Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

MỪNG CHÚA PHỤC SINH & TM CN II PS







LỄ LÀM PHÉP DẦU TẠI RÔMA

















 CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31


MỤC LỤC



Cái chết của Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ hết sức dao động. Các ông buồn phiền, hoang mang và thất vọng. Mộng ước các ông theo đuổi từ ba năm nay, bỗng dưng tan theo mây khói. Ngày mai rồi sẽ làm gì? Trở về làng cũ và nghề xưa với ghe thuyền và chài lưới trước những cặp mắt chế diễu của bà con lối xóm ư?

Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy lời nói đầu tiên của Đức Kitô Phục sinh khi hiện ra với các môn đệ là lời chào chúc: Bình an cho các con. Từ những kẻ lo âu và dao động về cái chết của Thầy mình, các ông đã được Ngài biến thành những người được sai đi, để làm chứng rằng Ngài vẫn sống và đang ở giữa chúng ta: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.

Thế nhưng, mọi sự xem ra không được xuôi chảy. Trong số các tông đồ được diễm phúc gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh, vắng bóng một người. Và người đó chính là Tôma. Ông quả là một con người thiếu may mắn. Những gì xảy ra với ông do sự vắng mặt này, đã khiến ông trở thành một con người cứng lòng tin trong sử sách.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải công bằng mà đặt câu hỏi: Trong thực tế, Tôma có thực sự là một kẻ cứng lòng tin hay không? Có lẽ không hẳn là thế, bởi vì chính ông đã từng chứng tỏ sự hăng hái của mình khi quyết định đi lên Giêrusalem: Nào chúng ta hãy cùng đi để được chết với Ngài.

Thế nhưng, trường hợp của Tôma đã đưa chúng ta đi sâu vào việc tìm hiểu nền tảng của niềm tin nơi Đức Kitô Phục sinh, bởi vì niềm tin này không phải là một chuyện bình thường, một chuyện tự nhiên. Sự sống lại của Đức Kitô vốn là một hòn đá tảng, đặt nền móng cho niềm tin Kitô hữu của chúng ta. Thánh Phaolô đã từng khẳng định như thế và đó cũng chính là nội dung số một của việc rao giảng nơi các tông đồ.

Sự vắng mặt của Tôma trong lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra được đền đáp một cách khá dồi dào trong lần Ngài hiện ra sau đó tám ngày. Trong lần hiện ra này, Chúa Giêsu đã cho Tôma được xỏ ngón tay vào lỗi đinh cũng như lỗ đòng trên thân thể Ngài. Và Tôma cũng đã trở thành một con người mới với niềm vui mừng và xác tín mới.

Không phải vì đã có được những chứng cớ nơi các lỗ đinh làm nền tảng cho niềm tin, nhưng chính là được hoà tan trong Đức Kitô, với những khổ đau của Ngài, là dấu chứng cho một tình thương dạt dào Ngài đã thực hiện cứu chuộc chúng ta.

Thực vậy, Thiên Chúa chỉ có thể được làm chứng bằng những hành động yêu thương, vì Ngài vốn được gọi là Tình yêu. Đức Kitô Phục sinh trong niềm tin của Tôma chính là Đấng đã từng trải qua những đau khổ của thập giá cùng với cái chết ê chề và tủi nhục. Vì thế, chúng ta không thể tách rời sự sống lại của Ngài với những đau khổ và cái chết. Đồng thời, cũng không thể chỉ thấy cái chết và những đau khổ mà không thấy việc Ngài sống lại.

Và hơn thế nữa, sự chết và sự sống lại được gắn liền với tình thương của Thiên Chúa. Thực vậy, sở dĩ Đức Kitô đã chết và đã sống lại là để thực hiện chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn dành để chuộc con người chúng ta.


Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm. Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.

Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.

Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì. Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.

Chẳng cần phải xoá đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã. Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình. Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích. Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.

Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo. Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?

Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó. Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
·        Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
·        Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thoả mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.

Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông. Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.

Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác. Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau. "Phúc cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
·        Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?



Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.

Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.


Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng lòng tin”.

Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ. Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải trấn an các ngài, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để các người tin tưởng.

Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh “Cứng lòng tin”.

Tôma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Nhưng ta phải cám ơn thánh Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Vì nhờ ngài mà Đức Giêsu lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ ngài mà ta được nghe mối phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn Chúa đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.

Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.

Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của cải không phải là của mình.

Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa.

Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.    Chứng kiến cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, niềm tin của các Tông đồ bị chao đảo. Đời bạn cũng đã gặp nhiều thử thách, niềm tin của bạn có bị chao đảo không?
2.    Lời nói hay và việc làm tốt, đàng nào có sức thuyết phục hơn?
3.    Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết định làm gì để góp phần vào việc truyền giáo?


PHÚC THAY NHỮNG KẺ THÂN THIẾT TRỞ NÊN THÂN THIẾT HƠN
Bài Phúc Âm hôm nay đáng nên suy niệm rất lâu. Chúng ta đơn giản ghi lấy một số yếu tố để hiểu rõ nội dung hơn.
1)  Ngày hôm đó, ngày trong tuần, là ngày Chúa sống lại, là Chúa Nhật của chúng ta ngày nay. Các môn đệ hội họp, có lẽ do Phêrô (người đã nhìn thấy ngôi mộ trống) triệu tập. Các cửa đóng chặn kỹ, biết đâu được phản ứng của nhà chức trách Do Thái ra sao. Chúa đột nhiên ở giữa các ông, cho các ông tức khắc trông thấy Người đang sống trong trạng thái Phục Sinh, Người không trở lại trạng thái trước đây nữa. Câu nói đầu tiên của Chúa là: Bình an cho các ngươi. Đó là câu chào người ta thường dùng, nhưng ta có thể nghĩ rằng nghe thấy câu nói đó các môn đệ bớt được phần nào băn khoăn, vì cung cách cư xử của họ đối với Thầy hai hôm trước khiến họ không an tâm. Đàng khác câu chúc bình an của Chúa luôn luôn là một ân huệ. Chúa ban cho các ông bình an của Người, bao gồm tha thứ, nhân từ và yêu mến, mà thành quả là niềm vui. Chúa nói thêm: Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi… các ngươi tha tội cho ai, thì tội họ được tha…
2)  Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi. Đức Giêsu sai các môn đệ. Chúng ta lưu ý về hai tính chất của sự sai phái này. Chúa sai các ông thi hành một sứ mạng giống sứ mạng của Người, cho các ông một quyền như Người. Đích phải đạt là cứu độ thế giới bằng cách loan báo Đấng là sự thật và có quyền tha tội. Quyền là do Thiên Chúa, do Cha. Cũng như Đức Giêsu được Cha uỷ nhiệm làm Đấng Cứu Chuộc nhân loại, các môn đệ được Đức Giêsu đặt làm sứ giả, làm tông đồ của ơn cứu độ. Cũng như quyền hành sứ mạng của Đức Giêsu là do Cha, quyền hành sứ mạng của các môn đệ là do Đức Giêsu. Đối với Phúc Âm, tự ý trao cho bất cứ ai đã chịu phép thanh tẩy sứ mạng rao giảng Phúc Âm cứu độ –là một sự lầm lẫn rất nặng nề. Các môn đệ là những người được Đức Giêsu tuyển chọn, kêu gọi và trao quyền. Sự rao giảng chân truyền bắt buộc phải theo đúng ý muốn của Chúa. Điều này không giảm nhẹ nghĩa vụ mỗi tín hữu phải làm việc tông đồ theo phương pháp rất hiệu quả, rất hào hiệp, đồng thời rất được linh ứng và rất thực tiễn. Nhưng không phải bất cứ tín hữu nào cũng có sứ mạng đặc biệt được quyền rao giảng.
3)  Các ngươi tha tội cho ai, thì họ được tha. Truyền thống Kitô giáo luôn luôn thừa nhận trong câu này sự thiết lập bí tích Giải tội. Kitô hữu là kẻ từ khoảnh khắc gặp Đức Giêsu Kitô, phát hiện ra bản thân mình tội lỗi, nghĩa là thấy mình khốn khổ và có tội. Người tín hữu biết rằng niềm tin của mình trong Đức Giêsu Kitô làm cho mình hiệp thông với một vận dụng cứu độ, tha tội và tái sinh. Khi Chúa thiết lập một bí tích, nghĩa là khi lập ra một dấu chỉ rõ ràng về ơn tha thứ và tái sinh, Chúa muốn cho kẻ có tội dễ dàng gặp ơn cứu độ. Ở đây cũng vậy, không phải bất cứ ai cũng có trách nhiệm ban phép bí tích. Nói với các môn đệ (và những vị thừa kế các ông sau này), Chúa phán: Các ngươi tha tội (dẫu cho người ta giải thích lời Đức Giêsu theo một nghĩa rộng hơn, cũng không phải tất cả mọi người trong Giáo Hội đều có quyền giải tội). Các ông sẽ làm việc ấy với quyền hành sứ mạng. Tuy Giáo Hội quy định rõ thể thức về bí tích giải tội, những phải xác nhận bí tích này xuất phát từ chính lời Đức Giêsu. Phúc thay những bạn hữu của Đức Kitô trở nên thân thiết với Chúa hơn vì đã được tha thứ và tái sinh.


Trong tạp chí Guidepots, bác sĩ Scott Harrison, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay có viết rằng: lần nào giải phẫu ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen lạ lùng nầy từ hồi ông còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa mới rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính. Đã vậy, ông còn phải giải phẫu dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy khiến ông cảm xúc sâu xa đến nỗi sau khi cuộc chiến kết thúc, ông đã quyết định đi chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật gây ra, chẳng hạn như một viên đạn, khi vật ấy xuyên thủng lớp xương, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay con người. Nhà phẫu thuật ấy kể rằng ông thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp Chúa Giêsu phải chịu khi đôi tay Ngài bị đóng đinh vào thập giá.

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, ông nói rằng theo ông, tiếng kêu “lạy Chúa là Thiên Chúa của con” của Thánh Tôma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy rung động khi vị tông đồ nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc ra của Chúa Giêsu. Chỉ đến lúc đó, Tôma mới hoàn toàn nhận thức được cơn đau đớn Chúa Giêsu đã phải chịu trên thập giá. Theo nhận định của nhà phẫu thuật, khám phá nầy hầu như vượt quá mức chịu đựng của Tôma. Và ông đã kết thúc bản văn đầy cảm động đó với lời chứng sau đây: “Mỗi lần giải phẫu mà nhìn phía dưới làn da của bàn tay con người, tôi luôn nhớ tới Chúa Kitô đã hy sinh đôi tay toàn hảo của Ngài cho tôi, và cũng như Tôma, tôi thốt lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

Thưa anh chị em,
Câu chuyện trên làm nổi bật một điểm thuộc về đức tin mà chúng ta rất thường hay quên. Đó là mỗi người chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giêsu qua đức tin. Không phải vì cha mẹ, họ hàng, bạn hữu chúng ta tin nên chúng ta tin theo. Đức tin của họ giúp ích cho chúng ta rất nhiều, nhưng chỉ như thế mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta phải tự tiếp xúc trực tiếp bằng đức tin với Chúa Giêsu giống như nhà phẫu thuật trong câu chuyện hoặc giống như Thánh Tôma trong Tin Mừng hôm nay. Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại tí là như các anh em khác. Các tông đồ kia lúc đầu cũng chẳng ai tin Chúa đã sống lại. Các ông chỉ tin sau khi được tiếp cận với Chúa Giêsu, được sờ đến thân xác Ngài, được ăn uống với Ngài. Vì thế, Tôma thấy mình thiệt thòi và thua kém. Cho nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại và ông đòi phải được sờ vào những dấu đinh ở tay Ngài.

Ông Robert Cleath, một tác giả viết sách đã trở lại với đức tin khi ông suy niệm về sự biến đổi kỳ diệu đã đến với các môn đệ Chúa Giêsu vào dịp lễ Phục Sinh. Trước biến cố nầy, họ là đám người thất vọng thảm bại, thế mà sau biến cố nầy, họ đã được biến đổi kỳ diệu và còn có năng lực làm phép lạ nữa. Ông nói: “Không có cách giải thích nào hữu lý về sự biến đổi của họ hơn là sự giải thích của chính họ: đó là vì họ đã nhìn thấy Chúa Giêsu hiện đang sống”.

Blaise Pascal, nhà thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe doạ giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Chúa Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Chúa đã sống lại. Pascal nói ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “chém đầu” vì lời rao giảng của mình.
Trong cuốn sách mang tựa đề “Ngang qua thung lũng sông Kwai”, Ernest Gordon đã kể lại câu chuyện đám tù binh hai ngàn tù binh đã bị chết vì bệnh tật và vì bị đối xử tàn tệ. Thế nhưng, họ được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nghiệm riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh nầy từng lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành những bộ xương biết đi. Tinh thần họ bị xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xảy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh Thánh. Nhờ suy tư tìm hiểu Kinh Thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng nầy khiến họ quỳ gối xuống thưa Chúa Giêsu “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

Anh chị em thân mến,
Chúng ta cũng phải biểu lộ niềm tin trực tiếp vào Chúa Giêsu như thế. Chúng ta cũng phải tìm được lý do riêng tư thôi thúc chúng ta quỳ gối xuống thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Dĩ nhiên chúng ta không thể leo lên cỗ máy thời gian bay ngược dòng lịch sử cách đây 2000 năm để dự lễ Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta cũng không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi tay Chúa Giêsu giống như Thánh Tôma. Vậy thì chúng ta có thể làm gì?

Chúng ta có thể làm như đám tù nhân ở bờ sông Kwai. Chúng ta có thể tin vào Tin Mừng, có thể tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin, có thể tự cảm nghiệm được Chúa Giêsu Phục sinh đang ngự giữa chúng ta: Ngài sẵn sàng giúp đỡ chúng ta như Ngài từng giúp đỡ đám tù binh nọ. Đây là lời mời gọi mà Tin Mừng hôm nay dành cho chúng ta. Đây là lời mời gọi Chúa Giêsu ngỏ với chúng ta như Ngài nói với Thánh Tôma: “Tôma, vì con đã thấy nên con mới tin, nhưng phúc cho kẻ nào không thấy mà tin”.

Thưa anh chị em,
Khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” là Ngài đang ngỏ lời với chính chúng ta cũng như với triệu triệu Kitô hữu trong suốt dòng lịch sử. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Tin Mừng. Phúc cho chúng ta nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu bằng đức tin. Thật vậy, phúc cho chúng ta, vì cũng như các tù binh nọ, chúng ta sẽ khám phá được Chúa Giêsu đã sống lại và hiện đang sống ngay lúc nầy đây giữa chúng ta và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta.

Cuối cùng, đức tin còn phải được nuôi dưỡng bằng những dấu hiệu, dấu chỉ. Không có các bí tích, không có Thánh Thể, chúng ta sẽ tìm đâu ra cơ hội để gặp thấy sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh? Một khi đức tin của chúng ta đã được các dấu hiệu, các bí tích nầy thức tỉnh rồi, thì mọi sự sẽ có thể trở thành dấu hiệu về sự hiện diện của Chúa Kitô: các biến cố, các hoàn cảnh, tha nhân… Mỗi giây phút đưa chúng ta đến với một cuộc gặp gỡ và chúng ta lại có thể tuyên xưng như Thánh Tôma tông đồ: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”.


Suy Niệm 1. HỌC HỎI TỪ TÔMA
Thật dễ sai lầm khi cho rằng những ai đã nhìn thấy Đức Giêsu, thì dễ có lòng tin hơn so với chúng ta. Tin Mừng chứng tỏ rằng có nhiều người đã được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng vẫn không có lòng tin nơi Người. Nhìn thấy không nhất thiết là tin. Động tác tin tưởng lôi kéo theo một quyết định tin tưởng.

Trên thực tế, Tin Mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là người Tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông đồ đều như vậy cả. Thánh Maccô kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối Phục sinh, “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người chỗi dậy”. (Mc 16: 14).

Chúng ta có thể thông cảm cho các Tông đồ. Cảnh Đức Giêsu bị đóng đinh đã làm cho họ bị tuyệt vọng. Họ đã dành cho Đức Giêsu một tầm quan trọng lớn lao. Họ đã bỏ hết công việc của mình, và để lại mọi sự để đi theo Người. Thế mà Người lại đột ngột ra đi. Càng nghe nói thật về cái chết của Người, thì sự mất mát của họ càng trở nên lớn lao hơn. Giá trị và ý nghĩa của tất cả mọi sự đều bị đe doạ: tình bạn đồng hành, lòng tin và toàn bộ cuộc sống của họ.

Và rồi một điều không thể tin nổi đã xảy ra – một lần nữa, Người lại đứng giữa họ. Việc đầu tiên mà Người làm, là chỉ cho các ông nhìn thấy những vết thương của Người. Tại sao Người lại làm như vậy? Trước hết, bởi và những vết thương này giúp cho các ông nhận ra Người chính là Đấng đã bị đóng đinh. Thứ hai, những vết thương này là bằng chứng tình yêu của Người đối với họ. Tình yêu phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Sau đó, Người còn mời gọi các ông “nhìn xem và sờ tay vào”.

Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ông đã chứng tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ông không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mang mặc cảm tội lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi vì trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu: “Lạy Chúa, Lạy Thiên Chúa của con”.

Ở nơi đây, trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không còn cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối chắc chắn có thể đưa đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton).

Một cộng đoàn đều có thể rút được kinh nghiệm từ một nhân vật như Tôma, nghĩa là một người có can đảm đặt ra những câu hỏi mà không một người nào khác dám hỏi. Đó là người chân thành, người như vậy cũng giúp cho những người khác giữ được chân thành. Họ làm cho những kẻ tin tức giận, khi bày tỏ sự mỏng dòn nơi lòng tin của họ; họ làm cho những kẻ hoài nghi tức giận, khi làm cho những người này cảm thấy sự dằn vặt của nỗi trống rỗng trong tâm hồn.

Sau khi chế ngự được khủng hoảng lòng tin của mình, Thánh Tôma đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Giêsu, và trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo Hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đưa Tin Mừng tới tận Ba , Syria và Ấn Độ, là nơi ngài chịu tử đạo. Thánh Tôma là người Tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin.

Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Người trong lòng tin, và nhìn vào những vết thương của Người. Mặc dù chúng ta không được đụng chạm vào Người về mặt thể lý, nhưng chúng ta vẫn có thể tiến lại gần Người về mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác. Công việc của Chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết người.

Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm” vào Người thông qua những kẻ đi theo Người. Nhưng kẻ đi theo Người lại không hề có vết thương tình yêu để bày tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục được những kẻ không tin.

Xin cho chúng ta xứng đáng được kể và số những người mà Đức Giêsu chúc phúc, nghĩa là “những kẻ không thấy mà tin”

Suy Niệm 2. TRÀO LƯU CHÍNH THỐNG
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.

Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ có rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.

Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.

Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tìm kiếm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú cả khu rừng.

Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, đế mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.

Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.

Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.

Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó nhọc, đó là đi tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.

Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.

Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe doạ hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và Người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.

Tiếp Cận Khác: Khủng hoảng đức tin
Tông đồ Tôma đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin. Nhiều người cũng đang khủng hoảng đức tin. Tolstoy là một con người mẫu mực, ngoại trừ cuộc sống của ông cũng đang bị một cơn khủng hoảng về mặt ý nghĩa.
Năm 1879, ông được 51 tuổi. Ông có lý do để mãn nguyện với chính mình. Ông đã hoàn thành hai cuốn tiểu thuyết, Chiến tranh và Hoà bình và Anna Karenina. Nếu ông không viết một tác phẩm nào khác nữa, thì hai cuốn tiểu thuyết này đủ đảm bảo cho ông có một vị trí xứng đáng trong cuốn sử biên niên của nền văn học thế giới. Văn phong của hai cuốn sách này đã giúp cho ông có thể diễn tả được tính cách vĩ đại và khả năng sáng tạo của ông. Đáng lẽ ông rất hạnh phúc. Tuy nhiên, ông lại cảm thấy đau khổ. Ông cảm thấy cuộc sống của mình không có ý nghĩa. Có một câu hỏi cứ lảng vảng trong ông: “Liệu có bất cứ ý nghĩa nào trong cuộc sống của tôi sẽ không bị cái chết huỷ hoại đi chăng?”.

Đối với ông, đây là một thời kỳ nguy hiểm và đau đớn –ông đã từng dự tính tự tử. Ông tìm kiếm một lời giải đáp cho những câu hỏi của ông trong từng lãnh vực của kiến thức nhân loại. Ông cứ kiên nhẫn tìm kiếm, cả ngày lẫn đêm, giống như một người đang giãy chết tìm cách để được cứu thoát. Nhưng ông vẫn không hề tìm thấy gì cả.

Thế rồi ông quay trở lại với niềm tin của các Kitô hữu. Ông đã từng được nuôi dưỡng trong lòng tin, nhưng ông đã từ bỏ đức tin đó từ lâu rồi. Ông cảm thấy khó chịu đối với niềm tin này, và coi đó như là thứ vô nghĩa lý trên môi miệng của những kẻ có cuộc sống trái ngược hẳn với cuộc sống của ông. Nhưng khi nhìn vào những con người sống bằng niềm tin, thì cũng chính niềm tin này lại lôi cuốn ông và dường như gây cho ông sự xúc động.

Từ đó, ông được lôi kéo quay trở lại với niềm tin này và ông đã nhận ra được ý nghĩa của niềm tin. Ông nói: “Tôi đã từng suy nghĩ rằng trong cuộc sống, không hề có chân lý chắc chắn. Nhưng rồi tội đã tìm thấy một nguồn ánh sáng đó từ trong Tin Mừng, và nét rạng ngời của ánh sáng đó đã làm ngây ngất cõi lòng tôi. Trong những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi nhận ra rằng đó là một học thuyết tinh tuyền nhất và đầy đủ nhất trong cuộc đời. Từ 2000 năm nay, lời rao giảng cao cả và quý giá của Đức Giêsu đã tạo ra một ảnh hưởng trên con người, theo cách thức mà không có bất cứ người nào khác có thể tạo ra được. Một ánh sáng đã chiếu toả trên con người tôi và chung quanh tôi, và kể từ đó, ánh sáng này không bỏ rơi tôi nữa”.

Một số người đã được đưa ra vào lòng tin tôn giáo ngay từ lúc mới sinh, và theo năm tháng, họ nhận thấy lòng tin này càng ngày càng mạnh mẽ và vẫn được duy trì. Khi có được lòng tin như vậy, thì đó là một ơn phúc lớn lao. Nhưng đối với những người khác, lòng tin là một cuộc đấu tranh liên lỉ. Thật vậy, có thể một số người đã phải trải qua một cơn khủng hoảng, rồi mới đến được một lòng tin sâu xa và mang tính cách cá nhân.

Chỉ có lòng tin mới có thể trả lời cho những câu hỏi sâu xa nhất và quan trọng nhất trong cuộc đời. Nhưng chúng ta không được mong đợi lòng tin soi sáng tất cả mọi sự, bởi vì chúng ta có lòng tin, điều đó không có nghĩa là chúng ta biết được tất cả mọi câu trả lời. Nhưng chúng ta không nhất thiết biết tất cả những câu trả lời. Lòng tin là sự tin tưởng, chứ không phải là biết chắc chắn.

Câu chuyện của Tôma đa nghi giúp chúng ta hiểu rằng ân sủng lòng tin được chứa đựng trong bình chứa là con người nhân loại thật mỏng dòn biết bao. Và điều này cũng chỉ ra cho chúng ta rằng lòng tin Kitô giáo nhất thiết phải là lòng tin đối với một Đấng đã yêu thương chúng ta –và Người đã có những vết thương để chứng tỏ tình yêu này. Tất cả cốt lõi của lòng tin trong Kinh Thánh không chỉ là lòng tin mà chúng ta có được nơi Thiên Chúa, nhưng còn là lòng tin mà Thiên Chúa có nơi chúng ta.

CÂU CHUYỆN KHÁC
Walter Ciszek, một linh mục dòng Tên người Ba Lan, đã trải qua 15 năm sống trong các trại cưỡng bức lao động tại Siberia. Trong suốt những năm tháng đó, ông thuộc về những lữ đoàn thấp kém nhất, đã ép buộc ông phải làm những công việc bẩn thỉu nhất – đào nền bằng tay, khiêng vác những vật liệu xây dựng nặng nề, bò qua những khu hầm mỏ tối tăm, ẩm thấp, tại đó, chỉ cần sơ ý một chút là đủ đưa đến cái chết.

Điều gì đã giúp cho ông tồn tại được? Ông nói “Nhiều người đã chết, đặc biệt khi mất đi niềm hy vọng. Nhưng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa, và nhờ đó, không bao giờ tôi cảm thấy mất niềm hy vọng. Không phải là tôi duy trì được lòng tin, nhưng chính lòng tin đã giúp tôi tồn tại”.

Hạnh phúc cho những ai có được một lòng tin như thế.


Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, cảm tính không nhanh nhạy đủ hoặc lý trí còn đòi hỏi những chứng cứ, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, mà theo một số người, đã rành rành hiển nhiên, người ta vội vàng đưa vào gia phả “con cháu Tôma”. Kể cũng oan!

Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.

1. “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào “ngày thứ nhất trong tuần” cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.

Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy…tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lầm lẫn với người khác.
Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì “tám ngày sau”, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã dõng dạc tuyên xưng không phải bằng công thức chung chung như mọi người nữa, mà bằng một cách rất riêng đậm màu bản sắc làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn.

Thay vì “phải thấy mới tin”, ông đã nhận ra rằng “phải tin mới thấy” trọn vẹn: thấy Đấng Phục Sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục Sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.

2. “Đừng cứng lòng, nhưng hãy tin”.
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.

Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu thêm. Có biết đâu tin như thế không còn là tin nữa, mà một cách nào đó đã trở thành cả tin. Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả?

Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín!

Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan nguỳ, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không có vấn đề nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?

Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niêm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. “Đừng cứng lòng!” phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”

3. “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”.
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.

Trong hạnh phúc ấy, sau này các Tông đồ đã quy tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khởi đãvui mừng cử hành niềm tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức Phụng Vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.

Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hoà với nhịp sông cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.

Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhoà. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không thấy. Nhất là khi phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng “thấy được” để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả!

Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có câu dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.

Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc?

Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”. Để xin thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.



8. Chú giải của William Barclay
CHÚA KITÔ SAI PHÁI (Ga 20,19-23)
Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Toà Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chào thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.

1. Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.
a. Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Hội Thánh.


b. Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.

c. Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.

2. Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.

KẺ NGỜ VỰC CHỊU THUYẾT PHỤC (Ga 20,24-29)
Với Tôma, ông chỉ còn chờ thập giá mà thôi. Khi Chúa Giêsu đề nghị đến Bêtania lúc được tin Ladarô bị bệnh, Tôma nói: “Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài” (Ga 11,16). Tôma không thiếu can đảm, nhưng ông có tính bi quan. Không ai nghi ngờ việc Tôma rất yêu mến Chúa Giêsu. Ông yêu Ngài đủ để sẵn sàng cùng đi với Ngài lên Giêrusalem, sẵn sàng để chết khi các môn đệ khác phân vân, sợ hãi. Điều mà Tôma chờ đợi đã xảy ra, và khi việc xảy ra như ông chờ đợi thì ông vẫn đau đớn vô cùng, ông đau đớn đến độ không muốn nhìn mặt ai nữa, ông ở riêng với niềm đau của mình.

Vua George Đệ Ngũ thường nói một trong những quy luật sống của ông: “Nếu ta phải chịu đau khổ thì hãy để ta như một con vật tốt giống và để ta chịu khổ một mình trong cô đơn”. Tôma phải đối diện với nỗi đau buồn của ông trong cô đơn. Vì thế, khi Chúa Giêsu trở lại với các môn đệ thì Tôma đã không có mặt. Với ông tin báo Chúa Giêsu sống lại là một tin dường như quá tốt lành đến độ không thể tin có thật, vì thế ông đã không chịu tin. Với tâm trạng phân vân do bản tính bi quan, ông tuyên bố chẳng bao giờ ông tin Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cho đến khi thấy tận mắt, đặt ngón tay ông vào dấu đinh trên tay Chúa và đặt bàn tay ông vào chỗ mũi giáo đã đâm nơi hông Ngài (Kinh Thánh không chép gì về các vết thương nơi bàn chân Chúa Giêsu, vì trong hình phạt đóng đinh vào thập giá, đôi chân không bị đóng đinh, chỉ cột vào đó mà thôi).

Thêm một tuần lễ trôi qua, lần này Tôma có mặt với các môn đệ khác. Chúa Giêsu biết rõ tấm lòng của Tôma, Ngài lặp lại lời ông và mời ông tự làm cuộc trắc nghiệm mà ông từng đòi hỏi. Bấy giờ, lòng Tôma tuôn trào tình yêu và thờ kính, ông chỉ có thể thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma ơi, ngươi cần thấy tận mắt rồi mới chịu tin, nhưng sẽ có lúc người ta chỉ thấy bằng con mắt đức tin và tin nhận. Trong câu chuyện này tâm tính Tôma đã bộc lộ rõ ràng trước mắt chúng ta:
1.  Tôma đã phạm một lỗi lầm. Ông đã vắng mặt trong buổi họp mặt anh em. Ông tìm sự cô đơn hơn là họp nhau. Và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc Ngài đến đó lần thứ nhất. Chúng ta sẽ bị mất mát nhiều nếu tự tách mình ra khỏi cộng đoàn để tìm cách sống cô đơn. Nhiều điều có thể xảy ra khi chúng ta cùng ở với nhau trong Hội Thánh Chúa, nhưng sẽ không xảy ra khi chúng ta sống cô đơn. Khi gặp cảnh đau buồn, chúng ta thường có khuynh hướng muốn đóng cửa lại, nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả. Nhưng chính những lúc như thế, mặc dù đau buồn, chúng ta nên tìm cách thông hảo với anh em, vì trong sự thông hiệp đó chúng ta có cơ may gặp Chúa.

2.  Nhưng Tôma có hai đức tính lớn. Ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giờ nói mình hiểu trong khi không hiểu. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng. Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến, không thật sự tin tưởng. Cính hoài nghi như thế đến cuối cùng sẽ đạt đến chỗ tin chắc.

3.  Đức tính kia của Tôma là khi biết chắc, ông sẽ đi cho đến cùng. Ông nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Với Tôma không có vị trí lưng chừng. Ông không làm bộ hoài nghi chỉ nhằm chơi trò xiếc tinh thần, ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Khi một con người chiến đấu với nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin Đức Giêsu là Chúa, người ấy đạt được sự chắc chắn mà những người dễ dàng chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ đạt tới được.

TÔMA VÀO NHỮNG NGÀY SAU ĐÓ (Ga 20,24-29)
Chúng ta không rõ những ngày sau đó điều gì xảy đến cho Tôma. Nhưng có một sách ngoại kinh nhan đề: “Các công việc của Tôma” dựng lại tiểu sử của ông. Dĩ nhiên đây chỉ là truyền thuyết cũng có phần nào là lịch sử, và trong sách đó, Tôma được mô tả trung thực với tính tình của ông. Sau đây là một phần trong câu chuyện đã được kể lại về ông.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, các môn đệ phân bổ khu vực rao giảng Phúc Âm, mỗi người đến một nơi nào đó để truyền bá Phúc Âm cho mọi người khắp thế gian đều được nghe. Tôma bắt thăm nhằm xứ Ấn Độ (Giáo Hội thánh Tôma ở miền Nam Ấn truy lai lịch của họ từ Tôma). Thoạt đầu Tôma không chịu đi, ông bảo ông không đủ sức thực hiện một chuyến đi xa đến thế. Ông nói: “Tôi là một người Do Thái, làm sao lại có thể đến sống giữa những người Ấn Độ mà rao giảng chân lý cho họ được?”. Tối đến, Chúa Giêsu hiện đến với ông và phán: “Hỡi Tôma đừng sợ, hãy đến Ấn Độ và giảng ở đó, vì ân sủng Ta ở với ngươi?. Thế nhưng Tôma vẫn ngoan cố từ chối. Ông nói: “Nếu Ngài muốn sai con đi thì sai, nhưng đi nơi nào khác chứ không đến với dân Ấn, con sẽ không đi đâu!”. Bấy giờ có một thương nhân tên Abbanes từ Ấn đến Giêrusalem, ông được nhà vua Gundaphorus sai đi tìm một thợ mộc giỏi đem về Ấn Độ, và Tôma vốn là thợ mộc. Chúa Giêsu đến cùng Abbanes ngồi chơi và hỏi: “Ông có muốn mua một thợ mộc không?” Abbanes đáp “Muốn” Chúa Giêsu nói: “Tôi có một tên nô lệ làm thợ mộc và tôi muốn bán”. Rồi Ngài chỉ Tôma đứng ở đàng xa, họ thuận giá và Tôma bị bán. Tờ bán viết như sau: “Tôi tên là Giêsu, con trai Giuse làm thợ mộc, nhìn nhận có bán tên nô lệ của tôi là Tôma cho ông Abbanes, thương gia của Gundaphorus, vua dân Ấn”. Sau khi biết xong giấy bán, Chúa Giêsu đi tìm Tôma, đưa ông đến với Abbanes. Abbanes hỏi: “Có phải người đó là chủ của anh không?” Tôma đáp: “Phải!” Abbanes nói: “Tôi đã mua anh từ tay ông ta”. Tôma yên lặng. Sáng hôm sau, Tôma dậy sớm cầu nguyện, sau đó ông thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu con xin đi bất cứ nơi nào Ngài muốn, nguyện ý Ngài được nên trọn”. Đó chính là Tôma một người chậm tin, nhưng khi đã tuân phục thì tuân phục hoàn toàn.

Câu chuyện tiếp tục kể rằng vua Gundaphorus ra lệnh cho Tôma xây một cung điện, Tôma tâu rằng ông có đủ khả năng để làm việc ấy. Nhà vua cấp tiền đầy đủ cho ông mua vật liệu và thuê nhân công, nhưng ông đem phân phát hết cho người nghèo. Ông luôn tâu với vua rằng ngôi nhà đang được xây cất, sau đó nhà vua sinh nghi, cho gọi Tôma đến và hỏi: “Ngươi xây cung điện cho ta xong chưa?” Tôma đáp: “Xong rồi!” Nhà vua hỏi: “Vậy bây giờ ta đến xem được chăng?” Ông đáp: “Bây giờ hoàng thượng chưa thể đến xem được, nhưng sau khi lìa bỏ cõi đời này thì hoàng thượng sẽ thấy”. Thoạt đầu nhà vua nổi cơn thịnh nộ và tính mạng Tôma bị đe doạ, nhưng cuối cùng nhà vua tin Chúa. Như thế, Tôma đã đem Kitô giáo đến Ấn Độ.

Nơi Tôma có cái gì rất đáng yêu, đáng ngưỡng mộ. Với Tôma, có đức tin không phải là chuyện dễ. Ông không bao giờ sẵn sàng vâng lời ngay. Ông là người muốn biết chắc chắn, ông tính thật kỹ giá phải trả. Một khi đã biết chắc, ông nhất quyết tin và vâng phục cho đến cuối cùng. Đức tin như ông tốt hơn loại đức tin bằng đầu môi chót lưỡi, vâng lời như ông tốt hơn cái gật đầu dễ dãi đồng ý nhận làm một việc gì đó mà không cân nhắc, để rồi sau đó lại rút lại điều mình đã hứa.

MỤC TIÊU CỦA SÁCH PHÚC ÂM (Ga 20,30-31)
Rõ ràng theo mục tiêu đã hoạch định từ ban đầu, sách Phúc Âm này phải chấm dứt ở đây. Chúng ta có câu kết thúc tự nhiên và chương 21 tiếp theo phải được xem là phụ lục được thêm về sau này. Đoạn này đã tóm tắt mục tiêu của tác giả cách ngắn gọn và đầy đủ.
1.  Các sách Phúc Âm không có ý đưa ra một tường thuật đầy đủ về đời sống Chúa Giêsu. Các sách này không ghi theo từng ngày, từng giờ của Chúa, nhưng lại ghi chép một cách chọn lọc. Các tác giả không kể lại cho chúng ta tất cả mọi sự Đức Giêsu đã phán dạy hay thực hiện, vì kể như vậy chẳng bao giờ có thể xong được, nhưng họ chọn lọc các biến cố điển hình nhằm vạch rõ Chúa là ai, và các loại công việc mà Ngài thường làm.
2.  Hơn nữa, các sách Phúc Âm không có viết về tiểu sử Chúa Giêsu, mà chỉ nhằm kêu gọi người ta hãy nhận Ngài làm Chúa Cứu Thế, là Thầy và Chủ của mình. Mục tiêu sách không nhằm thông báo tin tức, nhưng nhằm ban sự sống. Các sách ấy mô tả Đức Giêsu thế nào cho người đọc phải thấy, Người giảng dạy, hoạt động, chữa bệnh như vậy không ai khác hơn Con Thiên Chúa. khi đã tin như vậy thì độc giả sẽ tìm được bí quyết của một đời sống đích thực.

Nếu đọc các sách Phúc Âm như một loại sách sử ký hay tiểu sử, chúng ta đã sai lầm. Chúng ta phải đọc các sách ấy như những người đi tìm kiếm Chúa chứ không phải sử gia tìm tài liệu lịch sử.

Theo bất cứ quan điểm nào, chương 21 cũng là chương sách lạ lùng. Gioan đã chấm dứt chương 20, nhưng rồi dường như lại bắt đầu trong chương 21. Nếu không có những điều thật đặc biệt cần nói, chắc tác giả không thêm chương này. Chúng ta biết trong Phúc Âm Gioan thường có hai nghĩa, một nghĩa hiển lộ, một nghĩa ẩn tàng. Khi nghiên cứu chương này, chúng ta sẽ cố gắng tìm những lý do tại sao nó lại được thêm vào cách lạ lùng như vậy, sau khi sách này đáng lẽ phải chấm dứt.


CHÚA HIỆN ĐẾN (19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người. Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.

SỨ VỤ (21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết của Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.

Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hoá một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.

ÔNG TÔMA: KHÔNG THẤY MÀ TIN (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người kể chuyện đưa vào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được đặc biệt nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như trong 4,48: “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông Tôma, là người tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu (11,16), lại chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu hằng sống. Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ; sau nữa, nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.

Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng được miêu tả với những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của ông Tôma cho phép thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về những dấu vết thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm nên mặc khải tối thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp đến, đức tin mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các môn đệ bởi vì ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa Giêsu đã được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi định nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ. Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của Tin Mừng và là sự lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh tượng và nghe biết, sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện thường tình và lý tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn điều họ đã thấy. Ngôi Lời từ lúc mặc lấy xác phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn phải “nhận biết Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người lãnh nhận Tin Mừng, chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng của các Tông đồ, chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.

KẾT LUẬN (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin Mừng trước khi chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các thánh sử đã đưa vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử dụng, ông có hai xác định quan trọng:
·      Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực hiện một sự tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần phải ghi nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu được các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết luận rằng ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ như những người lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả của mình, tuy đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện trong cuộc đời của ông.

·      Sau nữa và nhất là, ông minh định mục tiêu của mình: kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng Mêsia như Kinh Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự sống nhờ Chúa Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khoá để học hiểu. Tin Mừng không phải là một quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà là một quyển sách có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và cũng một tiềm năng sự sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả sinh sống vào thời mà Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có quyển sách này đây, sẵn sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy sinh sự sống do đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.


Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần... các môn đệ đang tụ họp." Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà....
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho ta hai lần hiện ra của Đức Giêsu Phục sinh, trong vòng tám ngày. Tự nhiên, chúng ta thích để ý đến cuộc hiện ra lần thứ hai, cuộc hiện ra dành “cho Tôma"; bởi vì chúng ta thường đồng hoá với ông, để thấy trên thực tế mình cũng gần với một kẻ nghi ngờ, "một kẻ yếu tin" và có thể tìm gặp nơi ông một thứ biện minh cho thái độ thiếu lòng tin của ta.

Nhưng thái độ đồng hoá với Tôma không thể ngăn cản chúng ta đọc toàn bộ bản văn.

Trước hết, chúng ta cần ghi nhận, việc Đức Giêsu sống động hiện ra vào "Chúa nhật", ngày thứ nhất trong tuần có phải vì ngẫu nhiên không? Như chúng ta quá biết, các Kitô hữu tiên khởi không phải ngày nào cũng quy tụ. Họ còn phải lo đời sống riêng hằng ngày. Họ không thể lúc nào cũng cùng nhau hiện diện được. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh đã hiện đến trong khung cảnh buổi họp mặt hàng tuần của họ. Có thể chúng ta mắc sai lầm khi coi đức tin như một việc hoàn toàn có tính riêng tư thuộc phạm vi cá nhân mỗi người. Thực sự, việc Đức Kitô phục sinh hiện diện được nhận biết, cảm nghiệm trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ "cùng nhau” hiện diện, tụ họp, trong Giáo hội.

Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.
Lúc thánh Gioan viết trình thuật trên cũng là thời gian Giáo hội gặp sợ hãi vì bách hại. Các môn đệ của Đức Giêsu có thói quen tụ họp nay ở nhà này, mai ở nhà khác. Họ tiếp đón nhau, cùng nhau kiểm điểm: Có bao nhiêu cuộc rút lui, có bao nhiêu người bỏ đức tin, bỏ nhóm. Họ cũng sợ hãi. Họ đóng cửa, cài then. Nhưng vào mỗi Chúa nhật, thì "Chúa nhật thứ nhất" này, dấu chỉ của phòng Tiệc ly lại được đổi mới: Đức Kitô sẽ lướt qua cách mầu nhiệm giữa các người thuộc về Ngài, nơi họ đang ở; tại Ê-phê-xô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Rôma. Phải, mỗi Chúa nhật, là ngày phục sinh! Lạy Chúa, Chúa đang hiện diện ngay giữa cuộc đời chúng con. Chính Chúa làm cho chúng con được sống. Cho dù không thấy Chúa, chúng con vẫn tin. Lạy Chúa, ngày nay, vì sợ hãi chúng con cũng thích đóng kín cửa. Chớ gì, khi Thần Khí thổi đến, mọi bức tường vây hãm chúng con sẽ sụp xuống và lại đến thời chúng con ca vang? Nào chúng ta hãy mở cửa cho Đức Kitô Phục sinh.

Trước khi suy niệm sâu xa hơn Đoạn Tin Mừng trên, chúng ta hãy tự hỏi, Đức Kitô muốn giải phóng và Phục sinh chúng ta khỏi tình trạng bế tắc nào, khỏi tình trạng sợ hãi nào, khỏi tình trạng đóng cửa cài then nào, khỏi tình trạng "chết chóc" nào. Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khoẻ, những điều gây khổ đau và tuyệt vọng, khó khăn về gia đình, nghề nghiệp... Đó là nơi họ ở đều đóng kín cửa!"

Đức Giêsu nói: "Chúc anh em được bình an!”. Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Chúc anh em được bình an".
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô hữu, không thể là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự phát, niềm vui đột nhiên nâng cao chúng ta, khi mọi sự đều khả quan, sức khoẻ tốt, tuổi trẻ đầy sinh lực, kinh doanh thành đạt, quan hệ bạn hữu và gia đình thoải mái. Thực sự, niềm vui sống lại là niềm vui chỉ đến "sau” sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an phát sinh từ một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (cái chết của một kẻ bị đóng đinh) và kể từ nay trở đi không gì có thể cướp đi khỏi họ: Đó là niềm vui và sự bình an nhờ lòng tin nơi Đức Giêsu.

Mỗi buổi họp mừng Chúa nhật. như hôm nay, Đức Giêsu lại chúc bình an cho ta qua tiếng nói của linh mục: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em". Và Công đồng Vatican II lập lại nghi thức "chào chúc bình an" của truyền thống xa xưa: các Kitô hữu được mời gọi trao bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Bắt tay, ôm hôn, mỉm cười với nhau, trong khi miệng trao đổi: "Bình an của Đức Kitô!". Đó không phải là cử chỉ tầm thường nhưng là thái độ "trở nên Đức Kitô”đối với người bên cạnh “khi nhiều người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ”.

Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Đó! Chúng ta đâu có ngờ rằng Chúa đã phát biểu như thế! Chính Đức Giêsu đang tuyên bố lại với chúng ta những lời trên. Dù tôi có là một người tồi tàn đáng thương, nhưng tôi vẫn là Đức Giêsu được sai đến với anh chị em tôi y như "Người" đã được Chúa Cha sai. Chúng ta không nên lướt nhanh những lời trên, đừng quá vội liên hệ với Tôma, kẻ nghi ngờ. Nhưng hãy để ý đến lời của Đức Giêsu trên đây. Hãy tìm hiểu trách nhiệm cao cả mà Người trao phó cho ta: "sứ vụ của Đức Kitô được uỷ thác cho Giáo hội, cho chính tôi. Tôi là kẻ được Đức Giêsu sai đi như Người đã được Chúa Cha sai đến: Tôi cần phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ Latinh và Hy Lạp, rất tiếc "không được dịch ra": "sứ vụ” có nghĩa "sai gửi" (do từ Latinh là missub) và từ "tông đồ" có nghĩa là "kẻ được sai đi" (do từ HyLạp là apostolos), khi tôi gặp một người nào đó, cùng làm việc với tôi, hay trong môi trường sống hằng ngày, tôi không chỉ hiện diện với họ nhân danh tôi hay theo ý tôi nhưng tôi được Đức Kitô sai đến với họ, nhân danh Người và theo ý Người, như thế Chúa Cha đã sai Đức Giêsu như thế! Tôi cần phải loan báo cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người sẽ nói với bạn điều tôi sắp nói với bạn. Người đang sống trong tôi. Tôi là môi miệng, là thân thể của Người, đang kề cận với bạn, để mạc khải cho bạn tình yêu của Chúa Cha.

Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần".
Đó là ân huệ của Thần Khí, là "cuộc tạo dựng mới". Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, đã trở về với Chúa Cha. Đến lượt các Kitô hữu tiếp tục công việc của Người! Họ là những người mang hơi thở sống động, mang Thần Khí của Người. Họ sắp tiếp nối công trình của Người. Thánh Phaolô nói: "Anh em là Thân thể của Đức Kitô. Anh em là Đền thần của Thánh Thần". Còn thánh Gioan minh chứng cho ta, Đức Giêsu tiếp tục cử chỉ của Creator Spiritus. Lạy Thần Khí tác tạo, xin hãy đến!”.

Theo thánh Gioan, Lễ Hiện xuống, đó là buổi chiều Ngày Phục sinh: cốt yếu mọi hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng tử thần, đó là ân huệ của "Thần khí đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong cõi chết" (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính, ta tuyên xưng về Thần Khí: Ngài là Đức Chúa, là Đấng ban sự sống". Thần Khí được trao ban cho con người vào buổi chiều Phục sinh, sẽ tỏ hiện cách công khai rực rỡ năm mươi ngày sau đó vào Lễ Hiện xuống. Đó là thần khí của Thiên Chúa vừa biểu lộ quyền năng của mình, để lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần và mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ biến cố Phục Sinh. Xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa" (Rm 1,4).
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.
"Thắt buộc" và "tháo cởi"; "Tha giải" và "cầm giữ" tội lỗi. Đó chỉ là hình thức ngữ pháp theo kiểu nói A-ra-mên: Theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác định mạnh hơn một thực tại, và nhấn mạnh đến từ mang tính tích cực. Như thế, trong khi trao ban Thần Khí của mình, Đức Giêsu cũng thông truyền cho các môn đệ quyền "tháo cởi con người khỏi sự ác". Từ nay, ngay tại trần gian này, họ đã là người mang "lòng thương xót của Thiên Chúa" nhờ Đức Giêsu là hiện thân? "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.". Các Kitô hữu được trao uỷ cho chính sứ vụ mà Đức Giêsu tự nhận là của mình, lúc Ngài hiện diện tại Hội đường Nadarét, khởi đầu tác vụ: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân Chúa, trả lại tự do cho người bị áp bức (Lc 4, 18- 19). Tôi có là người mang Thần Khí đó, Thần Khí giải phóng, Thần Khí ban sự sống, Thần Khí yêu thương và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.

Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tôma, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến... Ông ta nói với họ: "Nếu tôi không thấy... tôi chẳng có tin".
Đó là một "kẻ đến chậm". Ông đến sau buổi gặp gỡ.
Trong Tin Mừng, Tôma luôn tỏ ra là một người chỉ tin vào lương tri của mình. Ông thực sự nghi ngờ cả thái độ dấn thân liều mạng của Đức Giêsu. "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu' (Ga 14,5). Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Ladarô, thì Tôma chỉ thấy hiện lên sự chết (Ga 11,15-16).

Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến và nói: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đừng cứng lòng nữa...".
Dù đã Phục sinh, Đức Giêsu vẫn tỏ ra khôi hài! Trong suốt một tuần lễ, Người đã để cho Tôma bề ngoài xem ra có lý lắm. Nhưng lúc này tôi thấy như Đức Giêsu vừa mỉm cười khiêu khích, vừa nói với Tôma. Người có vẻ đang nói với ông: Này anh bạn đáng thương của tôi ơi, anh cứ tưởng tôi đã chết và hết hiện hữu, khi anh quả quyết với các bạn hữu rằng anh chẳng có tin đâu... nhưng chính lúc đó, tôi vẫn hiện diện cách vô hình, chứng kiến các anh đàm luận. Tuy nhiên, tôi đã không tỏ mình ra cho anh, ngay lúc đó. Ôi Thiên Chúa thật là kiên nhẫn, Người làm chủ thời gian của Người.

Ông Tôma thưa với Người: "Lạy Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của con".
Đó là tiếng kêu biểu lộ lòng tin của một người không cần đến "sờ chạm" nữa. Ông đã hiểu rằng, Đức Giêsu, dù bề ngoài không thấy, vẫn hiện diện đó? Người có mặt ngay cả vào giờ phút họ nghi ngờ xao xuyến.

Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
Một mối phúc, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể "thấy" được những thực tại siêu việt nhất của Thiên Chúa. Chỉ có "đức tin" mới dẫn chúng ta vào những thực tại đó. Và đó là hạnh phúc đích thực.


TỪ NHẬN BIẾT ĐẾN RAO GIẢNG TIN MỪNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
I. TỪ CHÚA NHẬT …
Chúng ta đang ở vào thời điểm sau cái chết của Đức Giêsu, vào chiều ngày thứ nhất của một tuần lễ, ngày tụ họp của các Kitô hữu đầu tiên, thời gian ưu tiên cho sự hiện diện của Chúa Phục sinh giữa cộng đồng mà Người triệu tập để chia sẻ cho họ Lời và Bánh và sai họ vào thế giới.
Trong trình thuật này, chúng ta gặp ba thời điểm đặc biệt của tiến trình Vượt qua:
·        Đấng phục sinh chủ động đến.
·        Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
·        Tiếp nhận sứ mệnh của Đấng Phục sinh.
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9.34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.

Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.

2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng" ("L'evangile de Jean, Centurion". trg 246).

3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.

II. ĐẾN CHÚA NHẬT SAU
Lần Chúa đến chiều Chúa nhật trước, Tôma đi vắng. Nhờ đó mà có bản tường thuật thú vị Chúa nhật này. Điển hình của sự cứng lòng tin, Tôma không đón nhận điều mà các anh em kể lại; chắc gì đã là Đức Giêsu phục sinh? ông chủ trương: Phải thấy tận mắt, sờ tận tay mời đáng tin. Thế là Đức Giêsu lại đến. Cùng một cung cách tường thuật. Đức Giêsu đến khi các cửa cài chặt. Người lặp lại lời chào phục sinh: "Bình an cho anh em". người lại chỉ cho các ông thấy tay và cạnh sườn. Với Tôma, Người nhấn mạnh đến sự liên tục và đồng nhất giữa Đấng chịu đóng đinh và Đấng đang vinh hiển: "Xỏ ngón tay vào đây và nhìn cho kỹ bàn tay Thầy. Hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy mà coi". Gerard Bessière tự hỏi: "Đến như thế thì vị Tông đồ cứng, lòng còn biết làm gì bây giờ! Người ta đã tranh luận nhiều. Các bức hoạ thường trình bàn Tôma chỉ giơ tay hướng về các vết thương nơi tay hoặc cạnh sườn Chúa. Điều quan trọng là lời: "Thôi! Đừng cứng lòng nữa, hãy tin". ("Dieu si proche", DDB, trg 53-54).

Thế là Tôma tuyên xưng lòng tin. Một cách tuyên xưng đức tin độc đáo của Tân ước. Một tuyên xưng mà chúng ta nghe vang vọng nơi các kinh Tin Kính của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Chúng ta cũng tuyên xưng như thế mà. Các định tín sau này cũng không vượt qua lời tuyên xưa ấy: “Lạy Chúa tôi lạy Chúa Trời tôi ".

Quang cảnh kết thúc bằng một mối phúc: "Vì con đã thấy Thầy nên con tin. Phúc thay kẻ đã không thấy mà tin”. Mối phúc sau cùng của Tin Mừng đấy. Mối phúc của người tín hữu. A. Marchadour ghi tiếp: "Đó là kết luận của toàn bộ Tin mừng, một điệp khúc của luận đề quan trọng trong Do Thái giáo: giữa thấy và tin, hình ảnh và lời thoại, hiện tượng và ngôn từ. Vế thứ hai trong các cặp luận đề vừa nêu làm nên điều kiện bình thường và lý tưởng của lòng tin. Ngay cả kẻ đã thấy thì cũng còn phải vượt qua những gì mình thấy để mà tin. Ngôi Lời, từ khi trở nên xác phàm, đã để cho các môn đệ phần xác thể, phần nhân loại. Nhưng họ phải "thấy Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Là những kẻ thừa hưởng Tin Mừng, chúng ta thật diễm phúc. Chúng ta không thấy. Chúng ta chỉ nhờ vào chứng từ của các Tông đồ mà gắn kết với Đức Kitô trở thành tín hữu. (Sđd, trg 248).

BÀI ĐỌC THÊM:
1. Tôma, một vị tiền hô
(“Célébrer", tạp chí của Trung tâm Quốc gia về mục vụ phụng vụ, số 2348, trg 18).
Nhân vật có tên Tôma và sự cứng lòng tin của ông vẫn luôn gây chú ý. Cần cả một bài giảng mới đề cập đủ về nhân vật này. Xin gợi lại điều mà thánh Gioan nói về ông: nhiệt tình vô lối (11,16), hoang mang (14,5). Bản tính thế nào thì phản ứng như vậy, nên trong trường hợp này, cũng dễ thông cảm với ông. Ông là loại người muốn đi tới cùng nhưng lại không đặt tin tưởng vào một ai.

Đức Giêsu chấp nhận vào cuộc (chỉ cho ông các vết thương) và đã khơi gợi nơi ông cửa ngỏ của lòng tin: đó là lòng cậy trông sâu thẳm nơi ân huệ nhưng không. Và Tôma đang trên con đường biến đổi: từ lòng tin và những lần đón Chúa xuất hiện đến niềm tin của Giáo Hội khuất dạng Đấng Phục sinh. Tại sao lại không nhận ra điều này: Tôma không phải một kẻ cản trở lòng tin. mà là vị tiền hô của lòng tin như Gioan Baotixita? Theo thánh Gioan, kẻ sau hết tin vào Đấng Phục Sinh hiện diện lại là kẻ trước tiên không còn cần thấy và chạm đến Chúa để được kêu lên "Lạy Chúa tôi, lạy Chúa Trời tôi”. Ngài dám đặt ra câu hỏi làm cớ cho chúng ta nhận được câu trả lời cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

2. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.
"Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Cần nhấn mạnh tới lời Đức Giêsu nói đây, những lời ấy hé cho thấy sự ưu tư của Đức Giêsu, của các môn đệ ghi chép Tin Mừng. Sự ưu tư của những ai không gặp Chúa khi Người đến trần gian. Họ hiểu ra rằng: tình cảnh của họ không cam go hơn tình cảnh các Tông đồ, những chứng nhân tiên khởi. Nói những lời ấy, Đức Giêsu nghĩ tới chúng ta, 20 thế kỷ sau các Tông đồ, chúng ta cũng nhận được cùng một ánh sáng rọi chiếu như các ngài. Nếu chỉ quan tâm tới không gì mắt thấy, có lẽ các Tông đồ diễm phúc hơn chúng ta, nhưng nếu xác tín rằng Đức Tin là một ân huệ của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng được xếp vào cùng hàng ngũ với các Tông đồ là những kẻ cũng phải có cùng một xác tín. Cùng với các vị đặt nền móng cho Giáo Hội, chúng ta dâng lên Chúa lời cảm tạ vì ân huệ đã nhận.được. Năng lực chúng ta có cũng sẽ tương xứng như thế. Đến lượt mình, chúng ta cũng có thể là những người đặt nền móng cho các Giáo Hội đang được thành lập vào lúc khởi đầu của thiên niên kỷ mới này.

Giáo Hội thuộc mọi thời đều qui tụ trong ân huệ duy nhất của Chúa, trong niềm vui duy nhất của Chúa. Như tôm, sự chậm tin của chúng ta sẽ giúp chúng ta cảm thông và hiểu biết sâu xa đối với những tất cả những ai chưa được đón nhận ân huệ đó.



12. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
HIỆN RA CÙNG TÔMA

1. Chương 20 của phúc âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô phục sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng.
Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể thấy chương 20 được hình thành như sau:

| Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
- Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
- Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt 28,9tt; Mc 16,9)

|Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
- Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
- Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24 -49)

|Kết cục: (20,30-31)
Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.

Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).

Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và giải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thầy gọi tên bà (c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục sinh (c.29) khi nhìn thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương 20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô phục sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của tất cả các tín hữu sau này.

2. “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27). Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.

Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thầy dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là TC của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh.

Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong phúc âm Gioan gán tước hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể phúc âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và là TC của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều lần các sách TƯ đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô. Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.

Đức Kitô cũng được gọi là TC, nhất là trong các thư mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và “TC” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1; Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ TC. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho TC (Cv 7,59).

3. Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, phúc âm thứ tư là “phúc âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả phúc âm nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quý nhất cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao quý của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của TC trong chúng ta dù cao quý đến đâu, cũng không xoá bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.

Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức Kitô.

Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau, việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chứng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena... chỉ có một giá trị tương đối...(chúng ta phải coi chúng) như là một lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr. 696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi tác giả phúc âm thứ tư, hơn các phúc âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác giả phúc âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn phúc âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Mt? Khó có thể tìm ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: vì Gioan - tác giả phúc âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của Ngài, với Tôma.

4. “Còn nhiều dấu lạ khác nữa...": Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con...” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian - thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón nhận đức tin - Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác hoạ đơn sơ. Không phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác...(x. Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.

Độc giả cần phải có đức tin, phúc âm không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của phúc âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá huỷ càng được trao ban nhờ danh - hay con người - Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)

Không! Tin mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, phúc âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)

KẾT LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô phục sinh (17,20).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phản ứng của Tôma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.
2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tất cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.

3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá huỷ một cái gì cao quý và cần thiết.

4. Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lòi nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.

5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn phúc âm này: “Bằng an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.



13. Dấu ấn của đau khổ
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?

Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu. Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.

Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hay gặp phải tai ương hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra.

Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
-      Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ánh nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
-      Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện này luôn có một sự liên tục trong phát triển.

Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.

Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên Chúa.

Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi trước khi được bước vào vinh quang.



14. Tôma
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện này. Thực vậy, vào buổi chiều chính ngày Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện đến với các môn đệ đang tụ họp nhau trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba ngày, Chúa cho họ xem các thương tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn kể lại, ông không tin và khi nào tự tay kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy, ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả và nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Qua câu chuyện Tin Mừng kể lại, có người coi ông Tôma như là “bổn mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý, duy thực nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là quá đáng và bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng thấy phản ảnh thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin quảng cáo, tuyên truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài nghi, yêu sách lý lẽ minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội trách ông Tôma, vả lại, thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm phục. Quả thực, lúc ban đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin. Chúa nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thoả mãn những yêu sách quyết liệt của ông. Nhưng trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để tới thực tại tiềm ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.

Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không phải là tin theo một học thuyết, một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một nhân vật lịch sử, sống động: Chúa Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ được Thiên Chúa đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã sống lại. Nếu Chúa không sống lại thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh là hai mặt của chung một thực tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố: Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tới tận tay vào thân xác sống lại của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô, chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.



Thị kiến của thánh Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng quát Kitô học với toàn thể cuốn sách: Tôi thấy một Đấng giống như Con Người. Qua Giáo Hội, Gioan đã nhìn nhận ra Đức Kitô, nhưng hình ảnh vẫn chưa rõ ràng. Ở đây Gioan dùng một hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Đaniel chương 7 nói về Con Người. Kiểu nói “giống như” nói lên tính cách huyền nhiệm và mỹ diệu của Chúa Kitô giống hình ảnh của Con Người. Sau hình ảnh tổng quát về Con Người, Gioan mô tả thêm cách đặc biệt về Con Người và được đọc nơi bài đọc 2. Chúng ta có thể nói qua ở đây để thấy đầy đủ quyền hành của Đức Kitô mà Gioan thấy trong thị kiến. Ngài mặc áo choàng trắng, chỉ vương quyền tư tế vương giả của Chúa Kitô. Đứng trước thị kiến Con Người, Gioan cũng như các tiên tri khác và các tông đồ đều lo sợ, vừa trông thấy Ngài tôi đã ngã xuống như chết dưới chân Ngài.

Thế giới thần thiêng không thể tỏ hiện cho con người mà không gây nên nơi họ một tâm tình lo sợ không thôi, nhưng đồng thời tin cậy. Chỉ khi nào được khích lệ trấn an người ta mới yên lòng. Ngài đặt tay lên tôi và nói đừng sợ, có Chúa nâng đỡ khích lệ Gioan.

Sau cùng khi mạc khải cho Môisê, Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Có”. Câu nói này các thánh có những suy tư là: là đầu, là sau hết, là Alpha và Omêga, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng có đời đời. Các tước hiệu về Thiên Chúa đã được Giáo Hội sơ khai tin tưởng đặt nơi Chúa Kitô. Ta là Đấng đã chết, nhưng nay Ta vẫn sống đến muôn đời.

Sống là đặc quyền của Thiên Chúa. Người ta vẫn đặt điều này làm chủ chốt cho các vấn đề quan trọng. Ba đặc tính “là đầu, là sau hết, là sống”. Nơi Cựu ước hay áp dụng cho Chúa Kitô, nơi Giáo Hội sơ khai không chỉ suy tôn Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng còn nhận nơi Ngài là vị đã sống, chết và sống lại do quyền năng Thiên Chúa ban cho Ngài.

Trong các phần sau của sách Khải huyền, nguồn tư tưởng này được diễn tả qua hình ảnh chiên được sát tế và được tôn vinh ngự trên ngai vàng để thống trị mọi loài. Tư tưởng này dựa vào một sự kiện lịch sử trong bản văn Hy lạp, tác giả viết: Ta đã bỏ nên người chết thật rồi, nhưng này đây Ta vẫn sống và còn sống cho đến muôn đời. Uy quyền của Đức Kitô còn ảnh hưởng đến sự chết. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục.

Ngày nay sự chết không còn quyền gì với Ngài. Chúa Kitô đã sống lại và cứu vớt những kẻ chết và tin vào Ngài. Ngài không cần để cho thế giới của địa ngục hoành hành tác hại nữa. Qua sự việc sống lại của Chúa Kitô đã thắng vượt tất cả.

Cùng với Chúa Kitô Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng ta, để chúng ta vững bước trên con đường tiến về quê hương Thiên Quốc.



Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.

Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không? Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận. Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp Đấng Phục sinh.

Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thoả mãn đòi hỏi riêng của thánh Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.

Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm tin của mình.

Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh, ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.

Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào các ông…”

Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao giảng Tin Mừng Phục sinh.

Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành. Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.

Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này, chúng ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.

Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.

Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon! Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.

Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.




“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều đó không hề có thật.

Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống. Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc sống chỉ có một chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để đi theo.

Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.

Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.

Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.

Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.

Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khoá, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.

Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.

Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó, từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.


Đức Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không muốn những kẻ đi theo Người cách mù quáng. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt mọi người, mà không hề đe doạ hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.