỉ thấy có một
đống thịt nát và một cánh tay còn nguyên, bà cầm cánh tay đó đưa lên cao và
nói: "Anh con trước khi chết đã kêu lên: "Vạn tuế Chúa Giêsu là
vua", nếu con chết mà chưa kịp kêu lên như vậy, thì bây giờ con hãy kêu
lên với mẹ". Nói xong, bà giơ cánh tay con mình lên và hô ba lần:
"Vạn tuế Chúa Giêsu là vua".
Xin Chúa cho chúng ta, dù trong hoàn
cảnh nào, chúng ta vẫn luôn xác tín Chúa Kitô là vua, Ngài luôn quan tâm đến
chúng ta là những thần dân yêu quý của Ngài, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta luôn đi
trong sự thật và sống trong sự thật của Ngài, với điều kiện chúng ta phải luôn
tin Ngài và đặt Ngài làm vua tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là vua,
thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng
ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Có lẽ chúng
ta phải thú nhận: chúng ta chưa sống, chưa rao giảng, chưa làm chứng cho sự
thật cứu độ. Bởi vì cuộc sống đầu tắt mặt tối, đầy lo toan, vất vả, bon chen dễ
đẩy chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường
nhịn nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được
phần hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ
nữa... Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung thực, chân thành, bác ái, yêu
thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc, gian dối, ích kỷ, ti tiện... có
lẽ sẽ bị đánh giá là không giống ai, là người lội ngược dòng nước, nhưng chính
việc lội ngược dòng, chính việc sống trung thực, yêu thương lại là cách làm
chứng cho Chúa, làm chứng cho sự thật có ý nghĩa và giá trị nhất.
14. Đứng về phía sự
thật.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ sau vụ nổ big-bang, vũ trụ được
thành hình, và càng ngày càng bành trướng.
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ xíu
trong vũ trụ, nhưng nó lại lớn lao vô cùng, vì là hành tinh được Thiên Chúa yêu
thương và cứu chuộc. Con Thiên Chúa đã ghi dấu chân mình trên mặt đất, đã sống
trọn phận người bên cạnh nhân loại anh em.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
chúng ta được mời gọi ngắm nhìn trái đất tròn.
Đây là vũ trụ của hơn 6 tỉ người đang
sống. Vũ trụ này sẽ đi về đâu? Lịch sử này sẽ đi về đâu? Tất cả sẽ được hội tụ
và biến đổi nơi Đức Kitô, để rồi Ngài sẽ dâng lại tất cả cho Thiên Chúa Cha.
Tuy Đức Giêsu không nói rõ mình là vua,
cũng không chịu để dân chúng tôn vương mình, nhưng Ngài lại nói nhiều về Nước
của Ngài.
Nước đó, Philatô chẳng có gì phải sợ.
Một nước không có quân đội để chiến đấu, không có lãnh thổ trên bản đồ, không
thuộc về thế gian. Nhưng Nước đó lại có những công dân thực sự. Bất cứ ai đứng
về phiá sự thật thì thuộc về Nước này.
Họ bắt gặp sự thật nơi lời chứng của
Đức Giêsu. Họ đã nghe tiếng Ngài và theo Ngài tiến bước. Có những người chưa
biết Đức Giêsu, nhưng đã ở rất gần Ngài.
Nước của Vua Giêsu là Nước của sự thật.
Sống theo sự thật chẳng bao giờ dễ dàng. Kẻ trung thực thường thua thiệt, lại
bị coi là dại dột. Sự dối trá nhiều khi được coi là khôn ngoan. Người ta dối
trá một cách trơn tru, không chút áy náy.
"Ai đứng về phía sự thật thì nghe
tiếng tôi".
Chúng ta không nghe được tiếng Chúa,
chỉ vì ta sợ sự thật, sợ nói thật, sợ sống thật, như Philatô muốn giữ ghế ngồi
hơn là cứu người vô tội.
Lương tâm bị băng hoại, lòng tin vào
nhau bị đổ vỡ. Cuối cùng chính chúng ta là nạn nhân của mình, của một thế giới
xây dựng trên những đồ giả.
Mừng lễ Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ,
ta đặt mình trước một thế giới bề bộn bao vấn đề: ô nhiễm môi trường, tăng dân
số, aids, thất nghiệp, ma tuý, mafia, tham nhũng, nghèo đói, lạc hậu, bất
công... Thế lực của sự dữ và tội ác có vẻ thắng thế, ích kỷ, hận thù, bạo lực
tung hoành khắp nơi. Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Chúa mau đến, mà còn
đưa tinh thần Đức Kitô vào mọi cơ cấu trần gian: chính trị, xã hội, nghệ thuật,
giáo dục, thể thao, giải trí...
Càng làm cho sự thật và tình yêu thắng
thế thì Nước Chúa càng lớn dần lên cho đến lúc thành tựu viên mãn vào ngày tận
thế.
Xin Đức Giêsu làm vua cả vũ trụ loài
người nhờ làm vua tiểu vũ trụ là cõi lòng từng Kitô hữu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các bạn trẻ thường có một thần tượng để
tôn sùng. Có người mê vua bóng đá Pelé hay vua nhạc rock Michael Jackson... Bạn
có ai là thần tượng không? Bạn đã sống như thần tượng đó ra sao?
Vũ trụ vật chất là quà tặng của Thiên
Chúa cho con người, bạn nghĩ gì về nạn ô nhiễm ngày càng gia tăng trên trái đất
do chặt cây, đốt rừng, nước thải, bụi khói, tiếng ồn...?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu ngày mai Chúa quang
lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng. Thế giới này còn bao điều khiếm
khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu
muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với
Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để
ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin
vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm
chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
15. Vương quyền tình
yêu – Lm. Hồng Phúc.
"Ta là Vua..."
Lịch sử nước Anh có kể rằng hồi ấy,
nước Anh có một ông vua đạo đức tên là Canut III. Ông là vua của một cường
quốc, nên xung quanh ông hay có những quan nịnh thần ton hót. Một hôm trong một
buổi triều yết, các nịnh thần tâu: "Thánh Thượng" là vua trên hết các
vua, là chúa trên các chúa, có quyền trên mặt đất và trên biển cả. Nghe vậy nhà
vua muốn cho họ một bài học, liền mời tất cả đi ra ngoài biển. Đứng trước đại
dương, ông tuyên bố: Ta là vua trên hết các vua, có quyền trên đất liền và trên
biển cả. Vậy ta truyền cho sóng biển không được trờ tới. Nhưng nước vẫn dâng
lên, sóng vẫn trờ tới làm ướt áo cẩm bào của vua cũng như triều thần. Nhà vua
đi vào trong một thánh đường đến trước tượng chuộc tội, lấy chiếc vương miện
đội lên đầu Chúa và nói: "Lạy Chúa, chỉ có Chúa là Vua trên hết các Vua,
là Chúa trên hết các Chúa".
Hôm nay, Giáo hội kêu mời chúng ta tôn
vinh và nhìn nhận Chúa là Vua, Vua cá nhân, gia đình và xã hội. Giáo hội chọn
ngày Chúa nhật sau hết của năm Phụng vụ, để tôn vinh Chúa, như chóp đỉnh của vũ
trụ. Trong cả năm, chúng ta mừng các mầu nhiệm về Chúa, mừng sự toàn thắng của
các thánh. Nhưng khi chúng ta ca ngợi sự toàn thắng của các Thánh là chúng ta
ca ngợi sự toàn thắng của Chúa nơi các Thánh. Nên để kết thúc năm Phụng vụ,
Giáo hội mời chúng ta hướng về Chúa Giêsu là trung tâm của vũ trụ, là Đấng
Thánh, Đấng qui tụ vạn vật để trao lại cho Đức Chúa Cha: "Mọi sự đã nhờ
Ngài mà có và không Ngài thì không gì đã thành sự" (Ga 1,3). Ngài là Vua vũ
trụ.
Trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã xác
định: "Ta là Vua". Ngài là Vua vì Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng tạo
thành vạn vật. Ngài là Vua vì đã chiến thắng tội lỗi và ma quỉ, nhờ sự chết và
sự sống lại vinh quang. Nhưng Ngài tuyên bố rõ ràng: Nước Ngài không phải ở trần
gian này. Vương quyền của Ngài không dựa trên vũ khí thế lực. Vương quyền của
Ngài dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại vang bóng một
thời, rồi đi vào quên lãng và điêu tàn sụp đổ. Còn Ngài, Ngài vẫn chiến thắng,
vẫn hiển trị trên các tâm hồn. Không ai đòi hỏi như Ngài dám đòi hỏi, nhưng
cũng không ai được yêu mến như Ngài được yêu mến. Chúa là Vua các Thánh Đồng
Trinh, là Vua các Thánh Tử Đạo, là Vua mọi tâm hồn.
Đấng là Vua vinh hiển ấy, tiên tri
Danien đã nhìn thấy "như Con Người đến trong đám mây trời... quyền năng
vĩnh cửu" (Dan 7,13), và Gioan, cụ già trên đảo Patmos đã được thị kiến:
"Đấng là Alpha và Ômêga là nguyên thủy, là cùng tận, Đấng đang có, đã có
và sẽ đến. Đấng là Thiên Chúa" (Kh 1,8). "Ngài làm cho chúng ta thành
một vương quốc tư tế, để phụng sự Đức Chúa Cha, là Thiên Chúa và Cha của
Ngài".
Christus Vincit: Chúa Kitô toàn thắng.
Christus Regnat: Chúa Kitô cai quản.
Christus Imperat: Chúa Kitô thống trị
muôn đời. Amen.
16. Hoàng tử và người
nghèo.
Mark Twain viết trong cuốn "The
Prince and the pauper, Hoàng tử và người nghèo" về hai người con trai sinh
ra tại Anh quốc. Người con trai thứ nhất thì được sinh ra trong hoàng gia và
trở nên Hoàng Tử Wales. Sự chào đời của Hoàng Tử được diễn tả: "Anh quốc
đã chờ đợi, hy vọng, và cầu nguyện cho ông ấy, và bây giờ thì ông ấy đã chào
đời. Tất cả mọi người đều vui mừng... Mọi người giàu cũng như nghèo đều nghỉ lễ
ca hát tưng bừng."
Cùng ngày đó, một cậu bé trai khác tên
là Tom Canty đã chào đời trong một gia đình nghèo túng và lụp xụp tại London:
"Nó là một đứa bé mà không ai muốn." Không một ai trông đợi sự ra đời
của nó. Không một ai hy vọng hoặc cầu nguyện cho nó. Khi nó chào đời thì không
ai ca hát hoặc mừng rỡ cho nó.
Cả hai đều lớn lên trong hai hoàn cảnh
khác nhau. Cả hai đều lớn lên với cái nhìn khác nhau về thế giới. Tuy nhiên,
điều giống nhau giữa hai đứa bé đó là chúng đều lớn lên trong vui tươi, rạng
rỡ, và hăng hái mà chúng ta có thể nhìn thấy ở nơi những đứa con trai khác.
Một ngày nọ, Tom Canty đứng ngoài cửa
cung điện. Nó rất ngạc nhiên do sự huy hoàng của cung điện. Khi nó tiến đến gần
cánh cửa để có thể nhìn cho rõ hơn thì bất chợt nó bị hai tên lính bắt nó và
quăng xuống đất.
Cùng một lúc đó, vị hoàng tử trong cung
nhìn thấy thảm cảnh của Tom liền chạy đến bênh đỡ. Sau đó, các tên lính canh
rất ngạc nhiên khi họ nhìn thấy hoàng tử đã mời Tom vào trong cung điện để thăm
quan.
Sau đó, hoàng tử nảy ra một ý kiến là
tráo đổi cuộc sống của nhau. Hoàng tử thì mặc quần áo rách rưới của Tom, và đi
thang lang qua các ngõ hẻm nghèo nàn với những người nghèo khổ. Còn Tom thì
mang bộ đồ hoàng gia và vàng ròng.
Sau một thời gian, khi hoàng tử trở về
hoàng cung thì bị lính chận lại. Khi hoàng tử cố gắng kể về thân phận thật sự
của mình họ không tin và đã tóm cổ hoàng tử giam trong nhà tù.
Để rút ngắn câu truyện, khúc kết của
câu truyện đó là mọi sự đều được sáng tỏ. Tuy nhiên, trong tiến trình đó, một
điều quan trọng đã xảy ra. Sau cái lần đi vào những nơi nghèo khổ, hoàng tử đã
học được bài học đầu tiên thế nào là sống nghèo khổ, thế nào là bị chà đạp, thế
nào là bị đối xử bất công. Sau đó, hoàng tử đã được trở thành một ông vua. Một
ông vua nhân từ và được nhiều người mến chuộng nhất trong suốt thời kỳ hoàng
tộc nước Anh.
Câu truyện Hoàng Tử và Người Nghèo thì
cũng giống như câu truyện về Chúa Giêsu và mỗi người chúng ta. Chúng ta những
đứa trẻ nghèo khổ, còn Chúa Giêsu là hoàng tử, được tiền định là Vua của tất cả
tạo vật.
Chúa Giêsu đã thay đổi chỗ của mình với
chúng ta. Ngài thay đổi quần áo hoàng tộc thiên tính của mình để đổi lấy những
áo quần rách rưới của thân phận con người chúng ta.
Giống như hoàng tử trong câu truyện của
Mark Twain, Chúa Giêsu đã học được bài học thế nào là kiếp sống con người nghèo
nàn và bị chà đạp.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu khác với hoàng tử
là Ngài đã chịu chết trong tay loài người, sống lại từ cõi chết, và trở nên Vua
các vua trên khắp vũ trụ.
Đây là một mầu nhiệm cao cả mà chúng ta
mừng kính Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Chúng ta mừng kính Chúa Giêsu, Vua của toàn
thể vũ trụ, thông hiểu được hoàn cảnh của chúng ta bởi vì Ngài đã trở thành một
người trong chúng ta và cảm nghiệm được những gì mà chúng ta cảm nghiệm.
Lạy Chúa, chúng con suy tôn Chúa là Vua
Vũ Trụ, Vua gia đình chúng con, Vua lòng chúng con.
17. Một giải pháp cho
nền hòa bình thế giới.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vương quốc Fanxica là một đất nước thái
bình, thịnh vượng. Nhà vua và hoàng hậu lại có diễm phúc sinh được hai hoàng tử
khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn và có khí phách dũng cảm của bậc anh hùng.
Hai vị hoàng tử nầy lại thương yêu hoà hợp với nhau, đêm ngày gắn bó với nhau
như hình với bóng.
Trong khi đó, vua nước láng giềng tên
là Faroux, là một người cực kỳ nham hiểm và ác độc, nuôi mối căm thù truyền
kiếp với vua Fanxica. Lòng căm thù của ông lại càng dâng cao khi thấy vua
Fanxica có hai hoàng tử khôi ngô tuấn tú, vũ dũng hơn người, trong khi mình thì
không có lấy một mụn con. Vì thế, ông rắp tâm hạ sát hai vị hoàng tử kia cho
bằng được.
Vua Faroux biết hai vị hoàng tử thường
hay vào rừng săn bắn, nên vua cho người mai phục, giăng bẫy bắt được hoàng tử
em là Faram.
Sau khi hay tin em mình mất tích trong
rừng, hoàng tử anh một mình một ngựa xông xáo vào rừng tìm em. Không ngờ chính
anh cũng bị vua Faroux giăng bẫy bắt được.
Tên vua độc ác giam hai anh em vào hai
ngục tối biệt lập nên hai hoàng tử không hề hay biết gì về số phận của người
kia.
* * *
Theo thông lệ hàng năm, vào dịp sinh
nhật của vua, vua cho tổ chức những cuộc quyết đấu giữa những con ác thú, để
chúng phanh thây xé xác nhau làm trò vui cho quan quân và dân chúng.
Năm nay, thay vì cho ác thú đấu nhau,
nhà vua ác độc bắt hai tù nhân vạm vỡ khoẻ mạnh, mỗi người mang một bộ da sư tử
trên mình, đeo thêm mặt nạ sư tử, và buộc họ phải quyết đấu cho đến khi một
trong hai người phải chết. Ai sống sót sẽ được trả tự do.
Cả đấu trường hò la vang dậy khi quân
lính dẫn hai đấu thủ mặc lốt sư tử bước ra. Với thanh mã tấu trên tay, hai con
người lốt sư tử xông vào nhau chiến đấu vô cùng ác liệt như hai ác thú say mồi.
Đám đông cổ võ hò la vang trời dậy đất.
Cuộc chiến kéo dài hơn cả tiếng đồng hồ
mà vẫn bất phân thắng bại. Cả hai đấu thủ mệt nhoài, mình mẩy hai người đều đầy
thương tích máu me, nhưng không ai chịu nhường ai. Mỗi người đều dốc hết toàn
lực để hạ đối thủ, để dành sự sống, để được trả tự do, để khỏi làm nô lệ suốt
đời. Chỉ có chiến thắng hay là chết!
Thế rồi đấu thủ cao người hơn lao tới
như báo vồ mồi, vung đao chém xoạc mặt đối phương, làm rơi mặt nạ sư tử, để lộ
ra một khuôn mặt... rất thân quen!
Anh kinh hoàng tột độ! Thanh mã tấu
trên tay rơi xuống. Anh giật bỏ mặt nạ của mình ra. Hai người ồ lên kinh ngạc.
Họ bàng hoàng nhận ra nhau. Không ai xa lạ, họ chính là hai anh em ruột thịt,
hai hoàng tử con vua Fanxica bị vua Faroux bắt cóc.
Họ lao vào nhau, ôm chầm lấy nhau khóc
nức nở. Họ đâu ngờ rằng đối thủ mà họ quyết tâm tiêu diệt cho bằng được lại là
người anh em rất thân yêu.
Nước mắt tuôn tràn hoà chung với máu.
Hai con người bầm dập, mình mẩy đầy máu me ôm nhau khóc tức tưởi. Khóc vì đã
coi nhau như kẻ thù, đã đấu tranh với nhau như ác thú; khóc vì đã gây cho nhau
bao vết thương đau. Họ vẫn đứng đó, ôm nhau khóc tức tưởi trước hàng ngàn cặp
mắt bàng hoàng kinh ngạc của mọi người.
* * *
Hình ảnh hai anh em ruột thịt giao đấu
với nhau một mất một còn trong câu chuyện trên đây là một minh hoạ cho tấn thảm
kịch đau thương vẫn diễn ra hằng ngày giữa cộng đồng nhân loại. Ngay giờ đây,
nhiều nơi trên thế giới cũng đang xảy ra những cuộc chiến tranh huynh đệ tương
tàn y như thế.
Chính ma quỷ thù nghịch với Thiên Chúa,
cũng giống như ông vua Faroux độc ác kia, đã trùm lên con người lốt sư tử, lốt
chó sói. "Người là chó sói của người - homo homini lupus". Vì thế,
con người không còn nhận ra nhau là anh em cùng loài; mà xem người khác như là
kẻ thù cần tiêu diệt để dành lấy sự sống cho mình.
Đứng trước thảm cảnh đó, mọi cố gắng
xây dựng hoà bình của con người, của các tổ chức quốc tế đều không thể dập tắt
hận thù và chiến tranh.
Khi hai bên đã say máu chiến tranh, nếu
có người tước súng đạn của họ đi, thì đôi bên sẽ chiến đấu với nhau bằng dao
rựa, mã tấu... Nếu tịch thu dao rựa, mã tấu, thì đôi bên sẽ dùng gậy gộc gạch
đá để huỷ diệt nhau; Có tịch thu hết gậy gộc gạch đá thì đôi bên có thể tấn
công nhau bằng nắm đấm, dùng răng để cắn xé nhau...
Vậy phải làm thế nào để chấm dứt chiến
tranh, tái lập hoà bình cho nhân loại?
Muốn làm cho đôi bên tự động ngưng
chiến và làm hòa lại với nhau thì giải pháp tốt nhất không phải là tước bỏ khí
giới mà là khai hoá cho đôi bên biết rằng: đối thủ của họ không là ai khác mà
chính là người anh em ruột thịt con cùng một cha.
Chính Vua Giêsu đến thế gian để thực
hiện điều đó. Ngài tuyên bố trước toà Philatô: "Tôi đã sinh ra và đã đến
thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật". Sự thật quan trọng
nhất của Chúa Giêsu là soi sáng cho mọi người biết Thiên Chúa là Người Cha rất yêu
thương và tất cả nhân loại là con cái của Ngài và là anh chị em ruột thịt với
nhau. Với sự thật nầy, mặt nạ da thú đã bị tước bỏ đi, để lộ khuôn mặt rất thân
thương của người anh em.
Mừng lễ Chúa Giêsu Vua, chúng ta hãy
cầu xin cho mọi người trên khắp thế giới được đón nhận sự thật cao đẹp do Chúa
Giêsu mang đến. Chỉ có sự thật tuyệt vời nầy mới có thể giải thoát nhân loại
khỏi hận thù chiến tranh, khỏi cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt. Chỉ có
sự thật nầy mới là động cơ xây dựng thế giới trở thành một đại gia đình huynh
đệ.
18. Phục vụ.
Thế nào là một ông vua?
Dưới chế độ quân chủ thì nhà vua là
người nắm giữ mọi quyền hành trong một nước. Với quyền hành lớn lao như thế,
nhà vua dễ trở thành độc tài, bắt thần dân phải cung phụng cho mình với nếp
sống xa xỉ và phóng túng.
Ngày nay, mặc dù chế độ quân chủ đã cáo
chung tại hầu hết các nước, thế nhưng người ta vẫn tiếp tục dùng danh từ vua để
chỉ một người thành công vượt bực trong một phạm vi nào đó, chẳng hạn như vua
bóng đá, vua dầu lửa, vua xe hơi, vua leo núi...
Những ông vua thần tượng này thường
được quần chúng ngưỡng mộ vì tài năng, vì giàu có, nhưng lắm khi đời sống luân
lý của họ lại khiến chúng ta phải vỡ mộng.
Đành rằng trong lịch sử có những bậc
minh quân, thương dân như thương con. Thế nhưng, có nên gọi Đức Kitô là vua khi
nhân loại đã bước qua thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Lần kia, sau phép lạ bánh hóa nhiều,
dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, để Ngài phất cờ giải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị của đế quốc La mã, nhưng Ngài đã trốn lên núi một mình.
Còn đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, khi bị
Philatô tra hỏi: - Vậy ông là vua ư?
Đức Kitô đã không từ chối và cũng chẳng
xác nhận. Ngài chỉ bảo: - Chính quan nói rằng tôi là vua.
Thế nhưng rất nhiều lần Ngài đã đề cập
đến nước Ngài. Nếu như chúng ta có gọi Ngài là vua, thì chắc chắn Ngài sẽ là
một vị vua rất đặc biệt, không giống với bất kỳ vua chúa trần gian nào.
Thực vậy, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem,
hoạt động thì nay đây mai đó, không có lấy được một hòn đá tựa đầu và sau cùng
chết đi trên thập giá. Và như thế Ngài là một vị vua không ngai vàng, không
cung điện, không binh đội, không vương trượng. Quả thực Ngài là một vị vua
không giống ai.
Nét đặc sắc của vương quyền nơi Ngài
chính là tinh thần phục vụ:
- Con Người đến để phục vụ và hiến mạng
sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Thày sống giữa anh em như kẻ hầu bàn.
Ngài làm vua bằng cách cúi xuống để rửa
chân cho các môn đệ. Và hành động phục vụ cao cả nhất chính là cái chết trên
thập giá. Nhưng cũng chính nhờ cái chết này mà Ngài được tôn vinh:
- Ngày nào Thày bị treo lên khỏi đất,
Thày sẽ kéo mọi sự lên cùng Thày.
Và thánh Phaolô đã xác quyết:
- Ngài đã vâng phục cho đến chết và
chết trên thập giá, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên, tặng ban một danh hiệu
vượt trên mọi danh hiệu.
Với chúng ta thì sao? Một khi tuyên
xưng Đức Kitô là vua, chúng ta cũng phải thực thi tinh thần phục vụ của Ngài.
Đây cũng chính là điều Ngài mong muốn:
- Nếu các con gọi Ta là Thày và là Chúa
mà Ta còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Nơi khác Ngài cũng xác quyết:
- Vua chúa trần gian thì lấy quyền hành
mà thống trị họ. Còn các con thì không như thế, ai trong các con muốn làm lớn,
thì hãy trở nên rốt hết và làm tôi tớ cho mọi người.
Chính nhờ tinh thần phục vụ này mà
chúng ta trở nên ánh sáng, trở nên muối mặn, trở nên men bột, hầu góp phần làm
cho nước Chúa được trị đến.
19. Làm chứng cho sự
thật – Lm. Tạ Duy Tuyền.
Có 4 bà mẹ ngồi tán ngẫu với nhau. Các
bà huyên thuyên nói về những đứa con của mình. Một bà khoe:
- Thằng Tí nhà tôi thế nào lớn lên cũng
làm kỹ sư. Hễ nhà có món đồ nào mới mua về, thì nó cũng tìm cách tháo tung ra
để coi máy móc bên trong chạy ra sao.
Bà thứ nhì nói:
- Thằng Tèo nhà tôi, đoán chắc sau này
nó sẽ trở thành luật sư. Ai nói gì nó cũng cãi cho bằng được!
Bà thứ ba than:
- Thằng con tôi có lẽ cũng sẽ trở thành
họa sĩ, vì tường nhà không có chỗ nào mà không có nốt vẽ của nó!
Bà cuối cũng góp chuyện, sau khi suy
nghĩ:
- Thằng nhỏ nhà tôi số nó sẽ trở thành
bác sĩ thôi. Chà! Hễ có việc gì kêu nó thì chả bao giờ nó tới ngay cho người ta
nhờ!
Vâng, mong con thành đạt là ước mơ
chung của cha mẹ. Người mẹ nào mà không mong cho con mình mau khôn mau lớn.
Người cha nào mà không mong cho con mình mai sau công thành danh toại. Nhiều
gia đình chấp nhận nghèo đói để có tiền cho con ăn học. Nhiều gia đình sẵn sàng
bất chấp mọi phương tiện như: biếu xén, qùa cáp, chạy chọt cho con được một thứ
hạng, một bằng cấp cho dù là ảo hay không thực lực với tài trí con mình. Xem ra
con người ngày nay nhắm đầu tư vào trí hơn là đức. Câu khẩu hiệu "tiên học
lễ, hậu học văn" đã lỗi thời hay chỉ còn là một sáo ngữ không còn phù hợp
với văn minh con người hôm nay.
Thiếu đầu tư vào giáo dục đức dục con
người như đang vong thân, xa rời với xã hội và tự khép mình trong hoang đảo cô
đơn và lạnh lùng. Phát triển trí tuệ nhưng nhân đức không được trau dồi cân
xứng, người ta sẽ dễ dàng đối xử với nhau "có lý mà không có tình".
Mọi quan hệ giữa người với người đều phải hạch toán, lời mất, được thua. Con
người hôm nay tính toán sòng phẳng với nhau hơn là sống tương thân tương ái,
"tối lửa tắt đèn có nhau" mà chỉ là "đèn nhà ai - nhà ấy
rạng" hay an phận thủ thường theo chủ nghĩa "mackeno" cho xong.
Một xã hội đang chuyển mình như thế,
liệu người kytô hữu chúng ta có dám lội ngược dòng để sống theo đòi hỏi của Tin
mừng hay không? Tin mừng đòi hỏi chúng ta hãy yêu tha nhân như chính mình và
sẵn lòng phục vụ tha nhân. Chính Đức Giê-su Ngài đã đến không phải để được phục
vụ mà là để cúi mình phục vụ tha nhân. Chính Ngài đã chấp nhận tan biến đời
mình để nên nguồn sống cho nhân trần.
Hôm nay, lễ suy tôn Chúa làm Vua, Giáo
hội nhắc nhở chúng ta, là Kytô hữu tức là công dân của Nước Thiên Chúa chúng ta
được mời gọi xây dựng nước Chúa ở trần gian bằng sự hiệp nhất yêu thương nơi
những người con của Chúa có chung một Cha trên trời. Sự hiệp nhất đó phải được
xây dựng từ nơi gia đình, nơi xứ đạo chúng ta. Phải xóa bỏ những tị hiềm, ghen
ghét, những bất công, hận thù trong cuộc sống giữa người với người. Mỗi người
Kitô hữu khi lãnh nhận bí tích rửa tội còn được mời gọi làm chứng cho sự thật
giữa thế gian. Điều đó còn mời gọi chúng ta phải cùng nhau loại trừ điều gian
dối, chua ngoa và xây dựng một nền công lý và sự thật giữa thế gian còn quá
nhiều bất công và gian dối. Sự hiệp nhất yêu thương còn mời gọi chúng ta sống
tương thân, tương ái với nhau, sống nâng đỡ và chia sẻ vui buồn với nhau trong
tình nghĩa anh em một nhà.
Vâng, cuộc đời hôm nay có lẽ sẽ vui hơn
nếu người ta biết sống chân thành với nhau. Cuộc sống này sẽ bớt ưu sầu nếu
người ta thôi nghi ngờ và kết án lẫn nhau. Cho dù cuộc đời có thay trắng đổi
đen. Con người có lấy ân báo oán, nhưng người kytô hữu không vì thế mà đánh mất
bản tính của mình là sống thánh giữa đời để kiến tạo một nền công lý và hòa
bình trên mặt địa cầu này. Vì chúng ta vẫn mong chờ một ngày kia Nước Chúa sẽ
trị đến và Ngài sẽ ngự đến trên mây trời để ban thưởng hạnh phúc trường tồn cho
những ai thành tâm thiện chí sống và thực thi giáo huấn của Ngài.
Vì thế, dù rằng chúng ta đang sống
trong một thế giới thiếu vắng tình người, một thế giới đầy bóng tối của đam mê
lầm lạc. Chúng ta phải can đảm thắp lên giữa dòng đời này. Ánh sáng của con
người ngay thẳng, không gian tham, xảo quyệt. Ánh sáng của bác ái yêu thương để
nhạy cảm trước cảnh khốn cùng của tha nhân. Ánh sáng của bao dung để cảm thông
nâng đỡ nhau hầu xoá bỏ hận thù, chiến tranh. Ánh sáng ấy cần tỏ hiện trong
từng gia đình. Nơi mà các thành viên cần phải là ánh sáng để dẫn dắt nhau. Nơi
gia đình không thể mất ánh sáng niềm tin, tình yêu và tha thứ. Cần có ánh sáng
niềm tin để mọi người tin tưởng nhau. Gia đình cũng cần có ánh sáng tình yêu,
để mọi người biết phục vụ lẫn nhau và xây dựng hạnh phúc cho nhau. Gia đình
cũng cần sự tha thứ để cảm thông và nâng đỡ nhau, hầu giúp nhau sống đúng phẩm
giá làm người và làm con Thiên Chúa.
Ước gì mỗi người tín hữu chúng ta biết
xây dựng Nước Chúa ở trần gian bằng cuộc sống chứng nhân cho tình yêu, cho chân
lý và công bình giữa thế giới hôm nay. Amen.
20. Vua sự thật.
Chúa Giêsu có phải là vua thật không?
Ngài là vua theo nghĩa nào? Bài Tin Mừng trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó
trong phiên tòa Rôma xử án Chúa Giêsu. Người xét xử là tổng trấn Philatô, là
ông quan của đế quốc Rôma đặt cai trị ở Do thái, vì lúc ấy dân Do thái đang ở
dưới quyền đô hộ của người Rôma. Bị cáo là Chúa Giêsu, do người Do thái điệu
Chúa đến đây để xin Philatô xét xử.
Philatô hỏi Chúa: "Ông có phải là
vua dân Do thái không?". Để trả lời, Chúa hỏi lại: "Ngài tự ý nói
điều ấy hay những người khác đã nói với ngài về tôi?" Hỏi như vậy là Chúa
muốn vạch trần thâm ý của Philatô. Nếu Philatô tự ý hỏi như vậy tức là Philatô
muốn hỏi: "Anh có phải là tay lãnh tụ chính trị, dám chống lại chính quyền
Rôma không?". Đối với Philatô, là vua Do thái chỉ có nghĩa như vậy. Mà nếu
như thế thì câu trả lời của Chúa là "không". Ngài không phải là vua
theo nghĩa đó. Còn nếu câu Philato hỏi là do các nhà lãnh đạo Do thái nhắc nhở
cho, thì có nghĩa là Chúa Giêsu là vị cứu tinh của Do thái như Thiên Chúa đã
hứa với dân tộc họ. Nếu như thế thì câu trả lời của Chúa là "có".
Ngài thực sự là vua. Nhưng không phải chỉ là vua của dân Do thái mà còn là vua
của mọi người. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu là vua tâm linh, là vua lòng mọi người,
chứ không phải là vua theo nghĩa thông thường trần gian. Vì thế, vương quyền
của Chúa có tính cách thiêng liêng chứ không có tính cách trần thế, không dùng
phương tiện, sức mạnh, bạo lực của trần gian. Trái lại, phương tiện thực thi
vương quyền của Chúa là nhập thể cứu chuộc và rao giảng sự thật. Chính chúa đã
khẳng định với Philatô: "Tôi là vua, nước tôi không thuộc về thế gian này.
Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai
đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi".
Như vậy, chúng ta có thể quả quyết:
Chúa Giêsu là vua. Ngài là vua sự thật. Sự thật là gì? Chính Philatô đã hỏi
Chúa Giêsu điều đó. Chúa không đáp lại bằng lời nói mà bằng chính việc Ngài
đang thực hiện trước tổng trấn. Việc đó là thực hiện việc của tình yêu cứu độ.
Ngài vô tội, nhưng vì yêu thương nhân loại, đã cam lòng chịu chết để đền tội
cho nhân loại. Sự thật là như thế. Đó là tình yêu cứu độ. Đó là sự thật mà Chúa
muốn làm chứng và muốn nói tới. Và giờ đây, nhìn chung quanh trong nhà thờ này:
các ảnh tượng Chúa, chúng ta cũng thấy sự thật cứu độ là như vậy: Chúa Giêsu
trên cây thánh giá, Chúa Giêsu trong phép Mình Thánh, Chúa Giêsu trong chặng
đường thánh giá... Tất cả đều nói lên tình yêu cứu độ.
Tình yêu ấy đã được ban cho con người,
chỉ cần con người đón nhận tình yêu ấy bằng một tâm hồn khiêm tốn, khao khát
tình yêu cứu độ. Và bằng tâm hồn mở rộng ra, yêu thương bác ái đối với những
người chung quanh. Sự thật cứu độ như vậy, nói thì đơn sơ dễ dàng, nhưng thực
hiện thật là phức tạp và khó khăn, đòi hỏi nhiều cố gắng của chúng ta. Bởi vì
cuộc sống tất bật, chật vật, đầu tắt mặt tối, đầy lo toan khốn khổ, dễ đẩy
chúng ta vào thái độ ích kỷ, nhỏ nhen, thấp hèn. Chúng ta không dễ nhường nhịn
nhau, hòa thuận với nhau, mà ngược lại, muốn lấn lướt người, muốn được phần
hơn, muốn loại trừ nhau, nhiều khi dùng cả những thủ đoạn độc địa, thô bỉ nữa.
Như vậy, chúng ta chưa sống sự thật cứu độ, chưa rao giảng sự thật cứu độ, chưa
làm chứng cho sự thật cứu độ. Điều đó có đúng không?
Chúng ta tôn xưng Chúa Giêsu là vua,
thì chúng ta là dân của Ngài. Chúng ta tôn xưng Chúa là vua sự thật, thì chúng
ta là dân sự thật của Ngài, chúng ta phải làm sáng tỏ sự thật ấy. Cuộc sống
chúng ta có rất nhiều dịp, nhiều lúc phải quyết định chấp nhận hay từ khước,
nói có hay không dứt khoát: có thì nói có, không thì nói không. Một khi chúng
ta trả lời "có" cho một người, tức là chúng ta trả lời
"không" cho người khác. Khi chúng ta trả lời "có" cho Thiên
Chúa, là chúng ta trả lời "không" cho ma quỉ cám dỗ. Không thể có
trung lập giữa không và có, giữa Chúa và ma quỉ, giữa ánh sáng và bóng tối.
Theo Chúa là phải có một quyết định, một lập trường, một triết lý sống thực
hành thánh thiện, ngay thẳng, trung thực, chứ đừng ăn không nói có, lật lọng,
dối trá, thay trắng đổi đen.
Nói rõ hơn, chúng ta phải tôn trọng sự
thật: phải giữ thành thật trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Không được làm
chứng dối, thề gian, bỏ vạ, cáo gian, đổ tội cho người khác, vu khống người ta.
Không được xét đoán vô căn cứ, kết tội khi chưa đủ bằng chứng, cả khi nói những
lời gây thiệt hại danh dự của người khác... cũng đều lỗi phạm sự thật. Can đảm
biện hộ cho sự thật khi cần đến và có sự thật buộc chúng ta phải giữ kín.
Chúng ta hãy nhớ: một người sống trung
thực, chân thành, bác ái, yêu thương giữa một xã hội đầy dẫy những lừa lọc,
gian dối, ích kỷ, ti tiện... có lẽ sẽ bị đánh giá là một người không giống ai,
là một người lội ngược dòng nước cuốn. Nhưng chính việc lội ngược dòng, chính
việc sống trung thực, yêu thương lại chính là thánh giá mà mỗi người cần phải
vác hàng ngày. Chúng ta phải trở nên muối đất, trở nên ánh sáng thế gian bằng
cuộc sống chứng nhân trung thực cho Chúa Giêsu Kitô.
21. Trung tín.
Chúng ta hẳn đã nghĩ rằng chỉ có các
dân tộc sơ khai và trong quá khứ xa xôi mới tôn thờ ngẫu tượng. Sự thật không
phải như thế. Con người hiện đại cũng có các ngẫu tượng của họ. Và họ tôn thờ
các ngẫu tượng ấy như thế nào. Tiền bạc là ngẫu tượng phổ biến nhất hôm nay.
Nhưng cũng có những ngẫu tượng khác: tài sản, lạc thú, thành công, danh vọng,
quyền lực... Sự tôn thờ thần tượng khá nhất là dẫn người ta đến một đời sống
phù phiếm, còn tệ nhất là một đời sống mất phẩm cách, đê tiện. Nhưng tai hại to
lớn nhất mà sự tôn thờ ngẫu tượng gây ra là nó làm cho người ta quên đi Thiên
Chúa chân thật.
Người ta có thể lấy mình làm ngẫu
tượng. Các lãnh tụ Cộng sản lấy chính mình làm ngẫu tượng. Một trong những đặc
trưng của chủ nghĩa cộng sản là "tôn thờ lãnh tụ". Các lãnh tụ đặt
chính mình lên bệ thờ. Bạn quay về hướng nào, cũng thấy những hình ảnh, tranh
tượng của họ (Chúng ta thấy điều này ở I-rắc với Sadam Hussein). Khi chủ nghĩa
cộng sản sụp đổ nhiều bức tượng như thế đã bị giật sập và đập vỡ. Những quái
vật ấy, những thần tượng ấy đồng nghĩa với sự đàn áp và khủng bố.
Trong lúc mà những bức tượng bị đổ
nhào, tạp chí Time phát hành một bức ảnh nhỏ làm xúc động. Bức ảnh được chụp ở
Ukraina, cho thấy một nhóm dân thường tụ họp cầu nguyện xung quanh một bàn thờ
đơn sơ ở một nơi công cộng. Trên bàn thờ, người ta đặt một tượng bán thân của
Đức Kitô. Bức ảnh này nói lên tất cả. Sau khi các thần tượng bị lật nhào, Đức
Kitô được đặt vào đúng vị trí của Người. Thật tương phản biết bao giữa qui luật
của Người và qui luật của những thần tượng. Các thần tượng chỉ huy; Đức Kitô
mời gọi. Các thần tượng chỉ huy thông qua sợ hãi, Đức Kitô chỉ huy thông qua
tình yêu. Các thần tượng đem đến áp bức và chết chóc; Đức Kitô đem đến tự do và
sự sống. Không có gì đáng kinh ngạc khi chúng ta giữ lòng trung tín, trung kiên
với Người, điều mà chúng ta không làm đối với một người khác hoặc một cơ chế
trên trần gian.
Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu
đứng đơn độc và không vũ khí trước Philatô. Làm tổng trấn một tỉnh thuộc Lamã,
Philatô là một con người đầy quyền lực. Ông có hàng ngàn binh lính dưới quyền
ông. Và kia là Đức Giêsu – không có lấy một người lính để bảo vệ. Tuy nhiên,
Đức Giêsu là người cao cả hơn không ai sánh bằng. Và mặc dù Người có thể bị tổn
thương. Người là Đấng duy nhất chỉ huy làm chủ.
Quyền lực chính trị là khả năng ép buộc
những người khác làm theo ý muốn của người ta. Khả năng này chủ yếu là do một
địa vị như vua hoặc tổng thống. Nó không ở người chiếm giữ địa vị ấy. Quyền lực
chính trị không liên quan đến lòng tốt hoặc sự khôn ngoan. Nhiều người ngu ngốc
và xấu xa đã thực hành quyền lực ấy.
Mặt khác, quyền bính tinh thần hoàn
toàn thuộc về cá nhân và không liên quan đến khả năng ép buộc những người khác.
Người có sức mạnh tinh thần cao cả có thể giàu sang và đôi khi chiếm những vị
trí lãnh đạo, nhưng thông thường họ nghèo khó và không có quyền lực chính trị.
Chúng ta phải phân biệt giữa quyền bính
và ảnh hưởng, và đàng khác là quyền lực và sự chỉ huy người khác. Một số người
với quyền bính tinh thần cao cả nhưng hoàn toàn không có quyền lực và phần lớn
người có ảnh hưởng không cần kiểm tra những người mà họ có ảnh hưởng. Đức Giêsu
làm cho người ta cảm nhận sự hiện diện của Người một cách đơn giản bởi tính
cách của Người. Có một quyền bính thầm lặng trong mọi việc Người nói và làm.
Đức Kitô là niềm tin hy vọng của loài
người. Người cho chúng ta thấy Thiên Chúa là ai và làm cách nào để giữ Thiên
Chúa ở trung tâm đời sống chúng ta. Thiên Chúa không phải là một khuôn mặt xa
lạ và thờ ơ. Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời, Đấng gần gũi với chúng
ta, và chúng ta quan trọng và quí giá đối với Người.
Đức Kitô không đến để thiết lập một
quyền tối thượng chính trị nhưng để làm chứng cho chân lý về quyền tối thượng
của Thiên Chúa vĩnh cửu và trên toàn thể vũ trụ.
22. Danh hiệu.
Trong mọi danh hiệu mà chúng ta tuyên
xưng Đức Giêsu thì danh hiệu "Vua" xem ra không thích hợp nhất. Nó có
vẻ như một loại danh hiệu mà Người bác bỏ. Khi chúng ta nghĩ đến một ông vua,
chúng ta nghĩ ngay đến một ngai vàng, một vương miện, một cung điện, sự giàu
sang, quyền lực, vinh dự, một đoàn tùy tùng các tôi tớ, và dĩ nhiên một quân
đội.
Khi chúng ta nhìn vào Đức Giêsu, chúng
ta thấy gì? Không có ngai vàng, vương miện, cung điện, quân đội. Chúng ta thấy Người
đi bộ trên những con đường bụi bặm xứ Palestien với một nhóm môn đệ. Chen chúc
xung quanh Người là những người nghèo và người bệnh, những người tội lỗi và
những người bị gạt ra bên lề. Tóm lại, đó là những loại người mà ở trong vương
quốc trần gian phải đứng ngoài hoàng cung để ngó vào, còn hoàng cung thì khép
lại trước mắt họ.
Tuy vậy, danh hiệu "Vua" vẫn
thích hợp và có một ý nghĩa đúng đắn và chân thật với Đức Giêsu. Trên hết, nó
có nghĩa là thần tính của Người. Thiên Chúa là Chúa của mọi loài, Vua của vũ
trụ, Đấng mà mọi loài phải giữ lòng trung tín, Đấng cai quản và phán xét mọi
sự.
Nhưng ngay cả trên bình diện con người,
danh hiệu ấy cũng có ý nghĩa. Người là suối nguồn cao cả nhất của điều thiện
hảo, là ánh sáng và hy vọng trong một thế giới tối tăm. Đức Giêsu có một quyền
bính đạo đức và tinh thần vô tận bởi bản chất cao cả của Người. Sự hiện diện
của Người có thể thay đổi những người ở xung quanh Người vượt qua sự nhận biết
của họ. Thái độ của Người đối với những tội nhân là lòng nhân hậu và sự thuyết
phục hơn là lên án. Có những vĩ nhân làm mọi người cảm thấy họ nhỏ bé. Nhưng
một vĩ nhân thật sự làm cho mọi người cảm thấy họ cao cả. Trong ý nghĩa đó, Đức
Giêsu quả thật là Vua.
Một mặt chúng ta phải phân biệt giữa
quyền bính và ảnh hưởng, với quyền lực và sự chỉ huy ở mặt kia. Có người có
quyền bính tinh thần lớn nhất lại hoàn toàn không có quyền lực, và người có ảnh
hưởng lớn nhất thì không cần phải chỉ huy những người chịu ảnh hưởng của họ.
Điều này đúng với Đức Giêsu. Philatô có quyền lực trên dân; Đức Giêsu có ảnh
hưởng trên dân. Đức Giêsu làm cho người ta cảm thấy sự hiện diện của Người một
cách đơn sơ bởi tính cách của Người. Người có một quyền bính thầm lặng trong
mọi việc Người nói và làm.
Và Người đã nói về một Nước Trời – một
Vương quốc trên thiên đàng. Vương quốc của Người thể hiện mọi điều mà thế gian
này không thay thế được nhưng ngày một mờ nhạt. Đó là tất cả những gì đúng và
chân thật, đẹp đẽ, công bằng và thiện hảo. Vương quốc Người sẽ đến khi ý định
của Thiên Chúa đối với chúng ta và mọi tạo vật được thành tựu.
Mặc dù Vua Kitô không cần hoặc không
muốn có binh lính và xe tăng, Người lại cần có những chiến sĩ – những người sẵn
sàng "chiến đấu" cho công lý, sự thật, hòa bình. Có một cuộc chiến đã
tiến hành giữa vua bóng tối với vua ánh sáng, vua dối trá với vua chân thật,
vua xấu xa với vua nhân lành. Chúng ta ở về phía nào?
23. Xét xử.
Chính trong Chúa nhật sau cùng của năm
phụng vụ, chúng ta tự nhiên nghĩ về sự phán xét – Sự phán xét sau cùng và sự
phán xét mỗi người chúng ta sau cái chết. Tin Mừng hôm nay làm chúng ta hết sức
ngạc nhiên, bởi vì ở đây người bị xét xử là chính Đức Giêsu, Đấng mà chúng ta
gọi là Vua của chúng ta.
Đôi khi trong một phiên tòa, xảy ra
trường hợp bị cáo là chính quan tòa. Quả thật, đôi khi chính khái niệm công lý
bị xét xử.
Hãy lấy trường hợp của Louise Woodward,
một người Anh 19 tuổi mà ban bồi thẩm ở Massachusetts tin rằng năm 1998 cô đã
giết chết một em bé tám tháng tuổi, Matthen Eappen được giao cho cô chăm sóc.
Nhưng nhiều người theo dõi vụ án đã tin rằng công lý đã mắc sai lầm. Người ta
cho rằng cô đã giết em bé vì lầm thuốc. Nhưng đây chỉ là sự nghi ngờ hợp lý và
ban bồi thẩm khó có thể tìm ra bằng chứng giết người – Đoàn luật sư được kêu
gọi chống lại bản án cho cô.
Lúc đầu vụ án, Louise là một bị cáo.
Nhưng giờ đây mọi tập trung đều hướng về quan tòa Hiller Zobel, ông đã xem lại
bản án. Trong lúc chờ đợi quyết định của ông, nhiều câu hỏi được đặt ra về tính
cách của ông. Người ta nói rằng ông là người có tư tưởng độc lập. Một người
không bị dư luận làm dao động hoặc nhượng bộ một áp lực. Bản án ông đang đi đến
sẽ cho biết những nhận xét ấy về ông có đúng hay không. Giờ đây, chính quan tòa
Zobel đang được xét xử.
Sau khi cân nhắc cẩn thận Zobel thay
đổi bản án của ban bồi thẩm là giết người mức độ hai thành tội ngộ sát. Vâng
một em bé đã chết và Louise đã bị khiển trách về cái chết ấy. Nhưng cô không
phải là kẻ sát nhân. Và khi cô đã phục vụ mười bảy tháng trong nhà tù. Cô được
trả tự do. Trong con mắt của những quan sát viên trung lập, bản án của ông là
đúng đắn. Từ vụ đó, danh tiếng của quan tòa Zobel được nâng cao. Ông đã chứng
tỏ là một người quan tâm đến công lý với tất cả sự nhiệt thành.
Hình ảnh của cảnh tượng trong Tin Mừng
hôm nay. Đơn độc và không vũ khí, Đức Giêsu đứng trước Philatô trong vụ xử liên
quan đến mạng sống của Người. Người đã bị những người Do thái kết án gây ra xáo
trộn trong dân, và nói với họ đóng thuế cho xê-da là sai lầm.
Tuy nhiên, Philatô đã sớm thấy rằng Đức
Giêsu vô tội. Ông còn tuyên bố. Người vô tội trước nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng
các nhà lãnh đạo tôn giáo bắt đầu gây áp lực chính trị trên ông. Họ đe dọa sẽ
báo cáo lên Rôma việc ông trả tự do cho một người mà họ xác nhận là kẻ thù của
xa-dê.
Giờ đây sự chú ý chuyển từ Đức Giêsu
qua Philatô. Giờ đây Philatô là người bị xét xử. Ông có thấy rằng công lý phải
được thực hiện không? Đức Giêsu làm cho điều đó trở nên dễ dàng đối với ông
bằng cách bảo đảm rằng Vương quốc của Người không đe dọa Xê-da. Philatô đã đấu
tranh với điều đó. Nhưng rồi ông bắt đầu thỏa hiệp. Ông cố làm nguôi những kẻ
kết án Đức Giêsu. Trước hết bằng cách cho đánh Đức Giêsu bằng roi và rồi cho
thả Baraba. Khi điều này không làm họ thỏa mãn, ông nhượng bộ áp lực và trao
Đức Giêsu cho họ.
Philatô biết điều ông đã làm. Ông sai
đem nước để rửa tay với hy vọng vô ích được tẩy sạch khỏi những vết nhơ vì máu
vô tội. Sau cùng ông là người bị lên án. Chỉ cần một cái búng tay, ông có thể
trả tự do cho Đức Giêsu. Tuy nhiên vì sợ cho địa vị của mình, ông đã để cho một
người vô tội nhất bước đi trên mặt đất này để đến cái chết. Sự hèn nhát của
Philatô tương phản với sự can đảm thinh lặng của Đức Giêsu.
Ngày nay các nhà lãnh đạo chính trị
thường bị những áp lực tương tự. Các nhóm áp lực chi phối họ, đe dọa sẽ bãi
nhiệm họ nếu họ không theo đường lối của các nhóm đó. Cũng có lúc, tất cả chúng
ta sẽ bị áp lực. Tất cả chúng ta thấy mình bị xét xử.
Bởi cách chúng ta sống, đặc biệt bởi
thái độ của chúng ta đối với sự thật và công lý, chúng ta tuyên bố mình đứng về
phía Đức Kitô và vương quốc của Người, hoặc chúng ta giống như Philatô, đi theo
con đường trốn tránh và hèn nhát. Không thể có thái độ trung lập.
Ai xét xử Philatô? Ông là người xét xử
chính mình. Chúng ta cũng xét xử chính mình. Đừng chờ đến ngày phán xét cuối
cùng. Phán xét xảy ra ngay bây giờ. Nó diễn ra mỗi ngày, trong những điều nhỏ.
Trước khi kết thúc, người ta đã phán xét mình. Bằng trăm, ngàn cách họ đã chọn
theo hoặc chống chính mình hay anh chị em của mình, theo hoặc chống sự thật. Sự
phán xét của Thiên Chúa sẽ không hoàn thành một điều gì mới. Nó sẽ đưa ra hầu
như những việc đã làm.
Tuy nhiên chúng ta đừng bao giờ quên
rằng tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha ở trung tâm Vương quốc. Đức Giêsu
không nói để chúng ta sợ hãi ngày cuối cùng đó, mà chỉ để chúng ta sẵn sàng cho
ngày đó.
Vui biết bao khi thuộc về Đức Kitô và
vương quốc của Người. Hãy để đời sống chúng ta được thần khí Người cai trị và
bằng những phương thế nhỏ bé hãy làm việc để mở rộng nước của Người – một vương
quốc của chân lý và sự sống, sự thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và
hòa bình.
24. Suy niệm của JKN.
Đức Giêsu, Vua vũ trụ, cũng là vua mọi
tâm hồn, Ngài thống trị bằng tình yêu
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Giáo Hội lại tuyên xưng rằng
Đức Giêsu là Vua của vũ trụ? Ngài có quyền hành gì trên vũ trụ vạn vật?
2. Ngài là vua, nhưng có gì khác biệt
với những vị vua bình thường? Ngài cai trị bằng gì?
3. Ngài là vua của vũ trụ, nhưng điều
ấy ích lợi gì cho tôi, nếu Ngài không phải là vua tâm hồn tôi? Vậy tôi phải làm
gì để Ngài trở nên vua của tâm hồn tôi?
Suy tư gợi ý:
1. Chú giải đoạn Tin Mừng
Philatô hỏi Đức Giêsu: «Ông có phải là
vua dân Do Thái không?». Nếu người Do Thái hỏi Ngài câu ấy, thì câu ấy nghĩa
là: ông có phải là Đấng Mêsia không? Nhưng khi Philatô hỏi, thì câu ấy có nghĩa
là: ông có phải là kẻ cầm đầu xui giục dân Do Thái phản loạn không? Theo não
trạng của dân Do Thái, thì đấng Mêsia tức vị Cứu Tinh của dân tộc ắt phải là
một thủ lãnh của đoàn quân nổi loạn chống lại Rôma để giải phóng dân Do Thái
khỏi ách thống trị của đế quốc. Nếu Ngài là người nổi loạn chống lại Rôma, thì
dân Do Thái sẽ theo Ngài. Nhưng họ thấy Ngài không phải là người nổi loạn như ý
muốn của họ, mà lại có những ý tưởng lạ đời đi ngược lại tư tưởng truyền thống
của chính tôn giáo của họ, nên họ muốn tiêu diệt Ngài. Nhưng họ không dám ra
tay giết Ngài, mà muốn dùng bàn tay của người Rôma để giết Ngài. Để làm điều
ấy, họ chụp mũ Ngài là người phản loạn, chống lại Rôma.
Nhưng Philatô nhận ra ngay là: nếu Đức
Giêsu là kẻ đứng về phía người Do Thái để chống lại Rôma, thì họ đã chẳng nộp
Ngài cho ông. Vì thế, câu ông hỏi Chúa Giêsu chỉ hỏi cho có lệ, chứ ông ta đã
biết Ngài vô tội, và chỉ vì ghen ghét mà dân chúng nộp Ngài cho ông. Nhưng cũng
chính nhờ ông ta hỏi điều ấy mà chúng ta được mạc khải một chân lý quan trọng:
Đức Giêsu chính là vua. Nhưng Ngài không phải là vua của một nước trần gian.
Chính Ngài xác nhận: «Tôi được sinh ra để làm vua». Thật vậy, có những dấu hiệu
báo trước điều ấy: chẳng hạn, khi Đức Giêsu vừa sinh ra, đã có ngôi sao lạ ở
phương Đông báo tin cho các vị đạo sĩ đến chiêm bái Ngài như một vị vua mới
sinh (x. Mt 2,2). Ngài đã được tung hô như một vị vua khi vào thành Giêrusalem
(x. Mt 21,4.9).
2. Đức Giêsu là vua
Nếu Đức Giêsu không phải là vua của một
nước trần gian, thì nước của Ngài ở đâu? Ngài là vua của ai?
Làm vua có thể có nhiều cách, không
nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình... mới là vua.
Người ta vẫn nói: «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v. v... mặc dù
những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Đức Giêsu không những
làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen,
nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ
trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong
Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh
viết: «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được
tạo thành» (Ga 1,3; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung
cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt
25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có
một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết
các vua, là Vua của muôn vua.
3. Ngài thống trị bằng tình yêu
Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với
các vua khác ở chỗ: để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình
thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục
tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn
sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành
xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong
thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại,
là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
4. Đức Giêsu là vua các tâm hồn
Đức Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua
của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị
vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng
phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh
phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự
do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì
cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ
động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con
ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình,
bằng cách:
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức
về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình
thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những
gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh
toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản
thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động
theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và
khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên
ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong
bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng
niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan
tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài,
tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp
cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ: «Thiên Chúa làm cho mọi sự phối hợp
lại thành ích lợi cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28).
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức
Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một
«bùa hộ mạng» an toàn, một «vị thần bảo trợ» hữu hiệu, một «người tình chung
thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được
như thánh Phaolô: «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi»
(Pl 4,13).
CẦU NGUYỆN
Lạy Đức Kitô, Chúa là Vua của vũ trụ,
của nhân loại, và nhất là của tâm hồn con. Con xin phó thác tất cả mọi sự của
con trong tay Chúa: mạng sống, tình yêu, hạnh phúc, ý muốn, khát vọng, những
người thân yêu của con, hiện tại cũng như tương lai của con, v. v... Con xin
phó thác cho Chúa tất cả, và hoàn toàn để Chúa quyết định mọi sự theo ý muốn
của Chúa. Xin hãy giúp con ngày càng tin vững vào tình yêu và quyền năng của
Chúa hơn. Amen.
25. Chú giải của Noel
Quesson.
Đây là Chúa nhật cuối cùng của năm
Phụng vụ. Sau diễn từ cuối cùng quan trọng trước công chúng trong đó Đức Giêsu
loan báo rằng, giữa "thời tai họa", Người sẽ đến quy tụ toàn thể loài
người để hưởng "một mùa hè tươi đẹp" Đức Giêsu đề cập đến cái chết
của người và Người bước vào cuộc thương khó: Đó là phần kết và là đỉnh cao của
"Tin Mừng" theo Thánh Máccô, mà chúng ta đã đọc suốt năm nay.
Chúa nhật cuối cùng này, chúng ta thay
đổi thánh sử. Đây là một trang Tin Mừng của Thánh Gioan, nhưng đúng ra chúng ta
vẫn ở trong cùng một mạch văn cũ, là trong cùng một kết luận. Thánh Gioan chỉ
đưa ra tước hiệu là Vua trong cuộc thương khó, vừa đau khổ vừa vinh quang. Bỗng
nhiên, liên tiếp ông nói về "Vua", "Vương quyền" (Ga
18,33.36.37.39; 19,3.12.14.15.19.21) nhưng đó là một ông Vua bị đóng đinh mà
vương miện của Người là những gai nhọn. Vậy thì rõ ràng là "Vương
quyền" của Đức Giêsu ở trên một bình diện hoàn toàn khác với bình diện
chính trị.
Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức
Giêsu và nói với Người: "Ông có phải là vua dân Do thái không?
Đức Giêsu bị buộc tội. Người bị ra tòa.
Phiên xử này là phiên xử danh tiếng nhất trong mọi thời đại!
Thẩm phán là ông Philatô, lãnh tụ của
đạo quân La Mã đang chiếm đóng. Ông là viên toàn quyền của một đế quốc đã từng
đô hộ và để dấu ấn trên thế giới. La Mã lúc bấy giờ ngự trị nước Ý, Pháp, Tây
Ban ba, Anh và một phần nước Đức, Ao, Nam Tư, Rumani, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Xyri,
Libăng, Palextin, Ai Cập, Li bi, Tuynidi, Angiêri, Ma -Rốc. Hoàng đế lúc bấy
giờ là Tibêriô, thừa kế của Augustô. Philatô là quan toàn quyền có nhiệm vụ
chận đứng những vụ nổi loạn thướng chớm nở trong dân Do Thái. Người ta treo lên
thập giá người Dêlôtê ngoài cổng thành. Hàng ngàn người đã bị treo lên thập
giá, để áp đặt quyền lực của La Mã.
Bị cáo hôm đó; đối với Philatô là một
"ông Giêsu nào đó" Mà cách đây ba năm chỉ là một anh thợ mộc giản dị
và âm thầm tại Nagiarét, một thôn làng nhỏ, chính quyền cũng không biết tới họa
chăng mới có một đội tuần tiễu đi qua.
Tôi nhìn ngắm hai người đối diện;
Philatô và Chúa Giêsu, quan tòa và bị cáo.
Đức Giêsu hỏi lại ông ấy.
Thật là một điều quá đáng? Bị cáo bây
giờ lại "hạch hỏi quan tòa". Có phải vai trò bị đảo ngược không? Táo
bạo thật, người bị cáo đáng thương! Người ấy là ai vậy?
Đức Giêsu đáp: "Ngài tự ý nói điều
ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?
Đức Giêsu thật tuyệt vời. Người biết
rằng quan tòa này là toàn quyền. Tuy nhiên, Chúa muốn ông có một tương quan cá
nhân, cố dẫn ông ra khỏi một cuộc tranh luận pháp lý, để bày tỏ một lập trường
của riêng ông, "này, ông Philatô, có phải chính ông nói rằng tôi là Vua
không?". Phần lớn các vấn đề của thế giới kỹ thuật, hệ thống hóa, hành
chánh hóa của chúng ta có lẽ đang nằm ở trong thái độ trên đây của Đức Giêsu,
một con người đang- cố thoát khỏi mối liên hệ "quan tòa - bị cáo" để
bước sang tương quan "người và người". Chúng ta không ngừng đóng
những vai trò" và ưa đeo mặt nạ: Chủ - thợ, y sĩ - bệnh nhân, thông gia -
khách hàng, trợ lý xã hội với người được trợ giúp linh mục - con chiên, cha mẹ
- con cái, thầy dạy - học trò, Giáo Hội giáo huấn và Giáo Hội thụ huấn. Này
Philatô, hãy bỏ mặt nạ ra! Hãy nhìn thẳng vào mặt Ta. Ông hãy nói, ông nghĩ gì
về Ta? ông đừng trả lời những bài đã học ở kẻ khác. Chính ông phải có lập
trường. Chính ông phải "tuyên xưng Đức tin".
Ông Philatô trả lời: "Tôi là người
Do thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm
gì?
Ta cảm thấy quan tòa hơi bực mình. Ông
ta có ý tiến công. Ông ta khước từ không muốn bị kêu gọi bước vào lương tâm
mình. ông quyết định trở lại với vai trò, với "mặt nạ" của mình. Tôi
không phải ngồi đây để nói tôi nghĩ gì mà là để xử vụ án. "Ông đã làm
gì?" Đức Giêsu đã cố gặp "một người". Nhưng Philatô đóng vai trò
"một nhân vật" Dù sao thì Philatô cũng đang "thống trị ",
chính ông mới có uy quyền. Người thợ ở làng Nagiarét không thể có lý trước mặt
César. Ai có thể nói hôm đó rằng, không phải là César, với gót giày của đạo
quân bách chiến bách thắng, sẽ trở nên khuôn mẫu cho thế giới mai sau... nhưng
lại là anh thợ mộc thấp bé, bị khinh khi. Từ người thợ mộc này sẽ phát sinh một
nhân loại mới cho nhiều ngàn năm.
Đức Giêsu trả lời: "Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã
chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thật ra Nước tôi không
thuộc chốn này
Đức Giêsu không trả lời câu hỏi của
quan tòa "ông đã làm gì?". Chính Đức Giêsu không có ý thắng người đối
thoại nhưng chỉ hướng cuộc đối thoại theo đề tài mà Người muốn bàn cãi.
Đức Giêsu giải tỏa mọi sự hiểu lầm về
tước hiệu "Vua" mà Philatô đang tìm cách điều tra ít nhất có ba cách
làm "Vua". 1. Vua theo nghĩa chính trị, theo kiểu La Mã: Người ta
thống trị kẻ khác bằng cách nô lệ hóa họ.
2. Vua theo nghĩa Thiên sai, theo kiểu
mong đợi của dân Do Thái: Một người thuộc dòng dõi Vua Đa-vít chính thức lên
ngôi, và chiến thắng kẻ thù của Israel, của Chúa bằng cách đè bẹp chúng.
3. Sau hết, Vua theo cách của Đức
Giêsu: Một vương quyền huyền bí, không ép buộc ai, không đè bẹp ai "bạn có
muốn theo tôi không?" "Các bạn cũng muốn bỏ đi hay sao?". Một
vương quyền mà lại để "Vua" bị "Giao nộp" cho kẻ thù mà
không kháng cự một tổng thống mà không có "vê binh" để bảo vệ mình,
không có cận vệ để bao bọc trước đám đông. Một vương quốc không quân đội, không
thiết giáp không hỏa tiễn.
(Một lãnh tụ Xô Viết trước kia đã hỏi
một cách ngây ngô xem Đức Giáo Hoàng có được bao nhiêu sư đoàn thiết giáp!)
Đức Giêsu luôn hành động như Đấng có
"Toàn quyền": Người đã đuổi quỷ ra khỏi con người, đã đánh bại sự dữ,
đã chế ngự biển khơii đang xung động, đã đổi mới cách giảng dạy Luật Do Thái
với một uy quyền không ai sánh được. Nhưng trong khi làm như vậy, Người đã
không bao giờ cưỡng bức ai.
Chúa là vị Thầy đã để cho chúng ta được
hoàn toàn tự do, mà còn tự "Giao nộp" để cho chúng ta tấn công Người.
(Tôi suy niệm về từ "Giao nộp" mà chính Chúa đã dùng ở đây). Đức
Giêsu là chính dung mạo của Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (2
Cr 4,4). "Kẻ nào thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14,8-11; Cl 1,15).
Không ai đã thấy được Thiên Chúa, nhưng Con Một đã mạc khải Người cho chúng
ta" (Ga 1,18). Trong nội dung rao giảng của Người được ghi lại trong ba
Tin Mừng. Nhất lãm, Đức Giêsu đã không ngừng nói về "Nước Trời",
"Nước của Thiên Chúa", nhưng đó không phải là một vương quốc như
những vương quốc trần thế.
Đó là một vương quốc ẩn dật như một hạt
cải nhỏ bé sẽ trở nên một cây lớn, như một nhúm men, người đàn bà trộn vào bột,
như hạt lúa mì chết đi trong lòng đất để mang lại bông hạt. Đức Giêsu là
"Vua", vâng, nhưng theo cách của Thiên Chúa. Và rõ ràng Thiên Chúa
không phải như chúng ta tưởng tượng Thiên Chúa "trị vì", Thánh Vịnh
đã hát lên như thế (Tv 46,9; 54,20; 58,14; 92,1; 96,1; 98,14; 145,10) và Đức
Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện với Chúa Cha "Xin cho Nước Cha trị
đến". Thiên Chúa không đè bẹp kẻ thù của Người. Thiên Chúa không bắt buộc
con Người phải tin nơi Người. Người cho mặt trời mọc lên trên cả người công
chính lẫn người bất lương, trên kẻ ác cũng như người lành, trên người vô thần
cũng như trên các tín hữu (Mt 5,43-48). Thiên Chúa yêu thương những người không
yêu thương mình mà Người yêu cầu chúng ta cũng làm như vậy. Người không phải là
"Vua"! Không, tuyệt đối không phải là "Vua"! Người không
giống bất cứ một ông Vua nào của trần gian.
Nhưng không! Nước Tôi không thuộc về
thế gian này.
Sau khi đã phân biệt rõ ràng vương
quyền của Người với tất cả vương quyền khác, bây giờ Đức Giêsu có thể tuyên bố
Người là Vua..., bởi vì từ bây giờ trở đi không ai có thể hiểu lầm về ý nghĩa
của vương quyền nữa. Vương quyền này không dính líu gì với những quyền lực dưới
thế gian này.
Người quả quyết, Vương quyền này từ
"nơi khác" đến. Người cảm thấy không cần nói rõ "nơi khác"
mà từ đó Người đến. Người ta có thể giết Chúa, nhưng Chúa vẫn thắng, vẫn hiển
trị. Cái nghịch lý của "nơi khác" thần thiêng này là Vinh quang của
Người không thể bị suy giảm bởi những thử thách hay thất bại trên thế gian.
Vương quyền (thần thiêng!) của Người không tránh cho Người phải chết về mặt thể
xác. Vinh quang của Người là vinh quang được "nâng lên khỏi mặt đất"
trên thập giá, và lên ngự bên phải của Chúa Cha.
Ông Philatô liền hỏi: "Vậy ông là
vua sao?
Trên môi miệng của Philatô, đại danh từ
"ông" được đặt sau động từ, trong bản văn Hy Lạp rất có ý nghĩa:
"Vua ông".
Sao? ông, người mạo danh, ông, mà người
ta sắp xóa bỏ bằng một nét bút. Ông là người; mà tôi, sắp cho tiêu diệt ông, là
người tù đáng thương không thể tự vệ được:
Đức Giêsu đáp: "Chính ngài nói
rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng
cho sự thật.
"Đã đến". Người đã nói
"Tôi đã đến", từ một 'nơi khác', đã đến thế gian.
Trong bài đọc 2 được đọc trong Chúa
nhật này, chúng ta đã nghe Gioan định nghĩa Đức Giêsu như là "nhân chứng
trung thực". Chữ "Chứng nhân" này dịch từ chữ Hy Lạp
"Martyr" do đó có chữ Pháp là "Martyr" có nghĩa tử đạo.
Người đã trả giá cho vương quyền của
Người! cho việc làm chứng của Người!
Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng
tôi
Vậy thì vương quyền của Chúa Kitô Vua
hệ tại điều gì? Đó là quy tụ lại để cùng lắng nghe "một giọng nói"
tất cả những ai thuộc về sự thật". Người "trị vì" nhờ Đức tin mà
chúng ta dâng cho Người, nhờ thái độ tín thác mà chúng ta đặt vào Lời của
Người, nhờ nếp sống hằng ngày của chúng ta luôn phù hợp với "Tiếng nói của
Người. Không ai có thể thoát khỏi "Vương quyền" này.
Là con người, chúng phải chọn lựa thái
độ theo hay chống lại "Sự thật". Làm vinh danh Chúa Kitô Vua, không
phải là đốt hương trầm cho Người, không phải là tổ chức những lễ long trọng
mừng Người, giống như những danh vọng hư ảo của các Vua Chúa trần gian. Nhưng
chính là lắng nghe tiếng nói của Người, và làm sao cho cuộc sống cá nhân, gia
đình, nghề nghiệp và xã hội hoàn toàn phù hợp với "Tiếng nói đó"
26. Chú giải của
Fiches Dominicales.
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đức Giêsu Vua, nhưng khác với vua
trần thế.
Ta đang tham dự vụ án xử Đức Giêsu
trước toàn án Rôma, Giêrusalem trong dinh tổng trấn Philatô ông làm tổng trấn
xứ Giuđê từ năm 26 đến 36.
Ngay lúc đầu cuộc thẩm vấn do Philatô
đứng xét hỏi, phía nghịch đã nêu lên cáo trạng chống lại Đức Giêsu, tìm cách
chuyển vụ án sang lãnh vực chính trị để đạt được mục đích của là lên án tử hình
cho Đức Giêsu. Vậy quan tổng trấn hỏi: "Ông có phải là vua dân Do Thái
không?".
X. Léon-Dufour giải thích: "Cần
lưu ý rằng, dưới thời đế quốc Roma cai trị, dân Do Thái thường xen lẫn ý nghĩ
chờ đợi Đấng Mêsia với lòng mong mỏi độc lập cho quốc gia, do Đấng Mêsia thiết
lập (Cv 1,6) và khởi đầu một thời đại mới. Trong Tin Mừng thứ bốn, ta thấy hai
giai thoại phản ánh bầu khí này. Đó là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông
dân chúng Galilê đã muốn lấy "vị Ngôn sứ" để tôn lên làm vua; bấy giờ
Đức Giêsu phải lên núi mới thoát khỏi (Ga 6,14-15). Rồi sau khi Chúa cải tử
hoàn sinh cho Ladarô, niềm phấn khởi của quần chúng đối với Giêsu biểu lộ bằng
việc từng đoàn lũ cầm cành vạn tuế, biểu hiệu của thắng trận, đi đón rước Chúa
vào thành Giêrusalem, tung hô Ngài là "Vua Israel", vì họ coi Ngài
như vị cứu tinh giải phóng quốc gia. Bấy giờ Chúa đã tỏ rõ sự bất đồng tình của
Người và tố giác sự ngộ nhận của cuộc đón rước bằng cách chọn một con lừa nhỏ
để cỡi." ("Lecture de l'evangile selon Jean", tập IV, Seuil.
1996, tr. 82). Một lần nữa Đức Giêsu gạt phăng mọi hiểu lầm.
Trước hết, Chúa dùng một câu hỏi, truy
tìm nguồn gốc của lời tố cáo này: "Ngài tự ý nói điều đó, hay những người
khác đã nói với Ngài về tôi?". Philatô nhìn nhận đó là cuộc tranh luận nội
bộ của người Do Thái, nên trả lời: "Tôi là người Do Thái sao? Chính dân
của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?".
- Sau đó, Chúa đã dùng câu trả lời phủ
quyết. Nếu Ngài là vua, thì không theo kiểu cách của trần gian này, không theo
kiểu cách các vua Amônê, là những người trị vì Israel trước khi đế quốc Rôma
xâm chiếm. Nếu Ngài là vua, thì Ngài không phải là địch thủ của Xêda, và vương
quyền của Ngài không có màu sắc chính trị; nó không thuộc thế trần: "Nước
tôi không thuộc về thế gian này".
A. Marchadour quảng giải: "Nước Chúa
vừa không phải như dân Do Thái trông đợi, cũng không như Philatô hình dung,
cũng không như nước của loại người thống trị nhờ sức mạnh quân đội và nhờ cuộc
chinh chiến mở rộng biên cương. Nước của Người đến từ nơi khác, đến từ "xứ
sở" nơi Đức Giêsu "sinh ra", và từ đó Người "đã đến thế
gian", vì Người đã hiện hữu từ muôn thuở. Nước ấy được thiết lập không nhờ
sức mạnh, nhưng nhờ trình bày lời mặc khải. Những ai đến nhận Lời thì trở nên
công dân của Vương quốc, không chỉ ở cuối đời, mà ngay lúc này" ("L'evangile
de Jean", Centurion, trang 227).
2. Đức Giêsu là vua, nhưng để làm chứng
cho chân lý.
Bởi vì Philatô gạn hỏi: "Vậy ông
là vua ư?", Đức Giêsu phá tan mọi hiểu lầm bằng một câu xác quyết long
trọng. Sứ mạng của Người nơi trần gian là "làm chứng cho chân lý" (từ
"làrn chứng" trong tiếng Hy lạp là "martyr": tử đạo). Chân
lý này chính điều đã được nói đến trong chương Nhập đề của Tin Mừng thứ bốn
("Người Con duy nhất đầy ân sủng và chân lý"): Chân lý về Thiên Chúa,
Chân lý cho biết Thiên Chúa là ai: Thiên Chúa là tình thương, Thiên Chúa cứu
độ, mà Đức Giêsu là Người mạc khải, Người đã đến trần gian để đề nghị cho con
người ơn thông hiệp vào đời sống thần linh. Người làm chứng bằng hành động, đến
mức đổ máu để đóng ấn cho việc làm chứng. Đức Giêsu không chỉ đến cứu dân tuyển
chọn mà thôi, nhưng để cứu "bất cứ ai thuộc về chân lý".
Sứ mạng của Người, và có thể nói vương
quốc của Người, đang thuộc về thế gian này, nhưng nó hoạt động ở thế gian này,
trên thế giới này: nó mặc khải cho bất cứ người nào Chân lý về Thiên Chúa.
Người làm việc đó ở đâu, bao giờ? Khi mà Người được nâng lên khỏi đất, được ngự
trên tòa thập giá. Mọi người rồi phải tỏ rõ lập trường: " Hễ ai thuộc về
chân lý thì nghe tiếng tôi" Nếu Đức Giêsu thi hành quyền bính, thì chỉ
bằng cách từ trên trời cao,thập giá Người lôi kéo người ta đến bằng đức tin và
lòng yêu mến. Người không cai trị, nhưng chỉ mời gọi người ta tự nguyện đi theo
người. Ta không thể lẩn trốn như Philatô, bằng cách đặt câu hỏi: Chân lý là
gì?" ("Célébrer" tạp chí của Trung tâm phụng vụ toàn quốc, số
243, trang 42).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. Đức Giêsu, một vị vua đảo ngược mọi
điều người ta suy diễn.
(x. Léon-Dufour, trong "Lecture de
l'evangile selon St Jean", cuốn 4, Seuil, trang 21).
Phụng vụ tung hô Đức Kitô là "Vua
Vũ Trụ", một danh xưng xứng hợp, đoạn văn của Gioan là "một cuộc hiển
linh của vi vua" Nhưng Đức Giêsu là vua theo nghĩa nào, đó là điều mà
Gioan đã minh định bằng nhiều cách. Vị vua của dân Do Thái đến theo truyền
thống của vua Mêsia mà Giao ước thứ nhất đã trông đợi, nhưng đã chu toàn việc
chờ đợi này trên một bình diện khác. Suốt cuộc đời công khai của Người, vương
quốc mà Đức Giêsu loan báo, thì thuộc về một trật tự khác. Lúc này, đối diện
với quan tổng trấn Rôma, Đức Giêsu cả quyết rằng vương quốc của Người không đến
từ thế gian, và nó chủ yếu là để làm chứng cho chân lý. Vị vua là
"người"vừa bị đánh đòn, bị khoác áo đỏ và đội vòng gai làm triều
thiên. Vị vua bị trưng bày như vua hề này ngày nay có còn cho phép người ta
khoác lên vai tấm vải lừa dối, ảo tưởng nữa không? Vị vua này bị treo lên thập
giá, bị mọi người ruồng rẫy. Vương quốc của Người được tước bỏ mọi giới hạn địa
lý hoặc dân tộc: bởi vì "chân lý" mà Người công bố, liên quan đến mọi
người. Gioan đồng quan điểm với Matthêu, tác giả trong dụ ngôn về cuộc phán xét
cuối cùng chỉ rõ, người ta có thể gặp vị vua " ấy ở đâu: Vua vinh quang
phán: "Điều gì anh em làm cho một người nhỏ nhất trong các người thân của
Ta đây, là anh em đã làm cho chính Ta" (Mt 25,40): để có thể tìm thấy
"vua", tôi cần phải tìm nơi người nghèo mà tôi gặp. Giêsu, người
Nagiarét, vua dân Do Thái: bản án treo trên đầu thập giá mang tầm vóc toàn cầu.
Trong câu 4,22 Đức Giêsu đã cả quyết với người phụ nữ Samari rằng, ơn cứu độ
đến từ dân Do Thái. Trưng bày danh hiệu "vua dân Do Thái" phản ánh theo
cách thế của Chúa sự tin tưởng của Người. Như vậy là đã công bố cho toàn cầu
rằng lời hứa về "vị vua" đã được thực hiện: nó thành hiện thực nơi
Đức Giêsu, người Nagiarét: ở nơi Người, giao ước vĩnh viễn của Thiên Chúa với
loài người đã được đóng ấn.
2. Đức Giêsu, phản vua (L'antiroi)
"Nước tôi không thuộc về thế gian
này", Đức Giêsu còn nhắc lại cho những người lính binh thánh giá và những.
kẻ ham hố của mọi thời đại. Nước tôi không thiết lập do việc trưng cầu dân ý,
cũng không do đi chinh phục. Nó không theo lề thói trần thế cũng không tuân
theo luật lệ thế gian. Nó không tuân theo bắt cứ tiêu chuẩn tự phụ nào. Nó chỉ
tuân theo chân lý, nó luôn là nó.
Philatô đã không hiểu gì. Những thượng
tế cũng vậy, còn các môn đệ, những người đã tranh cãi để chiếm địa vị cao vì mơ
tưởng ngày vinh quang, thì cũng không hiểu bao nhiêu.
Ngày nay cũng vậy, chúng ta còn cảm
thấy khó hiểu được thái độ của Đức Giêsu, và còn thấy khó hơn để chấp nhận. Đức
Kitô một phản vua, giống như người ta nói về phản-anh-hùng (antithéros) hoặc
phản-siêu-sao (antivedettes). Người rất gần gũi, đơn giản và thân thiện.
Lòng tôn kính đối với Người không phải
là tôn kính bằng sự vật và lời nói, cũng không chỉ là những định ước lễ nghi.
Nó phải là tự trái tim. Quyền lực của Người là quyền lực của tình thương là sức
mạnh là sức mạnh của tha thứ. Chinh phục của Người là mời gọi, và các môn đệ
trung thành nhất của Người là những ai làm chứng cho chân lý... giống như
Người.
Thành công của Người, cũng như những
thành công của các bạn hữu Người, thường mang bộ mặt thất bại thảm thương. thập
giá và máu, bạo hành và gông cùm. Tin Mừng bị nghi ngờ, phúc thật bị từ khước,
canh tân và sám hối bị chê bỏ. Đức Kitô, là đầu của thân thể, không phải là cái
đầu đột mão triều thiên, và Hội Thánh là thân thể của Người cũng không thoát
khỏi bị bầm dập và chê cười. Cái thân thể này, nếu muốn là thân thể, chỉ cần
làm một dấu lạ, như một mặt nạ gây phá sản che giấu sự trống rỗng và mời gọi
người ta tôn thờ vẻ bề ngoài - chân lý bị lừa gạt.
Vương quyền của Đức Kitô nẩy mầm ở
trong tâm trí và trong tâm hồn. Những cột cái nâng đỡ vương quốc là những người
lính vô danh, những người trộm cướp bị treo thập giá, và những đại đội trưởng
ngoại giáo. Cuộc sắc phong diễn ra tại Golgotha.
Sưu tầm
CHÚA
NHẬT 34 THƯỜNG NIÊN B
GÓP
PHẦN KIẾN TẠO "TRỜI MỚI ĐẤT MỚI"
Lễ
Đức Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ
Đn
7,13-14 ; Kh 1,5-8 ; Ga 18,33b-37
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
18,33-37
(33) Ông Phi-la-tô trở vào dinh, cho
gọi Đức Giê-su và nói với Người: "Ông có phải là Vua dân Do thái
không?" (34) Đức Giê-su đáp: "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người
khác đã nói với ngài về Tôi?". (35) Ông Phi-la-tô trả lời: "Tôi là
người Do thái sao? Chính dân của ông và các thương tế đã nộp ông cho tôi. ông
đã làm gì?" (36) Đức Giê-su trả lời: "Nước tôi không thuộc về thế
gian này. nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho dân Do thái. Nhưng nay Nước tôi không thuộc chốn
này". (37) Ông Phi-la-tô liền hỏi: "Vậy ông là Vua sao?" Đức
Giê-su đáp: "Chính ngài nói rằng tôi là Vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian vì điều này: Đó là để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì
nghe tiếng tôi".
2. Ý CHÍNH: Trước tòa án của quan Tổng Trấn Phi-la-tô, Đức Giê-su đã
cho ông biết về Vương Quốc của Người. Vương Quốc ấy thiêng liêng và không thuộc
về thế gian, không có quân đội và không biên giới. Đức Giê-su cũng khẳng định
Người là Vua, nhưng là vị Vua Thiên Sai, đến để làm chứng cho sự thật. Thần dân
của Người là những ai sẵn sàng tin theo sự thật của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 33-34: + Ông Phi-la-tô trở vào
dinh, cho gọi Đức Giê-su: Đức Giê-su đã bị dân quân Đền thờ bắt tại vườn Cây
Dầu vào đêm thứ Năm sau bữa tiệc ly Vượt Qua mừng trước. Sau khi bị bắt Đức
Giê-su đã bị tòa án tôn giáo xét xử và bị thương tế Cai-pha kết án tử hình(x Ga
18,19-24). Tuy nhiên vì các đầu mục Do thái đã bị người Rôma truất quyền kết án
tử hình (x. Ga 18,31), nên sáng hôm sau, họ đã giải Đức Giê-su đến dinh quan
Phi-la-tô để yêu cầu ông này kết án tử hình cho Đức Giê-su. Họ đứng ngòai sân
chứ không vào trong nhà để tránh bị ô uế theo Luật, mà ai vi phạm sẽ không được
ăn mừng lễ Vượt Qua (x Ga 18,28b). Quan Phi-la-tô đã phải ra ngòai hành lang để
gặp họ. Sau khi biết rõ ý họ muốn, Phi-la-tô đã vào trong phòng thẩm vấn Đức
Giê-su + "Ông có phải là Vua dân Do thái không?": Người Do thái đã tố
cáo gian cho Đức Giê-su tội phạm chính trị là xưng mình là Vua dân Do thái, để
yêu cầu quan Phi-la-tô quy tội phản lọan và kết án tử hình cho Người. Do đó
Phi-la-tô tra vấn Người về việc này. + "Ngài tự ý nói điều ấy, hay những
người khác đã nói với ngài về tôi?": Đức Giê-su không trực tiếp trả lời
câu hỏi của Phi-la-tô, nhưng Người gợi ý để ông tự xét lời tố cáo đó có cơ sở
không hay chỉ là sự vu cáo bịa đặt?
- C 35: + Tôi là người Do thái sao?:
Phi-la-tô cho biết ông không quan tâm đến những vấn đề tôn giáo, vì ông không
phải là người Do thái! + Chính dân của ông và các thương tế đã nộp ông cho tôi.
ông đã làm gì?: Phi-la-tô cho biết dân chúng và các đầu mục Do thái đã tố cáo
như thế để yêu cầu ông xét xử. Ông hỏi Đức Giê-su đã làm gì chống lại họ để đến
nỗi bị họ tố cáo như vậy?
- C 36: + "Nước tôi không thuộc về
thế gian này": Đức Giê-su không chối điều họ tố cáo, nhưng Người xác định
mình không phải là ông vua trần tục. Vì Nước của Người không thuộc về thế gian
này. + "Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu
không để tôi bị nộp cho dân Do thái": Lời này cho thấy sự khác biệt giữa
vương quốc thế gian và Vương Quốc của Thiên Chúa. Khác về tinh thần cai trị (x.
Mt 20,24-28), về hiến pháp (x. Mt 5,1-12), về điều kiện gia nhập (x. Mt 7,21),
về sự vững bền (x. Mt 25,46), về tương quan giữa vua với dân (x Ga 13,12-15).
- C 37: + "Vậy ông là vua
ư?": Đặt câu hỏi này, Phi-la-tô chỉ tò mò muốn biết thêm về chức vị vua
thiêng liêng trong Nước Trời của Đức Giê-su, chứ ông không nghĩ Người là vua
thế tục. Phi-la-tô biết rõ Đức Giê-su không làm loạn, vì Người không có quân
đội để tự vệ khi bị người Do thái vây bắt. + "Chính ngài nói: tôi là
vua": Đức Giê-su xác nhận Người là Vua. nhưng là Vua Tình Yêu, Vua Mục Tử:
Người hiểu biết từng con chiên (x. Ga 10,14), nuôi dưỡng đàn chiên (x. Ga
10,3), đi tìm chiên lạc (x. Ga 10,16), bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng hy sinh
tính mạng cho đàn chiên (x. Ga 10,11.15). Tóm lại, Người đến "để cho chiên
được sống và sống dồi dào" (x. Ga 10,10). + "Tôi đã đến thế gian là
để làm chứng cho sự thật": Sứ mệnh của Đức Giê-su là đến để làm chứng cho
sự thật. ** làm chứng theo tiếng Hy Lạp nghĩa là tử đạo. Đức Giê-su làm chứng
cho sự thật bằng việc đổ máu ra vì yêu nhân loại đến cùng ** Sự thật không có
nghĩa là không gian dối, nhưng chính là Tin Mừng Nước Trời mà Người loan báo.
Sự Thật ấy cũng là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa, đã được biểu lộ qua cuộc
đời, lời rao giảng và nhất là trong biến cố Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su.
+ Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi": Đức Giê-su đến không những
để cứu độ dân Do thái là dân được Thiên Chúa ưu tuyển, mà Người còn đến cứu mọi
dân nước tin vào Tin Mừng của Người và gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh hôm
nay và là Thiên Đàng mai sau.
4. CÂU HỎI: 1)Tại sao các đầu mục Do Thái lại phải giải Đức Giê-su đến
tòa án của quan Phi-la-tô? 2)Tại sao người Do thái không vào trong nhà làm cho
quan Phi-la-tô phải đi ra ngòai hành lang để tiếp họ đứng dưới sân? 3)Đức
Giê-su cho Phi-la-tô biết Nước Trời do Người thiết lập có những đặc tính nào
khác với nước thế gian? 4)Khi hỏi Đức Giê-su: "Ông là Vua ư?",
Phi-la-tô có tin những lời các đầu mục Do thái tố cáo Đức Giê-su không? 5)Đức
Giê-su nhận mình là Vua nhưng chức vị này có những phẩm chất nào? 6)Đức Giê-su
đến để "Làm chứng cho Sự Thật" nào và làm chứng bằng cách nào?
7)Ngòai dân Do thái ra, Đức Giê-su còn đến cứu độ những ai?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Tôi
là Vua" (Ga 18,37):
2. CÂU CHUYỆN:
Lịch sử nước Anh có câu chuyện về một
ông vua có lòng khiêm nhường và đạo đức tên là U
3. SUY NIỆM:
1) Hôm nay là ngày Chúa Nhật cuối cùng
của Năm Phụng Vụ. Giáo Hội long trọng mừng kính lễ Chúa Giê-su Ki-tô là Vua Vũ
Trụ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đã khẳng định trước mặt quan Phi-la-tô:
"Phải, tôi là Vua".
2) Đức Giê-su là Vua, vì Người là Ngôi
Lời của Thiên Chúa. Đấng đã dùng Lời quyền năng sáng tạo nên vũ trụ vạn vật như
sau: "Phải có ánh sáng! Liền có ánh sáng" (x. St 1,3). Đức Giê-su
thực là Vua, vì Người đã chiến thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết bằng Lời quyền
năng như sau: "Câm đi và hãy xuất khỏi người này!" (Mc 1,25-27) ;
"Này con, con đã được tha tội rồi" (Mc 2,5) ; "Anh La-da-rô, hãy
ra khỏi mồ!" (Ga 11,43).
3) Người từng tuyên bố: Nước Người
không thuộc về trần gian này. Vương quyền Người không dựa trên sức mạnh của vũ
khí quân đội mà dựa trên tình yêu. Bao nhiêu vua chúa, bao nhiêu triều đại xưa
đã từng xuất hiện một thời trên trần thế, thì nay đều đã bị diệt vong. Chỉ duy
Vương Quyền của Đức Giê-su vẫn luôn tồn tại và hiển trị trong các tâm hồn.
4) Chúa Ki-tô chiến thắng! Chúa Ki-tô
trị vì! Chúa Ki-tô hiển trị muôn đời! ("Christus vincit. Christus regnat.
Christus... imperat"): Ngày nay các tín hữu chúng ta tôn kính Vua Giê-su
không phải chỉ bằng nghi lễ trong nhà thờ, bằng việc ca hát tung hô Người ...
Nhưng quan trọng hơn: Chúng ta phải tích cực góp phần xây dựng Nước Trời yêu
thương an bình hạnh phúc ngay từ trong gia đình đến khu xóm, chợ búa, trường
học, xí nghiệp, sở làm và mọi lúc mọi nơi... Chúng ta phải làm thế nào để mọi
người nhận biết tôn thờ một Thiên Chúa là Cha, sống chan hòa yêu thương nhau
như anh em trong đại gia đình của Thiên Chúa, dưới quyền cai trị của Đức Giê-su
Vua vũ trụ, như Người đã phán trước khi lên trời: "Thầy đã được trao tòan
quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn
đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em
mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18b-20)..
4. THẢO LUẬN: 1)Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì để Chúa Giê-su làm Vua
gia đình mình? 2)Chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho anh em
lương dân, hầu mở rộng Vương Quyền của Vua Giê-su đến tận cùng thế giới?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU: Ngày nay các bạn trẻ
thường hay chọn cho mình một thần tượng để tôn sùng và bắt chước: Người thì mê
vua bóng đá Pê-lê; Có người lại chạy theo vua nhạc Rốc Mai-côn Giắc-sân
(michael jackson). Có những cô gái cố trang điểm, ăn mặc giống như cô ca sĩ
này, hay người mẫu nọ... còn chúng con là môn đệ của Chúa, chúng con có Chúa là
vị thần tượng ưu việt duy nhất. Ước chi chúng con nói được như thánh Phao-lô:
"Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô" (Pl 1,21)- Từ nay "tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).
- Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết noi
gương Chúa là Vua của sự thật. Xin cho chúng con biết yêu sự thật và nói thật
để mưu ích cho tha nhân, (nhưng không phải mọi sự thật đều nên nói ra). Xin cho
chúng con tránh những lời dối trá lừa đảo. Trong giao tiếp xã hội, xin cho
chúng con tránh thái độ đạo đức giả của các người Pha-ri-sêu và kinh sư đã bị
Chúa nặng lời quở trách (x. Mt 23,13-36). Trong quan hệ làm ăn buôn bán, xin
giúp chúng con biết buôn ngay bán thật, không nói rước nói thách, không làm
hàng gian hàng giả, không cư xử bất công lường gạt người nhẹ dạ dễ tin. Xin
Chúa giúp chúng con luôn trung thực trong lời nói việc làm, để xứng đáng là con
dân của Vua Giê-su "là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA
NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét